- Lịch sử Phật giáo Việt
Nam
- Từ khởi nguyên đến thời
Lý Nam Đế
- Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
- Chương II
- Phật Giáo sau thời Hai Bà Trưng
Quan niệm về Hạnh
Lý tưởng Bồ Tát
Phê phán Nho giáo
Về nguyên nhân mất nước
Về việc thành lập Lục độ tập kinh
Về cựu tạp thí dụ kinh
Cựu tạp thí dụ kinh và văn học Việt Nam
Tạp thí dụ kinh
Vấn đề niên đại và ngôn ngữ trong Tạp thí dụ kinh
Chính quyền Hùng Vương cho đến những
năm đầu của thế kỷ thứ I sdl là một chính quyền hoàn chỉnh với bộ
máy công quyền thực hiện chức năng quản lý và bảo vệ đất nước bằng
một hệ thống luật pháp trên cơ sở một nền văn hóa có kết hợp với
những thành tố Phật giáo vừa mới đưa vào từ mấy trăm năm trước.
Nhưng cũng chính vào thời điểm này thì ở phương Bắc đã xảy ra những
cuộc khủng hoảng lớn. Đất nước Trung Quốc chia thành nhiều mãng khác
nhau, với các sứ quán cát cứ; về phía bắc, Vương Mãng chiếm ngôi nhà
Hán và thiết lập một triều đại mới; quân khởi nghĩa Xích Mi chống lại.
Phía Tây đám Khôi hiếu, Quách Ngỗi, đứng lên hùng cứ một phương. Phía
nam, con cháu nhà Hán đứng đầu là Lưu Tú ra sức phục hồi triều đại
đã mất của ông cha mình. Phía Tây Nam thì Công Tôn Thuật muốn vươn lên
để chiếm lĩnh toàn bộ Trung Nguyên. Cả một nước Trung Quốc rộng lớn
đã tan rã và đánh giết lẫn nhau.
Vào hai mươi năm đầu này của thế
kỷ thứ I sdl, chính quyền Hùng Vương sau bao lần chi viện cho các nước
Nam Việt và Mân Việt, cụ thể là lần chi viện cuối cùng vào năm 110
tdl, để giữ vững các quốc gia Việt miền Bắc. Lần này, nhân sư phân
rã của đế chế nhà Hán, chính quyền Hùng Vương đã cho tiến hành việc
thu phục lại các đất đai người Việt đã bị chiếm đóng từ thời Tần
Thủy Hoàng và Hán Vũ đế. Quân Lạc Việt được đưa lên đóng tận bờ
sông Dương Tử tại huyện Trung Lộ. Nhưng từ năm 34 sdl khi Sầm Bành cùng
Tạng Cung tiến đánh tướng Điền Nhung của Công Tôn Thuật, rồi một năm
sau hợp cùng Ngô Hán bức Thành đô, giết Công Tôn Thuật. Thế là về cơ
bản Lưu Tú đã bình định Trung Quốc, thâu tóm giang san về một mối và
lên ngôi tự xưng Quang Vũ đế. Kế hoạch nhà Hán được vạch ra từ đó
là phải lấy lại đất đai mà ngưòi Việt Hùng Vương đã chiếm_1.
Giai đoạn đầu, do nhận thức sai
lầm về khả năng cũn như lực lượng tác chiến của quân đội Hùng Vương,
Lưu Tú đã sai một tướng vô danh tiểu tốt là Tô Định đem quân xuống
miền nam giao tranh. Trận đầu, tướng của Hùng Vương là Thi Sách bị tử
trận. Hai Bà Trưng bèn huy động lực lượng tiến lên đánh đuổi Tô Định
và thâu phục lại 65 thành trì cuả người Việt cũ. Thế là nhà Hán đặt
ra một kế hoạch mới, chiếu cố tới các khả năng chính trị, quân sự
người Việt. Lưu Tú đã đề cử một tay lão tướng quen với trận mạc
và rất rành về chính trị, đó là Mã Viện (13tdl-49sdl). Viện, thời Vương
Măng cầm quyền (9-24 sdl), đã từng làm thái thú Han trung. Đến khi Khôi Hiếu
xưng đế, Viện lại được Hiệu pong cho làm Tuy Đức tướng quân và được
Hiệu cử đại diện tiếp xúc với Công Tôn Thuật . Thuật bấy giờ đã
xưng đế ở Thành đô, là người cùng quê với Viện. Mục đích của Hiệu
là để kết hợp với Thuật thành một mặt trận chung để đối phó với
Vương Măng và các thế lực thù địch khác. Năm 28sdl, HIệu sai Viện tiếp
xúc với Lưu Tú; Viện trở về khuyên Hiếu đưa con của Khôi Tuân đến Lạc
Dương làm con tin của Lưu Tú.Viện tình nguyện đem gia đình mình đi cùng
Tuân. Bốn năm sau, năm 32 sdl, Lưu Tú tiến đánh Hiếu, Viện được cử làm
tham mưu. Trận đánh thắng lợi, Viện được Lưu Tú phong làm Thái trung đại
phu. Năm 35 sdl, làm thái thú Lũng Tây, đánh dẹp các dân tộc thiểu số
Tây Khương. Năm 36 sdl, sau trận quyết chiến chiến lược toàn bộ quân khởi
nghĩa của Công Tôn Thuật, thì Lưu Tú đối diện với các đạo quân Bắc
tiến của Hai Bà Trưng.
Trong trận ra quân đầu tiên, tuy
chính quyền Hùng Vương thất lợi do việc tử trận của tướng Thi Sách,
nhưng Hai Bà Trưng đã kịp thời chận đứng những phát triển thắng lợi
của Tô Định và cuối cùng đánh bại hoàn toàn đạo quân do Tô Định và
cuối cùng đánh bại hoàn toàn đạo quân do Tô Định cầm đầu. Do đó, Lưu
Tú đã rút Mã Viện từ Lũng Tây đưa xuống nam và phong cho làm Phục Ba tướng
quân để cùng với Phù lạc hầu Lưu Long và Lâu thuyền tướng quân Đoàn
Chí làm phó tiến công quân Việt. Ta cần nhớ rằng Mã Viện đã từng là
người cùng quê với Công Tôn Thuật và trong khi quân Lưu Tú tiến đánh
Thuật đã gặp phải quân của Lạc Việt. Tù đó ta có thể suy ra rằng
chính quyền Hùng Vương vào thời Hai Bà Trưng đã có một liên minh nào đó
với chính quyền của Công Tôn Thuật. Và do Mã Viện có quan hệ với Thuật
nên có thể Thuật đã trình bày ít nhiều về thực lực của quân đội Hùng
Vương. Vì vậy, khi chính thức nhận chức Phục Ba tướng quân, chỉ huy đạo
quân tiến đánh Hai Bà Tưng, Mã Viện đã có trong tay một số thông tin về
phía quân ta. Dẫu thế, qua cách trình bày của chính sử Trung Quốc, ta thấy
Mã Viện đã mất rất nhiều thời gian để tổ chức mạng lưới tiến đánh
các đạo quân Lạc Việt. Mùa xuân năm 42 sdl, Lưu Tú ra lịnh huy động quân
các quận Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô hơn vạn người. Chúng
còn dựng thành quách, đắp cầu đường, mở kinh đào, để vận chuyển
lương thực và từng bước tiến đánh quân đội Hai Bà Trưng đến hơn một
năm mới được thành công.
Năm 43sdl, quân Hai Bà rút về vùng
Lăng Bạc, nơi đây đã xảy ra một trận huyết chiến. Trận này, chính bản
thân Mã Viện sau này nhớ lại vẫn bị phân vân chưa biết thắng bại thế
nào. Nhưng cuối cùng, vào mùa hè tháng tư năm 43sdl. Hai Bà Trưng bị đánh
bại, phải rút về Cẩm Khê và hy sinh nơi đó. Quân Mã Viện triển khai thắng
lợi Lãng Bạc bằng cách đưa quân vào Cửu Chân (Thanh Hóa) tiến đánh
quân đội của tướng Đô Dương tại Vô Công và Cư Phong. Sau thắng lợi
này, Mã Viện tiến hành một loạt các biện pháp đã đặt nền cai trị
nhà Hán lên dân tộc ta bằng cách đày những người lãnh đạo chính trị
mà chúng gọi là cừ soái, thâu gồm tất cả trống đồng, cải tổ Việt
Luật, xây dựng các thành quách, đồn bót mới để trấn áp dân Việt.
Đất nước lâm nguy, các tướng tá
Hai Bà Trưng một số hy sinh bị giết, hoặc bị bắt đi đày vùng Linh Lăng.
Nhưng còn một số khác dã rút về các làng quê Việt Nam sống hòa mình
vào dân nơi các ngôi chùa, mà ta biết tối thiểu là Bát Nàn phu nhân, hiện
còn đền thờ ở xã Tiên La. Theo thần xã, bà là công chúa Tiên La, là nữ
tướng của Hai Bà Trưng, sau các trận đánh, bà bị thương, rút về chùa
xã Tiên La và mất tại đó. Chính các vị tuớng lãnh đạo chính trị
quân sự như Bát Nàn phu nhân này, sau sự kiện 43sdl, đã đưa Phật giáo
và một vai trò mới. Trước hiểm họa diệt vong của dân tộc, các biện
pháp diệt chủng do Mã Viện thực hiện nhằm Hán hóa người Việt, những
vị này đã tiến hành một loạt các đối pháp để chống lại các âm mưu
thâm độc vừa nói.
Quan niệm về hạnh [^]
Thứ nhất, thông qua các kinh sách
Phật giáo, họ kêu gọi, "bỏ mình chớ không bỏ hạnh". Đấy là
những khẩu hiệu trong phong trào bảo vệ ý chí độc lập toàn dân từ
sau thời Bát Nàn phu nhân trở đi như truyện 10 của Lục độ tập kinh 2 tờ
6a-5 đã ghi lại. Hạnh đây là lối sống, là cách cư xử, là cung cách thể
hiện tính người, thể hiện ý chí riêng cuả từng người, từng dân tộc
trong việc đối phó với tự nhiên và xã hội, đối phó với nhu cầu cá
nhân và đòi hỏi tập thể mà mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người đều
có. Hạnh do thế là một dạng hạnh nguyện. Cho nên, đánh mất hạnh là
đánh mất văn hóa, đánh mất ý chí tự tồn, đánh mất hạnh nguyện, biến
cá nhân ấy, cộng đồng ấy thành một cá nhân mới, một cộng đồng mới,
sống theo một lối sống mới, một cung cách hành xử mới của một cộng
đồng mới. Cho nên dân tộc ta lúc nào cũng nối tiếp nhau để kiên trì
xây dựng một "hạnh" mới, một lối sống mới, một nền văn hóa
điển huấn mới. Nổ lực kiên trì xây dựng này, đến thời Mâu Tử đã
tỏ ra thành công hoàn toàn.
Thực tế, một chính quyền độc lập
đã tồn tại vào thời điểm đó, kéo dài trên nửa thế kỷ (k. 180-230),
trên vùng đất sau này thành lãnh thổ của quốc gia Đại Việt. Dân tộc
ta đã giữ được "hạnh" và nhanh chóng phục hồi nền độc lập,
như vậy phải nói là nhờ có một bề dầy văn hóa đáng kể. Và bề dầy
này không phải là một sáng một chiều mà có thể tạo nên. Nó có cả một
quá trình hình thành sáng tạo lâu dài và liên tục trong sự nghiệp hoàn
thiện đời sống dân tộc ta qua lịch sử. Mã Viện, ngay sau khi đánh đổ
chính quyền cuối cùng của Hùng Vương năm 43sdl, đã không những phải
vây bắt hàng trăm "cừ soái" đày đi Linh Lăng, thu gốm trống đồng
để đúc ngựa, mà còn "điều tấu Việt Luận hơn 10 việc khác với
Hán Luật". Tàn phá triệt để toàn bộ kiến trúc thượng tầng của
chính quyền Hùng Vương, nhằm xây dựng một bộ máy kềm kẹp nô dịch
theo lối "Hán pháp". Nhưng chưa đầy 60 năm sau, vào năm 100 sdl, bộ
máy nô dịch này đến lượt bị đả phá mạnh mẽ qua cuộc khởi nghĩa
Tượng Lâm, dẫn đến kết quả cuối cùng là sự tan rã hoàn toàn vào những
năm 180 sdl, với sự hiện diện của Chu Phù Sĩ Nhiếp, và nhất là sự ra
đời của Mâu Tử lý hoặc luận.
Một nhà nước Việt Nam kiểu mới
xuất hiện trên cơ sở nền văn hóa Hùng Vương được tăng cường và củng
cố bởi tư tưởng và văn hóa Phật giáo mới hội nhập. Nền văn hóa
này không những thành công tạo nên sự sụp đỏ của bộ máy kềm kẹp
phương Bắc, mà còn biểu lộ tính ưu việt của dân tộc ta bằng cách đồng
hóa ngược lại những người Trung Quốc vì nhiều lý do khác nhau đang sinh
sống tại nước ta, làm cho họ thành người Việt, chấp nhận lối sống
phong cách Việt, chấp nhận "hạnh " Việt.
Lý tưởng Bồ Tát [^]
Thứ hai, họ kêu gọi toàn dân chống
lại bộ máy đàn áp của người Hán, mà ngày nay ta có thể tìm thấy một
số những rơi rớt trong truyện số 68 trong Lục độ tập kinh tờ 36c24-25,
với chủ trương "Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy gạt lệ, xông mình
vào nơi chính trị hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm than" (Bồ
tát đổ dân ai hiệu vi chỉ huy lệ đầu thân mệnh hồ. Lệ chánh, tế
dân nạn ư đồ thán). Đây là một chủ trương mà các kinh hành Phật
giáo khác tồn tại ở Trung Quốc lẫn Việt Nam vào ba thế kỷ đầu sdl không
thấy nói tới. Rõ ràng đây là một gởi gấm của những người Phật tử
Việt Nam đói với tình hình đất nước lúc bấy giờ. Thậm chí, ngay cả
khi ta nghiên cứu quá trình hình thành truyện 68 này, ta sẽ thấy điểm này
không thể xuất phát từ nguồn gốc Ấn Độ được, bởi vì truyện đã
nói đến phong tục địa táng và bỏ vàng vào miệng người chết. Ngay cả
chi tiết bỏ vàng vào mệng người chết này, thì tục lệ Trung Quốc vào
thời này không thấy nói tới.
Thiên Lễ ngi chí cuả Hậu Hán thư
16 1b12 viết, khi vua chết thì "cơm ngậm châu ngọc như lễ". Đàn
cung của Lễ ký chính nghĩa 8 tờ 7á cũng nói khi người chết thì dùng
"gạo sò làm cơm, không nỡ để miệng trống". Tạp ký ở Lễ ký
chính nghĩa 43 tờ 2a7 chép rõ hơn: Thiên tử cơm chín vỏ sò, chư hầu bảy
vỏ, đại phu năm vỏ, sĩ ba vỏ. Khổng Dĩnh Đạt (574-640) dẫn Điền thụy,
bảo: "Đại tang thì cơm đều ngọc, ngậm đều ngọc". Tư liệu
Trung Quốc do thế không nói gì đến việc bỏ vàng vào miệng người chết,
như truyện 68 này. Do thế, chắc chắn đã hình thành sau biến cố năm 43
sdl, họ tạo nên những truyện Phật giáo vừa giảng giải đạo lý vừa
tuyên truyền và gửi gấm những hoài bảo của người Việt Nam khi đất
nước ta bị quân thù chiếm đóng.
Phê phán nho giáo [^]
Thứ ba, ngoài truyện 68, Lục độ
tập kinh còn đầy dẫy những truyện hoặc do chính một tác giả Việt Nam
sau thời Hai Bà Trưng viết nên hoặc cải biên những truyện Phật giáo
đang được lưu hành trước đó mà bây giờ do yêu cầu của đất nước
và cuộc đấu tranh sống còn với kẻ thù được biên tập nên. Một số
những truyện này, ta có thể chỉ ra một cách dễ dàng. Thí dụ, truyện
49 và 86, hai truyện này thẳng thừng phê phán Nho giáo hết sức nghiệt
ngã. Truyện 49 ở Lục độ tập kinh 5, ĐTK 152, tờ 28a 22-23 viết: "Tôi
ở đời lâu năm, tuy thấy nho sĩ chứa đức làm lành, há có bằng được
đệ tử của Phật quên mình cứu người, âm thầm mà không nêu tên"
(xử thế hữu niên, tuy đổ nho sĩ tích đức vi thiện, khởi hữu nhược
Phật đệ tử thứ ký tế chúng ân xử nhi bất dương danh dã hồ).
Truyện 86 tờ 48a3-6 viết: "...
các nho sĩ hỏi đạo cân thì [Phạm chí] đáp đạo sâu, hỏi nghĩa hẹp thì
giải nghĩa rộng. Các nho sĩ nói: "Người này đạo cao trí xa, có thể
làm thầy". Họ đều cúi đầu hàng phục" (... chúng nho nạn thiển
nhi đáp đạo hoằng, vấn hiệp nhi thích nghĩa quảng Chư Nho viết: đạo
cao minh hà giả, khả sư yên. Thiêm hàng khể thủ"); quả là một đòn
sấm sét đánh bạt những xum xoe của hàng nho gia sĩ thứ.
Viết như thế rõ ràng không thể
xuất phát từ một văn bản Ấn Độ nào được, mà là một cải biên cuả
một tác giả Việt Nam nêu lên quan điểm phê phán tư tưởng đạo đức về
hiếu để của các nhà nho mà sau biến cố 43 sdl đã ồ ạt tràn sang nước
ta. Người phê phán này là nghiệt ngã bởi vì nó nhắm vào một trong những
trụ cột của tư tưởng hiếu đạo mà các nhà nho thời Tây Hán đã ra sức
cố gắng dựng nên; đó là việc nêu tên đối với đời sau. Ta cần nhớ
Hiếu kinh mở đầu bằng câu: "Thân thể tóc da nhận tự cha mẹ không
dám tổn thương, đó là bắt đầu của hiếu; lập thân hành đạo nêu
tên hậu thế đó là kết cục của đạo hiếu" (thân thể phát phu thọ
chi phụ mẫu, bất cảm tổn thương, hiếu chi thủy; lập thân hành đạo,
dương danh ư hậu thế, hiếu chi chung)
Không những phê binh chung của đạo
hiếu là nêu tên đối với hậu thế, truyện 86 còn phê phán mạnh mẽ
quan niệm vô hậu mà Mạnh Tử nêu lên, đó là "bất hiếu có ba, vô hậu
là lớn nhất" (bất hiếu hữu tam vô hâu vi đại). Lục độ tập kinh
8, tờ 48a7-10 viết: "Ta muốn cái đạo vô dục, ý muốn ấy mới quí.
Đem đạo truyền cho thần, đem đức trao cho thánh, thần thánh truyền nhau
giáo hóa rộng lớn không bao giờ hư, đó mới gọi là sự thừa tự tốt.
Bây giờ các ngươi ngăn nguồn đạo, chặt gốc đức, có thể gọi là kẻ
vô hậu đó vậy".
Khẳng định có một cách thừa tự
tốt, đó là đem đạo đức truyền cho nhau, và đồng thời phê phán khái
niệm thừa tự hẹp hòi của quan niệm vô tư và Mạnh Tử nêu lên, hiển
nhiên đã nhắm thẳng vào chính những tư tưởng Nho giáo đang lưu truyền
tại nước ta, báo động cho quần chúng biết về những thiếu sót và nền
văn hóa nô dịch Trung Quốc đang tìm cách thâm nhập vào đời sống dân
ta.
Về nguyên nhân mất nước [^]
Thứ bốn, không những phê phán nền
văn hóa nô dịch đang tràn sang, người Phật tử Việt Nam còn đủ bản
lĩnh để suy gẫm nguyên nhân thất bại và sụp đổ của chính quyền
Hùng Vương. Lục độ tập kinh có ít nhất 7, 8 truyện nói đến việc lấy
lòng nhân để trị nước, đến sự mất nước và nguyên do vì sao mất nước.
Mất nước có thể vì do kẻ thù muốn chiếm nước mình, cụ thể là các
truyện 10, tờ 5a20-6a20; truyện 11, tờ 6a24-c9 v.v... Các truyện này mô tả
việc đi cướp nước cuối cùng dẫn đến thất bại. Kẻ đi cướp nước
cuối cùng phải trả nước lại cho người bị cướp và hoàn toàn bị
chinh phục bởi người bị cướp. Đây là một nguyên lý có tách quy luật
khách quan, đó là việc cướp nước bao giờ cũng đưa đến sự thất bại
hoàn toàn, "phi nghĩa không bao giờ thắng được chính nghĩa". Cho nên,
để giữ chính nghĩa phải lấy lòng nhân để trị nước.
Lục độ tập kinh 4. ĐTK 152, truyện
31, tờ 18c17-18: "Chư Phật do lòng nhân là món quí nhất của ba cõi, ta
thà bỏ thân này, chứ không bỏ đạo nhân" (chư Phật dĩ nhân vi tam
giới thượng bảo: ngô minh tổn xu mệnh, bất khứ nhân đạo dã).
Truyện 84, tờ 47a12-14: "Đem lời
Phật dạy dẫn dụ: Làm trời chăn dân, phải dùng nhân đạo, mà nay nổi
giận, giận lớn thì họa to, họa to thì mất thần. Hễ mất thân thì mất
nước, đều do danh cả" (dụ dĩ Phật giáo: vi thiên mục dân, đương
dĩ nhân đạo nhi kim hưng hưng nộ, nô mãnh tức họa giả, họa giả tức
thân táng. Phù táng thân thất quốc kỳ do danh sắc hồ!).
Chữ nhân theo lời Phật dạy do đó
không chỉ áp dụng cho cá nhân, mà là một thi hành sáng suốt để trị
nước, dùng điều nhân để làm hoài bão xây dựng một quốc gia lý tưởng
dựa trên lòng thương về năm giới và mười điều lành, và được lập
đi lập lại nhiều lần trong Lục độ tập kinh_1. Sự lập đi lập lại này
thể hiện một mối quan tâm đặc biệt của các một thế hệ người Việt
Nam thời Lục độ tập kinh đối với vấn đề xây dựng một đất nước
bền vững có khả năng giữ nước, không còn để mất nước nữa. Để
giữ nước, phải dùng đến lòng nhân, như trong truyện 11, tờ 6a25 ghi:
"Lấy nhân trị quốc" (trị quốc dĩ nhân); hay truyện 9, tờ
5a12-13 viết: "Lấy năm giới mười lành làm quốc chính" (Ngũ giới
thập thiện dĩ vi quốc chính); mong mỏi có được: "Vua nhân, tôi
trung, cha nghĩa, con hiếu, chồng tín, vợ trinh" (quân nhân, thần trung,
phụ nghĩa, tử hiếu, phu tín, phụ trinh), như truyện 70 tờ 37a24-25;
"theo trời làm điều nhân, không giết dân mạng, không tham bậy làm khổ
dân đen, kính người già như cha mẹ, thương dân như con, cẩn thận thực
hành giới răn của Phật, giữ đạo cho đến chết". (Tắc thiên hạnh
nhân, vô tàn dân mệnh, vô cẩu tham khốn lê thứ, tôn lão nhược thân,
ái dân nhược tử, thận tu Phật giới, thủ đạo dĩ tử), theo truyện 30,
tò 18a6-8.
Quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ
và đạo lý nhân nghĩa, trung hiếu, thành tín, trinh tiết, tiếp thu từ nền
văn hóa truyền thống Hùng Vương bây giờ như vậy được xây dựng trên
đạo lý năm giới và mười lành của Phật giáo, hoàn toàn mang tính cách
dân tộc và Phật giáo của đất nước Việt Nam, không còn bị đo lường
theo tiêu chuẩn không gì hơn là "chịu đựng gian khổ để thể hiện
lòng thương" (hoài nhẫn hành từ). Như theo truyện 82, tờ 44a 23-27:
"... Vì vua nói rộng việc trị nước, phải đem lòng từ tứ đẳng không
ngăn, khuyên giữ năm giới vâng làm mười lành. Vua cùng quần thần, đồng
vui thọ giới. Vua về kinh chiếu: Người không kể tôn ti, phải mang kinh năm
giới, mười lành, dùng làm chính sách của nước. Từ đó về sau, ơn vua
thấm đến cỏ cây, trung thần vừa thành thật, vừa trong sạch, khiêm nhường,
cha đúng phép, mẹ đúng nghi, vợ chồng đều chuộng giữ đạo trinh tính,
nhà có con hiếu" (... vi vương trần trị quốc, đương dĩ tứ đẳng vô
cái chi từ, cần phụng ngũ giới đái thập thiện nhi hành. Vương cập thần
dân, thiêm nhiên thọ giới. Vưong hoàn quốc hữu chiếu viết. Nhân vô tôn
tiện đái ngũ giới thập thiện kinh dĩ vi quốc chánh. Tự tư vi hậu,
vương nhuận đãi thảo mộc, trung thần thành thả thanh nhượng, phụ pháp
mẫu nghi, thất gia các thượng, thủ đạo trinh tín, gia hữu hiếu tử).
Truỵện 91, tờ 52a 17-21: "Lấy
năm giáo làm trị chính, không hại nhân dân: Một là nhân từ không giết,
ơn tới quần sinh, hai là thanh nhường không trộm, quên mình cứu người,
ba là tinh khiết không dâm, không phạm các dục; bố là thành tín không dối,
lời không hoa sức; năm là giữ hiếu không say, nết không dơ dáy".
Truyện 41, tờ 22c1: "Bậc vương
giả, làm đức theo nhân" (vương gia vi đức nhân pháp).
Truyện 15 tờ 11b5: "Hạnh vua
nhân đạo công binh, thương dân như thương con, dùng chính pháp trị nước"
(vương hạnh nhân bình, ai dân nhuợc tử, chánh pháp trị quốc)
Truyện 40, có đến ba nơi nói về
lấy lòng nhân trong đạo pháp mà trị nước. Nơi tờ 22b7-8, viết: "Dân
bốn thiên hạ quí sự dạy bảo nhân từ, vâng thờ ba ngôi báu, làm mười
lành lấy đó làm phép trị nước, đến được hạnh phúc mãi mãi" (Tứ
thiên hạ dân tôn kỳ nhân hóa phụng tam tôn thành thập thiện dĩ vi trị
pháp, toại chí vĩnh phước). Tò 22a19 chép: "Vua lấy nhân từ trị nước
dung thú dạy dân" (vương trị dĩ nhân hóa dân dĩ thứ cư bỉ). Cùng
truyện, tờ 22a19: "Vua dùng chính pháp giáo hóa dân" (vương trị
dĩ nhân hóa dân)
Tóm lại, bỏ nhân đạo tức bỏ lời
dạy sáng suốt của Phật, mà bỏ lời dạy sáng suốt của Phật thì chuyện
mất nước cũng không xa. Truyện 27, tờ 17a9-10 nói: "Hễ bỏ nết hạnh
của Phật pháp, mà đi làm điều tà ngụy của quỷ yêu, thì chuyện mất
nước phải xảy ra". (phù xá Phật pháp chi hạnh, nhi vi quỷ yêu chi ngụy
giả, quốc tang tất hỉ). Bởi vì, mất nước là do "tham tàn, không
nhân đạo, chuộng sắc, khinh bạc ngưòi hiền, khinh dân" (Kỳ vương vô
đạo, tam tài trọng sắc, bạc hiền tiện dân), theo truyện 68, tờ 36c2-3.
Truyện 83, tờ 44c4 nói trắng ra:
"Hễ làm vua bỏ sự giáo hóa chân chính của Phật mà đi tôn sùng yêu
quí, thì đó là nền tảng của sự mất nước" (phu vi vương giả, bối
Phật chân hóa nhi hưng yêu cổ, tang quốc chi cơ giả).
Do đó, để không mất nước, thì
"việc trị nước phải dùng lòng thương vô bờ bến bốn bực, khuyên
giữ năm giới, vâng đội mười lành" (dĩ tứ đẳng vô cái chi từ, cần
phụng ngũ giới đái thập thiện nhi hành), như truyện 82, tờ 44a23-24 chép.
Qua những khẳng định như thế, ta
thấy chủ trương của dân tộc ta qua những người lãnh đạo chính trị văn
hóa lúc bấy giờ là việc mất nước chỉ tạm thời và việc khôi phục
chủ quyền đất nước tất yếu sẽ đến. Đó là mất nước về mặt khách
quan, còn có nguyên nhân mất nước khác, đó là về mặt chủ quan, tức do
lòng tham của người lãnh đạo đưa đến sự mất nước. Truyện 40, tờ
22b3-4, kể chuyện một thánh vương tên Đảnh Sanh sau khi đã làm vua đất
nước đã đi chiếm các nước khác, cuối cùng mới nhận ra một sự thật
là : "lòng tham là lưỡi dao giết người, là nền tảng của sự mất
nước" (Phù tham tàn mạng chi đạo, vong quốc chi cơ dã). Vậy thì việc
mất nưóc không thể xảy ra chỉ do những yếu tố khách quan, do sự tham
lam xâm chiếm của kẻ thù, mà còn về phía chủ quan là do chính lòng tham
của những người lãnh đạo nước đó.
Có thể nói, suy nghĩ này một phần
nào phản ảnh luồng tư tưởng của những người Việt Nam sau sự sụp đổ
của triều đại Hùng Vương vào thời Hai Bà Trưng. Tìm hiểu nguyên do vì
sao mất nước, mới có cơ hội để phục hồi lại đất nước. Nói tóm
lại, dù chủ quan hay khách quan, mất nước là do lòng tham. Vì vậy muốn
khôi phục và xây dựng lại đất nước thì phải phát triển lòng nhân,
thương người, thương vật, phải có một lòng nhân từ như trời đất mà
rất nhiều truyện trong Lục độ tập kinh lập đi lập lại, cụ thể là
truyện 11, tờ 6b9: "Ta thà bỏ mạng sống một đời chứ không bỏ
chí lớn, quên mình để yên ổn quần sinh, đó là lòng nhân bao trùm trời
đất vậy". (Ngô ninh khứ nhất thế chí mệnh, bất khứ đại chí, thứ
dĩ an quần sanh, cái thiên chi nhân dã)
Tư tưởng nhân đạo này cuả Lục
độ tập kinh không tìm thấy trong tư tưởng Ấn Độ. Mà đã xuất hiện
trước và sau khi đế chế của Hùng Vương đã bị quân xâm lăng miền bắc
càn quét vào năm 43 sdl. Khi Chù Phù nói: "Độc tà tục đạo thư giúp
cho việc trị dân", chính là đọc bản kinh Lục độ tập kinh này đây.
Và thực tế sau biến cố 43sdl thì không đầy 50 năm sau từ khởi nghĩa
Tượng Lâm thứ nhất năm 100 sld, cho đến phong trào độc lập của Khu Liên
vào năm 138 sdl, cả một cuộc vận động độc lập vĩ đại đã nổ ra
đưa tới điểm cuối cùng là sự thiết lập chính quyền độc lập dưới
thời Sĩ Nhiếp vào những năm 170 trở đi.
Việc hình thành Lục độ tập kinh
như thế là cả một quá trình cải biên kinh sách Phật giáo nhằm phục vụ
cho yêu cầu vừa truyền ba Phật pháp vừa thực hiện chức năng gửi gấm
chủ trương đấu tranh độc lập cho đất nước đến với dân tộc.
Chính trong Lục độ tập kinh ta sẽ tìm ra những đức tin bản địa như
tin quỉ, bói gà, gọi hồn v.v..
Thứ năm, ngoài đạo lý nhân nghĩa,
Lục độ tập kinh còn ghi lại những yếu tố nói đến truyền thống dân
tộc, mà điểm thứ nhất là truyện 23 quyển 3. ĐTK 152, tờ 14a26-c18, về
truyền thuyết Trăm Trứng. Truyện này ta thấy có văn học Ấn Độ. Truyền
thống Ấn Độ thì gọi là một trăm cục thịt (mamsapesi); đến truyện
trăm con cuả Avadanajataka thì vẫn giữ nguyên lại một trăm cục thịt này,
mà Chi Khiêm dịch thành nhục đoàn trong truyện Bách tử đồng sản duyên
của Soạn tập bách duyên kinh 7, ĐTK 200 tờ 237a20-b29, thực hiện khoảng
năm 230 sdl. Thế mà truyện 23 này của Lục độ tập kinh thì vẫn giữ
nguyên là một trăm trứng (noãn bách mai). Vậy thì truyền thống về bà
Âu Cơ sanh Trăm trứng này dứt khoát là phải tồn tại trước thời Hai Bà
Trưng khi biến cố năm 43 xảy ra. Đứng trước hiểm họa bị diệt vong và
các truyền thống bị mai một nên truyền thống này đã được lồng vào
khung cảnh Phật giáo, và các yếu tố bản địa Việt Nam như thế xuất
hiện khá nhiều trong các truyện của Lục độ tập kinh hiện còn. Tất cả
yếu tố bản địa này phản ảnh phần nào sinh hoạt của người Việt
Nam thời Hùng Vương, trước lúc chính quyền ngoại tộc do Mã Viện thực
hiện. Yếu tố bản địa cuối cùng là ngôn ngữ của Lục độ tập kinh,
nang sắc thái đậm đà, điển nhã, chính điều này cho phép ta nhận rằng
Lục độ tập kinh là một trong các bản kinh tiếng Việt hiện còn và được
biết đến.
Truyện 52, Kinh Lỏa Quốc, từ
29c11-30a9, là một truyện hư cấu kêu gọi bảo vệ văn hóa và tập tục của
dân tộc, cảnh cáo và răn đe những kẻ xâm lược đất nước. Cần chú
ý đến kinh Lỏa Quốc này, vì Lỏa Quốc chính là tên mà Sử ký của Tư
Mã Thiên 113, tờ 3a3, dùng để gọi ngay chính nước ta: "Phía tây Âu Lạc
Lỏa Quốc xưng vương". Đây là một câu trích trong thư Triệu Đà gửi
cho Hán Văn đế vào năm 179 tdl, mà theo Tiền Hán thư 95 tờ 9a 13-b1 có câu
tương đương là: "Phía Tây có Tây Âu, chúng nó nửa gầy, nam diện xưng
vương". Vậy, khi Lục độ tập kinh truyện 52 có kinh Chi Lỏa Quốc, ta
phải hiểu Lỏa Quốc đây chính là chỉ nước ta. Nội dung của nó không
phải để răn đe các nhà sư mà thực tế để nhắn nhủ người phương bắc
muốn đem văn hóa xuống cải tạo người phương nam, bảo cho họ biết một
nổ lực như thế tất yếu sẽ đưa đến thất bại và chỉ có thất bại
mà thôi. Những người em thúc bá trong truyện muốn bán được hàng phải
tôn trọng phong tục tập quán ở nơi mình buôn bán. Đó cũng là để nói
rằng, nếu muốn cho người phương Nam tiếp thu tinh hoa của văn hóa phương
bắc tất yếu phải biết tôn trọng nền văn hóa phương nam này. Rõ ràng
kinh Chi Lỏa Quốc là một nhắn nhủ xa gần đối với những người làm văn
hóa phương bắc, khẳng định rằng người Việt Nam không bài ngoại nhưng
dứt khoát không để cho bất cứ ai có thể xúc phạm đến nền văn hóa của
đất nước mình.
Đây là điểm lôi cuốn đối với
chúng ta, vì kinh này là một trong số rất ít kinh có tác động lớn đến
suy nghĩ của người Việt Nam vào những thời sau. Cụ thể là Tuệ Trung thượng
sĩ Trần Tung (1230-1291) đã lấy hứng từ bản kinh này để viết nên bài
thơ: "Vật bất năng dung"_1.
- Lỏa Quốc hân nhiên tiện thoát y
- Lễ phi vô dã, tục tuỳ nghi
- Kim xuyên thốc ẩu vi huyền đặc
- Minh kính manh nhân tác cái chi
- Ngọc tháo nhập cầm ngưu bất thính
- Hoa trang anh lạc tượng hà tri
- Hu ta nhất khúc huyền trung diệu
- Hợp bả hoàng kim chú Tứ Kỳ.
- Dịch : Vui xứ mình trần cởi áo đi
- Phải đâu thất lễ chỉ tuỳ nghi
- Trâm vàng, mụ hói treo làm móc
- Gương sáng, anh mù lấy đậy ly
- Đàn ngọc gieo lên trâu chẳng nghểnh
- Chuỗi hoa kết ngọc tượng hay chi
- Hỡi ôi một khúc huyền trung diệu
- Dồn hết vàng kia đúc Tử Kỳ
Về việc thành lập Lục Bộ tập kinh [^]
Qua phân tích trên ta thấy Lục độ
tập kinh do Khương Tăng Hội dịch ra tiếng Trung Quốc thực tế là từ một
bản Lục độ tập kinh tiếng Việt, chứ không phải từ bản tiếng Phạn
như bao học giả xưa nay lầm tưởng. Bản Lục độ tập kinh này với 91
truyện của nó rõ ràng là một tập hợp các kinh truyện Phật giáo lưu hành
từ thời Hùng Vương cho đến thời Hai Bà Trưng. Ta đã phát hiện có ít
nhất 7 kinh đã lưu hành từ thời nhà nước Hùng Vương thực hiện chức
năng quản lý và bảo vệ đất nước cho đến năm 43 sdl. Đó là các truyện
9, 14, 24, 25, 54, 61, 76, 79, 83, 88. Còn một số truyện khác xuất hiện sau thời
Hai Bà Trưng tức từ năm 43 sdl trở về sau, dứt khoát không có nguồn gốc
Ấn Độ, cụ thể la truyện bỏ vàng vào miệng. Điều này chắc chắn là
một sáng tạo của Phật tử Việt Nam sau thời Hai Bà Trưng nhằm phê phán
hiện thực chính trị hà khắc của quân thù, và kêu gọi Phật tử, những
vị Bồ Tát vì giải thoát những đau khổ cho người dân lầm than, mà
xông vào nơi chính trị hà khắc. Ngoài những truyện này, ta thấy hàng loạt
truyện, tuy có nguồn gốc Ấn Độ, nhưng chúng đã được cải biên và
nhào nặn lại cho hợp với khẩu chúng đã được cải biên và nhào nặn
lại cho hợp với khẩu vị thưởng ngoạn của người Phật tử Việt Nam,
làm cho Phật giáo mang một khuôn mặt quen thuộc gần gũi đối với người
dân bản xứ. Từ cải biên và nhào nặn này, một hệ thống đạo lý và
điểm huấn Việt Nam đã được kết hợp chặt chẽ với tư tưởng Phật
giáo, tạo thành một hệ thống điển huấn Việt Nam mới, làm cơ sở cho
những xây dựng một nhà nước Việt Nam sau thời Hai Bà Trưng và kéo dài
cho đến tận ngày hôm nay.
Tư tưởng nhân nghĩa, thành tín, hiếu
đạo, nhân ái v.v... đã được ghi lại đầy đủ trong bản kinh này, được
truyền bá rộng rãi trong mọi tầng lớp quần chúng và tác động sâu sắc
về những suy nghĩ và cách cư xử của người đương thời. Đến nỗi sau
này khi viết Lý hoặc luận, Mâu Tử đã dành hơn năm điều trong số 37
điều cuả luận để bàn về kinh Tu Đại Noa Lục độ tập kinh 14. Việc
xác lập Lục độ tập kinh là một tập hợp các kinh điển lưu hành tại
nước ta sau thời Hai Bà Trưng giúp ta hình dung lại được tình trạng của
Phật giáo sau chính biến năm 43sdl. Đó là những người Phật tử đầy bản
lĩnh tích cực tham gia vào quá trình đấu tranh dành độc lập cho tổ quốc
và biến nền văn hóa Hùng Vương kết hợp chặt chẽ Phật giáo trở
thành một thành trì chống lại chính sách diệt chủng đồng hóa cuả nhà
Hán. Họ đã thành công trong sự việc này. Cụ thể là Dương Phù viết
Nam châu dị vật chí vào năm 100 sdl, ghi nhận người nước ta đã biết trồng
hoa Uất kim hương (tức hoa Tulip) để cúng Phật, thì cũng vào năm đó cuộc
khởi nghĩa Tượng Lâm đầu tiên nổ ra báo hiệu sự ra đời của một nhà
nước Việt Nam độc lập mới.
Lục độ tập kinh có khả năng là
được tập thành khi nhà nước độc lập do anh hùng Khu Liên thành lập
vào khoảng những năm 138 trở đi, vì đây là thời điểm cần tập hợp lại
tất cả các kinh điển đang phổ biến theo yêu cầu thực tế của cuộc
đấu tranh, xây dựng một nhà nước mới. Các kinh điển trước đây lưu
hành rời rạc đã được tập hợp lại trở thành những bộ tập và
công tác này được tiến hành cách khẩn trương. Ngoài Lục độ tập kinh
ra, ta còn thấy ở Việt Nam các kinh Tạp thí dụ và Cựu tạp thí dụ. Hai
bản kinh này sau đó cũng được dịch ra chữ Hán. Cựu tạp thí dụ kinh
do chính Khương Tăng Hội dịch; còn Tạp thí dụ kinh thì do một độc giả
vô danh, nhưng các nhà kinh lục thường xếp vào các bản thất dịch của
đời Hán, nghĩa là phải xuất hiện trước năm 220 sdl. Như vậy, ta được
biết vào năm 138 sdl ít nhất có ba bộ kinh bằng tiếng Việt đã được
lưu hành trong dân gian.
Cho nên, câu Đàm Thiên nói: "Một
phương Giao Châu, đường thông Thiên Trúc, Phật Pháp lúc mới tốt, thì
Giang Đông chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn hai mươi ngôi, độ Tăng
hơn 500 người, dịch kinh 15 quyển, vì nó có trước đây".
Trong Thiền Uyển Tập Anh như đã
ghi ở trên, hoàn toàn có thể tin được. Và trong Lý hoặc luận, Mâu Tử
nói: "Kinh do Phật viết, gồm đến 12 bô, hợp tám ức bốn ngàn vạn
quyển. Quyển lớn vạn lời trở xuống, quyển nhỏ ngàn lời trở
lên" ở điều 1 của Lý hoặc luận là điều không cần bàn cãi. Con số
tám vạn bốn ngàn quyển của toàn bộ kinh Phật, khi lập lại những
thông tin này, là Mâu Tử nghe các nhà sư Phật Giáo Ấn Độ truyền lại.
Nhưng khi ông viết "Quyển lớn vạn lời trở xuống, quyển nhỏ ngàn
lời trở lên", thì rõ ràng Mâu Tử đã có trong đầu óc mình hình ảnh
của những bản kinh tập hợp lại trong Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí
dụ kinh hoặc Tạp thí dụ kinh. Thực tế, ngày nay nếu ta đếm các kinh
dài của Lục đô tập kinh như các truyện Tu Đại Noa, Phổ Minh, v. v... thì
số chữ của các kinh này không quá hơn một vạn chữ, còn các kinh nhỏ,
như truyện số 3, số 4 thì khoảng một ngàn chữ trở lên, hay ít hơn.
Tóm lại, sinh hoạt Phật giáo sau
thời Hai Bà Trưng thật là phong phú. Sự phong phú sôi nổi này là do yêu cầu
đấu tranh chống nô dịch mà chính quyền nhà Hán đã cố tình ra sức áp
chế lên đầu lên cổ dân tộc ta. Trong sinh hoạt Phật giáo ấy, ta thấy
có vấn đề Quy y Tam bảo, các giới cấm, mười điều lành, phương pháp
tu thiền, tu Bát quan trai, vấn đề phụ nữ có thể thành Phât hay không. Về
mặt giáo lý, các khái niệm về vô thường, khổ, không, vô ngã, đều
được phổ biến rộng rãi. Tư tưởng nhân ái, hiếu nghĩa, thành tín, lấy
đạo nhân để trị nước, đã lưu hành và được áp dụng trong đời. Nói
tóm lại, một hệ thống điển huấn và pháp luật Việt Nam đã được hình
thành. Phật giáo sau thời Hai Bà Trưng đã góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc và vào sự hình thành một
nhà nước Việt Nam kiểu mơi mà sau này Chu Phù đã phải chấp nhận, thay
thế cho điển huấn của Trung Quốc và pháp luật của nhà Hán.
Ngoài Lục độ tập kinh, còn có
hai bản kinh khác cũng hình thành vào giai đoạn này, đó là Cựu tạp thí
dụ kinh và Tạp thí dụ kinh.
Về Cựu tạp thí dụ kinh [^]
Cựu tạp thí dụ kinh hiện nay chia
làm hai quyển thượng và hạ. Quyển thượng gồm từ truyện 1 đến 34.
Quyển hạ từ 35 đến 61. Nó như vậy có cả thảy 61 truyện theo cách đánh
số của bản in Đại Chính ngày nay. Nhưng một kiểm tra kỹ cho ta đến 65
truyện bởi vì bốn truyện 8, 9, 14 và 39 là bốn truyện đôi. Trừ 7 truyện
cuối sách có tiêu đề riêng là truyện "thí dụ bẻ gãy La-hán"
nhằm nêu những giới hạn của quả vị La-hán, và hai truyện 2 và 45 là
những truyện Tiền thân đích thực, 56 quyển còn lại là những truyện
thí dụ thuần túy. Gọi là thí dụ, thực tế chúng là những truyện ngụ
ngôn, ngắn có dài có, với mục đích nhắn gởi một lời khuyên, một cảnh
giác thông qua câu truyện. Những lời nhắn gởi này đôi khi không nhất
thiết có nội dung đặc biệt Phật giáo, mà chỉ bộc lộ một sự khôn
ngoan chung, một dạng minh triết, mà bất cứ dân tộc nào cũng có thể
có.
Vì thế trong 56 truyện loại ngụ
ngôn trên, có những truyện xuất hiện trong nhiều dân tộc khác nhau, như
truyện 39 cò đem rùa đi kiếm ăn. Có truyện không giống nội dung Phật
giáo và cũng chẳng có thông điệp nhắn gởi gì đặc biệt Phật giáo, như
truyện 10, 19, 26 chẳng hạn. Có những truyện có nguồn gốc địa phương,
nhưng đã được Phật giáo hóa để gửi gắm một đạo lý, một quan điểm
sống Phật giáo, như truyện 7, 29 v.v... Cuối cùng, có những truyện xuất
phát từ đời sống Phật giáo thực được viết thành truyện để gởi gắm
một tư tưởng, một nhận định thực tiễn có giá trị khuyên răn, cảnh
giác như truyện 36, 49...
Nói vậy, cũng có nghĩa về mặt nội
dung Cựu tạp thí dụ kinh tuy tự thân mang danh một bản kinh, nhưng thực tế
là một tác phẩm văn học chứa đựng nhiều nhân tố phi Phật giáo. Nó
do thế phong phú hơn nhiều, so với các bản kinh khác. Ngay cả khi đối chiếu
với Lục độ tập kinh, nó dù đơn giản vẫn vượt trội tính đa dạng,
không chỉ về mặt giáo lý, mà còn về mặt tư tưởng chung. Sự thật, ta
phân tích nội dung của một truyện như truyện 39 kể việc cò đem rùa đi
kiếm ăn. Rùa do không giữ được miệng mình, nên đã bị rơi mất xác,
thì ý nghĩa truyện không còn đơn thuần giới hạn vào trong giáo lý đặc
biệt đạo Phật nữa, mà đã tỏa ra mang một tính nhân loại phổ quát.
Tuy nhiên, với tư cách một bản
kinh, Cựu tạp thi dụ kinh tự bản thân có những lời giáo huấn đặc biệt
Phật giáo. Ngay truyện đầu, nó muốn nhấn mạnh đến giá trị cuả việc
tuân thủ các điều răn của Phật giáo thông qua việc thắng được cả
quỷ dữ. Đề cao vai trò của giới luật là một thông điệp giáo lý đầu
tiên của Cựu tạp thí dụ kinh. Ngoài truyện 1, nó còn có các truyện 13,
40, 41. Việc nhấn mạnh này có thể hiểu được, khi ta nhớ rằng quan hệ
xã hội bình thường phải dựa trên một số nguyên tắc. Mà các nguyên tắc
này, người Phật giáo gọi là giới, một dạng pháp qui bắt buộc, nhưng
lại mang tính tự nguyện.
Thực tế, đúng với tinh thần Lục
độ tập kinh, những dạng pháp qui này không chỉ áp dụng giới hạn thuần
túy vào cách hành xử của từng cá nhân, mà còn có tham vọng trở thành
khả thi đối với toàn xã hội: "Năm giới, mười lành làm quốc
chính, làm chính sách quốc gia" (truyện 41). Quan niệm giới này vượt
ra ngoài phạm vi của khái niệm giới nguyên thủy với nội hàm "phòng
phi chỉ ác" đơn giản tôn giáo. Ngược lại, nó muốn vươn tới việc
biến hệ thống giới luật Phật giáo thành một hệ thống pháp luật
chính trị. Đây là một nét đặc trưng cuả Cựu tạp thí dụ kinh cũng
như Lục độ tập kinh, hai bộ kinh xuất phát từ nướ ta.
Sự tình này hẳn phải chăng không
chỉ phản ảnh ưóc muốn xây dựng một hệ thống pháp luật dựa trên đức
lý Phật giáo, mà còn thể hiện một thái độ chính trị đối với hệ
thống pháp luật Trung Quốc đã được đưa vào nước ta, sau khi Mã Viện
đánh bại Hai Bà Trưng vào năm 43 sdl. Hệ thống pháp luật Việt Nam trước
năm 43 ta biết tồn tại qua bộ Việt Luật. Nhưng nội dung bao gồm những
điều khoản gì thì ngày nay ta chưa truy ra được do thiếu tư liệu. Chỉ
biết sau năm 43, truyện Mã Viện trong Hậu Hán thư 54 tờ 8b6-7 nói Viện
"điều tấu Việt Luật với Hán Luật sai khác hơn 10 điều. Bèn cùng
người Việt giải rõ cự chế để ước thúc. Từ đó về sau, Lạc Việt
vâng làm việc cả của Mã tướng quân".
Hán Luật ngay từ thời Lý Hiền
(651-684) viết chú thích Hậu Hán thư 1 hạ tờ 1a 11 đã nói: "Hán Luât
nay mất". Cho nên, ta hiện khó có thể giả thiết điều khoản nào của
Hán Luật có khả năng khác với Việt Luật. Điều ta có thể chắc chắn
là người Việt đã có một bộ luật gọi là Việt Luật và họ có một
tổ chức chế độ chính trị pháp qui gọi là "cựu chế". Và Mã
Viện đã tiến hành cải cách "hơn 10 điều", dựa trên cơ sở Hán
Luật. Việc đưa những yếu tố Hán Luật vào Việt Luật,sau khi đánh sụp
hệ thống nhà nước Hùng Vương, tất không thể nào được nhân dân ta nhận
đón một cách vui vẻ và biết ơn.
Từ đó, tất yếu phải hình thành
một thái độ chính trị đối kháng chống lại hệ thống pháp luật mới
đưa vào ấy thể hiện qua việc kêu gọi sử dụng "năm giới mưòi
lành làm quốc chính" của Phật giáo. Việc kêu gọi này thực chất
là một phê phán nghiêm khắc hệ thống pháp luật Trung Quốc do Mã Viện
đặt, coi nó không xứng đáng để làm "quốc chính". Lối biểu thị
này vào giai đoạn lịch sử ấy là một hệ quả tất nhiên, một mặt do
hệ thống kềm kẹp cuả kẻ thù, và mặt khác do lực lượng đối kháng
dân tộc chưa biến thành sức mạnh vũ trang đập tan được hệ thống kềm
kẹp đó.
Nói khác đi, nếu trước mắt chưa
thể làm sống lại hệ thống pháp luật dân tộc của Việt Luật, thì ít
nhất cũng biểu lộ một quan điểm chống đối lại hệ thống pháp luật
do Mã Viện cải cách. Việc này được thực hiện bằng cách kêu gọi sử
dụng hệ giới luật "năm giới mưòi lành làm quốc chính", để
"đưa nước tới thái bình" (truyện 1), "tới long bình"
(truyện 41). "Năm giới mười lành" do vậy không chỉ làm cho mỗi
cá nhân trở nên tốt lành thánh thiện, mà còn tạo nền thái bình cho quốc
gia, cho dân tộc. Khẳng định như thế cũng có nghĩa quốc gia này, dân tộc
này không thể thái bình được, nếu cứ sống dưới hệ thống Hán Luật
của Trung Quốc.
Vậy việc biến một hệ thống giới
luật mang tính tôn giáo thành một hệ "quốc chính", một hệ pháp
qui chính trị nhà nước rõ ràng vượt ra ngoài ý nghĩa "phòng phi chỉ
ác" nguyên thủy của quan niệm giới luật Phật giáo và bộc lộ một
thái độ chính trị phê phán Hán Luật đương thời của dân tộc, ta
thông qua kinh điển Phật giáo. Chỉ nhìn dưới góc độ này, ta mới thấy
tại sao Lục độ tập kinh và Cự tập thí dụ kinh lại đầy dẫy những
phát biểu về việc sử dụng "năm giới muời lành làm quốc
chính" mà các bản kinh khác dịch ở Trung Quốc không có hoặc có một
cách hết sức mờ nhạt.
Ngay trong truyền thống văn học bản
sinh PHạn văn hay Pali, quan niệm "quốc chính" "đưa nước tới
thái bình" ấy cũng vắng mặt một cách đáng tò mò. Phân tích truyện
1 của Cựu tạp thí dụ kinh và truyện Pancavudhajàtaka của văn học bản
sinh Pali chẳng hạn, ta thấy quan niệm đấy không xuất hiện trong văn học
bản sinh Pali, trong khi truyện 1 nói rất rõ "vâng giới (năm giới mười
lành...) nước đi tới thái bình". Đây là một cải biên có hàm ý
chính trị, chứ không phải đơn thuần có tính ngẫu nhiên, tuỳ tiện. Nó
nhằm bộc lộ một ước muốn, một thái độ chính trị của người tiến
hành cải biên, khẳng định có một lối quản lý đất nước, ngoài phương
thức quản lý hiện hành của chính quyền Hán tại nước ta và ưu việt
hơn nó.
Khuynh hướng chính trị hóa hệ tư
tưởng Phật giáo, đặc biệt hệ thống giới luật, là một nét đặc
trưng của các tác phẩm Phật giáo tại nước ta trong mấy thế kỷ đầu.
Khi buộc phải xác định cái đạo của ông là gì?, Mâu Tử trong điểm 4
của Lý hoặc luận đã nói: "(Cái đạo đó) ở nhà có thể dùng để
thờ cha mẹ, giúp nước ta có thể trị dân, ở riêng một mình có thể
dùng để tự thân". Thế là đạo đức Phật của Mâu Tử trong những
năm 198 được xác định rõ ràng là một đạo có thể để tu thân, tề
gia và trị quốc, một đường lối để hoạt động chính trị. Có tu
thân đi nữa cũng để nhằm mục đích trị quốc, giúp nước. Cần ghi nhận
là vào lúc đó, Mâu Tử chưa nói tới "Bình thiên hạ".
Đến Lục độ tập kinh, không những
lý tưởng và mục đích "dân giàu nước mạnh" (truyện 8, 11, 15 và
53) "đất nước thái bình" (truyện 10, 15) được khẳng định mạnh
mẽ, mà phương thức để tới lý tưởng ấy cũng được chỉ ra rõ ràng.
Đó là phải "lấy năm giới mười hạnh làm quốc chính" (truyện
9), lấy "mười lành làm minh pháp" (truyện 15) "Lấy mười làm
quốc pháp" (truyện 23), "thực hiện mười lành làm trị pháp"
(truyện 82), lấy "năm lời dạy làm trị chính" (truyện 91). Và khi
"mọi người giữ mười hạnh" thì "vua nhân, tôi trung, cha nghĩa,
con hiếu, chồng tin, vợ trình (truyện 70)
Thế Phật giáo được trình bày như
một hệ thống điển huấn, một hệ thống pháp luật có thể sử dụng
để quản lý đất nước, quản lý xã hội, chứ không chỉ như một hệ
thống niềm tin, hệ thống giáo lý. Khi làm vậy, dù không nói trắng ra,
tác giả Lục độ tập kinh chắc chắn có một mục đích. Mục đích đó
là kiên quyết không để cho hệ thống điển huấn Trung Quốc cùng hệ thống
pháp luật nhà Hán áp đặt lên dân tộc ta, hạn chế tới mức tối đa những
nọc độc nô dịch do chúng phun ra, và chuẩn bị cơ sở lý luận cho một
hệ thống nhà nước Việt Nam mới, khi hệ thống nhà nước Hùng Vương đã
bị đánh vỡ và chưa được phục hồi.
Như vậy, trong những giờ phút đụng
độ đầu tiên đầy gay go khốc liệt này của dân tộc ta với kẻ thù phương
bắc, Phật giáo đã xuất hiện như một vũ khí sắc bén, có khả năng tác
chiến cao .Thực tế, đến khoảng những năm 190 hệ thống điển huấn và
pháp luật Phật giáo đã tỏ ra có một sức lôi cuốn mạnh mẽ, đến nỗi
một thứ sử như Chu Phù đã "vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ
pháp luật cuả Hán gia" để chấp nhận nó nhằm cho việc "trợ
hóa", như Giang biểu truyện đã ghi, mà Bùi Tùng Chi trong Ngô chí 1 tờ
12a9-10 và Lý Hiền trong Hậu Hán thư 60 hạ tờ 20a 12 đã dẫn ra. Đây là
một sự trưởng thành vượt bậc của không chỉ Phật giáo, mà cả của
nền văn hóa dân tộc ta.
Sự trưởng thành ấy không chỉ của
Phật giáo, bởi vì hệ thống giới luật Phật giáo, tuy có những tác động
xã hội chính trị nhất định, nhưng đó không phải là chủ yếu. Điểm
chủ yếu là đời sống cuả từng cá nhân. Cho nên, nói đến "quốc
chính", "quốc pháp" rõ ràng phản ảnh một nổ lực vận dụng
lý thuyết và tư tưởng Phật giáo thực tiễn vào nền chính trị nước
ta, vào nền văn hóa dân tộc ta nhằm đáp ứng yêu cầu bức thiết của
các sinh hoạt ấy vào thời điểm đó. Nó biểu lộ một cố gắng tổng hợp
hệ thống đức lý cuả Phật giáo với tinh hoa văn hóa và thực tiễn
chính trị nước ta, lúc Cựu tạp thí dụ kinh ra đời.
Nhưng Cựu tạp thí dụ kinh vẫn la
một bản kinh Phật giáo. Cho nên, những gởi gắm chính trị vừa nêu
không đánh mất được quan tâm giáo lý cuả nó, mà nổi bật nhất là
các chủ đề tham dục, bố thí, nghiệp quả và giác ngộ. Tham dục là
lòng ham muốn có thể do "mùi thơm cuả vài ba hạt cơm" đối với
một chú tiểu trong truyện 21, đối với nam nữ trong truyện 20, đối với
người nữ hay truyện 21 đối với người nam. Một khi đã lầm lạc, lòng
ham muốn ấy nhất định dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng tai hại
đau thương. Vì thế phải làm chủ lòng ham muốn ấy nhất định dẫn đến
các hậu quả nghiêm trọng tai hại đau thương. Vì thế phải làm chủ
lòng ham muốn, đừng để bị lầm lạc. Nói như vị thầy của chú tiểu
"phải giữ lòng đúng đắn, đừng để dao động". Dao động thì
dễ sa ngã.
Bên cạnh lòng ham muốn cho chính
mình là lòng nghĩ tới người khác, lòng vị tha, muốn giúp đỡ cúng dường
những người khác. Một loạt truyện gồm những số 3, 6, 7, 9, 12, 14, 15,
32, 42 v.v... trình bày những khía cạnh khác nhau của sự biểu lộ lòng vị
tha đó, từ việc cúng dường thức ăn cho Sa-môn Phạm Chí (truyện 3) đến
việc cho chó ăn vẫn tiếc (truyện 15), việc đem "quả ngọt" tri bệnh
cho người đau (truyện 9) v.v... Chúng mô tả những dạng thức tâm lý phức
tạp liên hệ đến lòng ham muốn cuả cải, trở ngại số một trên con
đường đi đến giác ngộ cuả những ngưòi Phật giáo. Sắc đẹp, danh vọng,
ăn và ngủ luôn luôn đứng sau lòng ham muốn số một ấy. Và bố thí là
một phương thức đối trị hữu hiệu trên đường dẫn đến giác ngộ.
Dẫu thế phải công bằng mà nói,
quá trình giác ngộ Phật giáo không đòi hỏi nhất thiết phải vượt qua
một quá trình trị liệu lâu dài, tập hợp được nhiều công đức, làm
được nhiều việc thiện. Chỉ cần nghe tiếng va chạm cuả chiếc vòng
tay người con gái giặt quần áo bên sông, người ta cũng có thể giác ngộ
(truyện 28). Hay buổi sáng nhìn vườn nho đầy trái, hồ sen đầy hoa, buổi
chiều có kẻ đến bẻ hái sạch, người ta cũng giác ngộ. Đây là mầm mống
cuả sự ngộ Thiền về sau mà nhiều người thường lầm tưởng là một
nét đặc trưng cuả Phật giáo Thiền Trung Quốc. Thậm chí do ngộ nhận,
mà vẫn giác ngộ, như trường hợp hai vợ chồng của truyện 9b. Lạ lùng
hơn là ba anh say rượu vẫn được Phật dự kiến sẽ giác ngộ (truyện
8a). Ngay cả một anh thấy chùa có chiếc vạc bằng vàng muốn ăn cắp, bèn
vào tu với mục đích đó, vậy mà nhờ nghe thầy giảng, bèn lại giác ngộ
(truyện 36). Mầu nhiệm và dị thường không kém là việc con chó nằm dưới
giường nghe chủ nó là một Sa-môn tụng kinh, thoát được kiếp chó, tái
sinh làm một người con gái và cuối cùng cũng giác ngộ (truyện 8b).
Con đường giác ngộ cuả Phật
giáo do thế muôn hình muôn trạng, không nhất thiết có một định thức nào.
Có ngưòi rất nhanh chóng, trong sát na nghe tiếng vòng va chạm là giác ngộ.
Nhưng có người phải trải qua một quá trình đấu tranh gian khổ chống lại
những thói hư tật xấu của bản thân mình như Y Ly Sa của truyện 15. Cuộc
tranh cãi đốn tiệm về sau trong thiền giới, bao gồm cả thiền của Trí
Khải lẫn thiền cuả Bồ đề Đạt-ma như vậy là đã có giải pháp trong
Cựu tạp thí dụ kinh, dù trên thực tế nó chưa sử dụng tới những thiền
ngữ chuyên môn. Giải pháp ấy nằm trong việc thừa nhận tính đa dạng của
quá trình giác ngộ. Nói như truyện 36 "mỗi một giác ngộ có nguyên
nhân của nó" (giác ngộ các hữu nhân).
Quá trình giác ngộ đa dạng, cho nên
mức độ giác ngộ có khác nhau. Chỉ có một giác ngộ trọn vẹn, đó là
sự giác ngộ của Phâạt. Đây hẳn là quan điểm của Cựu tạp thí dụ
kinh, bởi vì bảy truyện cuối cùng của nó là để "bẻ gãy La
Hán". Gọi "bẻ gãy La-Hán" thực chất nhằm chứng minh quả vị
La Hán chưa phải là quả vị tuyệt đối của sự giác ngộ hoàn toàn. Bắt
đầu với truyện 55, nó đánh giá trí tuệ của La Hán Xá Lợi Phất như
"sắc đồng chì thiếc", khi so với "vàng ròng" của trí tuệ
đức Phật. Tiếp đến, truyện 56 đánh giá thần thông của Mục Kiền
Liên với câu: "Thế Tôn nói ta thần thông số một, thế vẫn chưa đáng
nói. [...] Ai phát tâm nên có chí như Phật, chứ đừng bắt chước ta, mà
thành thứ giống hư".
Truyện 57, kể chuyện một vạn
La-hán thấy rồng Bạt Kỳ bạo ngược, muốn đi cứu nó. Không những
không cứu được, mà còn suýt bị nó chế ngự, nếu không có sự can thiệp
của Đức Phật. Cuối cùng, Đức Phật kết luận: "Một vạn La Hán
đó muốn cứu các tội của rồng, nhưng sức không gánh nổi"... Truyện
58 kể có một nước "nhân dân giàu có.., nhưng tính hạnh ngang ngược,
hung bạo, khó dạy". Đức Phật bèn gởi Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất,
rồi Ca Diếp, ba La-hán đều thất bại. Cuối cùng Đức Phật sai Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi và thành công: "Năm trăm La-hán gục xuống đất, rơi
lệ, nói: "Oai thần Bồ tát dạy dỗ còn như vậy, huống nữa là đức
Như Lai có thể kể hết sao được? Chúng ta là giống hư, không ích lợ
cho mọi người".
Quan điểm La-hán là một thứ
"bại chủng", truyện 59 nhấn mạnh bằng hình ảnh đức Phật rơi
lệ, khi thấy các đệ tử "Không thể kể xiết" lại hướng đến
quả La-hán. Truyện 60 ghi nhận phước báo to lớn của việc cúng dường dấu
chân Phật, trong khi truyện 61 kể chuyện một thiên thần xuống đầu thai,
mà Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên không biết. Điểm cần lưu ý là truyện
60 là văn bản đầu tiên hiện biết nhắc tới danh hiệu đức Phật A Di
Đà trong lịch sử Phật giáo nước ta. Tín ngưỡng A Di Đà từ đó xuất
hiện khá sớm và đến khoảng năm 450 đã chiếm lĩnh được một vị thế
trọng yếu ở trung tâm Tiên Sơn, để cho Đàm Hoằng đến tu học như sẽ
bàn ở sau.
Toàn bộ bảy truyện cuối của Cựu
tạp thí dụ kinh, như vậy, phê phán quả vị La-hán là một "giống hư"
(bại chủng), mạnh mẽ ca ngợi lý tưởng Bồ-tát như Lục độ tập kinh
đã làm, đó là "quên mình cứu người", dù có chịu bao gian khó.
Quan điểm Phật giáo của Cựu tạp thí dụ kinh do thế cực kỳ rõ ràng;
nó đứng hẳn về hệ tư tưởng đại thừa, tiếp thu và quảng bá hệ tư
tưởng này. Thực tế, quan niệm "mười lành" như một hệ giới
luật, để cho Lục độ tập kinh tuyên bố "lấy mười lành làm quốc
pháp" (truyện 23) là một nét đặc trưng cuả tư tưởng giới luật nền
văn học bát nhã mà Khương Tăng Hội có tham gia phiên dịch qua bản Ngô phẩm.
Điểm đáng tò mò là bảy truyện
trên được gom lại dưới tên Chiết La-hán thí dụ sao. Thế phải chăng tự
nguyên thủy chúng là một bộ phận rồi lưu hành bên ngoài Cựu tạp thí
dụ kinh và có tên Chiết La Hán thí dụ sao, để sau đó được một tác
giả nào đó thu vào Cựu tạp thí dụ kinh? Trong tình hình tư liệu hiện tại
ta chưa thể có một câu trả lời dứt khoát. Tuy vậy, bảy truyện vừa
tóm tắt trên rõ ràng phản ảnh một quan điểm nhất quán về tính ưu việt
của lý tưởng Bồ-tát và phê phán nặng nề quả vị La hán.
Điều này hiển nhiên ám chỉ ít
nhiều về một cuộc đấu tranh nội bộ trong lịch sử Phật giáo nước
ta trong những thế kỷ đầu liên quan đến lý tưởng Bồ Tát mà Lục độ
tập kinh đã xác định là : "Xông vào nơi lệ chính để cứu dân ra
khỏi lầm than" như đã nhắc đến ở trên, nhằm đáp ứng yêu cầu
chính trị thực tiễn cuả dân tộc ta thời bấy giờ. Do thế Chiết
La-hán thí dụ sao có thể từng được lưu hành độc lập bên ngoài Cựu
tạp thí dụ kinh, trước khi được gộp vào.
Ngoài những truyện thuyết giảng
mang tính giáo lý Phật giáo trên, Cựu tạp thí dụ kinh còn chứa đựng một
số truyện, mà thông điệp gởi gắm không nhất thiết có tính Phật giáo
hay chỉ duy nhất có tính Phật giáo. Chẳng hạn, các truyện từ số 17 đến
23 và 25, 26, 39. Các truyện này, có truyện có thể dùng để minh họa cho
giáo lý tham dục Phật giáo, nhưng cũng có thể coi như một loại truyện cảnh
giác về mưu mẹo đàn bà hay đàn ông. Song cũng có truyện có lời khuyên
mang tính phổ quát. Thí dụ, truyện 19 nói đến việc "học thì nên lấy
ý mà suy", đã được lưu hành trong các tập truyện "một nghìn lẻ
một đêm" mà sau này Voltaire đã sử dụng lại để viết thành truyện
Zadig, mà A. Pearson người dịch bản tiếng Anh do trường đại học Oxford
xuất bản nói là có hơi hám của truyện trinh thám Sherlock Holmes.
Thậm chí có truyện có ý nghĩa rất
mơ hồ, cụ thể là truyện 26. Truyện này tự nguyên thủy có thể phản
ảnh một phong tục nào đó mà ngày nay đã biến mất, nên những tình tiết
bên trong truyện không có gì có vẻ hấp dẫn, nếu không nói là nhạt nhẽo.
Cũng có thể cốt truyện bị đơn giản hóa quá mức, chỉ còn lại bộ sườn,
do thế trông có vẻ khẳng khiu, khắc khổ. Điểm lôi cuốn là lời bình
luận của vị thầy Khương Tăng Hội, trong ấy ông dẫn ý kiến của những
người khác. Điều đấy chứng tỏ truyện 26 đã lưu hành rộng rãi và
thu hút sự chú ý của nhiều người, trước khi ông đem giảng cho Hội và
đưa ra nhận xét của riêng ông. Đây là một chứng cớ khác xác định không
những Cựu tạp thí dụ kinh phải lưu hành trước thời Khương Tăng Hội,
mà còn phải lưu hành dưới một bản kinh tiếng Việt, bởi vì chỉ khi lưu
hành dưới dạng bản kinh tiếng Việt, nó mới được bàn cãi nhiều và
sau đó mới được Khương Tăng Hội dịch ra tiếng Trung Quốc. Chứ nếu nó
lưu hành dưới dạng bản tiếng Phạn hay Pali, tất nhiên không thể có việc
nhiều ngưòi tham kiến. Còn nếu lưu hành bằng tiếng Trung Quốc thì không
có việc Khương Tăng Hội dịch ra tiếng Trung Quốc một lần nữa làm gì.
Trên đây là một tóm tắt sơ bộ
những nét chính của nội dung Cựu tạp thí dụ kinh. Nó hiển nhiên là
không đầy đủ, nhưng cũng đủ để cho ta một ý niệm về các quan điểm
phát biểu trong bản kinh đó. Điểm lôi cuốn đối với chúng ta là Cựu tạp
thí dụ kinh cùng với Lục độ tập kinh, phải giúp định vị lại, nếu
không phải là thời điểm ra đời thì cũng là thời điểm lưu hành của
một số tác phẩm văn học dân tộc, thường được xếp vào loại
"truyện cổ tích", mà cho đến nay chưa được nghiên cứu một
cách dứt khoát và nghiêm túc.
Cựu tạp thí dụ kinh và văn học Việt Nam [^]
Trong lịch sử văn học dân tộc
có một mảng thường được gọi là nền văn học dân gian bao gồm các
truyện thần thoại, cổ tích, tục ngữ, ca dao, mà về mặt lịch sử cho tới
nay chưa được định vị thời điểm ra đời một cách chính xác. Lý do
theo cách nghĩ của một số rất nhiều người nằm ở chỗ đó là nền văn
học truyền khẩu do dân gian truyền miệng cho nhau đời này qua đời khác
và không biết ai là tác giả. Vấn đề xác định niên đại từng tác phẩm
hay tiểu phẩm của nó do thế cực kỳ khó khăn. Cho nên, đến nay vẫn
chưa có một kết luận xác định một cách có căn cứ thời điểm ra đời
hay lưu hành của một số tác phẩm ấy, đặc biệt những thời điểm xa
xưa lên tới một vài nghìn năm, để lam cột mốc cho việc viết lại lịch
sử văn học dân tộc.
Vấn đề này, Cựu tạp thí dụ
kinh cùng với Lục độ tập kinh giúp ta giải quyết một phần nào trong số
200 truyện do Nguyễn Đồng Chi thu thập lại trong Kho tàng truyện cổ tích
Việt Nam"_1, hiện có 4 truyện có thể truy một phần hay toàn bộ cốt
truyện về Cựu tạp thí dụ kinh. Đó là các truyện 1, 15, 60 và 142. Truyện
1 "sự tích dưa hấu" thực chất là một thuyết giảng về giáo
lý nhân quả "ở hiền gặp lành" của Phật giáo dân gian. Nó gồm
hai đoạn. Đoạn 1 kể An Tiêm gốc là một nô bộc, đuợc lấy con gái
nuôi của vua Hùng, ăn mặc sung sướng, của cải giàu có. Có người khen,
Tiêm nói đó là "vật tiền thân" của Tiêm. Vua Hùng nổi giận, đày
Tiêm ra đảo. Đoạn 2 kể Tiêm ở đảo, nhờ chim đem hạt giống dưa hấu
đến, trở nên giàu có và được gọi về.
Tóm tắt như thế, rõ ràng cốt
lõi truyện An Tiêm đã xuất hiện trong truyện 7 của Cựu tạp thí dụ
kinh với những cải biên tình tiết. Thứ nhất, cũng hai nhân vật là con
gái (nuôi) vua và chàng rể nghèo khó (bên nợ, bên ăn xin) nhưng truyện An
Tiêm thì cho chàng rể nói, còn Cựu tạp thí dụ kinh thì để con gái Nguyệt
Nữ nói. Thứ hai, vì nói "mọi của cải là vật tiền thân", là
"tự nhiên" và bị đuổi đi, An Tiêm trở nên giàu có nhờ dưa hấu,
còn vợ chồng Nguyệt Nữ thì lại làm vua. Hai cải biên tình tiết vừa
nêu tuy thế vẫn che khuất một cốt truyện chính, mà cả hai cùng chia xẻ.
Do vậy, truyện An Tiêm là một biến dạng của truyện 7 Cựu tạp thí dụ
kinh.
Truyện 15 "Sự tích con Dã
tràng" cũng thế, khi so với truyện 21 cua Cựu tạp thí dụ kinh. Truyện
15 kể Dã Tràng thấy một cặp vợ chồng rắn. Khi vợ thay vỏ, chồng săn
sóc che chở hết mực. Đến lúc chồng thay, vợ lại dẫn tình địch về
giết chồng. Dã Tràng giận, giương cung bắt chết, không may, tên trúng cô
vợ. Chồng thề trả thù, tìm đến ở trên máng nhà Dã Tràng, nhờ thế
mà biết sự tình, bèn trả ơn bằng cách nhả cho Dã Tràng một viên ngọc
mà nếu mang theo mình thì hiểu được tiếng chim muông. Một bữa, quạ bảo
ông có thịt dê trên núi, ông đi lấy một ít, và mách cho xóm giềng. Họ
lấy hết dê, Quạ tức, trả thù, cắm mũi tên có tên ông vào một xác
trôi sông. Ông bị bắt, đang ở ngục, ông nghe chim sẻ bảo nước sắp bị
tấn công, ông báo quan và được tha. Trên đường về, nhờ cứu ngỗng do
bạn bắn chết, ngỗng đền bù ông một viên ngọc đi được vào nước.
Ông đi thăm Long Vương. Sau vợ trộm hai viên ngọc để đi làm hoàng hậu.
Truyện 21 kể con gái Long Vương đi
chơi, bị đám chăn trâu đánh, vua người can thiệp, được tha, lại vu là
vua người đánh. Long vương điều tra, biết rõ sự tình, bèn đền ơn, làm
cho vua người hiểu tiếng chim muông. Vua nghe ruồi đực cái bảo nhau rồi
cười. Bà vợ đòi biết lý do, nếu không nói, bà đòi tự sát. Long Vương
hóa bầy dê dạy vua. Vua bèn bảo bà chết đi, tôi còn những cung nũ khác.
Một lần nữa, rõ ràng cốt truyện 21 đã được vay mượn và hoán vị để
có truyện Dã Tràng với những sắc thái và thêm thắt địa phương.
Truyện 60 cũng vậy. Nó là một mở
rộng của truyện 24 trong Cựu tạp thí dụ kinh. Truyện 24 chỉ kể ba người
đi đường thấy một đống vàng, cùng lấy. Một người được cử đi
mua cơm, muốn chiếm hết vàng, bèn trộn thuốc độc vào. Hai người còn lại
cũng không muốn chia, nên khi mới đem cơm về, liền giết anh ta, rồi ăn
cơm và ngã lăn ra chết. Truyện 60 mở rộng ra, đưa thêm người nghèo khổ
mò cua được vàng. Tên trọc phú chiếm lấy, rồi quan huyện, lái buôn. Cuối
cùng, bốn tên cướp giết lái buôn, lấy vàng và bốn tên đều chết do
giết nhau bằng bỏ thuốc vào rượu và dùng dao đâm. Thế nhưng chưa hết,
truện còn xuất hiện một khách thương lấy hết số vàng vô chủ đó,
đi buôn bằng thuyền. Bị bão, thuyền chìm, mất sạch của cải. Khách thương
lại về tay không.
Truyện 42 "Hai con cò và
rùa" và truyện 39 của Cựu tạp thí dụ kinh về cốt lõi thống nhất
với nhau, tuy về tình tiết có một vài thêm bớt. Thứ nhất, truyện 142
cho Rùa là đầu thai của một người đàn bà lắm miệng, một tình tiết
không có trong truyện 39. Thứ hai, Cò phải thuyết phục Rùa đi khỏi ao,
trong khi truyện 39 kể Rùa gặp khô cạn xin Cò giúp mình đi chỗ khác. Thứ
ba, Cò bay qua quán nước và chợ, người ta bàn tán, Rùa không dẹp được
tật "ngoa mồm" của mình, nên bị rơi xuống đất và bị ăn thịt.
Truyện 39 kể Rùa bay qua kinh thành, bèn hỏi liền rơi và bị bắt làm thịt.
Qua phân tích bốn truyện có đối
bản trong Cựu tạp thí dụ kinh, điểm lý thú là có ba truyện có tương
đương trong văn học bản sinh Pàli, đó là 15, 60 và 142. Do thế, chúng có
khả năng rất lớn là đã đạo xuất từ Cựu tạp thí dụ kinh. Đặc biệt
là truyện 60 và 142, dù mở rộng và cải biên tới đâu, vẫn có cốt truyện
hoàn toàn thống nhất với truyện 24 và 39 của Cựu tạp thí dụ kinh và với
các truyện Vedabhhajàaka và Kacchapajàtaka của văn học bản sinh Pàli. Vì vậy
chúng cùng với các tác phẩm văn học truyện kể xưa nhất hiện biết của
lịch sử văn học dân tộc ta. Thời điểm lưu hành cua chúng từ đó
không thể chậm hơn năm 200 sdl, nếu không là sớm hơn vào thế kỷ thứ
II, thậm chí thứi nhất sdl.
Thế ai viết chúng? Tất nhiên, Khương
Tăng Hội không viết chúng. Ngay cả vị thầy của Hội cũng không tham gia
viết ra, dẫu một số lời bình của ông đã được Hội ghi lại. Kể từ
ngày Pháp Kinh viết Chúng kinh mục lục 6 ĐTK 2146 tờ 144b13 và xếp Cựu tạp
thí dụ kinh vào loại "Tây phương chư thánh hiền sở soạn tập",
các nhà kinh lục về sau như Ngạn Tôn trong Chúng kinh mục lục 2 ĐTK 2147 tờ
161b3-25, Tỉnh Thái trong Chúng kinh mục lục 3 ĐTK 2148 tờ 195c21-196a23, Đạo
Tuyên trong Đại dương nội điển lục 9 ĐTK 2149 tờ 312à0-b11, Trí Thăng
trong Khai Nguyên thích giáo lục 13 ĐTK 2145 tờ 621c12-623a5 v.v.. cũng nhất
thiết xếp nó vaò loại "thánh hiền tập truyền" hay "thánh hiền
truyện ký" hay "thánh hiền soạn tập", nhưng không nói đến
"phương Tây" nữa.
Điều này cũng có nghĩa Cựu tạp
thí dụ kinh phải do một vị "thánh hiền soạn tập". Và vị
"thánh hiền" đây có thể là một tác giả Việt Nam, chứ không ai
xa lạ, bởi vì hai lý do sau: Thứ nhất, Cựu tạp thí dụ kinh đã lưu hành
bằng tiếng Việt; thứ hai, nó có những truyện như truyện 19 chẳng hạn
không đặc biệt mang tính thuyết giảng Phật giáo, mà chỉ có tính ngụ
ngôn chung chung. Do vậy, tuy chưa có những bằng chứng rõ rệt đặc trưng
Việt Nam như Lục độ tập kinh, chúng ta có thể hình dung quá trình hình
thành của Cựu tạp thí dụ kinh tiếng Việt này, trừ bảy truyện cuối
cùng của Chiết La-hán thí dụ sao.
Ban đầu khi Phật giáo mới truyền
vào nước ta, một số truyện có nguồn gốc Phật giáo Ấn Độ xuất phát
từ nền văn học bản sinh Phạn văn hay các phương ngôn như Pàli đã được
dùng để thuyết minh giáo lý trong những buổi giảng. Một thời gian, một
tác giả Việt Nam vô danh nào đó đã tập hợp chúng lại, gồm luôn các
truyện có nguồn gốc địa phương và biên tập thành Cựu tạp thí dụ
kinh tiếng Việt, để sau đó đã trở thành bản đáy cho Khương Tăng Hội
dịch ra tiếng Trung Quốc. Một khi đã thế, người viết các truyện trên
không thể ai khác hơn là vị "thánh hiền" Việt Nam sống khoảng
giữa thế kỷ thứ nhất và thứ hai sau Dương Lịch, mà ta hiện chưa truy
tìm được tên tuổi.
Dân tộc ta thường tự hào có bốn
nghìn năm văn hiến. Mà đã nói đến văn hiến là nói đến văn học hiến
chương điểm huấn. Thế thì, văn học hiến chương điển huấn trong bốn
ngàn năm đó là gì, bao gồm những chủng loại học thuyết gì? Đây là những
câu hỏi không phải dễ trả lời. Tuy nhiên, với việc tiến hành nghiên cứu
Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh cùng một số tác phẩm khác như
bài Việt ca, Tạp thí dụ kinh và Lý hoặc luận, chúng ta đang từng bước
tìm lời giải đáp cho những câu hỏi vừa nêu. Diện mạo văn hiến dân tộc
ta cách đây hai nghìn năm đang dần dần được phát vẽ lại. Việc xác định
thời điểm lưu hành và xuất hiện bốn truyện "cổ tích" trên như
vậy không chỉ quan trọng đối với lịch sử văn học dân tộc ta, mà
còn đối với lịch sử văn hiến Việt Nam. Những đóng góp cuả Cựu tạp
thí dụ kinh do đó là vô giá và đáng trân trọng.
Tạp thí dụ kinh [^]
Tên gọi Tạp thí dụ kinh 2 quyển,
xuất hiện lần đầu trong Xuất tạm tạng ký tập 4 ĐTK 2145 tờ 22a5 và
được xếp vào loại "thất dịch tạp kinh". Chúng kinh mục lục 6
của Pháp Kinh. ĐTK 2146 tờ 144b7 ghi tên "Tạp thí kinh 2 quyển, một
tên là Bồ Tát độ nhân kinh". Chúng kinh mục lục 2 cuả Ngạn Tôn,
ĐTK 2147 tờ 161b19 cũng ghi thế và xếp vào loại "trùng phiên".
Chúng kinh mục lục 2 của Tỉnh Thái, ĐTK 2148 tờ 196a241 tờ 144b7 ghi tên
"Tạp thí kinh 2 quyển, một tên là Bồ Tát độ nhân kinh". Chúng
kinh mục lục 2 của Ngạn Tôn ĐTK 2147 tờ 161b19 cũng ghi thế và xếp vào
loại "trùng phiên". Chúng kinh mục lục 2 của Tỉnh Thái, ĐTK 2148
tờ 196a 241, thay vì tên Tạp thí dụ, lại ghi Tạp thí dụ kinh 2 quyển, một
tên Bồ Tát độ nhân kinh, 26 tờ, và cũng xếp vào loại "trùng
phiên". Đạo Tuyên viết: "Nội điền lục" 7 ĐTK 2149 tờ 30c23
và 9 tờ 325b21 ghi Tạp thí dụ 2 quyển 26 tờ, một tên Bồ Tát độ nhân
kinh và xếp vào loại "Tiểu thừa tạng kinh" và "cử yếu chuyển
độc". Tỉnh Mại viết Cổ kim dịch kinh đồ ký 1 ĐTK 2151 tờ 250n27
ghi Tạp thí dụ kinh 2 quyển vào loại "thất dịch nhân danh" của
đời Hán. Đây là lần đầu tiên Tạp thí dụ kinh được xếp vào loại
"thất dịch đời Hán". Đến Minh Thuyên soạn Đại châu san định
chúng kinh mục lục 11 ĐTK 2153 tờ 438b20 và 442a17 cũng xếp nó vào loại
"thất dịch" thuộc đời Hán. Tạp thí dụ kinh 1 bộ 2 quyển, một
tên là Bồ tát độ nhân kinh 26 tờ. Trí thăng viết Khai nguyên thích giáo
lục 13 ĐTK 2154 tờ 623a10 chép: "Tạp thí dụ kinh 2 quyển, một tên Bồ
tát độ nhân kinh, thất dịch, tại Hậu Hán lạc..." Trịnh nguyên tân
định Thích giáo mục lục 2 ĐTK 2157 tờ 781a6 của Viên Chiếu cũng xếp vào
loại "thất dịch" đời Hán.
Qua các bản kinh lục, Tạp thí dụ
kinh như thế được xác định là một bản "thất dịch nhân danh"
từ lâu và đến Tỉnh Mại thì được xếp hẳn vào loại "thất dịch"
của đời Hán. Minh Thuyên, Trí Thăng và Viên Chiếu đồng ý với lối xếp
loại và niên đại đó. Về tên gọi, ngoài tên Tạp thí dụ kinh, từ
Pháp Kinh trở đi, nó còn có tên là Bồ-tát độ nhân kinh. Tên này gọi
rõ ràng là lấy bốn chữ đầu của bản kinh mà đặt. Điều đó chứng tỏ
có lúc ngưòi ta đã không biết tên chính thức của bản kinh là gì. Cho
nên, họ lấy bốn chữ bắt đầu bản kinh để đặt tên cho nó. Và cũng
nhờ tên gọi bốn chữ này, ngày nay ta có thể chắc chắn là truyền bản
Tạp thí dụ kinh 2 quyển, mà Pháp kinh chỉ có chép là Tạp thí kinh và Ngạn
Tôn cũng như Tỉnh Thái cũng đều làm như thế, thực sự là chi bản Tạp
thí dụ kinh của Tinh Mại, Minh Thuyên, Trí Thăng, Viên Chiếu và bản in Tạp
thí dụ kinh hiện nay.
Phân tích nội dung: truyền bản hiện
nay gồm hai quyển thượng và hạ, có cả thảy 32 truyện. Quyển thượng có
14 quyển từ 1 đến 14. Quyển hạ gồm 18 truyện còn lại từ 15 đến 32.
Gọi là "truyện" nhưng thực chất có những "truyện"
không phải là "truyện". Cụ thể là các truyện đánh số 1, 2 và
32. Đó là các lối nói ví von, "thí dụ", mà Lý hoặc luậ có dịp
đề cập và phê phán tới (điều 18). Còn lại như vậy là 29 truyện.
Trong 29 truyện này, 11 truyện là những ngụ ngôn, nói lên một khía cạnh
của giáo lý, gồm các truyện 4, 8, 16, 23, 24, 25 và 27 đến 31. Thí dụ,
truyện 4 nói đến lý thuyết 4 "đại" là bốn con rắn độc cắn
chết người. Hay truyện 23 ghi nhận một sự thực là con người ai cũng phải
chết qua việc người mẹ không đi xin lửa được từ một nhà "không
có ai chết", xác nhận cho tuyên bố của Mâu Tử trong Lý hoặc Luận
là "không có cái đạo bất tử" (điều 34). Nói tóm lại chúng chủ
yếu là những truyện ngụ ngôn, minh họa cho một luận đề giáo lý.
Còn lại 18 truyện. Nét nổi bật của
các truyện này là việc nhấn mạnh đến "oai thần" của đức Phật,
"thần thông" của các nhà sư. Đây phải nói là một khía cạnh đặc
trưng của nền Phật giáo quyền năng truyền vào nước ta ở những thế kỷ
đầu. Tuy cũng quan tâm một cách nồng nhiệt đến những vấn đề thiết
thân của đời sống như vấn đề đất nước, chính quyền, phẩm chất
đạo đức của từng con người v.v... như đã thấy trong Lục độ tập
kinh, nền Phật giáo ấy không quên trình bày mặt "siêu phàm" của
đời sống Phật giáo với một đức Phật có "oai thần" và các
phương pháp để đạt tới một số phẩm chất "siêu phàm" đó.
Tình trạng này phản ảnh quan niệm Phật thể của Mâu Tử trong điều 2 của
Lý hoặc Luận, theo đó "Phật là nguyên tố cuả đạo đức, là đầu
môi cuả thần minh, nhanh chóng biến hóa, phân thân tán thể, hoặc còn hoặc
mất, hay lớn hay nhỏ, hay tròn hay vuông, hay già hay trẻ, hay ản hay hiện,
đạp lửa không bỏng, đi dạo không đứt, muốn đi thì bay, ngồi thì
phóng quay".
Và phương pháp để đạt đến những
phẩm chất ấy không phải không được đề ra. Lục độ tập kinh 7 ĐTK
152 tờ 39b16-23 viết: "Bồ tát tâm tịnh, đạt được tứ thiềnkia thì
tự do theo ý, cất nhẹ bay bổng, đạp nước mà đi, phân thân tán thể,
biến hóa muôn cánh, ra vào liên tục nơi không hở, còn mất tự do rờ trời
trăng, rung đất trời nghe thông thấy suốt, không gì là không thấy nghe...
Đó là phương pháp "sáu mầu nhiệm" mà Khương Tăng Hội giới thiệu
tront An Ban thủ ý kinh tự do Tăng Hựu chép lại trong Xuất tam tạng ký tập
6 ĐTK 2145 tờ 43a1-c3, bao gồm sổ tay, tuỳ, chỉ, quán, hoàn và tịnh. Những
phẩm chất "siêu phàm" đó do thế không chỉ là phẩm chất giả
định biểu lộ một ước mơ. Ngược lại, chúng là những phẩm chất có
thực, có thể đạt được thông qua một quá trình luyện tập sáu phương
pháp "mầu nhiệm" (lục diệu pháp môn) vừa nói, chứ không phải
bằng việc tắm "nước sông Hằng" để được thần thông, như
truyện 14 đã ghi. Chúng là những phẩm chất phụ của một người giác ngộ,
có tác dụng giác ngộ người khác như truyện 11, 12 và 13 mô tả. Nhưng những
người chưa giác ngộ vẫn có thể sở hữu chúng và đem phục vụ những
mục đích phàm tục, thậm chí tội ác, như truyện 13 và 15 chứng tỏ.
Chúng có những hạn chế của chúng với một xác nhận là "sức mạnh
của thần thông không bằng sức mạnh của trí tuệ" như truyện 10 đã
long trọng tuyên bố.
Điểm lôi cuốn là xác nhận ấy
chính do một người nổi tiếng là thần thông số một của Phật giáo
nói ra, đó là Mục Kiền Liên. Điều này phản ảnh một thực tế là Phật
giáo tuy có nói đến thần thông, nhưng bản chất vẫn là đạo trí tuệ,
coi trí tuệ vừa là phương tiện vừa là mục tiêu cuả giác ngộ, là
"thành tát vân nhãA", đầy đủ mọi thứ, "không gì là không
có" như truyện 18 đã nói. Tát vân nhã là phiên âm của tiếng Phạn
Sarfajna và thường dịch là "nhất thiết trí", trí hiểu biết hết
thảy. Nó thường dùng để tôn xưng đức Phật. Do thế, vai trò trí tuệ
vẫn được chú trọng và đề cao.
Vậy, nền Phật giáo những thế kỷ
đầu tại nước ta dù có một Phật thể quan mang tính quyền năng vẫn không
để vuột mất sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Phật giáo, đó là trí
tuệ và việc nhấn mạnh đến vai trò của trí tuệ. Cho nên, bên cạnh
công trình tôn thờ "tứ pháp" cuả Lĩnh Nam Trích Quái, ta vẫn có
những tác phẩm mang đầy tính trí tuệ như Lý hoặc Luận của Mâu Tử,
trình bày hết sức khúc chiết, minh bạch quan điểm của người Phật giáo
Việt Nam trước những vấn nạn đưa tới cho họ. Bên cạnh việc nói đến
thần thông, người ta vẫn nhấn mạnh đến sự nghiệp, "vâng lời
thánh giáo, giữ thân miệng ý" (truyện 18), đến công tác chọn bạn
mà chơi (truyện 2), đến việc gầy dựng công đức (truyện 6), tuân giữ
"năm giới", mười lành, bốn đẳng, sáu độ (truyện 8, 16) v.v...
Đặc biệt viêc xác nhận "được năm thần thông không phải là đạo
kiên cố, không thể cậy nhờ" (truyện 15).
Ngoài ra, một nét nổi bật khác của
Tạp thí dụ kinh này là sự kiện nhấn mạnh đến việc cúng dường và
những lợi ích của nó. Trong 12 truyện đề cập đến khía cạnh này, ba
truyện nói tới việc cúng dường Đức Phật (truyện 10, 17 và 28), hai nói
tới việc cúng dường tháp tượng. Bảy truyện còn lại đề cập tới việc
cúng dường cho các đệ tử Phật, các "đạo nhân". Có hai điểm
thú vị của việc đề cập này. Thứ nhất, nó đặt vấn đề "vô
ích" của các "Sa môn đạo nhân", đó là họ "không làm ruộng,
không đi lính, không làm bề tôi cho vua" (truyện 7) Vấn đề này phải
đợi đến hơn 500 năm sau Hàn Dũ mới nên lên ở Trung Quốc. Ngay vào những
thế kỷ đầu cuả Phật giáo nước ta, nó đã được bàn tới một cách
công khai với một biện pháp giải quyết khá triệt để, ấy là nạp xác
cho "quỉ ăn thịt". Cuối cùng, bằng thần thông một "Sa di mới
13 tuổi" đã bắt hết quỉ, cạo đầu, giảng đạo cho chúng và chúng
đã chứng quả. Tất nhiên, đó là một lối giải quyết theo truyện kể.
Thực tế có thể phức tạp hơn nhiều. Cho nên, đối diện với vấn đề
này, Mâu Tử một mặt thừa nhận "Sa môn giữ 250 giới, ngày ngày ăn
chay, (...) suốt ngày thâu đêm giảng đạo, tụng kinh, không dự tiệc đời"
(điều 1) và "Sa môn mặc áo đỏ, ngày ăn một bữa, đóng cửa sáu
tình, tự dứt với đời" (điều 19). Nhưng mặc khác ông cũng ghi nhận
tình trạng "Sa môn mê thích rượu ngon, hoặc nuôi vợ con, mua rẻ bán
đắt, chuyên làm dối trá. (điều 16).
Điều này cho thấy, đứng trước
hai yếu cầu đôi khi mâu thuẫn nhau của đời sống Phật giáo, đó là
yêu cầu tỉnh tu truyền giáo và yêu cầu tham gia lao động sản xuất người
Phật Tử Việt Nam đã sớm nhận ra vấn đề và cách thức giải quyết
mà sau này Đạo Cao đã nói rõ trong lá thư gởi Lý Miễu của ông:
"Có người ngồi thiền trong rừng rú, có kẻ tu phước bên cạnh
thành phố, ca tán tụng vịnh đều là làm việc đạo cả". Yêu cầu
nào cũng đều thể hiện đời sống đạo, nên phải được đáp ứng một
cách thỏa đáng và chứng tỏ đời sống đạo là hữu ích. Điểm thứ
hai là khi nói đến cúng dường, Tạp thí dụ kinh đã có một quan tâm đặc
biệt đến những người nghèo, đến những người với những phương tiện
hạn chế, như ba tiều phu của truyện 31, thậm chí không có một phương
tiện gì như lão mẫu của truyện 3. Đây là một mối quan tâm đặc biệt,
bởi vì theo truyện 21, nó là bản nguyện cả vị đệ tử số một của
đức Phật, là Ma Ha Ca Diếp. Ca Diếp chỉ muốn "độ người bần cùng,
một mình không chịu nhận" sự cúng dường của nhà giàu. Phải nói
đó là một nét đặc trưng khá lôi cuốn cuả bản kinh này. Nó nói lên một
thực trạng là vaò những ngày tháng đầu tiên lúc mới truyền tới nước
ta, Phật giáo đã chọn đừng về phía những người nghèo (truyện 3, 21,
28, 30 và 31), bất hạnh đang khổ đau (truyện 20, 23), không hướng tới những
kẻ giàu keo kiệt bủn xỉn (truyện 17), những kẻ ỷ quyền vào sức mạnh
(truyện 13), bạo lực (truyện 8).
Nó xác định cho Phật giáo một chỗ
đứng giữa lòng dân tộc Việt Nam, đặc biệt sau sự biến năm 43 sdl, khi
nhà nước Hùng Vương bị quân đội Mã Viện đánh sụp, kéo theo một loạt
đổ vỡ dây chuyền trong đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa, mà phải
mất hàng chục năm mới có thể ổn định lại được. Trong cơn lốc chính
trị, kinh tế, văn hóa đó, việc chọn đứng về phía những người nghèo,
người bất hạnh, khổ đau bất định đem lại cho Phật giáo một vị thế
có được những tiếng nói có quyền uy giữa đại đa số quần chúng. Đây
cũng là lý do tại sao Phật giáo trở thành nơi gởi gắm những đạo lý
tinh hoa cuả dân tộc, những truyền thống ngàn đời cuả người Việt,
như ta đã thấy trong Lục độ tập kinh.
Ngoài hai nét đặc trưng vừa nói,
Tạp thí dụ kinh với chức năng là một bản kinh, tất phải chuyển đạt
một hệ thống giáo lý. Tuy đơn giản, hệ thống này tương đối hoàn chỉnh
với các giáo lý: "Bốn sự thật, khổ, không, phi thân" (truyện 4)
"năm giới, mười lành, bốn đẳng, sáu độ" (truyện 8), "bốn
đẳng, sáu độ, 37 phẩm trợ đạo" (truyện 18) "ngu không biết
gì là gốc của 12 nhân duyên" (truyện 22), "năm ấm không có
gì" (truyện 27), "năm ấm, bốn đại, khổ, không" (truyện 29).
Và đặc biệt nó nhắc tới Duy Ma Cật và giáo lý bốn ơ (truyện 27 và
2).
Như vậy, ngay từ những thế kỷ
đầu của Phật giáo ở nước ta, không chỉ những giaó lý cơ bản chung
cho các hệ phái như bốn sự thật, mười hai nhân duyên, khổ, không, vô
ngã, bốn đẳng, sáu độ, 37 phẩm trợ đạo, năm giới, 10 lành được
thuyết giảng, mà một số tư tưởng đặc biệt đại thừa đã truyền
vào và phổ biến rộng rãi. Cụ thể là việc nhắc đến Duy Ma Cật và lời
phát biểu cuả ông: "Thân như đám bọt" (truyện 27)
Nhân vật Duy Ma Cật là một nhân vật
đặc biệt đại thừa và tư tưởng ông cũng là một hệ tư tưởng đặc
biệt đại thừa. Nó tiêu biểu cho khuynh hướng thế tục hóa Phật giáo,
xác định một lối sống Phật giáo lấy thế tục làm mục đích và chỉ
hiện diện ở thế tục. Đó vừa là bản chất vừa là diệu dụng của
giác ngộ, là cốt lõi cuả tư tưởng "Phật giáo bất lý thế gian
giáo" của Huệ Năng và của chủ trương "Cư trần lạc đạo"
của Trần Nhân Tôn. Việc xuất hiện khá sớm kinh Duy Ma Cật được dịch
qua tiếng Trung Quốc nếu không phải do Nghiêm Phù Điều vào năm 188 như Cổ
Kim dịch kinh đồ kỷ 1 ĐTK 2141 tờ 350a29-b1 và Nội điển lục 1 ĐTK 2149
tờ 224c5 đã ghi, thì cũng không thể chậm hơn trước năm 250, khi Chi Khiêm
dịch nó, như Chi Mẫn Độ nói trong Hợp Duy Ma kinh tự của Xuất tam tạng
ký tự tập 8 ĐTK 2148 tờ 58b25 đã xác nhận.
Việc xuất hiện khá sớm này là
lôi cuốn, vì nó giải thích không ít cho ta quan điểm "đạo" của
Mâu Tử trong điều 4 của Lý hoặc Luận là "ở nhà có thể dùng để
thờ cha mẹ, giúp nước có thể dùng để trị dân, sống riêng có thể
dùng để tu thân". Nó cũng lý giải cho ta tại sao lại tồn tại hai
hình ảnh trái ngược về "Sa môn", về những người lấy Phật giáo
làm lẽ sống duy nhất của đời mình, của Phật giáo nước ta thời Mâu
Tử. Một bên là các Sa-môn "mê thích rượu ngon, hoặc nuôi vợ con,
mua rẻ bán đắt, chuyên làm dối trá" (điều 16), và bên kia cũng là
"các Sa-môn mặc áo đỏ, ngày ăn một bữa, đóng cửa sáu tình, tự dứt
với đời" (điều 19). Như vậy bên cạnh những Phật tử tự dứt với
đời để đi tìm giác ngộ, vẫn có những Phật tử đi tìm giác ngộ giữa
cuộc đời và trong cuộc đời muôn mặt cuả nó.
Dù lối sống của những Phật tử
dạng sau bị người thời đại của Mâu Tử cho là "đại ngụy",
trái với lý tưởng "vô vi" của đạo Phật thời ấy, sự thật vẫn
cho thấy có một khuynh hướng sống đạo theo điều 16 mô tả. Phải chăng
họ là những Duy Ma Cật bằng xương bằng thịt hoạt động giữa lòng cuộc
đời Việt Nam thời Mâu Tử? Đây là một điều có thể, vì hiện nay ta
chưa có đầy đủ dữ kiện để phủ định hay hoàn toàn khẳng định.
Điều thú vị là người Phật giáo thời ấy vẫn có một quan tâm đặc
biệt về cuộc đời, về đất nước, như chính Lục độ tập kinh đã chứng
tỏ, nếu họ không vươn lên để trở thành Duy Ma Cật Việt Nam. Đây là
một điểm cần lưu ý khi tìm hiểu Phật giáo nước ta những thế kỷ đầu.
Và chính họ đã tạo nên mô hình sống đạo cho những người Phật giáo
về sau như Lý, Miễu, Vạn Hạnh, Trần Nhân Tôn, Lương Thế Vinh, Ngô Thì
Nhiệm v.v...
Kinh Tạp thí dụ như thế tỏ ra khá
lôi cuốn cho việc nghiên cứu không chỉ lịch sử Phật giáo nước ta, mà
còn ngôn ngữ, tư tưởng, và văn học Việt Nam.
Vấn đề niên đại, ngôn ngữ trong Tạp Thí Dụ Kinh [^]
Vậy, từ thời Tỉnh Mại trở đi,
Tạp thí dụ kinh được xếp vào loại "thất dịch" của đời Hán.
"Thất dịch" nói cho đủ "thất dịch nhân danh", nghĩa là
"mất tên người dịch" Như thế, đối với Tỉnh Mại, Tạp thí dụ
kinh phải được dịch từ những năm 220 trở về trước. Tất nhiên, khi xếp
loại kiểu ấy, Tỉnh Mại, Minh Thuyên, Trí Thăng và những người về sau
đã thực hiện công tác, mà Tăng Hựu của Xuất tam tạng ký tập 4 tờ
21b22 đã gọi là "thù giảo hiệu", tức là so sánh các bản văn với
nhau, đánh giá khả năng xuất hiện của chúng vào thời điểm nào. Bản
thân Tăng Hựu chắc chắn đã làm công tác ấy, nhưng hẳn vì thiếu dữ
kiện nên chưa đi đến một kết luận về thời điểm xuất hiện cuả Tạp
thí dụ kinh. Ông viết: "Rồi đạo lớn truyện vào, qua sáu đời Triều,
soạn ghi các sách, chỉ thấy An Công" . An Côn đây là Đạo An và bản
Tổng lý chúng kinh mục lục của ông.
Thế nhưng, đến Phí Trường Phòng
soạn Lịch đại tam bảo ký và Đạo Tuyên viết Đại Đường nội điển
lục 10 ĐTK 2149 tờ 336b11 họ kể một loạt tên "24 nhà, xét truyện
ghi thì có mà chưa thấy văn bản, nên chỉ kẻ mà thôi", như Cổ kinh
lục có vẻ của Thích Lôi Phòng thời Tấn, Cựu lục có vẻ của Lưu Hướng
thời Hán, Hán thời Phật kinh mục lục có vẻ do Ca Diếp Ma Đằng soạn,
Hán lục của Chu Sĩ Hành, Chúng kinh lục của Trúc Pháp Hộ v.v... Những liệt
kê này, chắc chắn họ đã tiếp thu thành quả từ các kinh lục của Bảo
Xướng, Lý Quách, Pháp Thượng, ngoài Tăng Hựu và Chúng kinh biệt học của
một tác giả vô danh đời Lưu Tống. Như thế, đến thời họ, đặc biệt
sau khi Dương Kiên đã thống nhất Trung Quốc và lập nên nhà Tùy, một loạt
các kinh lục đã xuất hiện.
Do vậy, việc xếp Tạp thí dụ
kinh như một dịch phẩm đời Hán chắc chắn đã có một lịch sử lâu
dài, chứ không phải chỉ đến thời Tỉnh Mại trở đi. Có khả năng Tỉnh
Mại đã tiếp thu ý kiến cuả một số kinh lục trước. Dù tiếp thu hay tự
nghiên cứu lấy kết luận về thời điểm đời Hán của Tạp thí dụ
kinh, Tỉnh Mại đã không để lại lý do cho một xếp loại như thế. Tuy
nhiên, ta ngày nay có thể đoán ra là ông phải dựa vào việc phân tích
ngôn ngữ và tư tưởng của bản kinh để có kết luận trên. Cụ thể là
việc sử dụng một số từ đặc thù dùng cho một thời kỳ nhất định
trong lịch sử dịch thuật Trung Quốc. Thí dụ những cụm từ "phát
vô thượng chánh chân đạo ý" (truyện 9, 10, 11, 13), "ngũ ấm, lục
suy, khổ, không, phi thân" (truyện 4), "vô thân chi quyết" (truyện
8), "tát vân nhã" (truyện 18) v.v... những quan điểm "đời sau
thọ phước thiên đường" (truyện 16), "năm giới mười lành
không phá mất, được cùng ở với Phật" (truyện 16) v.v... Thông qua
những vết tích như thế, bất cứ một người nghiên cứu nào, chứ không
nhất thiết là Tỉnh Mai, cũng có thể kết luận Tạp thí dụ kinh là một
bản kinh thuộc về thời kỳ cổ dịch, tức thời kỳ Hán Ngụy.
Vấn đề niên đại của Tạp thí
dụ kinh tự thân nó do thế không lôi cuốn chúng ta cho lắm. Điểm lôi cuốn
nằm ở chỗ với một niên đại thuộc đời Hán như thế, nó cung cấp
cho chúng ta những tín hiệu gì về bản thân nó? Về mặt ngôn ngữ, nó hiện
chứa đựng một số cấu trúc ngữ học không được viết theo ngữ pháp
Trung Quốc. Trái lại, chúng được viết theo ngữ pháp tiếng Việt. Nổi bật
và điển hình nhất là cấu trúc "tượng Phật" cuả truyện 31
trong Tạp tí dụ kinh quyển hạ tờ 510a5. Cấu trúc này, các bản khắc đời
Tống (1239), Nguyên (1290) và Minh (1601) có điều chỉnh lại thành "Phật
tượng" theo đúng ngữ pháp tiếng Trung Quốc. Nhưng các bản khắc Cao
Ly (1151 và sau đó) trước các bản khắc Trung Quốc hiện còn vẫn giữ
nguyên cấu trúc cũ.
Cấu trúc cũ đó phải chăng là do
một sự khắc chép sai lầm cần điều chỉnh, như các bản in Tống, Nguyễn
Minh đã làm? Bình thường người ta sẽ nghĩ như thế, bởi vì Tạp thí dụ
kinh là một bản văn tiếng Trung Quốc. Cho nên, nếu có những cấu trúc viết
không đúng theo ngữ pháp tiếng Trung Quốc chúng phải được xem như những
sai lầm lệch lạc cần điều chỉnh lại cho đúng. Tuy nhiên, do hiện tượng
Lục độ tập kinh, có quá nhiều cấu trúc viết theo ngữ pháp tiếng Việt,
ta không thể đơn giản coi những cấu trúc kiểu "tượng Phật"
ở trên, tuy đơn độc, là những khắc chép sai của những người làm
công tác khắc chép trong quá trình lưu truyền bản kinh. Ngược lại, phải
đánh giá chúng như những chứng tích còn sót lại báo cho chúng ta biết việc
từng tồn tại một thời một văn bản viết theo ngữ pháp của những cấu
trúc đó.
Đúng là cấu trúc "tượng Phật"
là cấu trúc duy nhất rõ ràng viết theo ngữ pháp tiếng Việt không thể
nào chối cãi được, trong toàn bộ bản văn Tạp thí dụ kinh. Nó có vẻ
đơn độc và dễ đưa ta đến nhận định nó là một lệch lạc, một khắc
chép sai trong quá trình lưu truyền. Thực tế, nếu không có bản khắc Cao
Ly, mà chỉ có các bản khắc Tống, Nguyên, Minh, thì ngày nay chắc chắn
không thể có cấu trúc "tượng Phật" để ta bàn cãi, chứ khoan
nói chi tới chuyện xác định xem Tạp thí dụ kinh xuất phát từ đâu? Tuy
vậy, như đã nói, việc tồn tại một loạt các cấu trúc tiếng Việt
trong Lục độ tập kinh buộc ta phải xem xét các cấu trúc có vẻ lệch lạc,
đơn độc trên với một nhãn quan mới đầy trân trọng, nghiêm túc. Phải
thừa nhận sự xuất hiện của chúng là có tính hệ thống và phản ảnh
một hiện thực. Thế cấu trúc "tượng Phật", báo cho ta điều gì?
Thứ nhất, nó là một cấu trúc
thuần túy theo ngữ pháp tiếng Việt, phản ảnh một phần nào hiện thực
tiếng nói dân tộc ta cách đây trên 1800 năm vào thế kỷ thứ II sdl. Thứ
hai, nó giúp ta giả thiết, như trường hợp Lục độ tập kinh, tồn tại
một nguyên bản tiếng Việt của Tạp thí dụ kinh làm bản đáy cho việc
dịch lại bản Tạp thí dụ kinh tiếng Trung Quốc hiện còn. Thứ ba, người
dịch có thể là một dịch giả Việt Nam. Cho nên, ngoài cấu trúc "tượng
Phật" đây, ta thấy còn có một số cấu trúc khác mang dáng dấp ngữ
pháp tiếng Việt. Cụ thể là câu "hành đạo trì trì" (tờ 508a17
truyện 22) và "sử ngã hậu thế nhiêu tài bảo" (truyện 31 tờ
510a9).
Rõ ràng câu "hành đạo trì
trì" với nghĩa tiếng Việt "đi đường chầm chậm", phản ảnh
câú trúc ngữ pháp tiếng Việt nhiều hơn Trung Quốc. Câu sau cũng thế.
"Sử ngã hậu thế nhiêu tài bảo" nghĩa là "khiến ta đời sau
nhiều của báu". Đặc biệt việc dùng lượng từ "nhiều", mà
ngày nay đã trở thành một lượng từ tiêu chuẩn của tiếng Việt hiện
đại. Lượng từ này không thấy xuất hiện trong các dịch phẩm của An Tường
v.v... nhưng lại có mặt trong các dịch phẩm cuả Chi Khiêm. Cụ thể là Soạn
tập bách duyên kinh, và trong Lý hoặc Luận điều 17 (Hoằng Minh tập 1 ĐTK
2102 tờ 4b5) của Mâu Từ. Điều này chứng tỏ khả năng từ "nhiêu"
từ nguyên thủy là một lượng từ của tiếng Việt được sử dụng rộng
rãi trong các vùng đất tổ tiên của người Việt bao gồm cả miền nam của
Trung Quốc từ sông Dương Tử cho đến nước ta.
Chính sự sử dụng rộng rãi này mới
tạo cơ hội cho việc xuất hiện khá thường xuyên của lượng từ ấy
trong các tác và dịch phẩm thực hiện tại miền nam Trung Quốc và nước
ta vào giai đoạn đó. Điều thú vị là trong các tác phẩm và dịch phẩm
cuả Khương Tăng Hội, lượng từ đó không thấy có mặt. Đây có thể do
yêu cầu văn bản cũng như văn phong của Khương Tăng Hội. Nhưng cũng có
thể từ khoảng 250 sdl trở về sau, quá trình Hán hóa xảy ra mạnh mẽ ở
miền nam Trung Quốc, nên đưa đến việc loại bỏ một số ngữ của ngoại
lai xâm nhập vào Hán ngữ. Dù với trường hợp nào đi nữa, việc vắng mặt
lượng từ "nhiều" trong các tác dịch phẩm của Khương Tăng Hội
là một sự thật cần quan tâm xử lý một cách dứt điểm nhằm đóng
góp cho việc tìm hiểu xử lý một cách dứt điểm nhằm đóng góp cho việc
tìm hiểu quá trình tiến hóa của tiếng nói dân tộc ta mà giới hạn ở
đây không cho phép làm ngay bây giờ.
Tất nhiên, với một bản kinh lưu
hành trên quê người, mà còn bảo tồn cho ta một số cấu trúc mang tính
ngữ pháp tiếng Việt như thế, thì đó là những đóng góp to lớn và quý
giá. Tuy ít ỏi, chúng vẫn mang tính hệ thống, vì chúng xuất hiện trên một
bối cảnh, trong đó những tác dịch phẩm khác cũng có những cấu trúc tương
tự và được biết chắc chắn xuất phát, từ đất nước ta như Lục độ
tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh, Lý hoặc Luận v.v... Chính nhìn trên bối
cảnh các tác dịch phẩm vừa nêu, mà những chứng tích như cấu trúc
"tượng Phật" trên mới không tỏ ra rời rạc, lạc lõng giữa một
biển toàn các cấu trúc tiếng Trung Quốc. Không những thế, không những
không bị nhận chìm, mà qua gần 1000 năm tồn tại luôn luôn có nguy cơ, chúng
còn bộc lộ một sức sống riêng, một nét đặc trưng đôi khi có vẻ huyền
bí.
Chúng tôi nói "huyền bí",
vì những cấu trúc có tính ngoại lai ấy, tại sao các độc giả và nhà
sao chép Trung Quốc không điều chỉnh lại? Tại sao chúng có thể tồn tại
trong một biển cấu trúc Trung Quốc? Dĩ nhiên quá trình điều chỉnh không
phải đã không xảy ra. Và đây là một nguy cơ, mà các cấu trúc ngoại
lai ấy phải thường xuyên đối phó. Ta đã thấy trường hợp "tượng
Phật", ở trên. Nếu không có bản khắc Cao Ly, nguy cơ điều chỉnh đã
trở thành hiện thực, và cấu trúc "tượng Phật" theo ngữ pháp
tiếng Việt vĩnh viễn bị nhận chìm trong biển các cấu trúc Trung Quốc
"Phật tượng". Sự tồn tại các cấu trúc như "tượng Phật"
do thế đôi khi có vẻ như một "mầu nhiệm", một "huyền bí".
Dẫu sao đi nữa, dẫu có huyền bí hay không, thì sự thật vẫn là việc tồn
tại các cấu trúc như "tượng Phật", và sự kiện ấy chứng tỏ
Tạp thí dụ kinh đã từng một thời lưu hành ở nước ta và lưu hành
vào một giai đoạn khá sớm trong lịch sử Phật giáo dân tộc ta, khoảng
vào thế kỷ thứ II sdl. (trang 133)
| Mục lục | I | II | III | IV | IVb | V | VI | VII | VIII | VIIIb | IX | IXb | X | XI | XII |