- Lịch sử Phật giáo Việt
Nam
- Từ khởi nguyên đến thời
Lý Nam Đế
- Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
- Chương V
Cuộc đời và sự nghiệp của
Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của
Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và
một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của
Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt.
Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh
hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn
sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu
sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng
góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung
Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về
các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm
trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
Việc thêm chi tiết về Tô Tuấn
và Tôn Xước chứng tỏ Huệ Hạo đã tham khảo nhiều sử liệu khác mà Tăng
Hựu có thể đã bỏ qua. Trong bài tự cho Cao Tăng truyện cũng như trong hai
lá thư trao đổi giữa Vương Mạn Dĩnh và Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện
14 ĐTK 2059 tờ 418b5 - 423a10, Huệ Hạo đã xác định mình đã tham khảo
"hơn mấy chục nhà tạp lục" (sứu kiểm tạp lục sổ thập dư
gia) cùng "sử sách các triều Tấn, Tống, Tề, Lương, Ngụy sử các
nhà Tần, Triệu, Yên, Lương, tạp thiên, địa lý, văn lẻ, đoạn
ghi", và hỏi thêm các bậc cổ lão tiên đạt. Cụ thể là tác phẩm của
các tác gia Pháp Tế, Pháp An, Tăng Bảo, Pháp Tấn, Tăng Du, Huyền Sướng,
Tăng Hựu, Lưu Nghĩa Khánh, Vương Diệm, Lưu Tuấn, Vương Diên Tú, Chu Quân
Đài, Đào Uyên Minh, Vương Cân, Tiêu Cánh Lăng vương, Huy Cảnh Hưng,
Trương Hiếu Tú, Lục Minh Hà, Khương Hoằng, Đàm Tôn, Dữu Trọng Ung
v.v... mà Huệ Hạo có dịp nêu rõ tên tuổi cũng như tác phẩm.
Ngoài hai bản tiểu sử vừa nêu,
các kinh lục về sau, cụ thể là Chúng kinh mục lục của Pháp Kinh, Lịch
đại tam bảo ký của Phí Trường Phòng, Đại Đường nội điển lục của
Đạo Tuyên, Khai Nguyên Thích giáo lục của Trí Thăng, cũng ít nhiều có
ghi chép về Khương Tăng Hội, song chủ yếu là tóm tắt các tư liệu do
hai bản tiểu sử vừa nói cung cấp, do thế cũng không góp thêm điều gì
mới vào việc nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội.
Cho nên, chúng chỉ được sử dụng những tài liệu tham khảo thêm khi cần
thiết. Do thế, để tiến hành nghiên cứu, chúng tôi lấ hai bản kể trên
làm căn bản. Và vì bản của Huệ Hạo tự thân là một bản sao của bản
Tăng Hựu, có tham khảo thêm tư liệu của Tôn Xước, nên chúng tôi cho dịch
lại đây bản của Huệ Hạo. Đoạn nào cho in thụt vào là đoạn tăng bổ
của Cao Tăng truyện.
"Khương Tăng Hội, tổ tiên người
Khương Cư, mấy đời ở Thiên Trúc, cha nhân buôn bán, dời đến Giao Chỉ.
Hội năm hơn 10 tuổi, song thân đều mất, khi chịu tang xong, bèn xuất gia,
siêng năng hết mực. Là con người rộng rãi nhã nhặn, có tầm hiểu biết,
dốc chí hiếu học, rõ hiểu ba tạng, xem khắp sáu kinh, thiên văn đồ
vĩ, phần lớn biết hết, giỏi việc ăn nói, lanh việc viết văn. Bấy giờ
Tôn Quyền xưng đế Giang Tả, mà Phật giáo chưa lưu hành.
Trước đó có ưu bà tắc Chi
Khiêm, tự Cung Minh, một tên là Việt, vốn người Nguyệt Chi, đến chơi
đất Hán. Xưa đời vua Hoàn, vua Linh nhà Hán có Chi Sấm dịch các kinh. Có
Chi Lượng, tự Kỷ Minh, đến học với Sấm. Khiêm lại thọ nghiệp với
Lượng, rộng xem sách vở, không gì là không nghiên cứu kỹ càng, các nghề
thế gian, phần nhiều giỏi hiết, học khắp sách lạ, thông tiếng sáu nước.
Ông thì nhỏ con, đen gầy, mắt trắng, con ngươi vàng, nên người thời đó
nói: Mắt anh Chi vàng, thân hình tuy nhỏ, ấy túi trí khôn. Cuối đời Hán
Linh đế loạn lạc, ông lánh xuống đất Ngô. Tôn Quyền nghe tiếng ông
tài trí, triệu đến gặp, vui vẻ, phong làm bác sĩ, phụ đạo thái tử,
cùng với người như Vi Diệu, hết sức khuông phò. Nhưng vì ông đến từ
nước ngoài, nên Ngô Chí không ghi.
Khiêm nghĩ giáo pháp vĩ đại tuy
lưu hành, nhưng kinh điển phần nhiều tiếng Phạn, chưa dịch ra hết, bèn
nhờ giỏi tiếng Hán, gom các bản Phạn, dịch ra tiếng Hán. Từ năm đầu
Hoàng Vũ (222) đến khoảng Kiến Hưng (252 - 253) nhà Ngô, ông dịch Duy Ma,
Đại-bát-nê-hoàn, Pháp cú, Thụy ứng bản khởi v.v.. gần 49 bộ kinh, gom
được nghĩa thánh, lời ý đẹp nhã. Lại dựa kinh Vô Lượng Thọ và
Trung bản khởi, ông viết ba bài phạn bối Bồ đề liên cú và chú thích
kinh Liễu bản sinh tử đều lưu hành ở đời.
Bấy giờ đất Ngô mới nhiễm
giáo pháp vĩ đại, phong hóa chưa tròn, Tăng Hội muốn khiến đạo nổi
Giang Tả, dựng nên chùa nước 1 liền chống gậy đông du, vào năm Xích Ô
thứ 10 (247), mới đến Kiến Nghiệp, xây cất nhà tranh, dựng tượng hành
đạo. Lúc ấy nước Ngô vì mới thấy Sa-môn, trông dáng mà chưa kịp hiểu
đạo, nên nghi là lập dị. Hữu ty tâu lên: "Có người Hồ nhập cảnh,
tự xưng Sa-môn, mặt mày áo quần chẳng thường, việc nên kiểm
xét". Quyền nói: "Xưa Hán Minh đế mộng thấy thần, hiệu gọi là
Phật. Kẻ kia thờ phụng, há chẳng là di phong của đạo ấy ư?". Bèn
cho gọi Hội đến hỏi: "Có gì linh nghiệm?". Hội nói: "Như
Lai qua đời, thoắt hơn nghìn năm, để lại Xá-lợi, thần diệu khôn
sánh. Xưa vua A Dục dựng tháp đến tám vạn bốn ngàn ngôi. Phàm việc dựng
xây chùa tháp là nhằm để làm rõ phong hóa còn sót lại ấy". Quyền
cho là khoa đản, bảo Hội: "Nếu có được Xá-lợi, ta sẽ dựng
tháp, nhược bằng dối trá thì nước có phép thường". Hội hẹn bảy
ngày. Bèn gọi người theo mình nói: "Đạo pháp hưng phế, chính ở một
việc này. Nay nế không chí thành, sau hối sao kịp". Rồi cùng chay tịnh
ở tịnh thất, lấy bình đầy để trên bàn, đốt hương lạy xin. Hạn bảy
ngày hết, mà vắng vẻ không ứng. Bèn lại xin thêm bảy ngày nữa, cũng lại
như thế. Quyền nói: "Đó thật là dối trá". Sắp định kết tội
thì Hội xin thêm bảy ngày nữa. Quyền lại đặc biệt đồng ý. Hội bảo
đồ đệ mình: "Khổng Tử có nói: "Vua Văn đã chết, văn không
có đây ư!" Phép thiêng phải giáng, mà chúng ta không cảm được thì
sao mượn được phép vua, nên hẹn phải thề chết".
Đến chiều ngày thứ bảy cuối
cùng vẫn không thấy gì, không ai là không run sợ. Khi tới canh năm, bỗng
nghe có tiếng loảng xoảng trong bình. Hội tự đến xem, quả được Xá-lợi.
Sáng hôm sau đem trình cho Quyền. Cả triều tụ xem thấy tia sáng ngũ sắc
rọi sáng trên miệng bình. Quyền tự tay cầm bình đổ ra mâm đồng, Xá-lợi
lăn tới đâu thì mâm đồng vỡ nát. Quyền hết sức kinh ngạc, đứng lên
nói: "Điềm lành hiếm có". Hội tới nói: "Oai thần Xá-lợi,
há chỉ tia sáng thôi sao? Hãy đem đốt đi, lửa không làm chày. Chày vồ
Kim cương đánh không thể nát". Quyền sai làm thử. Hội lại thề:
"Mây pháp mới phủ, dân đen nhờ ơn, nguyện thêm dấu thần, để rộng
tỏ uy thiêng". Bèn đem đặt Xá-lợi trên đe sắt, sai lực sĩ đánh.
Thế mà đe chày đều vỡ, Xá-lợi không sao Quyền rất thán phục, nhân đó
dựng tháp. Vì mới có chùa Phật, nên gọi là chùa Kiến Sơ. Chỗ đất
ấy gọi là xóm Phật. Do thế, đạo pháp ở Giang Tả mới thịnh.
Đến khi Tôn Hạo cầm quyền,
chính sách hà khắc bạo ngược, phá bỏ dâm từ. Đến cửa chùa Phật, cũng
muốn hủy phá. Hạo nói: "Nó do đâu mà nổi lên? Nếu lời dạy nó
chân chính, cùng hợp với sách vở thánh hiền thì nên giữ theo thờ đạo
đó. Nếu nó không thật, thì đốt phá hết"1 Quần thần đều nói:
"Uy lực của Phật không giống các thần. Khương Hội cảm thụy, thái
hoàng dựng chùa. Nay nếu khinh suất phá đi, sợ sau hối hận". Hạo
sai Trương Dực đến chùa hỏi Hội Dực vốn có tài ăn nói,hỏi vặn tung
hoành. Hội truy câu tìm chữ, lời lẽ phóng ra. Từ sáng tới tối, Dực
không thể bẻ được. Khi về, Hội đưa đến ngõ. Lúc ấy cạnh chùa có
dâm từ, Dực hỏi: "Sự giáo hóa sâu mầu đã thịnh, sao còn để đám
đó ở bên mà không bỏ đi". Hội đáp: "Tiếng sét vỡ núi, kẻ
điếc không nghe, thì không phải tiếng nó nhỏ. Khi đã thông thì muôn dặm
đáp lại, còn nếu ách tắc, gan mật (gần mà vẫn xa như) Sở Việt".
Dực về khen: "Hội tài ba sáng
suốt, chẳng phải thần lượng được, xin bệ hạ xem xét lấy". Hạo
đại hội triều thần, đem ngựa xe đón Hội. Khi Hội đã ngồi, Hạo hỏi:
"Phật giáo dạy rõ thiện ác báo ứng, có phải thế không?" Hội
đáp: "Hễ chúa sáng dùng hiếu từ dạy đời, thì chim đỏ bay đến và
sao người già hiện ra, dùng nhân đức nuôi vật thì suốt ngọt chảy và
mầm tốt mọc. Lành đã có điềm, thì ác cũng thế. Cho nên, làm ác nơi kín
thì quỉ bắt giết đi, làm ác nơi rõ, người bắt giết đi. Dịch nói:
"Chứa lành vui còn". Thi khen: "Cầu phước không lui". Tuy
là cách ngôn của sách nho, cũng là minh huấn của Phật giáo. Hạo nói:
"Nếu vậy, thì Chu Khổng đã rõ, còn dùng gì đến Phật giáo?" Hội
đáp: "Lời nói của Khổng bày sơ dấu gần. Còn lời dạy của Thích
Ca thì đầy đủ tới chỗ u vi. Cho nên, làm ác thì có địa ngục khổ mãi,
tu thiện thì có thiên đường sướng luôn. Đem điều đó ra làm rõ việc
khuyến thiện ngăn ác, là không vĩ đại ư!" Hạo bấy giờ không có
câu gì để bắt bẻ lời Hội. Hạo tuy nghe chính pháp, mà tính hôn bạo,
không thắng được sự hà ngược. Sau sai lính túc vệ vào hậu cung làm vườn,
đào đất được một tượng vàng đứng cao mấy thước, đem trình Hạo.
Hạo sai đem để chỗ bất tịnh, lấy nước dơ tưới lên, cùng quần thần
cười, cho đó là vui 1. Trong khoảnh khắc, cả mình sưng to, chỗ kín càng
đau, gào kêu tới trời. Thái sử bốc quẻ nói: "Phạm phải một vị
thần lớn". Bèn cầu đảo các miếu vẫn không thuyên giảm. Thể nữ,
trước có người theo đạo Phật, nhân đó hỏi: "Bệ hạ đã đến chùa
Phật cầu phước chưa?" Hạo ngẩng đầu hỏi: "Phật là thần lớn
ư?"2 Thể nữ thưa: "Phật là thần lớn". Lòng Hạo hiểu ra,
nói hết ý mình. Thể nữ liền nghênh tượng đặt trên điện vua, lấy
nước thơm rửa qua mấy chục lần, rồi đốt hương sám hối. Hạo cúi đầu
trên gối, tự kể tội mình, khoảnh khắc bớt đau, sai sứ đến chùa, hỏi
thăm nhà sư, mời Hội thuyết pháp.
Hội liền theo vào, Hạo hỏi hết
nguyên do của tội phước. Hội bèn trình bày cặn kẽ, lời rất tinh yếu.
Hạo vốn có tài hiểu biết, hớn hở rất vui, nhân đó xin xem giới luật
của Sa-môn. Hội cho giới văn cấm bí, không thể khinh truyền, nên lấy một
trăm ba mươi lăm nguyện của kinh Bản nghiệp chia ra làm 250 điều, đi đứng
nằm ngồi, đều cầu nguyện cho chúng sinh. Hạo đọc thấy lời nguyện
thương rộng khắp, càng thêm lòng lành, liền đến Hội thọ năm giới.
Mười ngày bệnh lành. Hạo bèn ở chỗ Hội trú sửa sang làm đẹp thêm,
ra lịnh cho tôn thất, không ai là không phụng thờ 1.
Hội ở triều Ngô, giảng nói
chính pháp, nhưng tính Hạo hung cạn, không hiểu nghĩa mầu, nên chỉ mô tả
việc gần báo ứng, để mở lòng Hạo. Hội ở chùa Kiến Sơ, dịch các
kinh, đó là A Nan niệm di, Kính diện nương, Sát vi vương, Phạm hoàng. Lại
dịch các kinh Tiểu phẩm, Lục độ tập, Tạp thí dụ, cũng khéo được
thể kinh, lời ý chính xác. Lại truyền một thời Nê hoàn bối, réo rắt
trầm buồn, làm mẫu mực cho một thời đại. Lại chú thích ba kinh An ban
thủ ý, Pháp kính và Đạo thọ, cùng viết lời tự cho các kinh ấy, lời
lẽ vừa đẹp, ý chỉ vi diệu, cũng thấy ở đời.
Đến tháng 4 năm Thiên Kỷ thứ tư
(280) vua Tấn Thành đế, Tô Tuấn làm loạn, đốt tháp do Hội dựng. Tư Không
Hà Sung lại sửa dựng lại. Bình Tây tướng quân Triệu Dụ, mấy đời không
thờ Phật, ngạo mạn Tam bảo, đến chùa đó, gọi các sư nói: "Từ
lâu nghe nói tháp này nhiều lần phóng ra ánh sáng, hư đản dị thường, nên
chưa thể tin. Nếu được tự mình thấy thì chả phải bàn luận gì nữa".
Mới nói xong, tháp liền phóng ra ánh sáng ngũ sắc, rọi tỏ cả chùa. Dụ
ngạc nhiên rởn tóc gáy, do thế mà tin kính, nên ở phía đông chùa, lại
dựng thêm một tháp nhỏ, ấy xa là do thần cảm của đấng Đại thánh,
và gần là do sức của Khương Hội. Cho nên, vẽ hình tượng Hội, truyền
cho đến nay. Tôn Xước làm bài tán cho bức tranh nói:
- Ông Hội hiu hắt
- Thật bậc linh chất
- Lòng không cận lụy
- Tình có dư dật
- Đêm tối này dạy
- Đám tội kia vớt
- Lừng lững đi xa
- Cao vời nổi bật
Có ký nói Tôn Hạo đập thử Xá-lợi,
cho không phải việc của Quyền. Tôi xét Hạo khi sắp phá chùa, quần thần
đều đáp: "Khương Hội cảm thụy, Thái hoàng lập chùa", thì biết
việc cảm Xá-lợi xưa là phải ở vào thời Tôn Quyền. Cho nên, truyện
ký của một số nhà đều nói: "Tôn Quyền cảm Xá-lợi ở cung
Ngô". Sau đó mới thử sự thần nghiệm. Có người mới đem gán cho Hạo
vậy".
Khương Tăng Hội ở Việt Nam
[^]
Bản tiểu sử trên về cuộc đời
Khương Tăng Hội có thể chia làm ba phần. Phần đầu mô tả Khương Tăng
Hội cho đến khi "chấn tích đông du" qua truyền giáo ở Kiến Nghiệp
vào năm 247. Phần hai ghi lại những hoạt động của Hội ở Trung Quốc
trong khoảng hơn 30 năm cho đến lúc viên tịch vào năm Thái Khang thứ nhất
nhà Tấn (280). Phần ba là ghi lại những tác phẩm do Hội dịch và viết.
Trong phần đầu, nó cho ta biết tổ
tiên Khương Tăng Hội gốc người Khương Cư, nhưng đã mấy đời đến
ở Ấn Độ. Tới thời cha Hội vì buôn bán lạidi cư sang nước ta và sinh
sống tại Giao Chỉ. Việc người Ấn Độ đến nước ta vào hạ bán thế
kỷ thứ hai đến đầu thế kỷ thứ ba sau dương lịch là một sự thực.
Tây vực truyện của Hậu Hán thư 88, khi viết về nước Thiên Trúc, đã
nói: "Thiên Trúc ... vào năm Diên Hy thứ hai (158) và thứ tư (160) đời
Hoàn đế đã từng từ ngoài vùng Nhật Nam đến cống". Chư di truyện
của Lương Thư 54 và Di mạch truyện của Nam sử 78 cũng viết: "Các nước
biển nam đại để ở trên các đảo biển lớn phía nam và tây nam của
Giao Châu... Đời Hoàn đế nhà Hậu Hán, Đại Tần Thiên Trúc đều do đường
đó sai sứ đến cống". Và không chỉ "đến cống", Lương
Thư 54 còn ghi thêm về nước Đại Tần là "người nước đó là nghề
buôn bán, thường đến Phù Nam, Nhật Nam, Giao Chỉ". Việc cha Hội đến
Giao Chỉ để buôn bán, phải chăng đã xảy ra trên các chuyến tàu buôn
và đến cống này của Thiên Trúc và Đại Tần? Chắc chắn là phải như
thế. Vậy thì, ông đã đến nước ta vào lúc nào? Ta hiện không biết rõ
đích xác, nhưng hẳn đã đến sau các năm 158 - 160 nói trên và trước năm
224, năm Duy Kỳ Nạn từ Thiên Trúc đến Vũ Xương, như Pháp cú kinh tự
trong Xuất tam tạng ký tập 7 tờ 50a9 và tiểu sử của Duy Kỳ Nạn trong
Cao Tăng truyện 1 tờ 326b23 đã ghi.
Điểm đáng lưu ý là cả Tăng Hựu
lẫn Huệ Hạo đều nói chỉ một mình cha Hội đến Giao Chỉ buôn bán (kỳ
phụ nhân thương cổ, di vu Giao Chỉ). Vậy phải chăng khi đến Giao Chỉ buôn
bán một thời gian, cha Hội mới lập gia đình và có khả năng cưới một
cô gái người Việt bản xứ làm vợ và sau đó trở thành mẹ của Hội?
Trả lời câu hỏi này, hiện không có những bằng chứng trực tiếp, nhưng
qua một vài dấu hiệu ta có thể giả thiết một sự tình như thế đã xảy
ra. Thứ nhất, cả Tăng Hựu lẫn Huệ Hạo đều nói: "Cha Hội vì
buôn bán đến ở Giao Chỉ" (Kỳ phụ nhân thương cổ, di vu Giao Chỉ).
Nghĩa là đến buôn bán ở Giao Chỉ, chỉ một mình cha Khương Tăng Hội.
Thứ hai, qua các tác phẩm để lại nhiều dấu vết chứng tỏ Hội đã chịu
ảnh hưởng truyền thống Lạc Việt một cách sâu đậm. Một là về mặt
ngôn ngữ, hiện nay Lục độ tập kinh, một dịch bản của Khương Tăng Hội,
chứa đựng nhiều cấu trúc mang ngữ pháp tiếng Việt cổ, mà ngoài lý do
Hội phải dùng một nguyên bản tiếng Việt, như sẽ thấy dưới đây,
còn có yếu tố thói quen ngôn ngữ hình thành từ chính mẹ đẻ mình, mới
mạnh mẽ như thế để có thể để lại dấu ấn trong tác phẩm. Hai là về
mặt nội dung và tư tưởng, Khương Tăng Hội đã chứng tỏ một lòng yêu
mến tha thiết truyền thống văn hóa người Việt đến nỗi truyền thuyết
Trăm trứng, một truyền thuyết đặc biệt Việt Nam nói về nguồn gốc của
dân tộc Việt, vẫn không bị Hội cải biên khi dịch truyện Lục độ tập
kinh ra tiếng Trung Quốc cho phù hợp với truyền thống tiếng Phạn. Và văn
bản truyền thống tiếng Phạn của truyện ấy lẫn dịch bản tiếng Trung
Quốc của nó không phải là không lưu hành ở Trung Quốc vào thời Hội dịch
Lục độ tập kinh. Chi Khiêm trong khoảng từ năm 222 đến 253, tức trước
khi Khương Tăng Hội đến Kiến Nghiệp 30 năm, đã liên tiếpp dịch 49 bộ
kinh, trong đó có Soạn tập bách duyên kinh, và truyền thuyết Trăm trứng
đã không xuất hiện trong bản kinh này. Cho nên, không có lý do gì, mà Hội
không biết tới chi tiết một trăm cục thịt của truyền thống Phạn văn
và bản dịch chữ Trung Quốc đã lưu hành, trước khi Hội dịch Lục độ
tập kinh vào năm 251. Việc bảo lưu chi tiết Trăm trứng trong Lục độ tập
kinh tiếng Trung Quốc do thế không biểu lộ gì khác hơn là lòng yêu mến
tha thiết nói trên đối với truyền thống văn hóa và lịch sử người Việt.
Vậy thì, qua những dấu vết gián
tiếp vừa nêu, ta có thể giả thiết mẹ Hội có khả năng là một cô
gái người Việt. Và nhờ người mẹ Việt này, Hội mới có được những
ảnh hưởng sâu đậm về mặt ngôn ngữ cũng như tình cảm tư tưởng,
như đã nói. Thế cuộc hôn nhân Khương - Việt ấy chỉ sản sinh được một
mình Khương Tăng Hội sao? Cả Tăng Hựu và Huệ Hạo đều im lặng không
những về bà mẹ, như ta đã thấy, mà còn về anh chị em của Hội. Tuy
nhiên, chính tác phẩm của ông là bài tự cho kinh An ban thủ ý trong Xuất
tam tạng ký tập 6 ĐTK 2145 tờ 43b24 đã viết: "Tôi sinh muộn
màng" (Dư sinh mạt tung). Chữ "mạt tung", mà chúng tôi dịch
là "muộn màng" ở đây, nghĩa đen là "dấu vết cuối ngọn",
và nghĩa bóng có thể chỉ dấu vết cuối ngọn của đạo Phật, tương
đương với khái niệm "mạt pháp" của Phật giáo. Và ý của Hội
muốn nói tới việc mình sinh ra cách Phật quá xa về mặt thời gian. Nhưng
cũng có thể chỉ sự kiện Khương Tăng Hội là người con cuối ngọn của
gia đình.
Ý nghĩa thứ hai này, chúng ta có thể
suy ra từ câu tiếp theo: "mới biết vác củi, cha mẹ đều mất"
(thỉ năng phụ tân, khảo tỷ trở lạc). Thế là vì "sinh muộn
màng", nên "mới biết vác củi" thì cha mẹ Hội đã mất.
"Mới biết vác củi" là mấy tuổi? Tăng Hựu và Huệ Hạo nói Hội
mất cha mẹ "năm hơn mười tuổi". Vậy tuổi "mới biết vác
củi" là "hơn mười tuổi". Hội mất cha mẹ, là khi tuổi còn
nhỏ. Như thế, có khả năng Hội là con út trong gia đình. Mà cũng có thể
cha mẹ Hội lấy nhau khá muộn, nên khi sinh Hội, họ cũng đã lớn tuổi.
Do đó, lúc Hội "hơn mười tuổi", họ đã mất.
Cha mẹ mất rồi, chôn cất xong, Hội
đi xuất gia. Việc xuất gia này chứng tỏ Phật giáo nước ta vào thế kỷ
thứ ba sau dương lịch đã có một hệ thống chùa chiền và sư tăng khá
phát triển để làm nơi cho Hội xuất gia và học tập. Thực trạng này thực
ra không đáng ngạc nhiên cho lắm, vì ngay từ thời Mâu Tử viết Lý hoặc
luận vào khoảng năm 195 sdl, ta đã thấy nói tới hiện tượng "nay
Sa-môn mê thích rượu ngon, hoặc nuôi vợ con, mua rẻ bán đắt, chuyên làm
điều dối trá", mà Lý hoặc luận trong Hoằng minh tập 1 ĐTK 2102 tờ
4a15 - 6 đã ghi lại. Và chính Khương Tăng Hội cũng thừa nhận trong lời tựa
viết cho kinh An ban thủ ý, ĐTK 2145 tờ 43b24 - 26: "Tôi sinh muộn màng,
mới biết vác củi, cha mẹ đều mất, ba thầy viên tịch, ngước trông
mây trời, buồn không biết hỏi ai, nghẹn lời trông quanh, lệ rơi lặng lẽ".
(Dư sinh mạt tung, thỉ năng phụ tân, khảo tỷ trở lạc, tam sư điêu
táng, ngưỡng chiêm vân nhật bi vô chấp thọ, quyện ngôn cố hi, tiềm
nhiên xuất thế).
Như thế, khi Hội "mới biết vác
củi", mà cả Tăng Hựu lẫn Huệ Hạo đều nhất trí qui định là
"hơn mười tuổi" (niên thập dư tuế), thì không những cha mẹ đều
mất, mà cứ vào mạch văn, "ba thầy" (tam sư) của Hội cũng mất.
"Hơn mười tuổi" có thể là 11, 12 tuổi mà cũng có thể 17, 19 tuổi.
Như vậy, Hội không chỉ mất cha mẹ lúc "hơn mười tuổi, mà còn mất
luôn "ba thầy" của mình nữa.
Sự thực, từ "ba thầy"
(tam sư) là một bộ phận của thành ngữ giới đàn Phật giáo "tam sư
thất chứng" về sau, có nghĩa trong nghi thức truyền giới Tỳ-kheo hay
Tỳ-kheo ni không có phẩm, tiêu chuẩn đòi hỏi phải có sự hiện diện của
ba thầy là Hòa thượng, kiết ma và a xà lê, và bảy thầy làm chứng (hay
gọi là thất chứng). Việc nhắc đến "ba thầy" này, phải chăng
ám chỉ đến việc thọ đại giới trong khi tuổi "mới biết vác củi"
của Hội. Tất nhiên, nếu đứng về mặt những tiêu chuẩn để được
thọ đại giới, cứ theo luật tạng thì Hội phải có số tuổi từ 20 trở
lên, chứ không thể dưới được, dù cũng có trường hợp ngoại lệ.
Nhưng ta hiện nay không biết Khương Tăng Hội có thuộc trường hợp ngoại
lệ không. Cho nên, phải kết luận, không thể có chuyện "ba thầy điêu
táng", khi Hội "mới biết vác củi". Rồi khi cư tang xong, mới
xuất gia. Và chắc chắn là mấy năm sau, Hội thọ đại giới trở thành một
nhà sư.
Việc Khương Tăng Hội phải thọ
đại giới, tức thọ giới phẩm Tỳ-kheo ở nước ta là sự kiện chắc
chắn, vì những lý do sau. Thứ nhất, không thể có chuyện Hội thọ giới
ở Trung Quốc được, vì vùng mà Hội đến là Giang Tả "Phật giáo chưa
lưu hành", "mới thấy Sa-môn, trông dáng mà chưa kịp hiểu đạo,
nên nghi lập dị". Thứ hai, Biệt truyện của An Thế Cao do Huệ Hạo dẫn
trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 324a11 - 18, tuy chứa đựng những mẫu
tin sai lạc, như Huệ Hạo đã chỉ ra, nhưng đã nói tới việc một
"An Hầu đạo nhân" để lại một lời tiên tri, ghi rằng:
"Tôn đạo ta là cư sĩ Trần Huệ, người truyền thiền kinh là Tỳ-kheo
Tăng Hội". Điều này chứng tỏ khi lên Kiến Nghiệp truyền giáo, Khương
Tăng Hội đã là Tỳ-kheo, do thế phải thọ đại giới ở nước ta. Thứ
ba, chính tiểu sử của Khương Tăng Hội dịch trên kể tới chuyện Tôn Hạo
đòi xem "giới luật của Sa-môn", Hội không thể không cho hạo
xem, nên đã lấy 135 nguyện của Kinh Bản nghiệp viết thành 250 giới của
Tỳ-kheo. Thời Hội như vậy đã biết giới luật của Tỳ-kheo khá rõ. Và
điều này thật không đáng ngạc nhiên, vì ngay khi viết Lý hoặc luận năm
195 trong Hoằng minh tập 1 ĐTK 2102 tờ 2ả, Mâu Tử đã biết "Sa-môn giữ
250 giới, ngày ngày ăn chay". Cho nên, Hội đã thọ đại giới Tỳ-kheo
ở nước ta, và "ba thầy" chính là một bộ phận của thành ngữ
"tam sư thất chứng" của giới đàn Tỳ-kheo tiêu chuẩn.
Dẫu sau khi thọ giới ba thầy của
Hội "điêu táng", nên thời gian thọ giáo có ngắn ngủi tới đâu
chăng nữa, các vị thầy nầy đã để lại những dấu ấn sâu đậm trên
con người Tăng Hội. Trong các tác phẩm hiện còn được biết chắc chắn
của ông, có ba tác phẩm đã nhắc đến họ một cách đầy kính mến và
yêu thương. Đó là An ban thủ ý kinh tự, Pháp kính kinh tự và Tạp thí dụ
kinh. An ban thủ ý kinh tự, ta đã dẫn ở trên. Còn Pháp kính kinh tự trong
Xuất tam tạng ký tập 6 ĐTK 2145 tờ 46c9 - 10 viết: "Tang thầy nhiều
năm, (nên) không do đâu mà hỏi lại được. Lòng buồn, miệng nghẹn, dừng
bút rầu rĩ, nhớ thương thánh xưa, nước mắt dàn dụa".
Rõ ràng tình cảm của Khương Tăng
Hội đối với các thầy mình thật thắm thiết, mà mỗi lần nhắc tới
là "nước mắt dàn dụa", đúng như bài tán do Tôn Xước đề trên
bức tượng ông, "Tâm vô cận lụy, tình hữu dư dật". Tình cảm
này dẫn đến một niềm kính mến sâu xa và lâu dài đến nỗi về sau khi
biên soạn Tạp thí dụ kinh, cứ sau một số câu truyện, Hội đều có ghi
lại những bình luận của thầy mình về truyện đó với câu mở đầu:
"Thầy nói". Trong số truyện của Tạp thí dụ kinh, có tới 12 truyện
có ghi lại những nhận xét bình luận vừa nêu. Đều đáng tiếc là ta hiện
nay vẫn chưa tìm ra được tên vị thầy nầy của Khương Tăng Hội, nhưng
chắc chắn những nhận xét bình luận ấy có thể là những bài giảng
giáo lý đầu tiên còn ghi lại được của lịch sử truyền giáp Phật
giáo Việt Nam.
Và ngay cả khi viết chú thích cho
kinh An ban thủ ý, tuy có "thỉnh vấn" (xin hỏi) Hàn Lâm, Bì Nghiệp
và Trần Huệ, và tuy có nói: "Trần Huệ chú nghĩa, tôi giúp châm chước",
Khương Tăng Hội vẫn không quên thêm câu: "Không do thầy thì không
truyền, không dám tự do". (Phi sư bất truyền, bất cảm tự do). Nói
cách khác, những chú thích kinh An ban thủ ý hiện còn thực tế là một
ghi chép lại những giải thích của thầy truyền cho Khương Tăng Hội, do
đó phần nào phản ảnh quan điểm giáo lý và tư tưởng của vị thầy này.
Vì vậy, ta có thể kết hợp bản chú thích ấy với những câu bình luận
nhận xét do Hội tự chép lại trong Tạp thí dụ kinh để nghiên cứu tình
hình tư tưởng và Phật giáo của người thầy của Khương Tăng Hội và
qua đó tình hình của Phật giáo nước ta trước khi Hội ra đời, tức
trước thế kỷ thứ ba sau dương lịch.
Vị thầy, mà Khương Tăng Hội nhắc
đến trong ba tác phẩm trên của mình, như vậy tuy ngày nay ta không biết
tên tuổi, nhưng đã để lại một học phong khá rõ nét, có thể xác định
một cách tương đối chắc chắn và cụ thể. Học phong này về mặt thực
tế dựa tên phương pháp tu tập thiền định an ban theo kiểu An Thế Cao, và
về mặt lý luận thì tập trung trình bày giáo lý và tư tưởng qua các
truyện kể mang tính ngụ ngôn hay cổ tích. Nó như vậy đã cột chặt tư
tưởng với thực tế, tư duy với cuộc sống, lấy thực tiễn kiểm nghiệm
chân lý, như đức Phật đã căn dặn trong Kinh Kalama. Nó không cho phép lý
luận suông, không cho phép tư duy mông lung huyền ảo, mà vào thời đó đã
bắt đầu manh nha, rồi phát triển mạnh ở Trung Quốc qua phong trào huyền
học thanh đàm. Học phong ấy có thể nói đã khẳng định bản lĩnh văn hóa
Việt Nam, đại diện cho học phong Việt Nam và Phật giáo Việt Nam thời bấy
giờ, tương phản với học phong "huyền học thanh đàm" đương đại
của Trung Quốc, và biểu thị tính độc lập cũng như khả năng tiếp thu
sáng tạo của văn hóa Việt Nam lúc tiếp xúc với Phật giáo và nền văn
hóa Trung Quốc.
Kế thừa học phong nầy, Khương
Tăng Hội phát triển nó thành nguyên tắc chỉ đạo trong công tác phiên dịch
trước tác của mình, mà đỉnh cao là Lục độ tập kinh, khi thực hiện sứ
mệnh truyền giáo ở Trung Quốc. Theo Lịch đại tam bảo ký và các kinh lục
về sau như Đại đường nội điển lục và Khai Nguyên Thích giáo lục, Hội
đã dịch Lục độ tập kinh vào năm Thái Nguyên thứ nhất (251), tức bốn
năm sau khi đến Kiến Nghiệp. Như sẽ thấy dưới đây, Lục độ tập
kinh tiếng Trung Quốc hiện nay không phải là một tác phẩm dịch từ tiếng
Phạn, mà cũng chẳng phải là một tác phẩm do chính Khương Tăng Hội viết
ra, như Thang Dụng Đồng 1 đã chủ trương, mà là một dịch bản của Hội
từ một nguyên bản kinh Lục độ tập tiếng Việt. Việc chọn bản kinh này
để dịch ra tiếng Trung Quốc, như vậy, là một thể hiện nhất quán
tính kế thừa nói trên, vừa là một biểu trưng cho lòng trung thành của
Khương Tăng Hội đối với truyền thống văn hóa giáo dục Việt Nam của
mình. Chính sự kế thừa và trung thành này đã giữ Khương Tăng Hội không
điều chỉnh những sự kiện mang tính đặc thù địa phương Việt Nam như
truyền thuyết Trăm trứng cho phù hợp với truyền thống yêu cầu văn học
và lịch sử Trung Quốc.
Nói thẳng ra, Khương Tăng Hội đã
thừa hưởng một nền giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam khá trọn
vẹn và vững vàng, nên đã để lại những dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ
trên con người ông, dẫn đến sự kế thừa cực kỳ trung thành vừa nói.
Một mặt, đó là những tình cảm ngưỡng mộ thắm thiết đối với các
vị thầy mà mỗi lần nhắc tới là "nước mắt lai láng". Và mặt
khác, đó là các tác động tư tưởng lâu dài và liên tục trong nếp sống
và suy nghĩ cũng như trong công tác truyền giáo của ông. Vì thế, Khương
Tăng Hội có thể nói là một thành tựu đầu tiên và xuất sắc của nền
giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam, khác hẳn các sản phẩm của nền
giáo dục nô dịch Trung Quốc đang hoạt động mạnh mẽ vào thời đó như
Tiết Tôn, Hứa Tỉnh, Hứa Từ v.v.. ở nước ta. Lịch sử giáo dục Việt
Nam và Phật giáo Việt Nam thật đáng tự hào với những thành tựu đầu
tiên như thế. Nó đã tự xác định cho mình một sứ mạng thiêng liêng
cao quý là gắn bó thịt xương với dân tộc để phục vụ dân tộc, và
không bao giờ đi ngược lại sứ mệnh ấy. Cho nên, trong lịch sử dân tộc
không bao giờ thiếu những khuôn mặt anh tài từ Lý Miễu. Đinh Tiên
Hoàng, Lý Thái Tổ cho đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Ngô Thì Nhiệm v.v...
Nền giáo dục Việt Nam và Phật
giáo Việt Nam thời ấy có nội dung gì? Cả Tăng Hựu lẫn Huệ Hạo đều
nói Hội "hiểu rõ ba tạng, xem khắp sáu kinh, thiên văn đồ vĩ, phần
lớn biết hết, giỏi việc ăn nói, lanh việc viết văn". Ba tạng đây
là kinh, luật, luận của Phật giáo. Sáu kinh là Thi, Thơ, Lễ, Nhạc, Dịch,
Xuân Thu của Nho giáo. Thiên văn, đồ vĩ là các môn học của các nhà âm
dương, mà qua lịch sử Trung Quốc cũng như Việt Nam đóng một vai trò hết
sức quan trọng và có tính quyết định. Ngay trước khi Khương Tăng Hội
ra đời, trong dân gian đã lưu hành câu sấm, tức là một loại đồ vỹ,
nói rằng "Hán hành dĩ tận, Hoàng gia đương lập", mà đọc ngoa
thành "Thương thiên dĩ tử, Hoàng thiên đương lập", như Ngụy chí
1 mục Vũ đế kỷ năm Sơ Bình thứ ba (192) đã ghi chẳng hạn. Cho nên, khi
Tào Phi lên ngôi thành lập nhà Ngụy bèn đặt niên hiệu là Hoàng Sơ
(221). Còn Tôn Quyền xưng đế thì đặt Hoàng Vũ (221). Rõ ràng hai niên hiệu
Hoàng Sơ và Hoàng Vũ chứng tỏ đã chịu ảnh hưởng nặng nề của câu sấm
"Hoàng gia đương lập". Rồi việc xem sao để tiên đoán các biến
động chính trị xã hội và cá nhân cũng như những thay đổi khí hậu mưa
nắng là đối tượng nghiên cứu của khoa thiên văn thời Hội. Chỉ cần
đọc lại lời biểu xin Lưu Bị lên ngôi hoàng đế của đám Lưu Báo, Hướng
Cử, Trương Duệ, Hoàng Quyền v.v.. ta thấy nói đến Hà đồ Lạc thư,
ngũ kinh sấm vỹ và đám Hứa Tỉnh, Mỵ Trúc, Gia Cát Lượng v.v... nói đến
"phù thụy đồ sấm minh trưng" và Hà lạc khổng tử sấm ký do
"quần nho anh tuấn dâng", thì khoa thiên văn đồ vĩ vào thời Hội
quan trọng tới mức nào. Nhưng không chỉ học tam tạng, sáu kinh và thiên
văn đồ vỹ, Khương Tăng Hội còn được dạy cả khoa ứng đối ăn nói
(xu cơ), viết văn và viết chữ (văn hàn). Nội dung giáo dục Phật giáo Việt
Nam vào thời Khương Tăng Hội, như thế, không phải là một nền giáo dục
thuần túy Phật giáo hay tôn giáo, mà là một nền giáo dục tổng hợp
toàn diện, có thể nói đại diện cho nền giáo dục Việt Nam thế kỷ thứ
III. Nền giáo dục nầy không chỉ giới hạn trong chức năng truyền giáo,
đào tạo ra những con người Phật giáo, mà trên hết và trước hết là
đào tạo ra những trí thức dân tộc toàn diện có tính bách khoa am hiể
và lãnh hội được hết tinh hoa dân tộc và nhân loại của thời đại mình,
rồi trở lại đóng góp bằng những thành quả của mình cho kho tàng hiểu
biết của loài người. Cho nên, Khương Tăng Hội không chỉ học ba tạng
kinh điển của Phật giáo, không chỉ học sáu kinh của nho giáo, và chắc
chắn là các giáo khác nữa, mà còn học tới cả thiên văn đồ vỹ, khoa
ăn nói và nghệ thuật viết lách. Chính nền giáo dục tổng hợp toàn diện
và phóng khoáng này đã đào tạo cho lịch sử dân tộc những thiên tài
trong các lĩnh vực khác nhau, thậm chí đối lập nhau, như nghệ thuật và
khoa học, chính trị và âm nhạc, văn chương và kỹ thuật, từ Lý Miểu
cho đến Lý Công Uẩn, từ Lương Thế Vinh cho đến Ngô Thì Nhiệm, từ Lê
Ích Mộc cho đến Trần Cao Vân, từ Tuệ Tỉnh cho đến Võ Trứ, chứ khoan
nói chi tới Vạn Hạnh, Chân Lưu, Pháp Thuận, Quảng Đức v.v... Dựa trên
học phong thiết thực, nó đã trang bị cho những đối tượng cần đào tạo
những kiến thức rộng rãi phóng khoáng của tất cả các ngành tri thức của
nhân loại thời nó, mà không nhất thiết đóng khung vào một chủ thuyết
nào, nên đã tạo được những vùng trời tự do cho khả năng tư duy hành
động sáng tạo của con người.
Nền giáo dục Phật giáo này không
chỉ tồn tại vào đời Khương Tăng Hội, mà còn được tiếp tục kế thừa
tiếp nối cho đến ngày hôm nay, dù ở thời điểm này khác nó, đôi khi cũng
bị khủng hoảng, dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại. Nó qua các
khoa thi tam giáo đời Lý, Trần, Lê, qua bài thi của trạng nguyên Lê Ích Mộc
và tác phẩm Trúc Lâm tôn chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhiệm, đã thể hiện
tính nhất quán của mình. Nó đã thiết kế được một cơ cấu giáo dục
tương đối hoàn chỉnh, đủ mực thước để đào tạo ra những trí thức
gương mẫu gánh vác trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử và đủ phóng
khoáng cho những hoạt động tự do sáng tạo của con người. Và đặc biệt
là yếu tố dân tộc thường xuyên hiện diện làm cột sống cho cơ cấu
giáo dục đó. Không có yếu tố dân tộc này, nền giáo dục Việt Nam và
Phật giáo Việt Nam đã không bao giờ thực hiện được thiên chức cao
quý và dạy dỗ đào tạo những con người trí thức Việt Nam biết gánh
vác trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử dân tộc mình như Đinh Tiên
Hoàng, Lý Thái Tổ, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Ngô Thì Nhậm. Quá lắm thì
nó chỉ cho xuất xưởng những mẫu người như Hứa Tỉnh, Tiết Tông thời
Khương Tăng Hội, rồi Khương Công Phụ, Bùi Bá Kỳ ... ở những thời kỳ
sau, chỉ biết cúi đầu cam tâm phục vụ cho quyền lợi nước ngoà.
Chính cái cột sống dân tộc ấy
đã nâng đỡ cho những người con xa quê khỏi ngã gục trước gánh nặng
của trách nhiệm và trước những cám dỗ tha hóa của vật chất. Họ có
thể đứng thẳng người lên trông ngắm giang sơn gấm vóc và nhớ thương
quê hương diệu vợi. Mà quê hương là gì? Là câu hò của mẹ, là vẻ mặt
của cha, là lời dạy của thầy, và là nhiều thứ nữa. Trong các tác phẩm
hiện còn của Khương Tăng Hội, có hai tác phẩm Khương Tăng Hội viết
ở Trung Quốc và nhắc tới bản thân mình một cách minh nhiên, đó là hai
bài tựa viết cho kinh An ban thủ ý và kinh Pháp kính, mà chúng ta đã có dịp
dẫn nhiều lần ở trên. Trong cả hai, Hội đã bày tình cảm của riêng
mình, không chỉ đối với cha mẹ, mà đặc biệt đối với "vị thầy"
của ông. Vì "ba thầy điêu táng" (An ban thủ ý kinh tự), vì
"tang thầy nhiều năm" (Pháp kính kinh tự), mà bây giờ gặp khó khăn,
"buồn không biết hỏi ai" (An ban thủ ý kinh tự), "không do đâu
mà hỏi lại được" (Pháp kính kinh tự), nên "nghẹn lời trông
quanh, lệ rơi lặng lẽ", "dừng bút buồn bã... nước mắt lai láng".
Viết như thế, Khương Tăng Hội rõ ràng biểu lộ không che dấu lòng nhớ
thương vô hạn của mình đối với miền đất nơi mình sinh ra và cha mẹ
và thầy mình đang yên nghỉ vĩnh viễn.
Đọc những câu ấy của Khương
Tăng Hội, ta thấy tương phản hoàn toàn với lá sớ của Tiết Tôn trong
Ngô Chí 8 tờ 6b8 - 8a13 đầy những lời lẽ thóa mạ, hằn học khinh mạn,
biểu thị não trạng Đại Hán kỳ thị chủng tộc: "Dân như cầm thú,
già trẻ không khác ... Hai huyện Mê Linh của Giao Chỉ và Đô Bàng của Cửu
Chân,thì anh chết em lấy chị dâu làm vợ, đời lấy đó làm tục, trưởng
lại nghe tới cũng không thể cấm chỉ, trai gái quận Nhật Nam lõa thể
không lấy làm thẹn. Do thế mà nói, chúng có thể gọi là sâu bọ chồn
cáo, mà trông có mặt mũi con người". Không những thế, Tiết Tôn còn
bày mưu vẽ kế cho đám Tôn Quyền để nô dịch lâu dài dân tộc ta. Còn
Hứa Tỉnh tìm đến nước ta để tránh nạn, lại bảo "Tự trốn ở
mọi rợ". Đến đời con của Tiết Tôn là Tiết Oán, tuy biết cha
mình nhờ cơm áo của đất Giao Chỉ để lớn lên và học hành, cũng vẫn
bảo cha mình "Khốn đốn ở cõi mọi" (khốn vu man thùy).
Cho nên, khi Khương Tăng Hội viết
những hàng trên bày tỏ niềm nhớ thương vô hạn đối với Giao Châu xa
xôi, trong bối cảnh những lời công kích thóa mạ đất nước ta, như đã
thấy thì chỉ việc nêu những dòng ấy cũng phải nói là một thành tựu
kiệt xuất của nền giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam. Yếu tố
dân tộc đã được khắc sâu vào tâm khảm những người con xa quê vì một
lý do nào đó và để lại trong lòng những tình cảm nhớ thương da diết
khôn nguôi. Trong lịch sử dân tộc, không chỉ một mình Khương Tăng Hội
vì sứ mệnh truyền giáo, mà phải xa quê, mà sau này khi Vi tả tướng quốc
Hồ Nguyên Trừng lúc bị bắt đưa qua Trung Quốc, đã tự gọi mình là Nam
ông, và để lại cho ta Nam ông mộng lục tức cuốn sách viết trong mộng
của một ông già người Nam.
Nói tóm lại, Phật giáo Việt Nam
vào thời Khương Tăng Hội đã xây dựng thành công một cơ cấu giáo dục
tổng hợp khá hoàn chỉnh và đa dạng, bao gồm toàn bộ tất cả các
ngành tri thức có mặt ở thời đó, mà không đóng khung vào một giới hạn
chật hẹp nào. Người ta không chỉ học ba tạng kinh điển Phật giáo,
sáu kinh của Nho giáo, mà còn học tới cả khoa sấm vỹ thiên văn, thậm
chí cả khoa học ứng đối, và đặc biệt truyền thống dân tộc Việt
Nam. Nền giáo dục ấy vì vậy có thể nói là đại diện cho nền giáo dục
Việt Nam thế kỷ thứ II và thứ III đối lập lại với nền giáo dục
nô dịch Trung Quốc đang tồn tại song song cùng nó. Nhờ thế, qua lịch sử
nó đã đào tạo ar những thiên tài đáp ứng được yêu cầu của đất
nước, và được tiếp nối cho đến ngày nay.
Thừa hưởng một nền giáo dục như
thế, có thể nói Khương Tăng Hội đã được trang bị khá đầy đủ những
kiến thức và kỹ năng cần thiết cho những công tác đang chờ trước mặt.
Lại thêm bản thân Khương Tăng Hội là một người "rộng rãi nhã nhặn,
có hiểu biết độ lượng, dốc chí hiếu học". Cho nên, việc học
hành của ông đã diễn ra khá thuận lợi và êm đẹp. Tất nhiên, giống
như bất cứ bản tiểu truyện nào về các vị thánh của phương đông hay
của phương tây, Cao Tăng truyện cùng Xuất tam tạng ký tập có khả năng
cường điệu một số nét các nhân vật. Tuy nhiên, với trường hợp
Khương Tăng Hội ở đây, ta có thể kiểm tra những gì Tăng Hựu và Huệ
Hạo viết qua chính các công trình do chính Khương Tăng Hội để lại như
Lục độ tập kinh, Cực tạp thí dụ kinh, An ban thủ ý kinh tự và Pháp
kính kinh tự. Các tác phẩm này quả đã xác minh cho thấy ít nhiều bản
thân con người và trình độ giáo dục văn hóa của Khương Tăng Hội, ghi
nhận giúp ta những gì Tăng Hựu và Huệ Hạo viết là hoàn toàn có thể
biện minh được.
Thế là phần đầu của bản tiểu
sử trên tuy ngắn ngủi, đã cho ta khá nhiều thông tin theo Khương Tăng Hội,
khi kết hợp với chính các tác phẩm của ông. Gốc gác Khương cư, tổ tiên
Hội mấy đời đã di cư tới Ấn Độ. Đến đời cha Hội, vì buôn bán,
ông một mình dời tới sống ở vùng Bắc bộ của nước ta.
Ngoài ra, truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô
chí 4 tờ 7b10, khi mô tả một buổi lễ hành thành của Nhiếp, đã viết:
"Người Hồ mấy chục, đi sát theo xe, đốt hương..." ta ngày nay
không thể xác định chính xác lễ hành thành này xảy ra vào năm nào, ta
có thể chắc chắn nó diễn ra không chậm hơn năm 226, bởi đó là năm Sĩ
Nhiếp mất, đồng thời là thời điểm chậm nhất. Còn thời điểm sớm
nhất có khả năng rơi vào những năm 195, khi Chu Phù đã "bỏ điển huấn
của tiền thánh, vứt pháp luật của Hán gia", để đi theo Phật giáo
và liên kết chặt chẽ với những người Phật giáo như Mâu Tử, mà Lý
hoặc luận đã ghi lại, từ đó tạo nên một bầu không khí chính trị
thuận lợi cho những hoạt động Phật giáo, trong đó có lễ hành thành rước
Phật của Sĩ Nhiếp. Dù với trường hợp nào đi nữa, trong hơn 30 năm từ
195-226 đã có mặt tại nước ta một tập thể người Ấn Độ nói chung tới
"mấy chục nhân khẩu". Trong số "mấy chục" người Hồ này,
có thể cha của Khương Tăng Hội đã hiện diện, đặc biệt khi ta giả
thiết Hội sinh vào khoảng những năm 200. Ở đây, ông có thể đã lấy một
cô vợ người Việt và sinh ra Khương Tăng Hội.
Như thế, mẹ Khương Tăng Hội có
thể là một cô gái Việt. Còn cha Hội chắc chắn là một nhà buôn gốc
Khương cư ở nước ta. Tất cả các tài liệu từ Tăng Hựu, Huệ Hạo cho
đến Lịch đại tam bảo ký ĐTK tờ 59b6 - 60a24, Khai Nguyên Thích giáo lục
2 tờ 490b14 - 491b23 và Trinh nguyên tập định thích giáo mục lục 3 tờ
787c13 - 788c21 đều nhất trí với nhau. Chỉ Cổ kim dịch kinh đồ ký 1 ĐTK
2151 tờ 352a26 lại nói: "Khương Tăng Hội là con đầu của đại thừa
tướng nước Khương cư", còn Đại Đường nội điển lục 2 tờ
203a21-23 thì hoàn toàn im lặng về nguồn gốc của Hội.
Dựa vào đâu để viết như vậy,
Tỉnh Mại không bảo cho ta biết. Điều chắc chắn là với một người
như Tỉnh Mại, ông không thể quan niệm nổi một nhân vật tầm cỡ như
Khương Tăng Hội lại có thể phát xuất từ một miền đất "mọi rợ"
như Giao Chỉ. Tăng Hựu viết tự cho Xuất tam tạng ký tập 1 ĐTK 2145 tờ
1a16-17 đã coi Hội như một trong hai người đặt nền móng cho Phật học
Trung Quốc: "Xưa đời Châu Phật giáo nổi lên, nhưng bến thiêng còn
cách, đời Hán tượng pháp diệu điển mới đưa vào, giáo pháp phải đợi
cơ duyên mới rõ (...) Đến cuối Hán, An (Thế) Cao tuyên dịch rõ dần, đầu
đời Ngụy, Khương (Tăng) Hội chú thích thông thêm...".
Huệ Duệ viết "Dụ nghi luận"
chép trong Xuất tam tạng ký tập 5 tờ 41b13-14 đã khen Hội là người
"soạn tập các kinh, tuyên dương nghĩa sâu". Pháp Kinh viết:
"Chúng kinh mục lục 7 ĐTK 2146 tờ 148c18 cũng ghi nhận "Chi Khiêm,
Khương Hội đến giảng ở Kim lăng". Còn Huệ Hạo soạn Cao Tăng truyện
3 ĐTK 2059 tờ 245c5 đã xếp Hội ngang hàng với An Thế Cao, Chi Lâu Ca Sấm
và Trúc Pháp Hộ. Vị thế Khương Tăng Hội trong lịch sử Phật giáo Trung
Quốc trong những thế kỷ đầu là cực kỳ to lớn. Cho nên, sau khi Hội mất
không lâu, người ta đã vẽ tượng để thờ, Tôn Xước đã đề lời tán,
mà Hạo đã cho dẫn trên.
Đến thời Huyền Trang, trên vách
viện Phiên kinh của chùa Đại từ ân, người ta cho vẽ tượng các nhà
phiên dịch Phật giáo Trung Quốc xưa nay, "bắt đầu từ Ca Diếp Ma Đằng
đến tới Đại Đường tam tạng, Mại công nhân soạn (tiểu truyện) đề
lên trên vách", như Trí Thăng đã nói trong Tục cổ kim dịch kinh đồ
ký ĐTK 2154 tờ 367c22-24 và Khai Nguyên Thích giáo lục 10 ĐTK 2154 tờ
578c1-6. Và trong số các bức tượng đó có cả tượng Khương Tăng Hội. Hẳn
vì muốn "phong thần" cho Hội, làm cho Hội xứng đáng để người
Trung Quốc tôn thờ, Tỉnh Mại đã tước bỏ nguồn gốc Giao Chỉ của Hội
và biến Hội thành "trưởng tử của đại thừa tướng nước Khương
cư".
Điểm lý thú là Đạo Tuyên khi soạn
Đại Đường nội điển lục 2 ĐTK 2149 tờ 230a21-c23, cũng hoàn toàn im lặng
về sinh quán của Khương Tăng Hội. Ông viết: "Đời Tề vương nước
Ngụy, trong năm Chánh thỉ, Sa-môn Thiên Trúc Khương Tăng Hội, học thông
ba tạng, xem khắp sáu kinh, thiên văn đồ vĩ, phần nhiều hiểu biết, ứng
đối lanh lợi, giỏi việc viết văn. Lúc ấy Tôn Quyền chiếm lấy Giang
Biểu, uy vũ bao trùm khắp cả ba Ngô. Trước có thanh tín sĩ Chi Khiêm
tuyên dịch kinh điển. Nhưng mới nhiễm đạo lớn, phong hóa chưa đủ.
Tăng Hội muốn khiến đạo nổi Giang Hoài, dựng lập chùa tháp, bèn chống
gậy đông du, vào năm Xích Ô nhà Ngô thì tới Kiến Nghiệp".
Dẫu không đi xa tới chỗ xuyên tạc
sự thật như Tỉnh Mại, để nói Khương Tăng Hội là "con trưởng của
đại thừa tướng nước Khương Cư", Đạo Tuyên, với tư cách một luật
sư giữ giới nghiêm ngặt, đành phải im lặng. Sự im lặng này đánh dấu
thứ bối rối của các nhà trí thức Phật giáo Trung Quốc, khi nhận ra Phật
giáo Trung Quốc một phần nào là sản phẩm của nền Phật giáo nước ta.
Mà nước ta vào thời ấy đã bắt đầu giai đoạn hùng cứ đế vương với
kiểu xưng đế của Lý Bôn vào năm 544, nếu không là của Lý Miểu một
trăm năm trước đó. Và hình ảnh một nước Vạn Xuân với các đế
vương của nó đang thách thức triều đình Trung Quốc vẫn còn ám ảnh những
người viết sử như Đạo Tuyên. Cho nên, ông đành im lặng chứ không thể
ăn nói như Tỉnh Mại, sau này đối với nguồn gốc quê quán của Khương
Tăng Hội.
Nhân đây, cần nói trước một chút
về mẫu tin của Tỉnh Mại có liên quan đến thời điểm Khương Tăng Hội
đến Kiến Nghiệp. Mại nói: "Vào năm Xích Ô thứ 4 nhằm Tân Dậu
(241), Hội chống gậy đến Kiến Khương, dựng lập lều tranh, thiết tượng
hành đạo. Tới năm thứ 10 nhằm năm Đinh mão (247) nước Ngô cho là lạ
lùng. Có ty tâu lêu, Vua cho gọi Hội hỏi..."Vậy Khương Tăng Hội đến
Trung Quốc từ năm 241, chứ không phải năm 247, như các tư liệu trước và
sau thời Tỉnh Mại đã có. Tuy nhiên, do mại không cho biết xuất xứ của
mẫu tin cùng với việc sai lầm về sinh quán của Khương Tăng Hội, chúng
ta chỉ nhắc tới ở đây để tham khảo thêm. Khi Hội hơn 10 tuổi, cả
cha mẹ Hội đều mất. Chôn cất xong, ông xuất gia ở trong một ngôi chùa
Việt Nam, và được dạy dỗ cẩn thận không chỉ ba tạng kinh điển của
Phật giáo, mà còn cả sáu kinh của nho giáo, cả thiên văn đồ vĩ, thậm
chí khoa ăn nói và nghệ thuật viết lách. Sau đó, ông thọ đại giới Tỳ-kheo.
Rồi đến năm 247 ông qua Trung Quốc truyền giáo ở Kiến Nghiệp. Năm 247 là
một thời điểm đáng chú ý, vì Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định
Việt sử thông giám cương mục ghi là năm sau 248 hai anh em Triệu Quốc Đạt
và Triệu Thị Trinh khởi nghĩa, đánh chiếm Giao Châu thành công. Đây là một
cuộc khởi nghĩa lớn đã làm toàn bộ "Giao Châu tao động" như Ngô
Chí 16 tờ 10a5 đã ghi: "Tôn Quyền sai Lục Dận làm An Nam hiệu úy qua
nước ta "đánh dẹp". Nhưng truyện của Lục Dận trong Ngô Chí 16
tờ 10a 4-9 nói: "Xích Ô năm 11 (248) giặc mọi Giao Chỉ Cửu Chân đánh
chiếm thành ấp, Giao bộ tao động, lấy Dận làm Giao Châu thứ sử An Nam
hiệu úy. Dận vào cõi Nam, dùng ân tín dụ dỗ, nhằm mục đích chiêu nạp.
Chi đảng của cừ soái Cao Lương là Hoàng Ngô v.v... hơn ba nghìn nhà đều
ra hàng. Rồi dẫn quân nam tiến, lại tuyên bố sự chí thành (của triều
đình) dùng tiền của đút lót, tướng giặc hơn trăm người, dân hơn 5 vạn
nhà lánh sâu không chịu lệ thuộc, không ai là không cúi đầu (theo). Cõi
Giao yên bình, được phong An Nam tướng quân. Lại đánh giặc Kiến Lăng của
Thương Ngô, phá được. Trước sau ra quân hơn 8000 người, sung làm quân dụng".
Như vậy, cuộc khởi nghĩa của Bà
Triệu, dựa chính ngay tài liệu của kẻ thù, không phải bị vũ trang
"đánh dẹp" mà đã được "thương thả" trước thì bằng
"ân tín" rồi sau dùng "tiền của" (tài tệ) đút lót. Đây
phải nói là một phương thức đánh dẹp khá khác thường. Song đối với
Lục Dận ta có thể hiểu được bản thân Dận vào khoảng những năm 242
- 245 đã bị tù và tra khảo suýt chết do dính líu vào việc phế lập Tôn
Hòa. Vì thế, có thể Lục Dận không mấy đậm đà với chính quyền nhà
Ngô, và có khả năng có cảm tình với phe khởi nghĩa. Thêm vào đó cũng
do dính líu vụ phế lập Cố Đàm và em ruột là Cố Thừa bị đày và chết
ở nước ta. Đàm là cháu nội của thừa tướng Cố Ung và cháu ngoại của
thừa tướng Lục Tốn (183-245), bị đày khoảng năm 245 và mất hai năm sau
trong niềm uất hận, hưởng dương 42 tuổi. Cuộc khởi nghĩa năm 248 như
thế bùng nổ ra không chỉ với lực lượng chủ lực là sự bất mãn và
đòi độc lập của nhân dân ta, mà còn được tiếp sức thêm với lực lượng
các thành phần người Trung Quốc bất mãn trống sang hay bị đày sang nước
ta sống. Ngoài ra, ta phải kể đến vai trò những người như Khương Tăng
Hội trong việc ảnh hưởng tới các nhân vật lịch sử như Lục Dận. Ngày
nay không có một tư liệu nào nói xa gần đến mối liên hệ có thể ấy
một cách minh nhiên. Nhưng trong Thiên nam ngữ lục khi mô tả cuộc khởi
nghĩa của bà Triệu, có hai câu:
- Những tài sãi vãi đi tu
- Nam Mô lạy Bụt đi cho khỏi mình.
Điều này rõ ràng Chân Nguyên
muốn nói đến vai trò các nhà sư Phật giáo trong cuộc khởi nghĩa ấy với
việc Bà Triệu thúc đẩy một số họ qua Trung Quốc thực hiện nhiệm vụ
dàn xếp chăng. Ta thực khó trả lời.
Dẫu sao, sau khi "thương thảo"
thành công với phe khởi nghĩa và trở về Kiến Nghiệp, Lục Dận lại xin
trở sang làm việc ở Giao Châu, nhưng không phải ở nước ta, mà ở Quảng
Châu, vì theo bài biểu của Hoa Hoạch trong Ngô Chí 16 tờ 10b3 thì "thủ
phủ của châu ngó ra biển, sông chảy ra biển mùa thu mặn, Dận lại trở
nước, dân được ăn ngọt". "Thủ phủ của châu" (Chân trị)
mà "ngó ra biển" (lãm hải) thì chắc chắn không phải Long Biên
hay Luy Lâu được, mà phải là Quảng Châu.
Điều đáng tiếc là phần đầu nầy
đã không cho biết ông sinh năm nào và khi qua Trung Quốc vào khoảng mấy tuổi.
Tuy nhiên, căn cứ vào năm qua Kiến Nghiệp là Xích Ô thứ 10 (247) đời Tôn
Quyền và năm mất là Thái Khương thứ nhất (280) nhà Tấn, ta thấy Khương
Tăng Hội hoạt động ở Trung Quốc hơn 30 năm. Vậy thì, ông qua Kiến Nghiệp
ít lắm cũng phải vào khoảng 30 tuổi, nếu không là lớn hơn, bởi vì khi
qua đó, ông đã có những đồ đệ của mình. Do thế, Khương Tăng Hội có
thể sinh vào khoảng những năm 200 đến 220 sdl.
Khương Tăng Hội ở Trung Quốc [^]
Năm 247 Khương Tăng Hội lúc ấy
khoảng 30-50 tuổi, đã đến Kiến Nghiệp. Khi Hội "đến Kiến Nghiệp,
dựng lên lều tranh, đặt tượng hành đạo" thì các viên chức báo
cho Tôn Quyền. Tất cả các tiểu truyện của Hội trong Xuất tam tạng ký
tập, Cao Tăng truyện cho đến Đại Đường nội điển lục 2 ĐTK 2149 tờ
230a21 - c23, Cổ kim dịch kinh đồ kỷ 1 ĐTK 2151 tờ 352a26 - b22, Khai Nguyên
Thích giáo lục 2 ĐTK 2154 tờ 490b14-491b23 và Trinh nguyên tân định thích
giáo mục lục 3 ĐTK 2157 tờ 787c13-788c21 đều nhất trí nói, khi nghe tin
báo, Quyền cho mời Hội đến hỏi trực tiếp. Riêng trong lời tựa cho phần
Nam ngô Tôn thị truyền dịch Phật kinh lục của Đại Đường nội điển
lục 2 tờ 227b7-13, Đạo Tuyên không biết lấy tư liệu ở đâu, lại viết:
"Đến khi Tăng Hội mới tới đặt tượng đãi chay, bấy giờ cho là lạ
lùng, đem hỏi thượng thư lịnh Hám Trạch: "Theo Phật lan tràn từ đời
Hán Minh, truyền vào đã lâu, sao bây giờ mới đến Giang Đông?" Trạch
trả lời: "Từ lúc Ma Đằng mới đến Lạc Dương, khi đạo sĩ mười
tám đạo quán núi Ngũ Nhạc đọ sức, đạo sĩ không bằng. Đạo sĩ Nam
Nhạc Tự Thiện Tín tự cảm mà chết. Đệ tử đem thây về chôn Nam Nhạc.
Không người truyền bá, nên nay mới đến đây".
Khảo truyện Hán Trạch trong Ngô
Chí 8 tờ 5a9 - 64b không thấy ghi Trạch có tham gia việc bàn luận sự có mặt
của Khương Tăng Hội ở Kiến Nghiệp, dù đó là một có thể, bởi bản
thân Trạch dẫu là một nhà nho, cũng có khuynh hướng muốn học những
phương thuật "dị đoan". Truyện Triệu Đạt của Ngô Chí 18 tờ
3b3 chép việc Hám Trạch đòi học phép bói biến hóa của Đạt, nhưng bị
Đạt từ chối.
Dẫu sao đi nữa, khi đến Kiến
Nghiệp, Tôn Quyền đã cho mời Hội đến. Tăng Hựu trong Xuất tam tạng ký
tập 13 ĐKT 2145 tờ 96b5-6 viết: "Bấy giờ Tôn Quyền xưng đế Giang Tả,
mà chưa có Phật giáo. Hội muốn chuyển đưa đại pháp đến, nên chống
gậy đông du". Viết thế này, rõ ràng Tăng Hựu muốn nói Phật giáo
chưa có mặt ở Kiến Nghiệp, khi Tôn Quyền cầm quyền vào năm 281. Tất
nhiên, viết vậy là không đúng lắm, bởi vì chính bản thân Tăng Hựu
cũng biết và đã ghi lại tiểu sử của Chi Khiêm trong Xuất tam tạng ký tập
13 ĐKT 2145 tờ 97b13-c18 Hựu nói: "Sau Ngô chúa Tôn Quyền nghe Khiêm học
rộng có tài trí, cho mời gặp, nhân đó hỏi nghĩa sâu kín trong kinh.
Khiêm tùy cơ giải thích, không có nghi ngờ gì là không bẻ gãy. Quyền rất
vui, phái làm bác sĩ, sai phụ đạo đông cung... Từ Hoàng Sơ năm thứ nhất
(221) đến trong khoảng Kiến Hưng (252-3) ông dịch ra được 27 kinh như Duy
ma cật, Đại bát nê hoàn, Pháp cú, Thụy ứng bản khởi....
Hơn nữa, khi Khương Tăng Hội viết
An ban thủ ý kinh chú ông đã may mắn gặp Hàm Lâm từ Nam Dương, Bì Nghiệp
từ Dĩnh Xuyên và Trần Huệ từ Cối Kê, như An bản thủ ý kinh tự trong
Xuất tam tạng ký tập 16 tờ 43b26-29 đã ghi: "Song phước xưa chưa hết,
may gặp Hàm Lâm từ Nam Dương, Bì Nghiệp từ Dĩnh Xuyên, Trần Huệ từ Cối
Kê... tôi theo xin hỏi, ý đồng lý hợp, nghĩa không sai khác, Trần Huệ
chú nghĩa, tôi giúp châm chước..." Điều này chứng minh ở các địa
phương khác nhau của miền nam Trung Quốc, mà cụ thể là Nam Dương, Dĩnh
Xuyên và Cối Kê, Phật giáo đã lan truyền khá mạnh mẽ và có những người
theo đạo một cách chân thành và có học thức như Hàm Lâm, Bì Nghiệp và
Trần Huệ, mà Khương Tăng Hội đi theo để "thỉnh vấn" về kinh
điển. Ba người này có thể Hội gặp ở nước ta, nhưng cũng có thể gặp
ở Kiến Nghiệp. Khả năng gặp ở Kiến Nghiệp là khá lớn, vì lúc bấy
giờ ở nước ta thì ngoài "ba thầy" của Hội ra, hẳn phải còn
những vị thầy khác có học thức, mà Hội có thể đến hỏi, như vị thầy
của Đạo Thanh, người bút thọ bản kinh Pháp Hoa tam muội của Chi Cương
Lương Tiếp năm 256, mà vào thời Hội chuẩn bị qua Kiến Nghiệp chắc hẳn
còn sống.
Như vậy, khi Tôn Quyền "xưng
đế Giang Tả" vào năm 221, ở Kiến Nghiệp đã có Phật giáo và đang
hoạt động một cách rộn rịp với sự nghiệp dịch thuật của Chi
Khiêm. Cho nên, nói như Tăng Hựu lúc ấy Kiến Nghiệp "chưa có Phật
giáo" là không chính xác. Có lẽ vì nhận ra thiếu sót này của Tăng Hựu,
Huệ Hạo đã cho điều chỉnh lại một câu "mà chưa có Phật
giáo" của Xuất Tam tạng ký tập thành câu "mà Phật giáo chưa hoạt
động" (nhi Phật giáo vị hành). Rồi sau sâu đấy, Huệ Hựu cho bắt
đầu tiểu sử của Chi Khiêm. Tới hết tiểu sử của Khiêm, Huệ Hạo một
lần nữa lại thêm một câu, mà bản tiểu sử của Khương Tăng Hội do
Tăng Hựu viết không có, đó là: "Bấy giờ đất Ngô mới nhiễm giáo
pháp vĩ đại, phong hóa chưa tròn. Tăng Hội muốn khiến đạo nỗi Giang Tả,
dựng xây quốc tự". Sau câu này, Huệ Hạo mới tiếp lại câu
"nên chống gậy đông du".
Điều chỉnh lại như thế, Huệ Hạo
rõ ràng muốn xác nhận Phật giáo đã có mặt ở Kiến Nghiệp, nhưng chưa
phải tôn giáo của triều đình. Cho nên chỉ có chùa của dân lập, mà chưa
có quốc tự, tức chùa của nhà nước. Nhiệm vụ của Khương Tăng Hội vì
vậy là nhằm thuyết phục Tôn Quyền tin theo Phật giáo và công nhận như
một tín ngưỡng nhà nước thể hiện bằng việc xây chùa dạng quốc tự.
Khương Tăng Hội thực hiện nhiệm vụ này như thế nào?
Sau khi đến Kiến Nghiệp "cất
nhà tranh, bày tượng hành đạo", Khương Tăng Hội được đám quan chức
nhà Ngô báo lên Tôn Quyền là "có người Hồ nhập cảnh, tự xưng
Sa-môn, mặt mày áo quần chẳng thường". Tôn Quyền biết đó là một
người Phật giáo, bèn cho gọi Hội đến hỏi: "Có gì linh nghiệm".
Hội bảo: "Đức Phật mất thoắt hơn nghìn năm, nhưng Xá-lợi vẫn
còn, thần diệu khôn sánh". Quyền nói: "Nếu được Xá-lợi, thì
sẽ dựng tháp thờ". Qua ba tuần, đến canh năm ngày 21 thì Hội cầu
được Xá-lợi, mà lửa đốt không cháy, chày kim cương đập không nát.
Quyền xem thán phục, nên xây tháp nơi chỗ nhà tranh của Hội và gọi
chùa là Kiến Sơ, còn vùng đất xung quanh gọi là xóm Phật (Phật đà
lý).
Cứ vào Tăng Hựu và Huệ Hạo, việc
Khương Tăng Hội thuyết phục Tôn Quyền theo Phật giáo biểu lộ qua việc
dựng chùa và tháp là hoàn toàn thành công và thành công rực rỡ. Tuy
nhiên, cứ vào chính bản kỷ của Tôn Quyền trong Ngô Chí 2 ta không có một
thông tin nào về biến cố theo đạo Phật của Tôn Quyền cả. Dẫu vậy,
qua những nguồn khác ta biết Tôn Quyền bản thân là một người có ít
nhiều khuynh hướng tôn giáo, hay ít nhất, có khuynh hướng tâm lý thích những
việc "linh nghiệm" Ngô Chí 12 tờ 4a6-9 khi nói về lý do Ngu Phiên
(164 - 233) bị đày ra Giao Châu, đã viết: "Phiên tính thẳng thắn dễ
dãi, nhiều lần uống rượu say. Quyền cùng Trương Chiêu bàn đến thần
tiên. Phiên chỉ Chiêu nói: "Chúng đều là người chết, mà nói chuyện
thần tiên. Đời há có người tiên ư?" Quyền nén giận nhiều lần,
bèn đày Phiên ra Giao Châu ... Ở miền nam mười lăm hơn, mất lúc 70 tuổi.
Việc Ngu Phiên bị đày, tất không
phải chỉ phát xuất từ chuyện phê phán thần tiên, mà còn vì tính Phiên
"sơ trực" và "có tửu thất". Điểm lôi cuốn ở chỗ
Tôn Quyền với tư cách một người kinh bang tế thế lúc bấy giờ đang nắm
hết quyền hành ở miền Nam Trung Quốc và tuổi tương đối còn trẻ, khoảng
39 tuổi (Quyền sinh năm 182 và mất năm 252), thế mà vẫn quan tâm đến bàn
luận thần tiên và bàn luận với một trọng thần của mình là Trương
Chiêu. Điều này phơi bày ít nhiều khuynh hướng tâm lý thích những việc
"linh nghiệm" của Quyền, bởi vì chuyện "thần tiên" mà
Quyền và Trương Chiêu bàn ở đây thuộc dạng chuyện thần tiên của những
người tiên như Can Cát, kẻ bị chính anh ruột Tôn Quyền là Tôn Sách giết,
và Đổng Phụng, người có công đưa thuốc cứu sống Sĩ Nhiếp. Dạng thần
tiên này mang tính pháp thuật linh nghiệm, mà phía Phật giáo như Mâu Tử
cùng như phía nho gia như Ngu Phiên đều không đồng tình và phê phán mạnh
mẽ.
Không những thích bàn chuyện
"thần tiên", Tôn Quyền còn đòi học những phép thuật linh nghiệm.
Truyện Ngô Phạm trong Ngô Chí 18 tờ 1b11 - 13 ghi Phạm "chiêm nghiệm
rõ đúng như thế, Quyền cho Phạm làm kỵ đô úy lĩnh chức thái sử lịnh.
Quyền nhiều lần thăm hỏi muốn biết bí quyết. Phạm dấu, tiếc phép
thuật của mình, nên không đem điểm chí yếu nói cho Quyền. Quyền do thế
tức giận". Rồi truyền Triệu Đạt cũng trong Ngô Chí 18 tờ 3b13 - 4a1
ghi: "Quyền hỏi phép thuật của Đạt, Đạt rốt cuộc không nói, do
thế bị đối xử tệ bạc, bổng lộc và địa vị không tới". Trong
cácphép thuật của Đạt, truyện kể có hôm Đạt được mời ăn, chủ nhà
nói vì gấp nên thiếu rượu, Đạt lấy một chiếc đũa làm phép, bảo chủ
nhà đào dưới vách phía đông nhà thì được một hộc rượu ngon và cân
thịt nai. Vậy, những phép thuật của Ngô Phạm và Triệu Đạt đều thuộc
loại phép thuật linh nghiệm. Và Tôn Quyền ưa thích không những trong việc
dùng họ, mà còn muốn học nữa.
Chính khuynh hướng tâm lý ưa thích
những việc linh nghiệm đó của Tôn Quyền giúp ta lý giải quan hệ giữa
Khương Tăng Hội và Tôn Quyền có khả năng xảy ra, như Tăng Hựu và Huệ
Hạo đã ghi, chứ không phải là các sự kiện hư cấu thường gặp phải
trong các tác phẩm lịch sử tôn giáo. Khuynh hướng ấy tạo thời cơ thuận
lợi cho Khương Tăng Hội phát huy hết tác dụng những phương tiện thuyết
phục của mình, mà trong đó nổi bật nhất là việc cầu Xá-lợi. Qua 21
ngày Khương Tăng Hội đã thành công cầu được Xá-lợi, từ đó thuyết
phục được Tôn Quyền theo Phật giáo và dựng chùa. Cho nên những sự kiện
liên hệ đến quá trình thuyết phục Tôn Quyền của Khương Tăng Hội bây
giờ ta thấy có dáng dấp của sự thật và thực tế phản ảnh được
ít nhiều quan điểm giáo lý của chính bản thân Khương Tăng Hội.
Cốt lõi của quan điểm này là
lòng chí thành và tư tưởng cảm ứng. Nó đã trở thành cột sống của nền
Phật giáo nước ta từ thế kỷ thứ III đến thứ V, mà cụ thể khoảng
năm 450, khi những người Phật tử Việt Nam bắt đầu nghi ngờ và gây ra
cuộc tranh cãi giữa Lý Miểu và hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh trong sáu
lá thư xưa nhất của văn học và Phật giáo nước ta. Chủ đề của cuộc
tranh cãi xuất phát từ câu hỏi của Lý Miễu là "Tại sao tu mà không
thấy Phật?" Câu trả lời của cả Đạo Cao lẫn Pháp Minh là vì ta chưa
đủ chí thành, nên chưa cảm ứng được Phật. Câu trả lời nghe sao gần
gũi với câu than của Khương Tăng Hội hai trăm năm trước: "Phép
thiêng phải xuống mà chúng ta không cảm được!".
Thông thường về sau người ta quan
niệm phạm trù cảm ứng là một bộ phận của tín ngưỡng dân gian mang
tính quần chúng chất phát. Nhưng ở đây vào thời Khương Tăng Hội và Đạo
Cao, Lý Miểu, nó là một chủ đề tư tưởng hàng đầu, một tín niệm
xuyên suốt của không những các Phật tử bình thường, mà còn của giới
trí thức, của nền tư duy bác học. Nó thể hiện được học phong của
giới Phật giáo thời đại đó, một học phong cột chặt tu với học, đạo
với đời, tư duy với thực tiễn, tín ngưỡng với thể nghiệm. Không những
thế, nó còn được xử dụng như một phương tiện để thuyết phục người
ngoài Phật giáo tin vào Phật giáo, trao cho họ một niềm tin để sống và
hành xử ở đời.
Tất nhiên, cảm ứng như một phạm
trù tư tưởng không phải là mới mẻ gì, và nhất thiết không phải là một
phạm trù đặc thù của Phật giáo. Nó đã tồn tại rất lâu trước khi
Phật giáo truyền vào nước ta và Trung Quốc thể hiện qua những ước mơ
kiểu "trông trời, trông đất, trông mây, trông mưa, trông gió, trông
ngày, trông đêm, trông cho chân cứng đá mềm/Trời êm bể lặng mới yên
tấm lòng/". Việc cầu đảo có mưa, có nắng, có con trai, có tiền bạc
của cải chắc hẳn đã tồn tại trước thời Khương Tăng Hội. Điểm đáng
chú ý là nếu ngày trước người ta cầu xin trời đất, quỷ thần thì
bây giờ người ta cầu xin đức Phật. Đức Phật được quan niệm lại,
để có thể đưa vào thần điện bản xứ, nhằm Phật giáo hóa thần điện
ấy. Đối với Tôn Quyền, việc Khương Tăng Hội cầu được Xá-lợi đã
thiết thực xác lập tính ưu việt mà chính thống của niềm tin Phật
giáo, của thần điện mới này, trong đó đức Phật là nhân vật trung
tâm.
Việc cầu Xá-lợi ấy, Khương
Tăng Hội tiến hành trong ngôi nhà tranh, mà ông cho "thiết tượng"
để hành đạo. Tượng đây có thể là một bức tranh vẽ, mà cũng có thể
là một pho tượng gỗ, đất hay đồng do Khương Tăng Hội mang theo từ Việt
Nam. Dù tượng vẽ, gỗ, kim loại hay đất, điểm lôi cuốn vẫn là nó phải
được mang từ Việt Nam sang Kiến Nghiệp, bởi vì Khương Tăng Hội qua để
truyền giáo, thì không lý do gì mà không mang theo những đồ thờ cúng và
sách vở, mà ông biết ở đó không có, hoặc có đi nữa thì cũng giới hạn.
Do thế, bức tượng hay pho tượng này là thông tin thành văn đầu tiên hiện
biết về nghề làm tượng và nghệ thuật tranh tượng của Phật giáo Việt
Nam và lịch sử nghệ thuật Việt Nam.
Thế thì sau khi đến Kiến Nghiệp
"dựng nhà tranh, thiết tượng hành đạo", Khương Tăng Hội đã
thuyết phục thành công Tôn Quyền theo đạo Phật qua việc cầu Xá-lợi Phật.
Việc cầu này Khương Tăng Hội không tiến hành một mình, mà tiến hành
cùng với các "pháp thuộc" của ông, như cả Tăng Hựu lẫn Huệ Hạo
đã ghi. Điều đó chứng tỏ khi sang Kiến Nghiệp, ông không đi một mình,
mà còn có các đồ đệ, tức các "pháp thuộc" của ông. Các pháp
thuộc này hẳn phải đến từ Việt Nam, để sau đó khi xây dựng xong
chùa Kiến Sơ do lệnh Tôn Quyền, họ đã ở lại quanh chùa và lập thành
một xóm gọi là "xóm Phật" (Phật đà lý).
Nhiệm vụ đầu tiên thuyết phục
Tôn Quyền theo Phật giáo của Khương Tăng Hội như thế đã được hoàn
thành thắng lợi. Cuộc sống của ông và những môn đồ đi theo bây giờ
ổn định. Quyền đã xây dựng xong chùa Kiến Sơ, để thờ Xá-lợi và để
Hội ở. Các môn đồ thì được phép ở quanh chùa. Cho nên, Hội bắt đầu
tiến hành công tác thứ hai là phiên dịch các kinh điển Phật giáo và trước
tác các tác phẩm để phổ biến giáo lý và tư tưởng cho những người
tin theo.
Xuất tam tạng ký tập 2 nói Khương
Tăng Hội dịch Lục độ tập kinh và Ngô phẩm vào "đời Ngô chúa
Tôn Quyền và Tôn Lượng". Tôn Quyền lên ngôi năm 222 và mất năm 262
thọ 70 tuổi. Mà Khương Tăng Hội qua Kiến Nghiệp năm Xích ô thứ 10
(247),lúc Quyền đã 65 tuổi. Theo Lịch đại tam bảo ký cũng như Đại Đường
nội điển lục và Khai Nguyên Thích giáo lục thì Khương Tăng Hội dịc Lục
độ tập kinh xong vào năm Thái nguyên thì chết (251), tức một năm trước
khi Quyền mất. Vậy, việc tiến hành phiên dịch Lục độ tập kinh có thể
xảy ra, sau khi Khương Tăng Hội cầu Xá-lợi thành công và dựng chùa, tức
khoảng từ năm 240 trở đi. Và công tác này được thực hiện một cách
tuần tự bằng cách cho dịch các kinh trọng yếu trong Lục độ tập kinh
như A ly niệm di, Kính diện vương, Sát vi vương và Phạm hoàng vương trước,
để đáp ứng yêu cầu học tập và giảng dạy giáo lý cấp thiết trước
mắt, rồi sau mới tiếp tục và hoàn thành vào năm Thái Nguyên thứ nhất
(251).
Đến tháng tư năm Thần Phượng thứ
nhất (252), Tôn Quyền mất, Tôn Lượng lên thay, Tôn lâm giết Toàn Thương,
Lưu Thừa, phế Lượng làm Cối Kê vương, tôn người con thứ 6 của Tôn
Quyền là Tôn Hựu lên làm vua. Như thế, nếu Lục độ tập kinh được dịch
vào năm 251, thì Đạo phẩm phản dịch vào khoảng những năm 251 đến 258,
khi Tôn Lượng bị phế và Tôn Hựu lên ngôi.
Năm 258 này, lịch sử Phật giáo
Trung Quốc có một biến cố lớn, đó việc Tôn Lâm (231 - 258) ra lệnh đốt
miếu Ngũ Tử Tư ở đầu Cầu lớn, lại phá chùa Phật, giết các sư (thiêu
Đại Kiều đầu Ngừ Tử Tư miếu, hựu hoại Phù đồ tỳ, trảm đạo nhân),
như truyện Tôn Lâm trong Ngô Chí 19 tờ 17a6 đã ghi. Tiểu sử của Khương
Tăng Hội trong Xuất tam tạng ký tập cũng như trong Cao Tăng truyện lại nói
việc "phế bỏ dâm từ, cho đến chùa Phật cũng muốn huỷ hoại".
Xảy ra vào lúc "Tôn Hạo lên ngôi", nhưng nhờ quần thần can gián,
nói "Khương Tăng Hội cảm thụy, Thái hoàng (tức Tôn Quyền) dựng
chùa", nên Hạo mới không phá chùa của Hội.
Khảo chính bản kỷ của Hạo trong
Ngô Chí 3 và các nhân vật liên hệ với triều đại của Hạo như thừa
tướng Bộc Dương Hưng, tả tướng quân Trương Bố v.v... thì trong thời
gian Hạo trị vì từ năm 264 - 280, không một lần Hạo ra lịnh "phế bỏ
dâm từ, cho đến chùa Phật cũng muốn hủy hoại". Việc "phế bỏ
dâm từ" và "muốn hủy hoại chùa Phật" này cũng không xảy
ra trong đời Tôn Quyền và Tôn Lượng. Vậy nó chỉ xảy ra vào đời Tôn
Hựu (258 - 264) do Tôn Lâm ra lệnh, như đã thấy. Ngày mậu thìn 27 tháng 9
năm Thái Bình thứ 3 (258), Tôn Lâm bắt Toàn Thượng đày ra Linh Lăng, sai
em Tôn Ân giết Lưu Thừa, rồi đưa con của Tôn Quyền là công chúa Lỗ
Ban ra Dự Chương Tôn Lương làm Cối Kê vương. Xong Tôn Lâm sai Tôn Giai và
Đông Triều ra Cối Kê đón Tôn Hựu về. Ngày Kỷ Mão 18 tháng 10, Hựu về
đến Kiến Nghiệp nhân tỷ phù lên ngôi. Thực hiện hoàn tất việc phế
lập thì Lâm càng phóng túng, khinh mạn dân thần, bèn đốt miếu Ngũ Tử
Tư ở đầu Cầu lớn, lại phá hủy chùa Phật, chém các nhà sư. Lệnh đốt
miếu phá chùa này như vậy không thể xảy ra sớm hơn ngày Kỷ Mão 18
tháng 10, vì đây là ngày Tôn Giai đưa Tôn Hưu về Cối Kê đến Kiến Nghiệp
nhận "tỷ phù" lên ngôi, và phải trước ngày Mậu Thìn 7 tháng 12
cùng năm, khi Tôn Hưu bắt và giết Lâm tại triều. Lệnh ấy do Tôn Lâm
ra, chứ không phải Tôn Hạo, như Tăng Hựu và Huệ Hạo đã ghi. Có thể Tăng
Hựu và Huệ Hạo không sai, nhưng việc truyền tả Xuất tam tạng ký tập
và Cao Tăng truyện về sau đã chép lộn Tôn Lâm thành Tôn Hạo, như đã thấy,
nên mới có sự kiện lệnh trên được gắn cho Tôn Hạo.
Dẫu sao, lệnh "phá hủy chùa
Phật, chém các nhà sư" chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi
chưa tới hai tháng, và bản thân Tôn Lâm lại có quá nhiều kẻ thù, từ
người mà Tôn Lâm phò lên làm vua là Tôn Hưu (235 - 264) cho đến các đại
thần như Trương Bố, Đinh Phụng, Ngụy Mạo v.v... và có quá nhiều công
việc từ chuyện bố trí lại quân đội cho đến việc xếp đặt tổ chức
lại chính quyền trung ương. Cho nên, lệnh ấy không phát huy được hiệu
lực của nó, mà dấu hiệu cụ thể và hùng hồn là chùa Kiến Sơ không
thấy ghi bị phá và Khương Tăng Hội vẫn sống cho tới tuổi già của
mình để mất vào năm 180, hơn 20 năm sau khi Tôn Lâm đã chết.
Điểm lôi cuốn là tại sao Tôn
Lâm lại ra lệnh cho đốt miếu Ngũ Tử Tư và phá chùa giết sư? Trả lời
câu hỏi này, ta hiện không có những bằng chứng rõ rệt. Tuy nhiên, qua lệnh
đó ta thấy Phật giáo Kiến Nghiệp mười năm sau khi Khương Tăng Hội qua
truyền giáo đã phát triển mạnh mẽ trong giới cầm quyền và có một ảnh
hưởng nhất định, đến nổi Tôn Lâm phải ra lệnh triệt hạ. Sự thực,
trong các nhân vật mà Tôn Lâm xử lý, bao gồm thái thường Toàn Thượng,
tướng quân Lưu Thừa, đại tư mã Đằng Dận, tướng quân Lữ Cứ, Vương
Đôn, Vĩnh Khương, Hầu Tôn Hiến và đặc biệt công chúa Lỗ Ban, con gái
của Tôn Quyền, một số các nhân vật này chắc chắn phải có liên hệ với
Phật giáo, nếu không trong tư cách chính trị, thì cũng trong tư cách Phật
tử. Và một số nhà sư chắc chắc đã có quan hệ với họ vượt ra ngoài
giới hạn quan hệ Phật tử bình thường. Có lẽ vì thế, mà bản thân mạng
sống họ và chùa chiền đã bị đe dọa bởi lệnh nói trên của Tôn Lâm.
Nói cụ thể hơn, Phật giáo Kiến Nghiệp, nếu không nói là Phật giáo miền
Nam Trung Quốc, đã trở thành một thế lực có một sức mạnh chính trị
phải quan tâm.
Sau khi lệnh phá chùa giết sư được
dẹp bỏ nhờ đám quần thần can gián, theo Tăng Hựu và Huệ Hạo, thì
Tôn Hạo sai Trương Dực đến chùa hỏi chuyện Khương Tăng Hội. Dực trở
về báo với Hạo là Hội "tài giỏi sáng suốt", không phải Dực
có thể lường được, và xin Hạo trực tiếp thẩm xét lấy. Hạo cho xe
đến chùa đón Hội về cung. Hạo hỏi Hội: "Phật giáo dạy rõ việc
thiện ác báo ứng, có phải thế không?" Hội trả lời là đúng thế,
giống như Kinh Dịch nói "tích thiện dư khánh" và kinh Thi khen
"cầu phước không lui", "cách ngôn của sách nho, tức là minh
huấn của Phật giáo". Hạo hỏi tiếp: "Nếu vậy, thì Chu Khổng
đã rõ, còn dùng Phật giáo làm chi?". Hội trả lời Chu Khổng
"bày sơ dấu gần", còn Thích giáo thì "đầy đủ cả tới chỗ
u vi". Hạo thoả mãn hết chỗ bắt bẻ.
Nhân vật Trương Dục và cuộc đàm
đạo giữa Khương Tăng Hội và Tôn Hạo không thấy có trong Ngô Chí. Điểm
đáng lưu ý ở đây là dù có xảy ra hay không, nó vẫn ít nhiều phản ảnh
trung thực quan điểm của Khương Tăng Hội đối với Nho giáo, bởi vì
quan điểm ở đây Khương Tăng Hội cũng có dịp phát biểu ở một nơi khác,
trong Lục độ tập kinh, qua cửa miệng của anh thợ săn, Hội đã nói:
"Tôi ở đời đã lâu, thấy Nho gia không bằng Phật tử". Do thế,
quan hệ Phật giáo và Nho giáo ngay từ đầu của lịch sử Phật giáo Việt
Nam đã được xác định một cách minh bạch. Tư tưởng Nho giáo có thể
là "minh huấn của Phật giáo", nhưng không thể ngược lại. Phật
giáo còn đề cập đến nhiều vấn đề nữa mà Nho giáo không nói tới.
Vì vậy, nho giáo là một hệ tư tưởng chưa hoàn chỉnh, chưa đầy đủ,
còn nhiều mắc mứu. Chỉ có Phật giáo là hoàn chỉnh, đầy đủ, giải
đáp được hết mọi mắc mứu của con người.
Xác định quan hệ Nho Phật như thế
này tất không phải là một sáng tạo của Khương Tăng Hội, khi qua truyền
giáo ở Kiến Nghiệp, mà là một kế thừa học phong độc lập của nền
giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam thời ông. Như đã thấy, Khương
Tăng Hội khi xuất gia, không chỉ học ba tạng kinh điển của Phật giáo,
ông còn học sáu kinh của Nho giáo và nhiều thứ khác nữa. Lúc học sáu
kinh này, chắc chắn các vị thầy, mà sau này mỗi khi nhắc tới Hội đều
chảy nước mắt thương nhớ, đã dạy cho ông quan điểm của họ về Nho
giáo. Quan điểm này, ngày nay ta không chỉ biết qua những ghi chép lại của
Khương Tăng Hội, mà còn biết qua Lý hoặc luận do Mâu Tử viết trước
khi Khương Tăng Hội sinh một thời gian. Nó xác định Phật giáo như
"sông biển", còn bảy kinh của Nho gia thì như ngòi rạch, giếng suối,
Phật giáo sáng như mặt trời mặt trăng, còn Nho giáo như đèn như đóm
v.v.... Không những chỉ khẳng định tính ưu việt của Phật giáo, Lý hoặc
luận còn đi xa hơn đánh một đòn trí mạng vào não trạng Đại Hán của
người Trung Quốc thời bấy giờ với câu: "Đất Hán vị tất là
trung tâm của trời đất".
Xuất phát từ một học phong độc
lập như thế, nên thái độ và quan điểm của Khương Tăng Hội đối với
Nho giáo tất nhiên phải ảnh hưởng một phần nào, nếu không phải là trọn
vẹn. Với tư cách một người Phật giáo và một nhà truyền giáo Phật
giáo, Khương Tăng Hội hẳn không thể chấp nhận tính ưu việt của Nho giáo,
càng không thể chấp nhận Nho giáo ngang với Phật giáo. Điều thú vị ở
chỗ không chỉ xác định Nho giáo thiếu sót, mà còn đi xa hơn tới việc
phủ nhận Trung Quốc không còn là "trung tâm" của thiên hạ, là
cái rốn của trời đất. Chính bởi được hun đúc trong một học phong như
thế, Khương Tăng Hội mạnh dạn cất bước "đông du", làm nhiệm
vụ khai hóa của mình đối với Kiến Nghiệp, khẳng định một sự thực,
mà sau này Lý Giác vào đời Lê Đại Hành đã mô tả một cách ví von và
thơ mộng, là "ngoài trời còn có trời" (thiên ngoại hữu thiên),
tức là ngoài trời Trung Quốc ra, còn có trời Đại việt.
Qua buổi đàm đạo nói trên không
biết bao lâu, Tăng Hựu và Huệ Hạo kể tiếp là Tôn Hạo sai lính túc vệ
vào hậu cung làm vườn. Họ được một tượng đứng bằng vàng cao mấy
thước, đem trình Hạo. Theo Tăng Hựu, Hạo bảo "đem để trước nhà
xí, đến ngày 8 tháng 4, Hạo đến nhà xí làm ô uế tượng rồi nói:
"Tắm Phật xong", trở về cùng với quần thần cười làm vui. Chưa
tới chiều, bìu dái sưng đau, kêu la không chịu nổi". Nhưng theo Huệ
Hạo, thì Tôn Hạo "sai đem để chỗ bất tịnh, lấy nước do tưới lên,
cùng quần thần cười, cho là vui. Trong chốc lát, cả mình sưng to, chỗ kín
càng đau, gào lên tới trời". Như thế, theo Huệ Hạo, Tôn Hạo không
phải đợi đến ngày 8 tháng 4, ngày đức Phật đản sanh, mới vào nhà
xí làm "ô uế" tượng, mà có lẽ ngay khi đào được, Hạo đã
"lấy nước dơ tưới lên" tượng.
Việc "làm vườn hậu
cung", mà đào được một tượng đứng bằng vàng cao mấy thước, chắc
đã xảy ra trong thời gian Tôn Hạo cho xây dựng cung Chiêu Minh ở phía đông
cung Thái Sơ của Tôn Quyền vào tháng 6 năm Bảo Đỉnh thứ hai (267). Theo
Giang biểu truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô Chí 3 tờ 13a9 - 10, "Hạo
dựng cung mới... mở rộng vườn hào, dựng núi đất lầu đài cực kỳ
khéo lạ". Có thể vì "mở rộng vườn hào", nên Tôn Hạo mới
sai "lính túc vệ làm vườn" và đào được một pho tượng như trên.
Đây là một pho tượng đứng bằng vàng tương đối lớn, vì "cao tới
mấy thước" Trung Quốc.
Khi lính đem tượng đến trình Hạo,
Hạo đã sai đem để ở nhà xí, rồi làm lễ "tắm Phật" theo kiểu
của Hạo. Kết quả là "bìu dái sưng to" (Tăng Hạo) "cả mình
sưng to, chỗ kín càng đau" (Huệ Hạo). Hạo cho thái sử bốc quẻ, bảo
Hạo đã làm xúc phạm một vị thần lớn. Hạo cầu đảo vẫn không bớt.
Cuối cùng trong đám cung nhân có người theo Phật giáo, mới hỏi Hạo đã
đến chùa Phật cầu phước chưa. Hạo hiểu ý, rước tượng đặt lên
chính điện, lấy nước thơm rửa qua mười lần, rồi thắp hương sám hối.
"Hạo cúi đầu trên gối bày tỏ tội lỗi của mình", chốc lát
thì bớt đau.
Hạo cho sứ đến chùa mời Hội
vào cung thuyết pháp, nhân đó xin Hộ cho xem các giới cấm của Tỳ-kheo. Hội
nghĩ giới cấm Tỳ-kheo không thể cho Hạo xem được, nên đã điều chỉnh
135 nguyện của Kinh Bản nghiệp thành 250 giới của Tỳ-kheo, để đưa cho
Hạo xem. Xem xong Hạo càng thêm "ý lành", đến Hội xin thọ năm giới
trong vòng 10 ngày, Hạo hết bịnh, cho sửa đẹp lại chỗ Hội ở, mà theo
Tăng Hựu gọi là chùa Thiên Tử, và ra lệnh cho tôn thất quần thần theo
Phật giáo.
Một lần nữa, tất cả các biến
cố của cuộc đời Tôn Hạo vừa ghi đã không thấy xuất hiện trong bản
kỷ của Hạo ở Ngô Chí 3, kể từ năm Hạo lên ngôi là Nguyên Hưng thứ
nhất (264) cho đến khi đầu hàng nhà Tấn vào tháng tư năm Thiên Kỷ thứ
4 (280). Tháng 9 năm ấy, Khương Tăng Hội đau, rồi mất, không biết thọ
bao nhiêu tuổi, nhưng chắc phải từ 60 tuổi trở lên, nếu giả thiết
ông sinh khoảng những năm 200-220 nói trước được chấp nhận.
Phần hai của bản tiểu sử
Khương Tăng Hội nói tóm, đã ghi lại các hoạt động truyền giáo của
ông ở Trung Quốc tương đối khá tỷ mỷ. Từ việc thuyết phục Tôn Quyền
dựng chùa Kiến Sơ đến việc quy y Tôn Hạo, nó cho thấy sự nghiệp hoằng
pháp của ông thành công rực rỡ, dù chính sử hiện còn của nhà Ngô là
Ngô Chí không có một ghi chép nào.
Sư nghiệp phiên dịch và trước tác [^]
Không chỉ làm công tác truyền
giáo, Khương Tăng Hội còn tiến hành sự nghiệp phiên dịch trước tác.
Như đã thấy, ông dịch Lục độ tập kinh vào năm Thái Nguyên thứ nhất
(251) đời Tôn Quyền và Đạo phẩm vào đời Tôn Lượng (252-258). Cứ Xuất
tam tạng ký tập 2 ĐTK 2145 tờ 7a27-b1, Khương Tăng Hội đã phiên dịch hai
bộ kinh là Lục độ tập kinh 9 quyển và Ngô Phẩm 5 quyển "vào đời
Ngô chúa Ngô Quyền và Tôn Lượng". Xuất tam tạng ký tập là một bản
kinh lục xưa nhất hiện còn đáng tin cậy, vì khi viết nên Tăng Hựu có
tham khảo với bản kinh lục của Đạo An và một số kinh lục khác. Tuy
nhiên, trong bản tiểu sử của Khương Tăng Hội ở Xuất tam tạng ký tập
13 ĐTK 2145 tờ 97a13-16, Tăng Hựu lại viết: "Hội ở chùa Kiến Sơ dịch
ra kinh pháp (như) A nan (?) niệm di kinh, Kính diện vương, Sát vi vương, Phạm
hoàng vương kinh, Đạo phẩm và Lục độ tập kinh, đều khéo được thể
kinh, văn nghĩa doãn chính. Lại chú thích ba kinh là An ban thủ ý, Pháp kính
và Đạo thọ, cùng viết lời tựa cho các kinh ấy, lời lẽ đẹp đẽ,
nghĩa lý vi diệu, đều được hậu thế kính trọng".
Vậy, không chỉ dịch Lục độ tập
kinh và Ngô phẩm hay Đạo phẩm, Khương Tăng Hội còn dịch các kinh A ly niệm
di, Kính diện vương, Sát vi vương và Phạm hoàng vương. Kinh A ly niệm di,
mà Xuất tam tạng ký tập và Cao Tăng truyện đều viết thành A nan niệm
di, ngày nay có mặt trong Lục độ tập kinh. Các kinh Kính diện vương, Sát
vi vương và Phạm hoàng vương đều cũng thế. Hiện chúng cùng kinh A ly niệm
di đã tạo nên bộ phận cuối cùng của Lục độ tập kinh. Vậy phải
chăng tự nguyên thủy Lục độ tập kinh không có các kinh này? Xuất tam tạng
ký tập 4 ĐTK 2145 tờ 25b8 - 9 trong mục tân Tập tục soạn thất dịch tạp
kinh lục đã ghi: "Kính diện vương kinh 1 quyển xuất từ Lục độ tập
kinh, Sát vi vương kinh 1 quyển xuất từ Lục độ tập". Thế thì, tự
nguyên thủy Lục độ tập kinh tự bản thân đó có các kinh đó, rồi sau
mới tách rời ra thành từng bản đơn hành.
Một kiểm soát sơ bộ chính Xuất
tam tạng ký tập cũng cho thấy, ngoài hai kinh vừa nói, Lục độ tập kinh
còn có 20 kinh lưu hành dưới dạng đơn kinh bản, mà Tăng Hựu ghi rõ xuất
phát từ nó. Cụ thể là Di liên kinh (tờ 16b25), Tát hòa đàn vương kinh (tờ
17c6), Mật phong vương kinh (tờ 17c23), Phật dĩ tam sự tiến kinh (22a26, Nho
đồng Bồ-tát kinh (22c18), Bồ-tát dĩ minh ly quỉ thệ kinh (23a25), Điều đạt
giáo nhân vi ác kinh (23c18), Kiệt tham vương kinh (25b11), Sát thân tế cổ
nhân kinh (26c25), Sát long tế nhất quốc nhan kinh (26c26), Bồ-tát thân vi
cáp vương kinh (27b5), Tước vương kinh (27b10), Trung tâm chính hạnh kinh
(29a12), Già la vương kinh (34a6), Càn di vương kinh (34a11), Thái tử Pháp thí
kinh (34a23) Tiên thán trinh (34b9), Bồ-tát tác qui bản sự kinh (34c29), Bồ-tát
vi ngư vương kinh (35a2), Bố thí độ vô cực kinh (36a11).
Vậy, các kinh A ly niệm di, Kính diện
vương, Sát vi vương và Phạm hoàng vương là những đơn hành bản của Lục
độ tập kinh. Bản thân Lục độ tập kinh là một "tập kinh" nên
các kinh trong nó có thể được tách ra và lưu hành độc lập, mà không
ảnh hưởng gì đến nội dung củ húng. Vì thế, ta mới thấy lưu hành một
số lượng lớn đơn hành bản, như vừa thấy. Nếu vậy, tại sao cả
Tăng Hựu lẫn Huệ Hạo đều viết: "Hội ở chùa Kiến Sơ dịch ra
kinh pháp (như) A ly niệm di kinh, Kính diện vương, Sát vi vương, Phạm hoàng
vương kinh, Đạo phẩm và Lục độ tập kinh". Việc ghi tên bốn kinh A
ly niệm di, Kính diện vương, Sát vi vương, Phạm hoàng vương tách riêng ra
với Lục độ tập kinh như thế này hẳn để báo cho chúng ta biết quá
trình phiên dịch của Lục độ tập kinh. Nói cách khác, trong khi tiến
hành phiên dịch Lục độ tập kinh, Khương Tăng Hội đã chọn bốn kinh vừa
nêu dịch và cho lưu hành trước, rồi mới tiếp tục dịch tiếp toàn bộ
bản Lục độ tập kinh còn lại. Sự thực, bốn kinh có một nội dung triết
học sâu xa, đặc biệt kinh A ly niệm di và Sát vi vương. Cho nên, có thể
vì yêu cầu học tập và phổ biến giáo lý cho các tầng lớp trí thức cỡ
từ Tôn Quyền trở xuống, Khương Tăng Hội phải cho chọn và dịch ra một
số kinh cần thiết nhằm đáp ứng đòi hỏi trước mắt. Do thế, mới có
việc Tăng Hựu và Huệ Hạo ghi tên các kinh ấy trước Lục độ tập
kinh.
Sau năm 251 đến năm 258, Khương
Tăng Hội dịch Đạo phẩm. Đạo phẩm mà Xuất tam tạng ký tập 2 gọi
là Ngô phẩm, vì nó được dịch ở triều Ngô của Tôn Quyền, thực chất
là bộ kinh Bát nhã tám ngàn kệ, đúng như Cao Tăng truyện đã nói là Khương
Tăng Hội dịch Tiểu phẩm. Tiểu phẩm đây là Tiểu phẩm bát nhã tám
ngàn kệ, mà Kumarajìva dịch (Cưu Ma La Thập) về sau. Vào thời Tăng Hựu
viết Xuất tam tạng ký tập, Đạo phẩm đang còn lưu hành. Đến khi Phí
Trường Phòng hoàn thành Lịch đại tam bảo ký, nó đã thất lạc. Cho
nên, Đại Đường nội điển lục và Khai Nguyên Thích giáo lục đã xếp
vào loại khuyết bản.
Như thế, theo Tăng Hựu sự nghiệp
dịch thuật Khương Tăng Hội chỉ giới hạn vào Lục độ tập kinh và Đạo
phẩm. Và vì Đạo phẩm thất lạc sớm, nên hiện nay chỉ còn Lục độ tập
kinh. Tuy nhiên, theo Huệ Hạo, Khương Tăng Hội còn dịch Tạp thí dụ kinh.
Xuất tam tạng ký tập 42 ĐTK 2145 hiện ghi có bốn mục ghi Tạp thí dụ
kinh, nhưng không ghi là dịch giả. Ở quyển 4 tờ 21 c11, nó ghi dưới mục
ấy ở tờ 22ạ ghi: "Tạp thí dụ kinh 2 quyển". Rồi ở tờ 31a11,
nó ghi: "Tạp thí dụ kinh 1 quyển, phàm 11 việc. An pháp sư chép Trúc
Pháp Hộ kinh mục có Thí dụ kinh 300 chuyện 25 quyển, xen lẫn không có
danh mục khó có thể phân biệt. Bản mới soạn vừa có được đều liệt
định các quyển để người xem hiểu. Tìm hiểu các bản này phần lớn
xuất phát từ các kinh lớn, có lúc mất tên người dịch, nhưng bản Hộ
cũng dịch ra, hoặc có ở trong đó".
Ba bản Tạp thí dụ kinh, mà Tăng Hựu
vừa liệt kê, đó là các "tân tập mới được, nay đều có bản của
chúng tất cả đều ở kinh tạng" (tờ 32a1 - 7). Cũng ở quyển 4 tờ
32a 3 - 4 dưới mục Điều tân soạn mục lục khuyết kinh, Tăng Hựu viết:
"Tạp thí dụ kinh 80 quyể. Cựu lục có ghi". Bản Tạp thí dụ
kinh này Tăng Hựu bảo là "chưa thấy kinh văn" của nó.
Trong Đại Chính đại tạng kinh
đang lưu hành hiện nay, có một bản Tạp thí dụ kinh 2 quyển thương hạ,
ghi là do Khương Tăng Hội dịch. Vậy, trong bốn bản Tạp thí dụ kinh do Tăng
Hựu kể trên, phải chăng bản 2 quyển là bản của Khương Tăng Hội? Câu
hỏi này hiện không thể trả lời dứt khoát được, vì Tăng Hựu làm việc
khá nghiêm túc, và ông đã không biết ai là dịch giả của bản 2 quyển
ấy. Dẫu thế, ngày nay nếu căn cứ vào nội dung và văn phong của chính bản
Cựu tạp thí dụ kinh hiện còn, ta vẫn có thể kết luận nó là do Khương
Tăng Hội dịch, đặc biệt trong đó có dấu vết của các câu tiếng Việt
cổ, mà cụ thể là chữ "thần thọ", tức thần cây, như ta đã gặp
trong Lục độ tập kinh. Sự nghiệp dịch thuật của Khương Tăng Hội,
như vậy, ngoài bản Đạo phẩm đã mất, hiện đang tồn tại trong Lục độ
tập kinh và Cựu tạp thí dụ kinh.
Bản Cựu tạp thí dụ kinh này có
thể là một bản phác thảo, chứ không phải là một bản phiên dịch thực
thụ, bởi vì nếu phân tích kỹ, một số truyện ta thấy chúng được giản
lược tối đa, và cuối truyện có khi Khương Tăng Hội ghi lại lời bình
luận của vị thầy của ông qua câu: "Thầy nói" (sư viết). Điều
này chứng tỏ ông có thể đã nghe thầy ông giảng những chuyện ấy và
ông ghi lại trong khi ở Việt Nam. Đến lúc qua Kiến Nghiệp, trong những thời
gian rãnh rỗi, ông đem ra nhuận chính và tổ chức lại bản phác thảo ấy
và biến thành Cựu tạp thí dụ kinh. Có lẽ vì tính chất phác thảo này,
nên cho đến thời Tăng Hựu nó vẫn chưa được thừa nhận là một dịch
phẩm của Khương Tăng Hội. Phải đợi hơn ba mươi năm sau, khi Huệ Hạo
viết Cao Tăng truyện, tính kinh điển của nó và tác quyền của Khương
Tăng Hội mới được thừa nhận.
Với tư cách một bản phác thảo
được nhuận chính, Cựu tạp thí dụ kinh chắc hẳn phải được hoàn
thành trong một thời gian dài. Điều này có nghĩa nó đã được ghi chép
ở Việt Nam rồi sau đó qua Trung Quốc mới nhận chính. Và việc nhuận
chính chắc chắn phải xảy ra sau năm 258 cho đến khi Khương Tăng Hội mất
vào năm 280, bởi vì những năm trước đó ông còn lo phiên dịch Lục độ
tập kinh và Đạo phẩm.
Không những phiên dịch, cả Tăng Hựu
lẫn Huệ Hạo đều nói Khương Tăng Hội còn viết chú thích cho ba kinh An
ban thủ ý, Pháp kính và Đạo thọ cùng lời tựa cho chúng. Trong ba bản
này, ngày nay bản chú thích cho kinh An ban thủ ý đang còn, còn hai bản kia
đã thất lạc. Về phần ba bài tựa, hiện được bảo lưu hai bài trong Xuất
tam tạng ký tập 6 ĐTK 2145 tờ 42c29 - 43c3 và tờ 46b19 - c11. Qua hai bài tựa
này, ta có thể giả thiết ba bản chú thích vừa nói phải được viết
ở Trung Quốc. Thứ nhất là lời than về việc mất thầy, nên không thể
hỏi ai được, mà Khương Tăng Hội hai lần nhắc đến trong cả hai bài tựa.
Sự thực nếu Khương Tăng Hội còn ở Việt Nam, thì dù thầy ông có mất
đi, ông vẫn có thể đến hỏi các thầy khác, mà cụ thể là thầy của
Đạo Thanh, người bút thọ của Chi Cương Lương Tiếp trong việc dịch
kinh Pháp Hoa tam muội vào năm Cam Lộ thứ nhất (256) nhà Ngụy, gần mười
năm sau khi Khương Tăng Hội qua Kiến Nghiệp. Thứ hai, trong Pháp kính kinh tự,
Khương Tăng Hội nói ông "mất thầy nhiều năm" (táng sư lịch tải).
"Nhiều năm" đây tất nhiên không thể là năm bảy năm, mà phải
là mười lăm năm trở lên.
Cuối cùng, trong khi viết chú thích
cho An ban thủ ý kinh, theo An ban thủ ý kinh tự trong Xuất tam tạng ký tập
6 ĐTK 2145 tờ 43b26 - 29, Khương Tăng Hội đã gặp ba "người hiền"
là Hàn Lâm từ Nam Dương, Bì Nghiệp từ Dĩnh Xuyên và Trần Huệ từ Cối
Kê. Trong ba nhân vật này, hai người đầu là Hàn Lâm và Bì Nghiệp không
thấy các tài liệu khác nói tới. Còn Trần Huệ, thì trong truyện An Thế
Cao của Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 324a11 - 18, Huệ Hạo đã dẫn một Biệt
truyện của An Thế Cao, nói rằng: "Người trọng đạo ta là cư sĩ Trần
Huệ, người truyền kinh thiền là Tỳ-kheo Tăng Hội". Điều này chứng
tỏ Trần Huệ là một nhân vật có một vai trò khá quan trọng trong lịch
sử Phật giáo Trung Quốc. Vì thế với quê quán ở Cối Kê, Trần Huệ đã
gặp Khương Tăng Hội không phải ở Việt Nam mà phải ở Kiến Nghiệp. Việc
viết các bản chú thích trên như vậy phải xảy ra ở chùa Kiến Sơ, chứ
không phải ở Việt Nam, dù Khương Tăng Hội có thể mang theo một số ghi
chép lời giảng của các vị thầy Việt Nam.
Cũng cứ vào chính An ban thủ ý
kinh tự, "Trần Huệ chú nghĩa", còn Khương Tăng Hội thú nhậ chỉ
"giúp châm chước". Thế phải chăng bản chú thích kinh An ban thủ
ý là do Trần Huệ? Trả lời câu hỏi này, ta có An ban chú tự của Thích
Đạo An cũng trong Xuất tam tạng ký tập 6 ĐTK 2145 tờ 43c22 - 23. Thích Đạo
An viết: "Ngụy sơ Khương Hội vì kinh làm chú nghĩa. Song nghĩa hoặc tối
chưa rõ, An tôi trộm không tự lượng, dám nhân người trước, là giải
thích ở dưới". Thế rõ ràng viết chú thích cho An ban thủ ý kinh
không phải là Trần Huệ, mà chính là Khương Tăng Hội. Cho nên khi Khương
Tăng Hội chỉ nhận mình "châm chước", có thể ông muốn biểu lộ
một sự khiêm tốn đối với Trần Huệ.
Và điều này càng rõ hơn, lúc ta
đọc hết lời tựa. Sau khi nói: "Trần Huệ chú nghĩa, tôi giúp châm
chước", Khương Tăng Hội còn viết tiếp một câu: "Chẳng do thầy
thì không truyền" (phi sư bất truyền). Như vậy, những chú thích do Khương
Tăng Hội viết cho An ban thủ ý kinh là lấy từ những lời dạy của thầy
ông, chứ không phải là từ ba "vị hiền" là Hàn Lâm, Bì Nghiệp
và Trần Huệ, mà ông đi theo thỉnh vấn. Chính điều này đã cho ta giả
thiết là Khương Tăng Hội khi qua Kiến Nghiệp có mang theo một số ghi
chép lời giảng của các vị thầy ở Việt Nam của ông.
Cần nói thêm là những lời tựa bạt
do Tăng Hựu chép lại trong Xuất tam tạng ký tập đã chịu một quá trình
"sao soạn", như Huệ Hạo đã nhận xét trong truyện của Tăng Hựu
ở Cao Tăng truyện 11 ĐTK 2059 tờ 402c29 - 403a1: "Xưa kia Hựu đã tập hợp
tạng kinh xong, bèn sai người sao soạn yếu sự làm Tam tạng ký, Pháp uyển
ký, Thế giới ký, Thích Ca phổ và Hoằng minh tập v.vv.... đều lưu hành
ở đời". Quá trình sao soạn này đã làm mất đi bao nhiêu diện mạo
thực của các văn bản, ta hiện nay không thể xác định được một cách
chính xác. Tuy nhiên, cứ vào những gì đang có trong tay, ta có thể nói Tăng
Hựu đã ít nhiều cải đổi bộ mặt của văn bản, mà ông cho người
"sao soạn".
Chỉ cần đọc lại Lý hoặc luận
trong Hoằng minh tập 1 ĐTK 2102 tờ 1ằ - 7a22 và các trích dẫn của Kinh
Khê đại sư Trạm Nhiên trong Ma ha chỉ quán phụ hành huyền hoằng quyết
và Hoằng quyết ngoại điển sao thì thấy ngay. Trong trường hợp An ban thủ
ý kinh tự ở đây, ta may mắn có một câu trích của Huệ Hạo trong truyện
của An Thế Cao ở Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 324a27 - b1, nói rằng:
"Chú An ban thủ ý kinh tự của Khương Tăng Hội nói: "Kinh này do
Thế Cao dịch ra lâu bị chìm che, may có Hàn Lâm từ Nam Dương, Văn Nghiệp
từ Dĩnh Xuyên, Trần Huệ từ Cối Kê, ba vị hiền này tin đạo dốc lòng,
Hội cùng họ thỉnh thọ, nên Trần Huệ chú nghĩa, tôi giúp châm chước.
Rõ ràng bản An ban thủ ý kinh tự hiện nay không có hai câu "kinh này
do Thế Cao dịch ra, lâu bị chìm che".
Dẫu sao đi nữa, ta ngày nay vẫn
ít nhiều có được hai bài tựa viết cho kinh An ban thủ ý và kinh Pháp
kính, cùng với bản chú thích kinh An ban thủ ý. Bản chú thích kinh An ban
thủ ý này hiện nay gây không ít khó khăn, vì có sự nhập nhằng giữa lời
chú của Khương Tăng Hội và lời giải của Thích Đạo An, mà An ban chú tự
dẫn trên đã nói tới. Tuy vậy, dù có khó khăn nhập nhằng, điều may mắn
là nó đã tồn tại và sẽ là đối tượng nghiên cứu của chúng ta, để
tìm lại những gì mà thầy của Khương Tăng Hội đã truyền cho ông, và từ
đó xác định hệ tư tưởng nơi vị thày này cũng như của Phật giáo Việt
Nam thời Hội.
Ngoài việc viết ba bản chú thích
và ba bài tựa vừa bàn, Cao Tăng truyện còn nói Khương Tăng Hội "lại
truyền lời bối Nê hoàn réo rắt trầm buồn, làm mô thức cho một thời".
Tiểu sử của Khương Tăng Hội trong Xuất tam tạng ký tập 13 không ghi sự
kiện này. Nhưng quyển 12 ĐTK 2145 tờ 92b3, ghi chép lại nội dung Pháp uyển
tạp duyên nguyên thỉ tập mục lục, c1 ghi Khương Tăng Hội truyền Nê
hoàn bối ký. Điều này chứng tỏ Tăng Hựu có biết việc truyền bá Nê
hoàn bối của Khương Tăng Hội, nhưng đã không ghi vào tiểu sử. Có thể
Tăng Hựu cho Nê hoàn bối tự bản thân là một bài ca bày tỏ cảm tình về
sự viên tịch của đức Phật, nên không xứng đáng để vào sự nghiệp
trước tác của Khương Tăng Hội. Thêm vào đó, tiểu truyện trong các quyển
13, 14 và 15 của Xuất tam tạng ký tập đềy xoay quanh chủ đề phiên dịch
và chú thích kinh điển. Cho nên, có lẽ Tăng Hựu thấy nó không hợp để
ghi vào tiểu truyện một tác phẩm âm nhạc. Cao Tăng truyện của Huệ Hạo
ngược lại đã dành hẳn một mục gọi là kinh sư, để ghi lại những
Cao Tăng giỏi về lễ nhạc Phật giáo Trung Quốc. Cho nên, Huệ Hạo ghi Nê
hoàn bối như một tác phẩm của Khương Tăng Hội là điều tự nhiên.
Khi nói về lịch sử của nền lễ
nhạc này, Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 13 ĐTK 2059 tờ 415b23 - 29 đã viết:
"Khởi nguyên của Phạn bối vốn bắt nguồn từ Trần tư vương khởi
đầu viết Thái tử tụng và Thiệm tụng... Sau đó cư sĩ Chi Khiêm cũng
truyền Phạn bối ba bài đều mai một không còn... Chỉ Khương Tăng Hội sáng
tạo Nê hoàn phạn bối đến nay vẫn truyền, tức Kính yết một bài, lời
lấy từ bản kinh Nê hoàn hai quyển, nên gọi là Nê hoàn bối". Rồi
khi ca ngợi lễ nhạc của chi Đàm Thược là tuyệt vời ở tờ 413c11 - 12,
Huệ Hạo lại nói: "Tuy có Đông a (tức Tào Thực) bắt đầu ở trước,
Khương Hội sáng tạo về sau, đầu cuối tiếp nhau, cũng chưa có ai tuyệt
vời như Thược".
Bối hay Phạn bối là một loại nhạc
bản dùng trong lễ nhạc Phật giáo. Chính Huệ Hạo đã phân biệt nhạc
và bối khác nhau như thế nào ở tờ 414c22 - 28: "Cho nên lời tựa kinh
Thi nói: "Tình động ở trong, thì biểu hiện thành lời nói, lời nói
không đủ, nên vịnh ca". Song lời ca của Đông quốc là kết vận để
thành vịnh, còn tán của phương Tây là làm kệ để hòa thanh. Tuy ca tán
khác nhau, nhưng đều lấy việc hiệp hài chung luật, phù hợp cung thương
thì mới nên hay ho thấm thía. Cho nên, tấu ca vào kim thạch thì gọi nhạc,
diễn tán bằng ống dây thì đặt tên là bối".
Rõ ràng, nói đến bối hay Phạn bối
phải giả thiết người ta biết sử dụng nhạc lý và nhạc cụ, phải hiểu
khả năng diễn xuất và tiết tấu của từng nhạc khí, vì "diễn tán
bằng ống dây thì đặt tên là bối". Ống đây là loại tiêu, địch,
kèn, tù và.... Và dây đây là các loại đàn từ một dây, như đàn độc
huyền, mà Soạn tập bách duyên kinh đã nói tới, cho tới nhiều dây như
tranh, nguyệt, tỳ bà, mà ta thấy khắc trên bệ đá chùa Phật tích.
Cho nên, Nê hoàn bối có thể nói
là một phổ nhạc lời ai điếu của chư thiên trong kinh Niết-bàn bản hai
quyển, Lời văn như thế không phải là một sáng tạo của chính Khương
Tăng Hội. Điểm Khương Tăng Hội sáng tạo là biến nó thành một bản nhạc,
và trở thành Nê hoàn bối. Nê hoàn bối còn có tên Kính yết. Gọi là
Kính yết hẳn ám chỉ đến việc đến yết kiến đức Phật. Nhưng vì yết
kiến Ngài qua Xá-lợi còn để lại, nên có lẽ Khương Tăng Hội mới làm
bài Nê hoàn bối, diễn tả cảm tình nhớ thương vô hạn của những người
con Phật về sau khi chiêm ngắm di cốt của Ngài qua Xá-lợi. Nếu giả thiết
này đúng, thì có thể Nê hoàn bối là một trong những sáng tác phẩm đầu
tiên được viết ở Trung Quốc của Khương Tăng Hội, khoảng những năm
sau khi cầu được Xá-lợi,tức từ năm 247 đến năm 251.
Vậy, viết Nê hoàn bối, Khương
Tăng Hội chứng tỏ không những ông là một trong những người đặt nền
móng cho nền lễ nhạc Phật giáo Trung Quốc, mà còn là một thành tựu kiệt
xuất của nền âm nhạc và giáo dục âm nhạc Việt Nam và Phật giáo Việt
Nam. Lịch sử và truyền thống âm nhạc Việt Nam trước năm 939 khi Ngô Quyền
đánh bại quân Nam Hán, không phải hoàn toàn trống vắng. Với những
thành tựu như Khương Tăng Hội, ta thấy giả thiết về một nền giáo dục
Việt Nam và Phật giáo Việt Nam hoàn chỉnh đa dạng và khai phóng ở trên
là hoàn toàn có thể biện minh và đúng đắn. Chính nền giáo dục hoàn chỉnh
đa dạng cởi mở đó đã tạo nên được những thiên tài có những đóng
góp nhất định cho dân tộc và nhân loại.
Đó là kết quả thiết lập theo Tăng
Hựu và Huệ Hạo. Đến cuối năm cuối Khai hoàng đời Tùy (600) Phí Trường
Phòng viết Lịch đại tam bảo ký ĐTK 2034 đã kê khai tác phẩm của Khương
Tăng Hội gồm "14 bộ hợp thành 29 quyển" như sau:
- 1. Lục độ tập kinh 9 quyển
- 2. Ngô phẩm kinh 5 quyển
- 3. Bồ-tát tịnh hạnh kinh 2 quyển
- 4. Tạp thí dụ tập kinh 2 quyển
- 5. A Nan (sic) niệm di kinh 2 quyển
- 6. Kính diện vương kinh 1 quyển
- 7. Sát vi vương kinh 1 quyển
- 8. Phạm hoàng vương kinh 1 quyển
- 9. Quyền phương tiện kinh 1 quyển
- 10. Tọa thiền kinh 1 quyển
- 11. Bồ-tát nhị bách ngũ thập pháp kinh 1 quyển
- 12. Pháp kính kinh giải tử chú 2 quyển cùng tựa
- 13. Đại thọ kinh chú giải 1 quyển cùng tựa
- 14. An ban kinh chú giải 1 quyển cùng tựa.
Bản kê khai này, khi viết Đại
Đường nội điển lục 2 ĐTK 2149 tờ 230a6-c23 vào năm Lân đức thứ nhất
(679), Đạo Tuyên đã cho chép lại, mà không bình luận gì thêm. Sau đó Tỉnh
Mại viết Cổ kim dịch kinh đồ kỷ 1 ĐTK 2151 tờ 352 cũng làm thế. Nhưng
đến năm Khai nguyên thứ 18 (738) Trí Thăng viết Khai Nguyên Thích giáo lục
2 ĐTK 2154 tờ 490b4-491b23 đã rút lại còn "7 bộ 20 quyển".
1. Lục độ tập kinh 8 quyển hoặc
9 quyển. Hoặc Lục độ tập kinh. Hoặc gọi Độ vô cực tập. Hoặc gọi
Tạp vô cực kinh. Xem Trúc Đạo Tổ Ngô lục và Tăng Hựu lục.
2. Cựu tạp thí dụ kinh 2 quyển
Nội điển (lục) có chữ "cựu",
trong Phòng lục thì không. Cũng gọi Tạp thí dụ kinh. Hoặc không có chữ
tập. Xem Cao Tăng truyện và Trường Phòng lục.
3. Ngô phẩm kinh 5 quyển
Hựu lục không có chữ kinh, nói gồm
có 10 phẩm, dịch lần thứ ba. (Phí Trường) Phòng nói: "Tức là Tiểu
phẩm Bát-nhã". Xem Tăng Hựu lục.
4. Bồ-tát tịnh hạnh kim 2 quyển
Là bản dịch khác của phẩm Bảo
Kế của Đại tập (Kinh). Hoặc gọi thẳng là Tịnh luật kinh. Dịch năm Xích
ô. Xem Trúc Đạo Tổ Ngô lục.
5. Quyền phương tiện kinh 1 quyển
Đồng bản với Thuận quyền
phương tiện kinh v.v...
Dịch lần đầu. Xem Ngô lục và Biệt
ký.
6. Bồ-tát nhị bách ngũ thập pháp
kinh 1 quyển
Hoặc 2 quyển. Đem kinh này thế 250
giới của đại tăng, để trình với (Tôn) Hạo. Xem Cao Tăng truyện và Trường
Phòng lục.
7. Tọa thiền kinh 1 quyển
Xem Trường Phòng lục
Rồi trình bày lý do tại sao phải
rút lại còn "7 bộ 20 quyển", như: "Kinh lục của (Phí) Trường
Phòng v.v... lại có A Nan niệm di kinh, Kính diện vương kinh, Sát vị vương
kinh, Phạm hoàng vương kinh. Bốn kinh trên đây, tuy nói là Hội dịch, nhưng
cũng xuất hiện trong Lục độ tập, không hợp với số chính dịch. Nay
chép trong Biệt sinh lục. Lại có Pháp kính kinh chú giải 2 quyển, Đạo thọ
kinh chú giải 1 quyển, An ban kinh chú giải 1 quyển. Ba kinh trên đây, Hội
cũng viết tựa: Ba kinh, Hội tuy chú giải, nhưng vốn không phải do Hội dịch,
nên cũng không thể xếp vào số dịch của Hội. Cộng 7 bộ trên đây, nay
đều san bỏ".
Thế đã rõ, đứng về mặt thiết
lập mục lục phiên dịch, ba bản chú giải về các kinh Pháp kính, Đạo
thọ và An ban thủ ý tất không thể nào xếp vào số kinh do Khương Tăng Hội
dịch. Còn bốn kinh A ly niệm di, Kính diện vương, Sát vi vương, Phạm hoàng
vương thì đúng là đã xuất hiện trong Lục độ tập kinh 8 ĐTK 152 tờ
49b24 - 52b1 truyện số 88 đến 91. Vì vậy, tuy do Khương Tăng Hội dịch, chúng
chỉ nên xếp vào loại "biệt sinh" tức các bản kinh được trích
ra từ một bản kinh gốc và cho lưu hành riêng lẻ. Nói một cách khác,
chúng chỉ là những đơn hành bản. Việc san bỏ chúng từ đó là hoàn
toàn tất nhiên.
Quan điểm san bỏ này của Trí Thăng,
Viên Chiếu đã lập lại trong Trinh nguyên tân định Thích giáo mục lục 3
ĐTK 2157 tờ 787c4 - 788c21 viết vào năm Trinh nguyên thứ 11 (801), mà không
có nhận xét gì. Rõ ràng đứng về mặt kinh lục, một quan điểm như vậy
là hợp lý và có thể biện minh được. Tuy nhiên, đứng về mặt thiết lập
danh mục các tác phẩm của Khương Tăng Hội, việc loại bỏ ba bản chú
giải cùng các lời tựa là không thể chấp nhận. Cho nên, để tiến hành
nghiên cứu sự nghiệp của Hội, việc điều tra và dựng lại đầy đủ
bảng danh mục toàn bộ các dịch phẩm và tác phẩm của ông là một đòi
hỏi cấp bách. Thông qua các mẫu tin của Tăng Hựu và Huệ Hạo, chúng
tôi đã bước đầu dựng nên bảng danh mục ấy ở trên. Bây giờ với những
đóng góp của Phí Trường Phòng, Đạo Tuyên và Trí Thăng, bảng danh mục
được mở rộng thêm với các bản dịch:
1. Bồ-tát tịnh hạnh kinh 2 quyển
2. Quyền phương tiện kinh 1 quyển
3. Bồ-tát nhị bách ngũ thập pháp
kinh 1 quyển
4. Tọa thiền kinh 1 quyển
Nhưng thực chất nó không thay đổi
bao nhiêu, bởi vì các bản này ngày nay đã mất và qua thời gian đã không
được trích dẫn trong các tác phẩm người khác. Do thế, trong tình trạng
tư liệu và hiểu biết hiện tại, bản danh mục các dịch và tác phẩm của
Khương Tăng Hội do chúng tôi thiết lập ở trước vẫn giữ nguyên giá trị
của nó và căn bản phản ánh được sự nghiệp trước tác của Hội, mà
ta có thể dùng để nghiên cứu những cống hiến của ông không chỉ đối
với lịch sử Phật giáo Việt Nam và Trung Quốc, mà còn đặc biệt đối
với lịch sử dân tộc ta qua nhiều mặt từ tư tưởng, lịch sử, cho tới
ngôn ngữ và khoa học kỹ thuật.
Điểm đáng ngạc nhiên là các kinh
lục từ Xuất tam tạng ký tập cho đến Trinh nguyên tân định thích giáo
mục lục đều hoàn toàn im lặng về một tác phẩm, mà Đạo An khi viết
Thập pháp cú nghĩa kinh tự trong Xuất tam tạng ký tập 10 ĐTK 2145 tờ
70b11-13 đã có nhắc tới, đó là Lục độ yếu mục: "Xưa Nghiêm Điều
soạn Thập huệ chương cú, Khương Tăng Hội tập Lục độ yếu mục, rồi
tìm dấu chúng, vui vì có hiểu, nhưng vẫn có thiếu, truyền lâu chưa chép.
Nay sao sắp xếp, đặt tên Thập pháp cú nghĩa". Vậy, ngoài 10 tác dịch
phẩm đã biết, ta phải kể thêm Lục độ yếu mục.
Lục độ yếu mục có lẽ đã thất
lạc rất sớm. Cho nên, đến giữa thế kỷ thứ IV, Đạo An còn nhắc tới
và dùng làm tài liệu để viết Thập pháp cú nghĩa. Nhưng qua thế kỷ thứ
V và VI, khi Tăng Hựu soạn Xuất tam tạng ký tập và Huệ Hạo viết Cao Tăng
truyện đã không nhắc tới nữa. Các bản kinh lục về sau thì hoàn toàn
im lặng. Phải chăng đó là vì Lục độ yếu mục là những đoạn giải
thích về sáu độ, như ta có ngày nay trong Lục độ tập kinh? Ta không thể
trả lời được. Dẫu sao đi nữa, ta biết thêm một công trình khác của
Khương Tăng Hội và ảnh hưởng của Hội đến những gương mặt anh tài
của Phật giáo Trung Quốc với tầm cỡ như Đạo An. Nói tóm, cứ vào những
bản kinh lục xưa nhất, mà cụ thể là Xuất tam tạng ký tập, cùng tham
khảo thêm Cao Tăng truyện, ta hiện biết sự nghiệp phiên dịch và trước
tác của Khương Tăng Hội tồn tại trong các tác phẩm sau:
- 1. Lục độ tập kinh
- 2. Đạo phẩm
- 3. Tạp thí dụ kinh
- 4. An ban thủ ý kinh chú
- 5. Pháp kính kinh chú
- 6. Đạo thọ kinh chú
- 7. An ban thủ ý kinh tự
- 8. Pháp kính kinh tự
- 9. Đạo thọ kinh tự
Trong đó hiện thất lạc Đạo phẩm,
Pháp kính kinh chú, Đạo thọ kinh chú và Đạo thọ kinh tự. Thế nghĩa là
qua thời gian đã mất đi gần một nửa sự nghiệp phiên dịch trước tác
của Khương Tăng Hội. Tuy nhiên, với hơn một nửa còn lại, nó cung cấp
cho ta khá nhiều thông tin về cuộc sống vật chất và tinh thần của cha
ông ta vào thế kỷ thứ III sdl.
Về mặt lịch sử, Khương Tăng Hội
thông qua Lục độ tập kinh là người bảo lưu đầu tiên hiện biết của
truyền thuyết Trăm trứng của dân tộc ta. Truyền thuyết chắc hẳn đã lưu
hành rộng rãi vào thời Lục độ tập kinh trong nhân dân người Việt để
giải thích cho nguồn gốc Bách Việt của họ. Rồi trong quá trình Việt
hóa Phật giáo, những trí thức Phật giáo Việt Nam đã dựa vào để cải
biên. Đến sau này khi phiên dịch Lục độ tập kinh ra tiếng Trung Quốc,
Khương Tăng Hội vẫn bảo lưu tình tiết một Trăm trứng này, dù chắc chắn
ở Kiến Nghiệp hồi bấy giờ đã biết tới truyện một trăm người con
từ một trăm cục thịt do Chi Khiêm dịch trong Soạn tập bách duyên kinh
vào khoảng từ 222 đến 253.
Về mặt ngôn ngữ, Lục độ tập
kinh cùng với Cựu tạp thí dụ kinh đã để lại cho ta một loại những cấu
trúc tiếng Việt cổ quý giá, mà từ đó tham khảo thêm bài Việt ca do Lưu
Hướng chép lại trong Thuyết uyển ta có thể phục chế lại một phần
nào diện mạo của tiếng nói dân tộc ta cách đây hai nghìn năm. Đây phải
nói là một đóng góp vô giá đối với khoa ngữ học lịch sử tiếng Việt.
Về mặt tư tưởng, những phạm trù
và quan hệ xã hội cơ bản đã được thiết định theo nhân quan người
Việt và Phật giáo một cách minh nhiên trong Lục độ tập kinh, đồng thời
tiến hành phê phán hệ tư tưởng người Hán, mà đại biểu cụ thể ở
nước ta thời bấy giờ là các tay nho cỡ như Lưu Hy, Hứa Tỉnh, Tiết Tôn,
Ngu Phiên... Những phạm trù nhân nghĩa, trung hiếu, thành tín vv.v.... những
quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, thầy trò này được thổi vào một nội
dung mới, dựa trên cơ sở những thành tựu của nền văn hóa Việt Nam và
tiếp thu những đóng góp của hệ tư tưởng Phật giáo. Chính xuất phát từ
những lý luận mới được thiết định này, dân tộc ta phản công lại
các luận điệu vu vơ do các tay ấy tung ra với ý đồ nô dịch lâu dài, nếu
không là đồng hóa vĩnh viễn dân tộc.
Về mặt văn học, những cống hiến
của sự nghiệp dịch thuật và trước tác của Khương Tăng Hội càng khởi
sắc, vì ở đây Khương Tăng Hội đã bảo lưu cho chúng ta một số các
tác phẩm văn học dân tộc, mà sau này đã trở thành loại hình văn học
dân gian vô danh không niên đại. Truyện người mù rờ voi, truyện giết rồng
cứu một nước của Lục độ tập kinh chẳng hạn, hay truyện cò đem rùa
đi chơi của Tạp thí dụ kinh... là những thí dụ điển hình. Chúng sẽ
là đối tượng nghiên cứu của khoa lịch sử văn học Việt Nam, nhằm xác
định lại quá trình hình thành và phát triển của lịch sử văn học dân
tộc. Lịch sử văn học dân tộc ta như vậy không phải bắt đầu với Trần
Nhân Tôn và Nguyễn Trãi, hay xa hơn với Từ Đạo Hạnh với bài thơ mở
đầu tuồng chèo, thậm chí với cả Đạo Cao, Pháp Minh, Lý Miễu. Nó đã
bắt đầu với các truyện của Lục độ tập kinh, nếu không là bài Việc
ca do Lưu Hướng ghi lại trong Thuyết uyển.
Về mặt khoa học kỹ thuật, Lục
độ tập kinh, và Cựu tạp thí dụ kinh sẽ cung cấp cho ta các dữ kiện
trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, xã hội, và kỹ thuật, giúp ta
không những hiểu được trình độ khoa học kỹ thuật của dân tộc ta thời
bấy giờ, mà còn giúp ta xây dựng lại lịch sử khoa học kỹ thuật Việt
Nam. Những tri thức khoa học tư nhiên như quá trình phát triển thai nhi, thời
gian hoàn tất mỹ mãn quá trình... những hiểu biết về khoa học xã hội
như quan hệ hôn nhân, tập tục cưới xin, những kiến thức kỹ thuật
như rèn, đúc, làm gốm... với trình độ ngày nay, phải nói đã đạt được
một sự chính xác khá cao đáng khâm phục.
Về mặt nghệ thuật âm nhạc, với
sự xuất hiện của các tượng Phật và Nê hoàn bối, ngày nay ta biết lịch
sử nghệ thuật và âm nhạc Việt Nam không trống vắng, vào những thế kỷ
đầu của cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù phương bắc,
như trước đây nhiều người đã lầm tưởng. Đặc biệt về âm nhạc Việt
Nam và lễ nhạc Phật giáo Việt Nam, bây giờ ta có thêm tên tuổi của một
nhạc sĩ tầm cỡ, từng làm "khuôn mẫu cho một thời", đó là Khương
Tăng Hội, dù Khương Tăng Hội chỉ làm công tác "truyền", chứ
không phải sáng tác loại nhạc Phạn bối đó.
Như vậy, sự nghiệp phiên dịch trước
tác của Khương Tăng Hội không chỉ giới hạn vào việc hoằng dương chính
pháp ở Trung Quốc, mà đối với lịch sử dân tộc ta đã để lại nhiều
cống hiến quý báu. Tất nhiên, đối với lịch sử Phật giáo Trung Quốc,
Khương Tăng Hội có một vị trí và ảnh hưởng lớn lao, mà những nhân vật
lớn của nền lịch sử ấy không ai là không nhắc tới. Từ Đạo An cho
đến Huệ Duệ, từ Tăng Hựu cho đến Huệ Hạo, từ Tôn Xước cho đến
Phí Trường Phòng, từ Đạo Tuyên cho đến Trí Thăng, họ đã dành cho Khương
Tăng Hội một niềm kính trọng sâu xa và một lòng ngưỡng mộ thắm thiết.
Còn đối với lịch sử Việt Nam và
Phật giáo Việt Nam, vị thế của Khương Tăng Hội nằm ở chỗ đây là lần
đầu tiên Phật giáo nước ta đã thành công thực hiện nghĩa vụ hoằng
pháp của mình đối với thế giới và dân tộc ta đã khẳng định mạnh
mẽ bản lĩnh văn hóa ưu việt của mình qua việc đông du khai hóa của Khương
Tăng Hội. Dĩ nhiên, Khương Tăng Hội không phải là người duy nhất đi ra
khỏi nước để làm nhiệm vụ truyền giáo. Sau ông có Huệ Thắng, Đạo
Thiền, rồi Đại Thừa Đăng v.v... Điểm lôi cuốn là vào cuối thế kỷ
thứ hai đầu thế kỷ thứ ba, dân tộc ta thông qua và kết hợp chặt chẽ
với Phật giáo đã xây dựng xong bức tường thành văn hóa có khả năng
chận đứng mọi âm mưu xâm lược và đồng hóa của kẻ thù, mà Khương
Tăng Hội là một cột mốc trong bức tường thành đó.
Sự nghiệp phiên dịch và trước tác
của Khương Tăng Hội đáng cho ta nghiên cứu nghiêm túc hơn nữa để làm
rõ thêm những thành tựu mà dân tộc ta đã đạt được trong những ngày
tháng đầu tiên đấu tranh đầy cam go và khốc liệt, nhưng cũng đầy hào
hùng và hoành tráng ấy. (trang 356)
| Mục lục | I | II | III | IV | IVb | V | VI | VII | VIII | VIIIb | IX | IXb | X | XI | XII |