- Lịch sử Phật giáo Việt
Nam
- Từ khởi nguyên đến thời
Lý Nam Đế
- Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
- Chương XII
- Về Trí Bân và Giải Hàn thực Tán Phương
Về Trí Bân
Về Hàn thực tán phương
Kể từ ngày Mâu Tử chống lại việc
chữa bệnh bằng tàn nhang nức tải và Quế Phụ khám pá dược tính của
quế chi cho tới Đạo Huệ được mời vaò kinh đô chữa bệnh cho hoàng cơ
cuả Lý Anh Tôn, trong khoảng gần một ngàn năm này tình trạng y dược học
tại nước ta chưa bao giờ được nghiên cứu tới. Chúng tôi do đó đề
nghi cung hiến một vài tư liệu dưới đây về một nhà sư Trung Quốc bị
đuổi ra Giao Châu và cuốn sách dược học cuả ông, giả thiết rằng, kiến
thức y dược cuả ông quả đã ảnh hưởng tình trạng hiểu biết phát
triển y dược Việt Nam ở những thế kỷ sau. Giả thiết này dĩ nhiên
không đến nỗi quá tưởng tượng hay xa vời, cứ vào thông lệ của những
phát triển song song trong lịch sử Phật giáo Việt Nam kiểu Vô Ngôn Thông
với Cảm Thành hay Tiêu Diêu với Tuệ Trung thượng sĩ. Hơn nữa, lịch sử
y dược Việt Nam đạt đến cao độ với sự ra đời Nam dược thần diệu
của thiền sư Tuệ Tĩnh. Thế thì, tối thiểu ta phải giả thiết nó đã
phát triển trong một truyền thống nào đó.
Trước Tuệ Tĩnh ta có Đạo Huệ,
trước Đạo Huệ vì vậy phải có một số người mà trong ấy ta phải kể
tới nhà sư Trung Quốc bị đày nói trên. Ngoài ra, như sẽ thấ, nhà sư này
là một đồng đại của Huệ Lâm. Và Huệ Lâm cũng như Quân thiện luận
của ông đã là chủ đề bàn cãi khá sôi nổi trong Sáu lá thư xưa nhất
của lịch sử văn học và Phật giáo nước ta, mà chúng tôi đã có dịp
bàn cãi. Tác phẩm y dược của nhà sư ấy do thế chắc cũng gợi lên khá
nhiều phản ứng giữa tập thể Tăng già Việt Nam. Cứ vào bằng cớ trường
hợp trên, nhà sư và tác phẩm y dược của ông đáng nên bàn cãi trong
khuôn khổ của lịch sử phát triển y dược Việt Nam, dẫu ngày nay ta hiện
chưa có một chứng tích nào bày tỏ ảnh hưởng thực sự của nó. Vậy
thì, nhà sư ấy là ai và tác phẩm đó là gì?
Về Trí Bân [^]
Cao Tăng truyện quyển 7 ĐTK 2059 tờ
373c11-1 trong khi mô tả cuộc đời và sự nghiệp của Tăng Cẩn, đã chêm
thêm một đoạn sau: "Trước đó Sa-môn Trí Bân lần đầu tiên thay Đàm
Nhạc làm tăng chính. Bân cũng bực lấy đạo đức làm tôn chi, giỏi về
Tam luận và Duy ma, Tư ích, Mao thi, và Trang lão; sau vụ Nghĩa gia cấu hấn,
người đương thời dèm pha Bân rằng "Bân hành đạo vì vụ Nghĩa
gia"; nên bèn bị đuổi ra Giao Châu". Hơn một trăm năm sau, mục y
gia trong Kinh tịch chi của Tùy thư quyển 24 tờ 16b8-9 đã ghi: "Giải
hàn thực tán phương 2 quyển Thích Tri Bân soạn". Nhà sư cùng tác phẩm
chúng tôi muốn nói tới, như vậy không gì khác hơn là Trí Bân và Giải
hàn thực tán phương.
Về nhà sư Trí Bân, ngày nay ta
không thể biết gì hơn là đoạn chêm thêm vừa dẫn của Cao Tăng truyện.
Chúng ta biết ông thay Đàm Nhạc làm Tăng chính, nhưng không biết Đàm Nhạc
là ai và ông thay người này vào lúc nào. Cùng một cách, mặc dù Huệ Hạo
bảo ông thông thạo cả lý thuyết Phật giáo, mà Tam luân, kinh Duy ma và Tư
ích là những thí dụ, lẫn những học thuật thế tục kiểu kinh Thi với
chú dẫn của họ Mao cùng Lão Tử và Trang Tử. Hạo không cho biết gì hết
về kiến thức y dược của Bân. Cuối cùng, tuy ghi lại lý do tại sao Bân
bị đuổi ra nước ta, đấy là vụ khởi hấn Nghĩa gia, Huệ Hạo không
ghi rõ Bân chính thức bị đuổi vào năm nào. Đứng trước những mập mờ
và bất xúc này, việc viết lại cuộc đời của Trí Bân do thế tất
không phải là dễ dàng. Tuy nhiên, dẫu hai chi tiết đầu không ích lợi
gì mấy, chi tiết cuối cùng về vụ gây hấn Nghĩa gia có thể giúp ta xác
định một cách khá tương đối thỏa mãn thời gian Bân bị đuổi ra nước
ta. Thế thì, vụ khởi hấn Nghĩa gia là vụ gì, để cho Bân vướng mắc?
Như hầu hết các cuộc nối ngôi của
những triều đại thời Nam Bắc phân tranh tại miền Nam, những vua chúa
nhà Lưu Tốn trong hơn 50 năm trị vì của nó đã nối ngôi nhau qua những vụ
phế lập đẫm máu. Thiếu đế bị giết khi Văn đế lên ngôi. Rồi Văn
đế bị chính bàn tay con mình giết, khi Hiếu Vũ đế tự vị. Hiếu Vũ đế
chết năm 464 lúc mới 35 tuổi. Đứa con trưởng của ông là Lưu Tứ Nghiệp
tức vị hoàng đế, một đứa trẻ 16 tuổi, mà đã hoang chơi tàn phá, như
lời chiếu lên ngôi của Minh đế mô tả: "Tử Nghiệp hung ác điêu
ngoa, chống lại tính trời, mặt người lòng thú, lúc mới 8 tuổi mà đã
phản đạo bại đức, từ những năm này, xâm vũ ngũ thường, bỏ trệ
tam chính". Nghiệp lên ngôi tháng 5, thì đến tháng 11 năm sau, bị những
bộ hạ Thọ Thúc Chi, Nguyễn Điền Phu, Lý Đạo Nhi giết. Tháng 12, Lưu Hữu
Bính người con thứ 11 của Văn đế tức vị xưng Thái Tôn Minh hoàng đế,
cải nguyên Thái Thỉ nguyên niên. Tử Nghiệp trở thành Tiền phế đế.
Trong khi những biến cố này xảy
ra ở Kiến Nghiệp, một vận động đang thành hình chung quanh Lưu Tử Huân,
nhằm phế Nghiệp và lập Huân làm hoàng đế, tại Tầm Dương dưới sự
lãnh đạo của Đặng Uyển. Nhưng trước khi Huân hành động, Nghiệp đã
bị giết và Bính lên ngôi. Bính liền phong cho Huaân làm xa kỵ tướng quân
khai phủ nghi đồng tam ty. Song, như Tống thư quyển 80 tờ 2b4-9 và Nam sử
quyển 14 tờ 17a1-3 viết: "Uyển không nhận lệnh; Thái Thỉ năm thứ 2
tháng giêng đế ở Tầm dương, đặt niên hiệu Nghĩa gia, đặt đủ bách
quan, bốn phương hưởng ứng; năm đó bốn phưong triều cống, tất cả đều
tới chầu Tầm Dương; đến khi quân của Uyển bại, Tử Huân bị giết,
lúc bấy giờ tuổi mới 11, chôn ở Lô Sơn Tầm Dương". Nghĩa gia như
vậy là niên hiệu của Lưu Tử Huân, người con thứ ba của Hiếu Vũ đế.
Vụ khởi hấn Nghĩa gia do đó chính là vụ dành ngôi giữa Huân và Bính,
mà sau khi thắng trận đã được biết là Minh đế. Vụ này xảy ra vào năm
Thái Thỉ thứ hai, tức năm 466.
Bây giờ, cứ Cao Tăng truyện thì
Trí Bân bị đuổi ra nước ta vì vụ khởi hấn Nghĩa gia. Bân đến nước
ta do đó phải sau năm 466 không lâu. Không lâu, bởi vì 1) khi đã lên ngôi,
Minh đế liền sắc vị thầy của mình là Tăng Cẩn làm "thiên hạ tăng
chủ" thay thế Bân, và 2) Thời gian cách vụ Nghĩa gia không xa để cho
lời dèm pha kiểu trên thực sự có một khả năng cảm kích nào đối với
Minh đế và những người trong cuộc. Bằng vào lời dèm, thì Bân hình như
đã có một tham dự vào vụ khởi hấn ấy. Nhưng nếu tìm xem những tư liệu
liên hệ đặc biệt tiểu sử những người chủ mưu như Đặng Uyển trong
Tống thư quyển 84 tờ 1a5-12a13, chúng ta không tìm thấy một ghi chú về
vai trò của Bân, trừ một ghi chú nào về việc thiết lập đàn tràng vào
khoảng tháng 12 năm 465, mà thông thường thì phải đòi hỏi sự tham dự của
những nhà sư_1". Đương nhiên, như Cao Tăng truyện bảo, nó là một lời
dèm. Là lời dèm, nó tất không thể có một sự thật nào. Hơn nữa, Bân
lại là một người "diệc ức vi tật tôn", do thế, nếu báo cáo
của Cao Tăng truyện có thể tin được, ông chắc chắn không đến nỗi quá
dính líu, kiểu lời dèm pha ám chỉ. Dẫu vậy, với những mập mờ nói
trên, dù lính líu hay không đến nỗi quá dính líu, kiểu lời dèm pha ám
chỉ. Dẫu vậy, với những mập mờ nói trên, dù dính líu hay không, Bân
đã bị đuổi ra nước ta, phải sau năm 466. Thời gian đến nước ta từ
đó không thể xác định được một cách chính xác đáng muốn. Điểm chắc
chắn là, ông phải đến trước tháng năm năm 468, khi Trương Mục chết và
Lý Trường Nhân giết "Bắc lai bộ khúc" của Mục đế tự xưng làm
thứ sử, mở đầu một giai đoạn tự trị khá lâu kéo dài tới gần một
thế kỷ với một vài đứt đoạn không đáng kể, tạo cơ hội cho việc
xưng đế của Lý Bôn năm 544. Bân phải đến trước năm 468, bởi vì sau năm
đó ngay cả thứ sử được cử cũng không dám tới nước ta, huống nữa
là những kẻ bị đày như Bân.
Bân tới nưóc ta như vậy khoảng
giữa những năm 466-468. Ông đã làm gì trong khoảng thời gian lưu trú này,
chúng ta ngày nay không thể nào biết được. Nhưng cứ vào trường hợp của
những nhà sư Trung Quốc khác, ông hẳn phải sống một cách tích cực và
tiếp tục công cuộc dạy dỗ cũng như hành đạo của mình. Đặc biệt
khi ông là một tăng chính như hành đạo của mình. Đặc biệt khi ông là
một tăng chính của tổ chức Phật giáo Trung Quốc và có một kiến thức
quảng bác gồm kiêm cả kiến thức Phật giáo và thế tục. Như Huệ Hạo
đã bảo, ông "giỏi Tam luận và Duy ma, Tư ích, Mao thi, Trang Lão".
Tam luận dĩ nhiên là ba luận văn cơ sở của trường phái Trung đạo Long
thọ, đấy là Trung luận, Thập nị môn luận và Bách luận. Duy ma tức
kinh Duy ma cật. Tư ích tức kinh Tư ích. Mao thi tức kinh Thi đọc theo bản
sao và chú giải của Mao Hưong và Mao Trường. Trang Lão tức Trang Tử và
Lão Tử. Với một liệt kê này, người ta cũng có thể thấy, học thức của
Trí Bân là một học thức tam giáo với một thiên trọng Phật giáo. Từ một
học thức loại ấy, chúng ta tất không có gì ngạc nhiên nếu Bân đồng
thời cũng là một y sĩ.
Tình trạng Phật giáo Trung Quốc
vào thế kỷ thứ năm, đặc biệt là vào thế kỷ đó, đã không phải gồm
những nhà sư chỉ biết tụng kinh điển. Ngược lại, những nhà sư vào
thời đó phần lớn là những nhà sư sống một cuộc đời tích cực, tham
dự hầu hết vào mọi sinh hoạt thế sự, tùy theo khả năng của từng
người. Ai giỏi lý luận, học thức thì tham dự vào việc hoằng pháp, dịch
kinh, dạy dỗ đồ chúng. Ai giỏi thuốc men thì đi chữa bệnh cho mọi người.
Ai quá u tối ít hiểu biết thì tham dự vào công tác cày cấy sản xuất.
Chính vì sự sống đầy tích cực và vì tha nhân này của tầng lớp tăng
già, mà Phật giáo thời Nam bắc triều Trung Quốc là một Phật giáo hưng
thịnh và mở đường cho những hưng thịnh về sau dưới thời Tùy Đường.
Viết Thích xích luận vào khoảng năm
407, Đạo Hoàng đã phải ghi "hoặc có người khai khẩn cày cấy ruộng
đất, cùng với nông phu một giòng; hoặc có kẻ bán buôn đổi chác, cùng
với mọi người tranh lãi, hoặc có vị rốt chí nghiên cứu y học, khinh
chết thuốc chữa lạnh nóng; hoặc chế tạo ra máy móc kỳ khôi, để giúp
có một sinh nghiệp". Mặc dù những nhà sư sống cuộc đời vừa mô tả
đã bị Hoằng ghép với những người "hoặc chiêm tướng hồ hư, vọng
luận cát hung; hoặc ngụy đạo giả quyền yêu tạ thời ý; hoặc tư súc
ủy tích di dưỡng hữu dư; hoặc chỉ chưởng không đàm, tọa thực bách
tánh", và lên tiếng chê trách là "đức bất xứng phục, hành đa
vi pháp, tuy tạm hữu nhất thiện, diệc hà túc dĩ tiêu cao thắng chi mỹ",
chúng ta phải kể họ là những người đáng kính và đáng phục.
Chính trong bầu không khí "hoặc
có vị rốt chí nghiên cứu y họoc, khinh chế thuốc lạnh thuốc nóng"
này, mà Phật giáo Trung Quốc trong cùng một lúc đã đóng góp cho y học
nhiều tài ba hơn bất cứ thời nào hết. Chỉ dần kiểm soát lại mục Y
gia trong Kinh tịch chí của Tùy thư quyển 24 tờ 16a8-19b13, tối thiểu 12 tác
phẩm đã được ghi lại do những nhà sư Trung Quốc đích nhiên viết, nếu
trừ những sách y học nhập cảng từ Ấn Độ, đấy là Hàn thực tán đối
liệu 1 quyển của Thích Đạo Hồng, Hàn thực giải tạp luận 7 quyển của
Thích Huệ Nghĩa, Giải tán phươg 1 quyển của cùng người, Dược phương
30 quyển của Thích Tăng Thân, Chư dược dị danh 10 quyển của Sa môn Hành
Cử, Đơn phức yếu nghiệm phương 2 quyển của Thích Mạc Mãn, Thích Đạo
Hồng phương 1 quyển, Liệu bách bệnh tạp hoàn phương 3 quyển của Thích
Đàm Loan, Luận khí trị liệu phương 1 quyển của cùng người, Nghị luận
bị dự phương 1 quyển của Vu Pháp Khai, và Thích Tăng Khuôn châm chích 1
quyển, cộng thêm với 2 cuốn Giải hàn thực tán phượng hưởng của Bân.
Tất cả chúng đều viết trước thế kỷ thứ 7. Ảnh hưởng của họ đối
với những nhà y học về sau quả đã vĩ đại. Những người như Sào
Nguyên Phương, Tôn Tư Mạo, Lý Đào, Trầm Quát v.v.. đã tiếp tục dẫn chứng
và bàn cãi trong tác phẩm của mình. Giữa 11 nhà sư y sĩ vừa kể, ngoài
Bân ra, chỉ Vu Pháp Khai, Đàm Loan và hình như Huệ Nghĩa là đã được ghi
lại trong Cao Tăng truyện và tục Cao Tăng truyện, trong đó tiểu sử của
Khai la lôi cuốn hơn hết về phương diện y học liên hệ với Phật giáo.
Cao Tăng truyện quyển 4 tờ
35a13-b12 viết: "Vu Pháp Khai, không biết người xứ nào, đến làm đệ
tử của Lan Công, nghĩ sâu giải ngờ, thấy ý ngoài lời, giỏi Phóng quang
và Pháp Hoa, lại học thuật của Kỳ bà, rõ thông y pháp, thường đi khất
thực, (một hôm) đến nhà một chủ nhân, gặp người vợ đang nguy cấp vì
tảo sinh, mọi trị liệu đều khôg nghiệm, cả nhà đem trình Khai, Khai
nói: "Bệnh đây dễ trị"; người chủ liền giết dê, muốn đem làm
chuyện cúng kính bậy bạ; Khai bảo trước lấy một ít thịt nấu canh,
đem cho uống; xong, Khai nhân đó khí châm, thì chỉ trong chốc lát một cái
bào thai với thai nhi lòi ra. Năm Thăng Bình thứ năm (361) Hiếu Tôn đau,
Khai xem mạch, biết là không khỏi chết, nên sau không chịu vào nữa Hoàng
hậu Khương Hiến ra lệnh nói: "Đế nhỏ dại không khoẻ, ngày hôm
qua cho gọi Vu công vào xem mạch; thì Vu công chỉ tới trước cửa, mà
không chịu vào, dùng mọi thứ từ chối sợ sệt, nên bắt giao ngục
quan". Bỗng chốc, đế băng; Khai do thế dược miễn, trở về Thạch
thành vùng Diệm huyện, tiếp tục sửa sang chùa Nguyên hoa. Sai Khai dời đến
ở chùa Linh Thứu núi Bạch, thường cùng với Chi Đạo Lâm tranh luận về
vấn đề tức sắc không nghĩa. Hà Mặc đất Lỗ giang trình bày vấn nạn
của Khai. Hy Siêu đất Cao Bằng tuyên thuật trả lời của Lâm. Nó đang còn
truyền lại ở đời. Khai có đệ tử là Pháp Uy (...) Có người hỏi Khai:
"Pháp sư cao minh cương giãn, sao còn nghiên cứu y thuật" Khai đáp:
"Rõ lục dộ để trừ bệnh bốn ma, tập luyện chín hầu, ấy để trị
bệnh phong hàn; tự lợi, lợi người, ấy không được sao?" Năm 61 tuổi,
Khai mất ở Sơn Tự".
Đọc qua tiểu sử âý của Khai, ta
đã thấy những nhà sư ý sỹ Phật giáo vào thế kỷ thứ IV đã làm việc
như thế nào, đặc biệt là Khai chữa bệnh tảo sinh cho một sản phụ. Đây
phải kể là thí dụ đầu tiên trong lịch sử y học về sự dùng phương
loại nhân tạo để đỡ đẻ một người mắc chứng tảo sinh. Điểm lôi
cuốn hơn nữa là, việc Khai đang nguy cấp. Làm thế, Khai dưới một góc
độ nào đó có thể phạm tội "Tăng tàn" nếu không là "ba la
di" gồm lại trong hai cuốn Giải hàn thực tán phương do Kinh tịch chí
của Tuỳ thư ghi ra. Giải hàn thực tán phương ngày nay đã thất lạc, những
vẫn còn sống sót cho tới thế kỷ thứ 12, lúc Trịnh Tiếu (1104-1162) kê
lại trong mục y gia phần nghệ văn chí của Thông chí. Những tác phẩm y học
viết từ thời Tùy trở về sau như Chư bệnh nguyên hầu luận của Sào
Nguyên Phương dời Tùy. Thiên kim phương và Y tâm phương của Tôn Tư Mạo
đời Đường sơ, Ngoại đài bí yếu của Vương Đào thời Trung Đường,
Tiểu Phẩm phương của Trần Diên Chi v.v.. chắc có dẫn Bân, như một số
nghiên cứu đã báo cáo. Thế thì Hàn thực tán phương là gì, mà Bân phải
viết một cuốn sách về việc giải độc nó?
Về Hàn Thực Tán Phương [^]
Như Dư Gia Tích trong Hàn thực tán
khảo_1 đã vạch ra, trong số những cuốn sách Trung Quốc hiện còn. Thế
thuyết tân ngữ là cuốn xưa nhất nói đến tên Hàn thực tán. Nó nằm
trong một chú thích của Lưu Hiếu Tiêu (462-521) cho một câu dẫn của Lưu
Nghĩa Khánh (403-444) ở thiên ngôn ngữ của Thế Thuyết tân ngữ quyển thượng
tờ 23b4-7 về lời nói của Hà Yến (Bình Thúc), theo đấy "phục ngũ
thạch tán thì không phải nhằm trị bệnh mà cũng còn làm thần minh khai
lãng". Để giải thích ngũ thạch tán là gì, Tiêu dẫn Hàn thực tán
luận của Tần Thừa Tố nói rằng: "Phương thuốc hàn thực tán, tuy
xuất hiện từ đời Hán, nhưng người ta ít dùng, cho nên không truyền lại;
tới thượng thư Hà Yến đời Ngụy mới bắt đầu dùng có thần hiệu,
do đó đại hành ở đời, người phục tiếp nối nhau.
Giải thích ngũ thạch tán bằng
hàn thực tán, Tiêu như vậy đồng nhất hai tán ấy với nhau. Điểm này,
hai thế kỷ sau, Tôn Tư Mạo trong Thiên kim dực phưong quyển 22 nói rõ lý
do như sau: "Phàm ngũ thạch tán, trước gọi là thực tán, vì muốn
nói, dùng thứ tán này người ta phải ăn lạnh, rửa bằng nước lạnh để
lấy lạnh, chỉ rượu là uống trong khi nó trong uống. Không thế thì trăm
bệnh sinh ra".
Nhưng Phật giáo Trung Quốc thời
ông và về sau đã không một lần lên tiếng, bởi vì họ biết rằng,
chính bằng những hành động kiểu của Khai, mà những vị Bồ Tát và lý
thuyết tình thương không bến bờ của Phật giáo Ấn Độ đã trở thành
những hình ảnh sống động trong cuộc đời thường nhật của người
Trung Quốc và lôi cuốn sự tưởng tượng của họ. Phật giáo, đã thành
công sống giữa lòng người Trung Quốc, ấy là nhờ đến những hành động
nhỏ mọn kiểu đó của những người nhỏ mọn như Vu Pháp Khai. Cứ tiểu
sử trên, là đệ tử của Vu Pháp Lan. Như ta đã biết, đã bỏ mình trên
đất nước ta cùng với người đệ tử Vu Đạo Thúy. Về Thúy, Cao Tăng
truyện bảo là "thiện y dược" - giỏi y dược. Vậy trước Bân của
thế kỷ thứ 5, vào khoảng năm 320, nước ta cũng có một nhà sư y sĩ
Trung Quốc khác/ đó là Vu Đạo Thúy, dù Thúy không thể chữa được bệnh
của mình, nên phải mất lúc 31 tuổi. Hai đệ tử của Lan như vậy đều
là những ngưòi giỏi việc chữa bệnh và cho thuốc.
Khai không những giỏi chữa bệnh,
mà còn ngay cả có một cái nhìn khá phóng túng về việc ăn uống. Cứ mô
tả trên, thì ngưòi nhà giết dê, tưởng cách chữa bệnh Phật giáo của
Khai giống như những thầy phù thủy cùng thời, đấy là cúng kính cầu trời,
để cho Khai cầu đảo. Khai không những không ngăn cản, mà còn bảo lấy
thịt nấu canh. Bảo thế, Khai có thể phạm sát sanh, một ba la di khu trục
ông ta khỏi tổ chức Phật giáo, bởi vì ông đã tuỳ hỷ và tham dự
trong hành động giết hại một sinh mạng để lấy thịt nấu canh. Mặc dù
Khai dùng thịt dê một cách đúng đắn, ấy là để ăn, chứ không phải
là cầu đảo cúng tế bậy bạ, kiểu như thầy phù thủy, ông hẳn phải
mắc tội vừa nói. Một lần nữa, lịch sử Phật giáo không một lần
lên tiếng. Nhưng điểm này vạch ra, ngoài ý nghĩa y học, nhằm cho thấy,
tự nguyên ủy Phật giáo mang một tính chất bao dung và nhân đạo nồng nàn.
Chính trong truyền thống y học Phật
giáo đó và trong bầu không khí đầy công tác y học của Trí Bân hình
thành. Nó ngày nay chỉ vỏn vẹn nghỉ ngơi lạnh, bởi vì khi thuốc phát
ra nó nóng". Gọi hàn thực tán như vậy, bởi vì nó là một phương
thuốc, mà, nếu dùng, ngưòi ta phải ăn uống tắm rửa nghỉ ngơi trong những
điều kiện lạnh, trừ rượu là phải uống nóng. Hàn thực là ăn lạnh.
Lịch sử xuất hiện của nó, như Tần Thừa Tổ đời Lưu Tống đã vạch
ra như trên, bắt đầu từ thời Hán, nhưng phải đợi đến Hà Yến
(?-249) người rể của Tào Tháo ứng dụng mới phổ cập vì tinh thần hữu
hiệu của nó.
Sào Nguyên Phương trong Chư bệnh
nguyên hầu tổng luận quyển 6 dưới mục Hàn thực tán phát hầu thiên đã
mô tả lịch sử ấy một cách chi ly hơn bằng việc dẫn chính lời báo
cáo của vị y sư nổi tiếng nhất thời Tấn là Hoàng Phủ Mật (212-282).
Theo Mật thì "phương thuốc hàn thực, người đời không biết nó. Có
kẻ nói nó do Hoa Đà. Có người nói nó do Trọng cảnh chế ra. Cứ sự thật
mà khảo, thì Hoa Đà tinh vi về y thuật nhưng đơn giản về phương dược,
còn Trọng Cảnh học dược hắn tán tử thạch anh phương của họ Hầu, dù
có thay đổi đi một chút, nhưng tiết độ trong việc dùng chúng thì vẫn
giống nhau. Như vậy, hai phương thuốc hàn thực loại thảo và loại thạch
đều do Trọng Cảnh chế ra, không phải là Hoa Đà vậy. Hơn nữa, cách chữa
trị của Đà lại gồm chỉ một việc mổ xẻ cắt xén ruột bụng, rửa
ráy ngũ tạng, mà không thuần túy dùng dược phương. Trọng Cảnh tuy y thuật
không tinh vi bằng Đà, song trong việc xác định mục đích của dược vật,
bàn cãi điều kiện thích nghi của loại thảo và loại thạch, thì lại rất
diệu tuyệt hơn hết mọi y sỹ. Đến việc chữa trị bằng phương hàn thực,
Cảnh nghĩ, nó chỉ đem ra chống lại những bệnh chí nan, đánh lại nhũng
bệnh thậm khổ. Gần đây thượng thư Hà Yến, đam hiểu thanh sắc, mới
bắt đầu phục thứ thuốc này, lòng thêm khai lãng, thể lực chuyển mạnh.
Người ở kinh sư ùa theo, nối đuôi truyền thụ cho nhau. Cái khổ suốt đời
đều không làm cho người ta dứt việc dùng nó vào sự làm lành bệnh
trong một buổi sáng. Mọi người đều ưa cái lợi trưóc mắt, mà không
thấy được cái khổ hoạn về sau. Sau khi Yến chết, người phục càng
nhiều, cho đến nay vẫn không hết. Tôi cũng có tham dự vào việc phục
này. Có khi nó bạo phát không thường, làm cho người ta chết yểu. Nên người
em bà con của tôi là Trường Hộ, lưỡi trụt xuống cổ; Đông Hải vương
Lãng Phu, ung thư chận lưng, Tần Trương Tự đất Lũng tây thịt xương sống
bị cháy lở và Triệu Công Liệt đất Thục Quận; sáu cái chết này ở
Trung Hạ đều do hàn thực tán gây ra cả. Người phục nó, kẻ sống lâu
thì tới khoảng vài chục năm, kẻ sống gần thì khoảng sáu năm. Tôi tuy
thấy được bệnh dứt, nhưng không khác gì cái cười của một ngưòi bị
chết chìm. Dẫu thế, kẻ bị bệnh ở đời không lấy thế làm điều
răn; những kẻ phục nó bị thất tiết lại còn đến phần lớn hỏi tôi
cách trị. Tôi bèn bùi ngùi than rằng: "Y sĩ đời nay, y thuật thì
không tinh vi bằng Hoa Đà, xác định thuốc thì không bằng Trọng Cảnh, thế
mà lại tranh nhau phục lấy thứ thuốc chí na, để triệu lấy cái hoạn
thậm khổ, số người chết yểu thật không thể kể xiết".
Đấy là báo cáo về nguồn gốc
và tình trạng dùng hàn thực tán vào thế kỷ thứ 3 của nhà y dược nổi
tiếng của Trung Quốc thời xưa. Phương thuốc tán hàn thực này là do Trượng
Trọng Cảnh học lấy từ một y sĩ họ và thuộc về loại thảo. Thứ kia
gọi là tử thạch anh phương và dĩ nhiên là thuốc về laọi thạch. Cứ
Kim quĩ yếu lược quyển thượng dưới mục thứ năm về Trúng Phong lịch
tiết manh chứng tinh trị, thì phương Hắn tán của họ Hầu được xác định
thế này: "Phương Hắc tán của họ Hầu, dùng trị bệnh đại phong, tứ
chi khó chịu nặng nề, trong lòng ghét lạnh không đủ:
- Cúc Hoa 40 phân
- Bạch truật 10 phân
- Mẫu lễ 3 phân
- Phòng phong 10 phân
- Phàn thạch 3 phân
- Dương qui 3 phân
- Khung cùng 3 phân
- Tế tân 3 phân
- Phục linh 3 phân
- Kết cánh 3 phân
- Nhân sâm 3 phân
- Hoàng linh 5 phân
- Càn cương 3 phân
- Quế chi 3 phân.
Trên đây là 14 vị nghiền nát
thành tán, uống với rượu một thìa tấc vuông, uống một ngày một lần;
trong 20 ngày đầu uống với rượu nóng, cấm tất cả thịt cá và tỏi lớn,
thường phải ăn lạnh, 60 ngày thì thôi, tức thuốc chứa lại trong bụng
không xuống. Hễ ăn nóng thì thuốc xuống. Ăn lạnh tức giúp sức thuốc
vậy"
Về thứ tử thạch anh phương, mục
Tạp liệu phưong cũng của Kim quỹ yếu lược quyển hạ viết: Trị
thương hàn khiến không bao giờ đau trở lại là tử thạch hàn thực tán
phương:
- Tử thạch anh 10 phân
- Bạch thạch anh 10 phân
- Xích thạch chi 10 phân
- Chung nhú 10 phân nung rồi giã nhỏ
- Quĩ cửu 10 phân
- Thái nhất dư lương 10 phân đốt
- Phụ tử 4 phân rang
- Quát lữ căn 10 phân
- Phòng phong 10 phân
- Kết cánh 10 phân
- Văn cấp 10 phân
- Quế chi bỏ vỏ 4 phân
- Càn cương 4 phân
Trên đây là 13 vị, nghiền nát
thành tán, uống với rượu một thìa tấc vuông". Bằng hai báo cáo
này, nó trở thành rõ ràng là, hắc tán được gọi là hàn thực tán loại
thảo, bởi vì hơn 4/5 trong số 14 vị của nó thuộc về loại cỏ, trong
khi chỉ hơn 2/3 trong số 13 vị của tử thạch hàn thực tán là thuộc
cùng loại. Xếp tử thạch hàn thực tan vào loại thạch do thế không có
gì đáng ngạc nhiên hết. Điểm đáng ngạc nhiên là, cả hai phương vừa
kể đều nhằm tới những chủ trị như thương hàn và đại phong, nhưng
không được ám chỉ một chút nào về khả năng làm cho "thần minh
khai lãng" của chúng, mà lời của Hà Bình Thúc đã muốn nói. Cố
nhiên, chúng đều có tên hàn thực với lý do giản dị, là nếu ai dùng
chúng tất phải ăn lạnh và sống trong những điều kiện lạnh, trừ rượu.
Thế thì, phải chăng có những phương hàn thực tán khác với hai phương vừa
liệt ra? Một điều tra sơ bộ cho thấy như sau:
Tôn Tư Mạo sau khi đồng nhất ngũ
thạch tán "trước có tên là hàn thực tán" ở Thiên kim dực phương
quyển 22, đã chia ngũ thạch tán làm hai, một gọi là ngũ thạch cánh sanh
tán và một gọi là thạch hộ mạng tán. Về ngũ thạch cánh sanh tán, ông
viết: "Ngũ thạch cánh sanh tán trị bệnh ngũ lao thất thương của đàn
ông, yếu ớt liệt giường, thuốc khác không thể chữa được, phục lấy
phương sau đây thì không bệnh gì là không lành; chỉ có điều là phải bệnh
lâu lắm mới phục; những người trẻ tuổi ít biết việc thì không được
phục bậy, phải rõ ở trị lý và có thể nắm được khả năng của thuốc
thì mới được phục; tuổi mới 30 thì không được phục; kẻ có thân lạnh,
đít lở, âm sưng, thì phục nó càng hay.
- Tử thạch anh 2 lượng rưỡi
- Bạch thạch anh 2 lượng rưỡi
- Kích thạch anh 2 lượng rưỡi
- Chung nhủ 2 lượng rưỡi
- Thạch lưu hoàng 2 lượng rưỡi
- Hải cáp 2 lượng rưỡi
- Phòng phong 2 lượng rưỡi
- Bạch truật 7 phân
- Nhân sâm 3 lượng
- Kết cánh 5 phân
- Tế tân 5 phân
- Càn cương 5 phân
- Quế tâm 5 phân
- Phụ tử 3 phân rang bỏ vỏ.
Đây là 15 vị, giã nhỏ làm tán, uống
với rượu một thìa tất vuông, ngày hai lần, tiết lượng trung bình thì
dùng 1 mà chia ra. Hoàn toàn không có gì lạ xảy ra. Trong trường hợp có
nóng này khó chịu buồn bực, có thể dùng nước lạnh rửa mặt và tay
chân, cũng có thể tắm rửa cả thân mình. Nếu nóng, muốn bỏ thạch lưu
hoàng và xích thạch chi, thì gọi là tam thạch cánh sanh tán một phương nói
là hàn thực tán, phương này do Hà hầu chế ra. Một lượng chia làm ba bọc
(một bọc uống vào buổi sáng), đến khi mặt trời xế một trượng thì
lại uống, khi trời xế hai trượng lại uống thêm một lần nữa".
Về ngũ thạch hộ mạng tán, ông
viết: "Ngũ thạch hộ mạng tán trị hư lao trăm bệnh, yếu ớt ho hen,
đoàn khí, khớp xương nóng, tứ chi khó chịu, đớn đau, hoặc ruột sôi,
bụng trúng đau thắt, đại tiểu tiện, không thông, cứt sắc vàng đỏ, rốn
đau lúc ăn, mắt mờ, đầu nhức, ghét lạnh, phong tê, ăn uống không
tiêu, mau khát, mửa ẩu, bụng dưới sườn bị đầy, khí không được thở
ra, cả mình phù thủng tê liệt nặng nề, không được co giãn, môi miệng
xanh, chân tay co quắp, đau răng, sản phụ trúng phong, ruột dài lạnh, tuổi
già mắt mờ, ố phong, đầu phải che khăn, mình mặc áo dày mà ngồi gần
lửa, đau lưng; trăm bệnh đều trị, không thể ghi hết, rất hay; phục
lâu thì khí lực cường tráng sống thọ lâu dài.
- Tử thạch anh 2 lượng rưỡi
- Bạch thạch anh 2 lượng rưỡi
- Xích thạch chi 2 lượng rưỡi;
- Chung nhủ 2 lượng rưỡi
- Thạch lưu hoàng 2 lượng rưỡi
- Hải cáp 2 lượng rưỡi
- Bạch truật 1 lượng rưỡi
- Nhân sâm 5 phân
- Tế tân 5 phân
- Càn cương 1 lượng rưỡi
- Quế tâm 3 phân
- Phụ tử 3 phân rang bỏ vỏ.
Trên đây là 15 vị giã nhỏ thành
tán, hai lượng làm một tễ chia làm 3 thiếp, buổi sáng trong dùng rượu
thuần phục một thiếp, đến ngày xế một trượng lại phục một thiếp
khác, đến trời xế hai trượng lại phục một thiếp thứ ba; như vậy đến
khi ba thiếp đầu hết, thì tức khắc lấy nước lạnh rửa tay chân, khí
thuốc đang phát ra hai bên thì đáng phải tê một chút, nhân thế cổi áo,
lấy nước lạnh tắm hết cả mình, thế thuốc càng phát mạnh, cả thân
đều cảm thấy mát mẻ, tâm ý khai lãng, mọi bệnh đều bớt, tuy đau liệt
giường, nhưng chưa hết sáng thì đã lành; con người có kẻ yếu kẻ mạnh,
có kẻ chịu thuốc, nếu người yếu ớt, thì có thể trước cho ăn một
chút, rồi phục; nếu ngưòi mạnh thì không nên ăn; nếu có phục đều ba
tễ mà không phát thì bệnh nhân quả là một người mắc chứng túc tích,
không được phục ngay thêm, ngược lại phải trước hết phục tiêu thạch
đại hoàn cho nó đi xong đã, rồi mới phục. Sau khi phục thuốc ấy, người
ta phải chịu khó làm việc; nếu kẻ yếu ớt liệt giường không thể đi
đứng được, thì bồng đứng dậy dắt đi, thưòng phải mặc lạnh, ăn lạnh,
ngồi lạnh, càng lạnh càng tốt; nếu thuốc chưa tan thì không được tắm,
tắm thì càng thêm lạnh, khiến thuốc ứ lại không phát, khiến người
trăn trở khó chịu, lúc ấy nên đun ấm rượu cho ăn uống, đứng dậy nhảy
vọt hoạt động cho hết sức, khiến cho ấm rồi tắm, khi đã giải thì
ngừng, không đựợc làm quá sá"
Đây là hai phương hàn thực tán
cùng cách dùng và chủ trị của nó theo "Thiên kim dực phương của Tôn
Tư Mạo. Mạo viết Thiên kim dực phương cùng những sách y học khác của
ông trong khoảng những năm 627-649 dưới thời Lý Thế Dân. Nói thế này
không có nghĩa, cách phân chia hàn thực tán thành hai loại với những tên
cánh sanh và hộ mạng là một phát minh của Mạo và không dính líu gì hết
với những nhà y học trước thời ông, bởi vì nó xuất hiện chính ngụy
trong Phủ hậu bị cấp phương quyển ba của Cát Hồng, Phủ hậu bị cấp
phương, mà Y tâm phương đã dẫn thành Phủ hậu cứu tốt phương, viết:
"Phàm phục ngũ thạch hộ mạng cánh sanh cập chủng nhủ hàn thực chư
tán, tất tương hòa tiết độ, giai trí phát động", và như vậy liệt
kê thêm một phương hàn thực tán thứ ba nữa gọi là chủng nhủ hàn thực,
ngoài ngũ thạch hộ mạng và ngũ thạch cánh sanh. Hồng sinh năm 283 và mất
năm 363, lúc ông 81 tuổi. Và trước Hồng không lâu Tào hấp cũng đã nói
tới "Hộ mạng thần tán", như Ý tâm phương quyển 19 ghi lại, hay
Tống thượng đã viết; "Thái nhất hộ mạng (ngũ) thạch hàn thực
tán" 2 quyển và Tuỳ thư kinh tịch chí quyển 34 đã báo cáo. Đấy là
lịch sử của cái tên hộ mạng tán. Về cánh tán, nếu trước Hồng ta không
thấy ai nói tới, thì sau Hồng, Cận Thiệu đã chế ra một phương ngũ thạch
sanh tán và gọi nó là cánh sanh tán. Thiệu, cứ Thái bình ngự lãm quyển
722 dẫn lời nói của Tấn thư do Tạng Vĩnh Tự viết, thì đã "sáng
cho phương ngũ thạch tán, sỹ đại phu triều Tấn, không ai là không phục
nó, đều được có hiệu quả khác thường". Thiệu như vậy sống vào
đời Tấn và chế ra ngũ thạch tán. Vai trò của Thiệu quan trọng đến nỗi,
chính Tôn Tư Mạo trong Thiên kim yếu phương quyển 1 đã phải nói:
"Phàm muốn trở thành đại y, thì quyết phải hiểu rõ cách bổ sách
thuốc của Trương Trọng Cảnh, Vương Thúc Hòa, Nguyễn Hà Nam, Phạm Đông
Dương, Trương Miêu và Cận Thiệu". Sách thuốc của Thiệu do đó là một
thứ sách cần thiết để trở thành những "đại y". Rồi trong Thiên
kim dực phương Mạo ghi thêm phương cánh tán thế này: "Cánh sanh tán
trị bệnh đàn ông đàn bà lúc tật hư lao ngực sườn ngược đầy, tay
chân khó chịu nóng nảy, tứ chi không hiệp, ăn uống khó tiêu, thân thế
tật bệnh, chốc lạnh chốc nóng, đến nỗi liệt giường bốn năm mươi
năm, phục mọi thứ thuốc không bớt, phương sau đây trị vạn bệnh
không gì là không lành, nó là chủ phương".
- Chung nhủ 2 lượng rưỡi (nghiền)
- Bạch thạch anh 2 lượng rưỡi
- Hải cáp 2 lượng rưỡi
- Xích thạch chi 2 lượng rưỡi
- Phòng phong 2 lượng rưõi
- Quát lâu 2 lượng rưỡi
- Càn cương 1 lượng rưỡi
- Bạch truật 1 lượng rưỡi
- Kết cánh 5 phân
- Tế tân 5 phân
- Nhân sâm 3 phân
- Phụ tử 3 phân (rang bỏ vò)
- Quế tâm 3 phân.
Đây là 13 vị, đều phải cần đến
đất phù sa mới tốt, giã nhỏ đi để làm tán, sàng một bao đầy, chia bốn
lượng thành tám gói, dùng rượu nóng mà uống một gói, chốc lát đứng
dậy đi, tuỳ sức mà đi, trở về muốn ngồi nằm thì tuỳ ý mặc áo mà
nằm, thích hợp với thân thể thì được. Lúc ăn thì phải lạnh, không
được ăn nóng, chỉ được ăn rất lạnh, kỵ những thức ăn thịt heo
canh thịt bún xào, không được giao cấu; những vật cấm kỵ đấy không
được ăn. Phục thuốc sau 20 ngày mới được ăn uống nóng và giao cấu,
có thể dần dần tùy ý, chỉ có điều là trong khi phục thuốc gì thì
không được. Nếu đầu mặt bứt rứt, tóc rụng trúng phong, lược chải
hơn trăm lần, thì một ngày có thể uống ba lần rượu năm lần hiệp lại
xong, đến chiều xuống, lại khát thì có thể uống rượu ăn cơm chiều,
thường khiến cho thân thể luôn luôn ấm áp có thế rượu; tay chân nếu
có khó chịu nóng nảy thì có thể dùng nước lạnh rửa. Phương này, nếu
gia thêm lưu hoàng tức là phương tán của Cận Thiệu vậy.
Bằng câu cuối cùng đấy, Mạo để
cho ta thấy là, cái gọi "cánh sanh tán" thực sự là phương ngũ thạch
cánh sanh hàn thực của Cận Thiệu với sự loại bỏ vị lưu hoàng. Cánh
sanh và hộ mạng hàn thực tán do thế thực sự có một lịch sử xưa hơn
chính báo cáo đầy đủ và chi ly cuả Tôn Tư Mạo. Chúng tối thiểu đã
xuất hiện một cách đầy đủ vào thời Cát Hồng và xác định một cách
chi tiết với Cận Thiệu. Nói cách khác, chúng xuất hiện trước thời Thích
Trí Bân.
Bây giờ so sánh tán phương của Cận
Thiệu với cánh sanh tán và hộ mạng tán do Mạo ghi lại, chúng ta có thể
thấy gnay là, chúng không khác nhau gì cho lắm. Giữa cánh sanh và hộ mạng
tán sự khác nhau hoàn toàn nằm trong sự gia giảm những dược liệu liên
hệ với không một loại bỏ nào. Ngay cả sự gia giảm cũng chỉ xảy ra một
cách tương đối khá giới hạn. Trong 15 vị của chúng, chỉ 5 vị hay 1/3
là bị gia giảm và năm vị này, tức phòng phong, bạch truật, nhân sâm,
càn cương và quế tâm, cũng không đóng một vai trò quyết định, khi đem
so với ngũ thạch. Cánh sanh tán và hộ mạng tán từ đó có thể nói hầu
như đồng nhất về phương diện hợp chất. Giữa tán phương của Thiệu
và hai thứ tán vừa kể, một lần nữa sự khác nhau cũng không gì to lớn
cho lắm.
Tán của Thiệu chỉ thiếu có vị
tử thạch anh, ngoài ra thì hoàn toàn đồng nhất. Về phương diện gia giảm,
nói gần giống vói cánh sanh tán hơn là hộ mạng tán, một điều khá tự
nhiên, cứ vào sự trùng tên. Cố nhiên, ngày nay chúng ta chưa thể nào xác
định được ai là người đầu tiên thực sự đặt ra hệ thống phân
chia kiểu của Tôn Tư Mạo. Như đã nói, những tác phẩm liên quan với hạn
thực tán loại của Thích Trí Bân, Thích Huệ Nghĩa, Thích Đạo Hồng v.v..
hiện đã thất lạc. Nhưng mẫu tin đoạn phiến rời rạc còn lại phải
hoàn toàn nhờ những trích dẫn của những người kiểu Sào Nguyên Phương,
Tôn Tư Mạo, Vương Đào v.v... Dẫu thế, chúng ta đã biết một cách tương
đối rõ ràng là, dưới tên Hàn thực tán tối thiểu năm phương thuốc, nếu
không là nhiều hơn, đã được đề ra và được xác định một cách chi
ly đáng muốn.
Ba phương vừa bàn đã tỏ ra có một
liên hệ di truyền nào đấy giữa chúng kể từ thời Cát Hồng trở về
sau. Nếu ta đem chúng so sánh với hai phương kể trước, tức bắc tán và
tử thạch hàn thực tán cuả Trương Trọng Cảnh, ta thấy chúng có nhiều
tương tự di truyền với Tử Thạch hàn thực tán nhiều hơn là với hắc
tán một điểm khá tự nhiên. Trong 15 vị của ngũ thạch tán, chỉ 5 vị
là thiếu mặt trong tử thạch hàn thực tán. Sự thiếu mặt này được đền
bù với việc hiện diện của ba vị không thấy trong ngũ thạch tán, đấy
là quĩ cửu, thái nhất dư lương và quế chi. Về hắc tán, ngay cả tử thạch
hàn thực tán còn có những khác biệt khá vĩ đại, huống nữa là ngũ thạch
tán và phương tán của Cận Thiệu. Chúng tôi do thế không cần phải vạch
ra. Điểm cần nói là hắc tán và tử thạch hàn thực tán của Trương Trọng
Cảnh thực sự nhằm đến những chủ trị thông thường, trong khi ngũ thạch
tán và tán phương của Cận Thiệu là nhằm đến "vạn bệnh không gì
là không lành". Hơn thế nữa, Mạo bảo, phương cánh sanh tán của ông
là Hà Hầu chế ra; và Hà Hầu đây dĩ nhiên không ai khác hơn là Hà Yến,
kẻ đã khám phá ra tính chất "làm cho tâm ý khai lãng" của tử thạch
hàn thực tán của Trọng Cảnh. Hàn thực tán trong chính nghĩa hẹp hòi của
nó do vậy phải giới hạn vào hai phương ngũ thạch cánh sanh và ngũ thạch
hộ mạng do Tôn Tư Mạo ghi lại.
Hàn thực tán phương như thế có
thể nói là gồm hai phương ngũ thạch cánh sanh tán và ngũ thạch hộ mạng
tán. Cuốn sách Trí Bân viết là nhằm đến việc giải độc do hai thứ tán
này tạo ra, nên nó gọi là giải hàn thực tán phương. Sao Bâm phải bàn
đến việc giải độc chúng? Tôn Tư Mạo mặc dù đã ghi lại cho ta khá
nhiều mẫu tin quí giá trên về hàn thực tán, đã phải viết trong Thiên
kim yếu phương quyển 24 mục Giải ngũ thạch độc luận thế này:
"Hàn thực ngũ thạch cánh sanh tán phương, xưa nói phương thuốc này
đời thượng cổ không có, đòi Hán mạt mới có Hà hầu dùng nó, từ
Hoàng Phủ Sỹ An trở xuống, có những kẻ dùng nó, không ai là không trưng
bày lưng xẻ mình để mà rước lấy sự sụp đổ. Tôi từ ngày có thức
tính đến nay, chính mắt mình thấy sỹ nhân ở thành thị cũng như thôn
quê, gặp lấy những trường hợp như thế không phải là một. Do thế,
thà ăn lấy dây sắn hoang, chứ không phục thứ thuốc ngũ thạch, rõ nó
là thứ thuốc độc mãnh liệt vĩ đại nhất, không thể mà không cẩn thận.
Người hữu thức, nếu gặp phương này thì nên đốt đi, chớ để lại lâu
làm gì. Nay chỉ ghi lại tính chủ đối của nó, ấy là đề phòng những
người trước đã tự phục. Phương nó ngày nay đã theo nhau mất mát,
không đáng để lại làm gì mà di hại cho hàm sanh".
Đọc mấy lời nhận xét và kêu gọi
đầy nhiệt tình này của một vị lương y vĩ đại như Tôn Tư Mạo ta
cũng đủ thấy người xưa coi hàn thực tán với một cặp mắt kinh hãi như
thế nào. Mạo ghi lại những phương của nó, ấy là đề phòng giúp những
người tự phục lấy mà muốn tìm cách chữa, chứ không phải là muốn lưu
lại như những phương có thể dùng cho mọi người. Ông kêu gọi những người
"hữu thức" hễ gặp những phương thuốc do ông ghi liên hệ với
nó thì đừng có để lâu, mà phải đốt đi ngay. Dẫu những lời kêu gọi
và cảnh cáo này, chính thời Mạo cũng đang còn có nhiều người "Phát
bối giải thể nhi thủ điên phú", "bày lưng xẻ mình để mà rước
lấy sự sụp đổ" cho chính mình. Trước thời ông, số người càng
nhiều hơn nữa, như chính cái báo cáo dẫn trước của Hoàng Phủ Mật, hiệu
Sỹ An, đã điềm chỉ: "Sau khi Yến chết, người phục càng nhiều,
cho tới nay vẫn không hết". Hai anh em Vương Huy là người đồng thời
của Bân cũng đã chịu những cái chết thê thảm vì hàn thực tán. Huy
"bình sinh ưa phục thượng dược", đến khi em là Vương Tăng Liêm
đau, Huy đem hết sức mình trị liệu. Nhưng Liêm "phục dược thất độ"
nên chết. Huy than khóc dằn vặt, kêu gào tha thiết kiểu "em bây giờ
ở đâu, làm cho anh nhớ nhung xót xa, nghĩ em có tội gì mà phải chịu yểu
khốc, để chết vì bàn tay anh, nên đụng việc thì xót xa tức giận, anh
vốn rất thích y thuật, đã không khiến cho anh em con cái được bảo toàn,
mà lại còn không tìm hiểu suy nghĩ chín chắn, đến đỗi làm quá, sinh uổng
mạng, nghĩ một điều này, lại càng đau đớn xót xa hơn. Đau đớn xót
xa làm sao đây? Tội lỗi cuả anh làm sao đây?". Huy mất năm 444, lúc mới
29 tuổi, tiểu sử của Huy trong Tống thư quyển 63. Huy phục thượng dược.
Thượng dược như Y tâm phương dẫn Thích Huệ Nghĩa luận giải thích, là
ngũ thạch hàn thực tán - ngũ thạch tán giả, thượng dược chi lưu. Song,
để tả hàn thực tán là một "đại mãnh độc" như thế nào một
cách linh động và đầy sức sống, thì không ai có thể hơn chính Hoàng Phủ
Mật, người đã thú nhận "tham dự việc phục nó".
Chư bệnh nguyên hầu tổng luận
quyển 6 dưới mục về Hàn thực tán phát hầu luận đã dẫn bàn luận của
Hoàng Phủ Mật về hàn thực tán phát động chứng hầu thế này: "Nếu
dùng hàn thực tán thất độ, thì hoặc tim đau như dùi đâm, ngồi đáng
ăn thì không ăn, đáng rửa thì không rửa, nóng lạnh thắt nhau, khí kết
không thông, tụ lại ở trong tim; miệng khóa lại không thể thở, phải mở
miệng ra, dùng rượu nóng, tuỳ khả năng thu nhận ít nhiều mà đổ vào
khiến cho khí rượu phát ra hai bên, khí tự thông, được ưa, nhân thế lấy
nướoc lạnh tẩm ướt, cái khăn tay, đắp lên chỗ đau, chỗ nóng lại dời
đi, thế là tự giải. Đã giải thì phải gấp ăn đồ lạnh, có thể ăn
nhiều càng tốt. Trong những thứ đau, đau tim là khẩn cấp nhất, phải cứu
nó như cứu người lao vào nước sôi hay lửa bỏng, thì có thể cứu được.
Hoặc có kẻ khí tuyệt không còn ý thức, thì đáng phải nhờ người bên
cứu, cốt yếu dùng rượu nóng làm cỗi gốc của tính mạng. Hễ đổ không
xuống được, phải cạy răng mà lấy rượu đổ vào. Nếu yết hầu có bị
chận và rượu đổ vào lại trào ra, thì cũng không ngừng đổ. Trào ra lại
đổ vào, như vậy có thể tới nửa ngày. Nếu rượu xuống thì khí
thông, người bệnh sẽ sống lại. Nếu không xuống và đổ không xuống,
thì liền giết người vậy. Hoặc có ngưòi tay chân đau khắp, cốt tiết
muốn rời ra, thân thể phát ung nhọt cứng cục, ngồi nằm một chỗ
không tự dời thì nóng bừng khắp mình, nhắm mắt lại một chỗ, hoặc hạch
cục cứng rắn đau nhức, quá lắm thì phát thành ung thư. Khi mới biết thì
lấy nước lạnh rửa, lấy đá lạnh ướp lấy người. Người bị nhẹ
thì chỉ một chốc hàn thực tán sẽ tan, bấy giờ mới boớt. Tắm rửa
không có hạn, chỉ cốt lấy sự bớt bệnh làm kỳ. Nếu đã làm hết sức
mà không bớt, thì lấy một viên đà mài dao dốt lửa khiến cho nó đã
nóng rồi đem bỏ vào trong rượu đắng. Đá khi vào rượu đắng thì đều
tan vỡ ra, nhân thế giã nhỏ, lấy nước nhựa đó bôi lên chỗ giọt ba lần
thì liền bớt. Cũng có thể bắt con tề tào trong phẫn, giã nhỏ khiến
cho mịn, đem bôi lên giọt, thì cũng không quá ba lần, nó liền bớt, rất
hay. Hoặc có người uống rượu không giải, ăn nuốt không xuống, chốc lạnh
chốc nóng, không rửa thì nóng, mà rửa thì liền lạnh. Thứ nặng đến tới
vài chục ngày, thứ nhẹ thì chỉ vài ngày. Ngày đêm không thể ngủ, buồn
bãn bực tức, tự nhảy nhót khiếp sợ, hoảng hốt quên sai, ngồi phạm
nóng chứa lâu ngày, chỗ nằm mất tiết, ăn nóng bị tích, bên trong đặc
lên, khiến cho sức nóng và thuốc cùng đi đôi, lạnh nóng giao tranh, tuy
dùng phương pháp để cứu, rốt cuộc cũng không thể giải. Tôi thường
như vậy, ngồi nhìn đồ ăn mà chảy nước mắt, cầm dao muốn tự cắt cổ
mình, nhờ gia nhân thấy giằng lại, nên việc không thể làm được; trở
về ngồi nghỉ, mới gượng ăn, uống nước lạnh, thì mới thôi. Tai họa
này không thành, chỉ một sợi tóc tơ thôi. Hễ ai phục lấy hàn thực
tán, dẫu có rất thông minh, đến khi phát thì cũng ăn nói điêu toa khoác
lác, bảo dạy khó hiểu. Chính vì điều này mà người phục nó chết
không thể xiết. Phải gấp uống thang tam hoàng thì nó hạ ngay. Khi tôi
đang ở trong khốn đốn ấy, cả nhà bà con, không ai có thể cứu. May nhờ
vong huynh tôi là Sỹ Nguyên tìm phương dược thang tam hoàng, hiệp lại khiến
tôi phục, khi xuống hết, liền bớt. Từ đấy, tôi thường lấy giúp cứu
những người khác...".
Tôi dịch một đoạn ngắn của cái
báo cáo khá dài do Hoàng Phủ Mật về những phát chứng nguy hiểm của
hàn thực tán và cách thức giải trị chúng. Chỉ cần đọc đoạn "tôi
thường như vậy, ngồi nhìn đồ ăn mà chảy nước mắt, cầm dao muốn tự
cắt cổ", cũng đủ thấy, tại sao Tôn Tư Mạo gọi nó là một "đại
mãnh độc" và "ai thấy thì đốt ngay chứ đừng để lâu".
Trí Bân viết Giải hàn thực tán phương. Cuốn sách này, như đã nói, bây
giờ bị tán thất, ta không thể nào biết Bân đã đề nghị những cách
thức nhằm giải trị những chứng bệnh do việc phục hàn thực tán tạo
ra thế nào. Ở đây, vì thế, sau khi trình bày sơ lược hàn thực tán là
gì và tại sao Bân phải viết một cuốn sách về nó, chúng tôi chỉ cần
vạch ra là, nền y học Phật giáo thờiông, đặc biệt trong liên hệ với
vấn đề giải độc hàn thực tán, đã đưa ra những lý thuyết khá lôi
cuốn, mà nổi tiếng nhất là thuyết "dược dự được tự tướng đối".
Cứ Chư bệnh nguyên hầu tổng luận Đạo Hoằng miền Giang tả có viết
Giải tán đối trị phương, nói rằng: "Phương hàn thực tán, dùng thuốc
cùng tự tướng của thuốc mà đối nhau, mỗi thuốc độc thì phát ra mỗi
bệnh, như chủng nhủ đối với bạch truật, nếu bạch truật dụng độ
chủng nhủ thì ngực chận, đoạn khí, nếu chủng nhủ đụng độ bạch
truật thì đầu nhức mắt đau".
Lý thuyết "dược tự tướng"
này, những nhà dược học Trung Quốc về sau đã phê bình vì nó không thấy
trong "Thần nông bản thảo". Tiểu phẩm phương của Trần Diên Chi
đã viết: "Thần nông bản thảo kinh mô tả tính vị của thuốc cỏ
và thuốc đá, đã không nói chuyện hòa hiệp của việc đối trị, cũng
không có thuyết đích chỉ phát động". Vương Đào viết Ngoại đài
bí yếu vào năm 753 cũng lên tiếng nhận xét: "Thần nông và Đông
Quân sâu rõ dược tính, tính chống nhau, ghét nhau, tránh nhau của chúng đều
dầy đủ ở Bản thảo. Chỗ truyền của Đạo Hồng căn cứ vào đâu?"
Đến thế kỷ 11, Trần Quát trong Mộng Khê bút đàm quyển 18 cho dẫn Nhủ
thạch luận, theo đấy "phục chủng nhủ thì suốt đời phải kỵ bạch
truật". Dựa trên quan niệm tác dụng đặc thù của từng dược tố
ngày nay của chúng ta, quan niệm dược tự tướng có thể nói là đã đi
trước thời ông rất nhiề, bởi vì nó lần đầu tiên cho thấy, tại sao
một hỗn hợp như hàn thực tán có thể làm tê liệt hay làm cho "thần
minh khai lâng" cho toàn cả thân người. Cả Đạo Hoằng lẫn Đạo Hồng
như vậy chắc chắn phải có một ảnh hưởng và liên lạc nào đấy đối
với những phát triển sau về vấn đề y dược và đặc biệt vấn đề
giải độc hàn thực tán.
Đạo Hồng, mặc dù hai cuốn sách
của ông đã được Tùy thư kinh tịch chí kể tới, hiện nay chúng tôi chưa
thể tìm ra một người cùng tên trong các cuốn sử Phật giáo trước thời
Tống. Ông rất có thể là nhà sư Tăng Hồng hoạt động vào khoảng những
năm 407, mà Biện chính luận quyển 7 và Pháp hoa kinh truyện ký quyển 5
nói tới. Về Đạo Hoằng, Cao Tăng truyện quyển 6 đã liệt ông ra như đệ
tử của Huệ Trì (326 - 412) và bảo ông "nghiệp hành thanh mẫn" thế
thôi. Ông do thế chắc sống khoảng những năm 350-430. Hoằng và Hồng từ
đó đều là những người sống trước Hân trong Giải Hàn thực tán vì thế
rất có thể có những tương tự với quan niệm giải độc hàn thực tán
của họ chúng tôi không bàn tới ở đây. Trong liên hệ này, cần vạch ra
là, bản liệt kê thư tịch của Tuỳ thư đã tỏ ra không đầy đủ cho lắm.
Cuốn sách của Hoằng không được liệt ra. Số lượng sách y khoa Phật
giáo có thể nhiều hơn số 12 hay 13 cuốn hiện biết.
Với sự có mặt của Trí Bân, lịch
sử y học Việt Nam trong năm thế kỷ đầu công nguyên có thể ghi lại với
những giới mốc sau:
Năm Sự biến y học
8 tdl. Quế Phụ phát hiện được tính
của quế.
195 sdl. Mâu Tử chống trị bịnh bằng
phù phép. Hoàng đế tố vấn kinh và Thần nông bản thảo có mặt.
320 Vu Đạo Thúy đến và mất tại
Bắc bộ.
466 Trí Bân bị đày ra nước ta.
| Mục lục | I | II | III | IV | IVb | V | VI | VII | VIII | VIIIb | IX | IXb | X | XI | XII |