- Lịch sử Phật giáo Việt
Nam
- Từ khởi nguyên đến thời
Lý Nam Đế
- Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
- Chương VI
- Đạo Thanh, Chi Cương Lương
Tiếp
- và Pháp Hoa Tam Muội Kinh
Thủy hưng lục và Trúc
Đạo Tổ
Tình hình chính trị
Về Đạo Thanh
Về Đào Hoàng
Về Cương Lương Tiếp
Nội dung Pháp Hoa tam muội
Lịch đại tam bảo ký 5, ĐTK 2034,
tờ 56c19-24, chép: "Pháp Hoa tam muội kinh, 6 (quyển, một) bộ, một bản
có chữ "chánh". Tăng Hựu nói đã thất dịch. Trên đây là một bộ
6 quyển. Đời Cao Quý Hương công, năm Cam Lồ thứ nhất (256), tháng 7,
Sa-môn nước ngoài là Chi Cương Lương Tiếp, có nghĩa Chánh Vô Úy, đến
Ngụy, dịch ở Giao Châu. Sa-môn Đạo Thanh bút thọ. Tăng Hựu bảo là thất
dịch. [Phí Trường] Phòng tôi kiểm đến, thấy ở Ngụy thế lục và Thủy
hưng lục của Trúc Đạo Tổ. Nếu cứ vào Giao Châu và đất Thủy Hưng thì
nên nhập nó vào Ngô lục. Nay cứ vào Ngụy lục mà thâu phụ vào đây".
Vậy, vào thế kỷ thứ 5-6, ở
Trung Quốc đã lưu hành một bản dịch gọi là Pháp Hoa tam muội kinh. Thời
Tăng Hựu (...) thì bảo đã thất dịch, nghĩa là không biết người dịch
kinh này là ai, nhưng đến thời Phí Trường Phòng thì nhờ phát hiện ra
kinh lục của Trúc Đạo Tổ và Ngụy thế lục mà được biết đến. Mẫu
tin này sau đó được Đại Đường nội điển lục 2, ĐTK 2149, tờ 227ả-28,
chép y theo: "Pháp Hoa tam muội kinh 6 quyển, một bản có chữ
"Chánh" [...]". Khai Nguyên Thích giáo lục 2, ĐTK 2154, tờ
491b24-29 ghi rằng: "Pháp Hoa tam muội kinh 6 quyển. Một bản có chữ
"chánh". Lúc mới ra đời, cùng một bản với Chánh Pháp Hoa của
Pháp Hộ. Xem Ngụy lục của Trúc Đạo Tổ, và cũng xem Thủy hưng lục. Trên
đây một bộ 6 quyển, văn bản đã khuyết. Sa-môn Chi Cương Lương Tiếp,
tiếng Ngô gọi là Chánh Vô Úy, người Tây vức, vào năm Ất Hợi, ngũ phụng
thứ 2 (256) của Tôn Lượng, thời Giao Châu dịch Pháp Hoa tam muội kinh.
Sa-môn Trúc Đạo Hinh bút thọ. Hai bản lục của Trường Phòng và Nội điển
chép vào đời Tào Ngụy. Nay cứ vào đất Giao Châu và Thủy Hưng, cắt chép
vào Ngô lục".
Đại Châu san định chúng kinh mục
lục 2, ĐTK 2153, tờ 385b15-17, ghi: "Pháp Hoa tam muội kinh, một bộ 6 quyển.
Một bản có chữ "chánh". Trên đây là kinh đời tiền Ngụy, năm
Cam lồ thứ nhất (256), Sa-môn Chi Cương Lương Châu ở thành Giao Châu dịch.
Thích Đạo Thanh bút thọ. Lấy từ Trường Phòng lục".
Cổ kim dịch kinh đồ kỷ 1, ĐTK
2151, tờ 352b23-25, viết: "Sa-môn Chi Cương Lương Tiếp, đây gọi là
Vô Úy, vào năm ất hợi, ngũ phụng thứ 2, ở Giao Châu, dịch Pháp Hoa tam
muội kinh 6 quyển. Sa-môn Trúc Đạo Hinh bút thọ".
Trinh nguyên tân định Thích giáo mục
lục 3, ĐTK 2157, tờ 788c22-27 chép giống như Khai Nguyên Thích giáo lục.
Cứ vào các thông tin trên, ta biết
là vào năm 256 tại nước ta, Chi Cương Lương Tiếp (có bản chép là Chi Cương
Lương Lâu) đã cùng với Đạo Thanh hay Đạo Hinh dịch kinh Pháp Hoa tam muội.
Bản kinh này, đến đầu thế kỷ 8, khi Trí Thăng viết Khai Nguyên Thích
giáo lục thì đã bị liệt vào loại "khuyết bản", tức văn bản
đã mất. Có nghĩa là từ thế kỷ VII về trước, văn bản đang còn, như
khi Tăng Hựu viết Xuất tam tạng ký tập thì ông có thấy văn bản nhưng
lại không biết người dịch là ai, nên liệt vào loại "thất dịch".
Trong lúc Phí Trường Phòng viết Lịch đại tam bảo ký vào năm 597, nhờ tìm
được Ngụy thế lục của Trúc Đạo Tổ và Thủy hưng lục mới biết là
do Chi Cương Lương Tiếp cùng Trúc Đạo Thanh dịch ra. Thế thì Trúc Đạo
Tổ là ai và Thủy hưng lục là tác phẩm nào?
Thủy hưng lục và Trúc Đạo Tổ [^]
Về Thủy hưng lục, thì Khai Nguyên
Thích giáo lục 10, ĐTK 2154, tờ 573a26 ghi: "Thủy hưng lục 1 quyển,
chưa rõ soạn giả, cũng gọi là Nam lục". Tuy nhiên, ta biết Thủy Hưng
là một huyện của quận Nam Hải, như Địa lý chí của Tùy thứ 31, tờ
5b5-7 ghi, và đã được Phí Trường Phòng dẫn trong Lịch đại tam bảo ký,
cho nên tác phẩm này phải ra đời từ thế kỷ 6 trở về trước. Còn về
Ngụy thế lục của Trúc Đạo Tổ, thì Đại Đường nội điển lục 10,
tờ 336c16-22 ghi:
"Thời Đông Tấn, Sa-môn Trúc
Đạo Tổ soạn Chúng kinh lục gồm 4 bộ là Ngụy thế kinh lục mục 1 quyển,
Ngô thế kinh lục mục 1 quyển, Tấn thế tạp lục mục 1 quyển và Hà
tây kinh lục mục 1 quyển. Trên đây là 4 lục; căn cứ vào sự kiểm tra
thì do đệ tử của Viễn công chùa Đông Lâm núi Lô thời Đông Tấn là
Thích Đạo Lưu sáng soạn, nhưng chưa xong thì mất. Bạn đồng học là Đạo
Tổ vì Đạo Lưu mà hoàn thành".
Khai Nguyên Thích giáo lục 10, tờ
573a11-13, cũng chép tương tự: "Chúng kinh lục 4 quyển, là Ngụy thế lục,
Ngô thế lục, Tấn thế tạp lục và Hà tây lục. Trên đây là do đệ tử
của Viễn công chùa Đông Lâm núi Lô thời Đông Tấn là Thích Đạo Lưu sáng
soạn, nhưng chưa xong thì mất. Bạn đồng học là Trúc Đạo Tổ tiếp tục
hoàn thành".
Trinh nguyên tân định Thích giáo mục
lục 17, tờ 897b10-1 chép lại y nguyên.
Như thế Đạo Lưu và Đạo Tổ đều
là đệ tử của Huệ Viễn, mà niên đại Huệ Viễn cứ vào Cao Tăng truyện
6 tơ 357c-361b rơi vào những năm 334-416. Còn Trúc Đạo Tổ, theo Phật giáo
sử niên biểu; sống vào những năm 347-419, thọ 73 tuổi. Ngày nay, Ngụy thế
lục mục đã mất, nhưng theo niên đại vừa nêu Đạo Lưu và Đạo Tổ chắc
chắn đã có những tiếp xúc với những tư liệu tồn tại trong thời đại
mình. Điểm lôi cuốn đối với chúng ta là tại sao Pháp Hoa tam muội kinh
lại được xếp vào kinh lục của nhà Ngụy, trong khi nó lại được dịch
ở nước ta. Theo quan niệm người Trung Quốc thì nó phải thuộc về kinh lục
nhà Ngô, mà Trúc Đạo Tổ thì lại có viết riêng một quyển gọi là Ngô
thế lục mục. Đây cũng là câu hỏi mà các nhà kinh lục từ Phí Trường
Phòng cho đến Đạo Tuyên đã đặt ra, và sau đó Trí Thăng và Viên Chiếu
đã xếp vào mục lục kinh điển của nhà Ngô. Hiện nay, ta có thể ở
vào vị trí để trả lời câu hỏi vừa nêu nhờ vào việc phân tích tình
hình chính trị Việt Nam vào những năm trước và sau khi bản kinh được dịch
ra.
Tình hình chính trị [^]
Tình hình chính trị Việt Nam sau
cái chết Sĩ Nhiếp vào năm 226 có những biến động sâu xa. Thứ nhất,
Tôn Quyền lúc ấy đã chiếm cứ phía nam Trung Quốc để tranh hùng với
Tào Tháo và Lưu Bị, nên nhân cái chết của Sĩ Nhiếp, muốn thôn tính
vùng đất người Việt mà trước đó Chu Phù và Sĩ Nhiếp đã chính thức
quản lý như một quốc gia độc lập dựa theo điển huấn của người Việt.
Do thế Tôn Quyền đã chia vùng đất này thành hai châu. Từ Hợp Phố về
bắc gọi là Quảng Châu và cử Lữ Đại làm thứ sử. Còn lại ba quận
Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam thì gộp thành Giao Châu, và cử Tải Lương
làm thứ sử và Trần Thì làm thái thú Giao Chỉ. Trước âm mưu thôn tính
và hành động xấc xược này của Tôn Quyền, con Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy
cương quyết chống lại. Tuy nhiên, trong nội bộ của chính quyền Sĩ Huy có
đám Hoàn Lân can dán Huy không nên làm thế và khuyên Huy nên tiếp đón Tải
Lương. Huy nổi giận đánh chết Lân. Anh Lân là Hoàn Trị và con là Hoàn
Phát bèn đem quân đánh Huy. Ngô chí 4, tờ 8b10-11 chép: "Huy đóng cửa
thành để giữ. Bọn Trị đánh mấy tháng không thể hạ thành bèn ước hòa
thân, mỗi bên bãi binh rút về. Trong khi đó, Lữ Đại được chiếu [của
Tôn Quyền] đi đánh Huy, từ Quảng Châu đem quân ngày đêm đi vào, qua Hợp
Phố cùng với Tải Lương điều khiển quân lên. Con của Sĩ Nhất [em Sĩ
Nhiếp], là Trung lang tướng Sĩ Khuông cùng với Đại là chỗ quen biết cũ.
Đại phong Khuông làm Sư hữu tùng sự, trước gửi thư cho Giao Chỉ dỗ dành
về chuyện họa phúc, lại gửi Khuông đến gặp Huy bàn bạc, Khiến cho
Huy phục tội, thì tuy mất chức Thái thú [quận Giao Chỉ], nhưng được bảo
đảm [an toàn], không phải lo gì. Đại tiếp theo Khuông đến sau. Anh Huy là
Kỳ, em là Cán, Tùng, v.v... sáu người cởi trần đón tiếp Đại tạ tội.
Đại khiến ăn mặc lại như cũ để đến quận. Sáng sớm hôm sau, Đại
cho vây màn trướng, kêu anh em Huy theo thứ tự vào ra mắt. Tân khách đầy
nhà, Dại đứng dậy cầm tiết, đọc chiếu thư kể tội Huy. Bọn tả hữu
của Đại nhân thế bắt trói bọn Huy đem ra, tức thì đều bị giết, gửi
đầu về Vũ Xương".
Truyện Đại ở Ngô chí 15 tờ
6b12-7a2 còn chép tiếp, "sau khi đã gửi đầu bọn Huy về Trung Quốc,
thì đại tướng (của Huy) là Cam Lệ, Hoàn Trị v.v... đã đem dân đánh Đại.
Đại đánh hăng, phá lớn [...] Lại tiến quân đánh Cửu Chân, chém bắt
đếm tới số vạn". Thế là, gia đình họ Sĩ đều tự tiêu diệt
mình bằng vào sự cả tin vào miệng lưỡi của kẻ thù, mà không lo phòng
bị và quyết tâm chiến đấu, đúng như thiền sư Chân Nguyên đã diễn tả
trong Thiên nam ngữ lục:
- Sĩ Huy nghiệp cả vào vâng
- Mềm tay yếu sức không bâng vạc trời
- Lại thêm ủy mị bất tài
- Tôi cũ hết người tôi mới chưa ai
- Bề bề những kẻ giữ ngôi
- Trẻ thơ bỗng dại thiếu người lo toan
- Sức đâu gánh được giang san
- Cậy chăng Sĩ Ngũ còn gan anh hùng
- Huy chẳng nghe chước Ngũ dùng
- Binh chẳng thiết phòng, việc chẳng dự lo
Đây là một kinh nghiệm lịch sử
đau đớn, nhưng đã trở thành một gương sáng cho dân tộc ta ngày sau soi
vào, để rút ra kết luận là dứt khoát phải bảo vệ độc lập dân tộc
cho đến giọt máu cuối cùng. Vì mất độc lập, tức phải chết. Thắng
lợi này của Lữ Đại tuy nhanh chóng do không có sự quyết tâm chiến đấu
của Sĩ Huy, nhưng không phải là một chiến thắng dứt khoát và lâu dài.
Nói rằng chiến thắng không dứt khoát, bởi vì như lá sớ của Tiết Tôn
viết gửi cho Tôn Quyền vào năm 231, theo Ngô chí 8 tờ 8â-7, đã ghi nhận
là: "Ngày nay, Giao Châu tuy gọ là tạm ổn định, nhưng vẫn còn đám
giặc truyền kiếp Cao Lương". Nói rõ ra, Lữ Đại chỉ chiếm được
những thành phố chính của nước ta, tức Luy Lâu ở Giao Chỉ và Cửu
Chân, nhưng các cuộc khởi nghĩa vẫn tiếp tục, như Cao Lương, ở khắp
nơi. Và cũng không phải là lâu dài, vì chưa đầy 18 năm sau, năm 248, bà
Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt đã nổi lên khởi nghĩa, đánh
chiếm Giao Châu thành công. Tôn Quyền sai Lục Dận làm An nam hiệu úy và
thương thảo với quân khởi nghĩa bằng ấn tín và tiền của. Đây là một
lối đánh dẹp khá lạ kỳ, hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc đối với
nước ta. Và cuối cùng Lục Dận cũng có thể báo cáo là đã "dẹp
yên được giặc Giao Chỉ", và được phong làm thứ sử Giao Châu. Nhưng
châu trị của Giao Châu lần này không phải ở nước ta, mà phải ở Quảng
Châu, vì nó ngó ra biển (lâm hải), như bài biểu của Hoa Hoạch trong Ngô
chí 16 tờ 10b3 đã ghi nhận.
Nói cách khác, nước ta từ năm 248
tiếp tục là một nước độc lập và Bà Triệu tiếp tục đứng đầu đất
nước, cho đến khi Tôn Hựu sai Đặng Tuân (Ngụy chí 4 tờ 27a3 viết là
Đặng Cú) đến Giao Chỉ vào năm 257, ra lịnh cho thái thú Giao Chỉ bắt
dân đưa lên Kiến Nghiệp làm lính. Và như Thiên nam ngữ lục đã ghi nhận
là Bà Triệu đã bị tử trận trong một cuộc chiến đấu với chính Đặng
Tuân sau khi đã tiêu diệt Lục Dận:
- Lục Dận mất vía binh lui
- Nàng xông voi sấn, thác tươi giữa đường
- Đặng Tuân lại tiến binh sang
- Bộ chật giữa đường, thủy chật dòng sông
- Thuyền thuyền ngựa ngựa đua dong
- Đã thôi tiếng trống; lại buông tiếng cồng
- Gió đưa cờ cuốn khúc rồng
- Giơ đồng thiên chiến,trương cung nguyệt đầu
- ....
- Ngày sau ra trận chiến tiền
- Nàng mong tin cũ, bỗng quên quan phòng
- Đến gần, Tuân giữ nói cùng
- Người Ngô nó bắn tên cung phải nàng
- Quân binh thất thế loạn hàng
- ...
Những mô tả này của Chân Nguyên
hoàn toàn phù hợp với tư liệu của Ngụy chí 4 tờ 27a2-27b5, đặc biệt
là tờ chiếu năm Hàm Hi thứ nhất (264) của Tào Hoán, nói rằng:
"Chính hình bọn giặc Ngô bạo ngược, thuế má vô cùng Tôn Hựu sai sứ
Đặng Cú đến ra lịnh cho thái thú Giao Chỉ bắt dân mình đưa đi làm
lính. Tướng Ngô là Lữ Hưng nhân lòng dân phẫn nộ, lại thừa lúc quân
nhà vua bình định Ba Thục, bèn tập hợp hào kiệt diệt trừ bọn Cú, xua
đuổi thái thú trưởng lại, vỗ về quân dân, để đợi lệnh nước. Các
quận Cửu Chân, Nhật Nam, nghe Hưng trừ diệt nghịch tặc, tức thì thuận
theo, cùng lòng hưởng ứng cùng Hưng diệt độc. Hưng gửi thư cho châu quận
Nhật Nam mở bày kế lớn. Khi quân đến Hợp Phố, đem họa phúc ra bảo
ban, sai đô ú Đường Phổ v.v... đến huyện Tấn Thừa, nhân lúc Nam trung
đô đốc hộ quân Hoắc Dặc dâng biểu tự trình bày, nói: "Tướng lại
Giao Chỉ, mỗi dâng biểu nói Hưng sáng tạo sự nghiệp lớn nhỏ đều thừa
lệnh nước. Quận có giặc núi vào phá các quận liên tục, sợ chúng kế
khác, mỗi có hai lòng, nên tạm thời quyền nghi để Hưng làm Đốc Giao Chỉ
chư quân sự thượng đại tướng quân Định An huyện hầu, xin ban khen
thưởng, để làm yên lòng miền biên hoang. Lòng nó thành khẩn hiện ra ở
nơi lời ý. Xưa Nghi Phụ chầu Lỗ, sách Xuân thu khen hay. Đậu Dung qui phục
nhà Hán, được đối đãi bằng lễ đặc biệt. Nay oai nước xa vang, vỗ
về sáu cõi, thì nên bao dung nước khác, hợp nhất bốn phương. Hưng từ
đầu đã hướng về sự giáo hóa của nhà vua đem dân theo phục
[...]".
Lời chiếu này, Tào Hoán viết vào
ăm 264. Tư liệu Ngô Chí 3 tờ 9a3-8 lại ghi: "Năm đó (tức năm Vĩnh An
5 của Tôn Hựu, 262), sai Sát Chiến đến Giao Chỉ đòi heo lớn. Năm Vĩnh
An 6, tức 263, tháng 5, quận lại Giao Chỉ là Lữ Hưng v.v.... làm phản, giết
thái thú Tôn Tư. Tư trước đó đã bắt những tay thợ giỏi của quận hơn
ngàn người về Kiến Nghiệp, nên khi Sát Chiến đến sợ lại bị bắt.
Do đó bọn Hưng, v.v... nhân thế phiến động quân dân, chiêu dụ các mọi
[...]. Hưng khi đã giết Tôn Tư, sai sứ đến Ngụy xin làm thái thú
[...]". Nhân vật Sát Chiến trong đoạn này của Ngô chí chắc chắn
không ai khác hơn là Đặng Cú của Ngụy chí và Đặng Tuân của Thiên nam
ngữ lục. Về sự kiện này, Đại Việt sử ký toàn thư 4 ngoại kỷ, tờ
4a5-9 viết: "Quí mùi (263), mùa xuân, tháng 3, nguyên trước nhà Ngô lấy
Tôn Tư làm thái thú Giao Châu. Tư tham tàn bạo ngược, làm khổ bá tánh.
Đến lúc ấy, vua Ngô sai Đặng Tuân đến quận. Tuân lại đòi kim công ba
mươi con đưa về Kiến Nghiệp. Dân sợ đi xa, nhân thế âm mưu làm loạn.
Mùa hạ, tháng tư, quận lại Lữ Hưng giết Tư và Tuân mà xin chức thái
thú với nhà Tấn. Cửu Chân Nhật Nam đều hưởng ứng theo".
Thế đã rõ, quan hệ nước ta với
Trung Quốc vào giữa những năm 248 cho đến 264 là rất phức tạp. Những
người lãnh đạo dân tộc để mưu cầu và bảo vệ độc lập đất nước
đã có những quan hệ chằn chịt với các thế lực đang qua phân nước
Trung Hoa. Mà trong trường hợp này, đó là quan hệ với nhà Ngụy để chống
đối lại với nhà Ngô, vì lúc bấy giờ nhà Ngụy sau khi diệt Thục vào
năm 263, đã tiến quân sát với biên giới Tây Bắc nước ta, nếu không
là sớm hơn. Chính trong khoảng thời gian có quan hệ cụ thể này mà Pháp
Hoa tam muội kinh do Chi Cương Lương Tiếp cùng Đạo Thanh dịch đã được
đưa lên phía Bắc Trung Quốc của nhà Ngụy và sau đó đã được Trúc Đạo
Tổ liệt vào Ngụy thế lục mục, tức bản mục lục các kinh tìm thấy
trong kho sách và vùng đất do nhà Ngụy quản lý. Cần nhớ rằng, chỉ một
năm sau thôi, tức 265, Tào Hoán đã nhường ngôi lại cho Tư Mã Viêm và chấm
dứt sự tồn tại của nhà Ngụy để bắt đầu thời đại mới, thời đại
của nhà Tấn.
Sự xuất hiện của Pháp Hoa tam muội
kinh trong Ngụy thế lục mục báo cho ta một số hệ luận khá lôi cuốn.
Thứ nhất, từ một quyển kinh chỉ dịch trước khi nhà Ngụy diệt vong chưa
tới 10 năm, mà đã được đưa lên đất Ngụy xa xôi để nhập vào kinh lục
của nhà Ngụy, điều này có nghĩa một quan hệ văn hóa,chặt chẽ đã xuất
hiện giữa nước ta và nhà Ngụy. Và quan hệ văn hóa này không thể tồn
tại nếu không có một quan hệ chính trị yểm trợ, nói thẳng ra, quan hệ
văn hóa đôi khi cũng phục vụ một số mục tiêu chính trị, dù dài hay ngắn
hạn. Một khi nhận định như thế, thì vai trò Phật giáo trong công cuộc
vận động độc lập của dân tộc ta rõ ràng phải khẳng định. Điều này
hoàn toàn phù hợp với xu thế của Phật giáo Việt Nam vào những thế kỷ
này, khi Phật Giáo cùng với văn hóa dân tộc đã trở thành một lực lượng
vừa hậu bị vừa tiên phong cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Điều này
ta có thể thấy rõ ràng, khi phân tích sự hình thành Lục độ tập kinh
cũng như sự ra đời của Lý hoặc luận và việc chống gậy Đông du truyền
giáo của Khương Tăng Hội.
Về Đạo Thanh [^]
Thứ hai, ngày nay ta hầu như không
có một chi tiết cụ thể nào về nhà sư kiêm dịch giả Việt Nam đầu tiên
có tên tuổi là Đạo Thanh, cũng có khi gọi là Đại Hinh. Tuy vậy, chỉ một
việc xuất hiện của Pháp Hoa tam muội kinh trong Ngụy thế lục mục cũng
đủ để xác nhận vai trò của Đạo Thanh trong phong trào vận động giải
phóng dân tộc giữa những năm 248 cho đến 272. Đây là giai đoạn của các
chính quyền độc lập liên tục từ bà Triệu (248 - 257), Lữ Hưng (258 -
265), và Lý Thông (266 - 272). Ta có thể xác nhận được vai trò này bởi
vì với tư cách là một người bút thọ cho Chi Cương Lương Tiếp khi dịch
Pháp Hoa tam muội kinh Đạo Thanh dứt khoát phải là một người trí thức,
không những biết chữ Việt mà còn biết chữ Hán và chữ Phạn để có
thể cộng tác với Chi Cương Lương Tiếp, trong việc dịch một bản kinh
Phạn văn ra tiếng Hán. Nói cách khác, đây là những phần tử ưu tú trí
thức của dân tộc và những phần tử này đã đóng góp sức mình cho sự
nghiệp bảo vệ độc lập của đất nước.
Thứ ba, Đạo Thanh, để có thể
tham gia bút thọ Pháp Hoa tam muội kinh vào năm 256, phải sinh ra vào khoảng
những năm 220, và có thể học tập với Khương Tăng Hội vào khoảng những
năm 240 và dưới sự hướng dẫn thêm của những người như Trần Huệ,
Văn Nghiệp (có bản viết là Bì Nghiệp) và Hàn Lâm, "những người hiền"
đã giúp ít nhiều cho Khương Tăng Hội viết An ban thủ ý kinh chú giải.
Đạo Thanh có thể sống những năm cuối cùng của đời mình vào giai đoạn
đất nước đang bị dành giật giữa những thế lực cát cứ của Trung Quốc,
tức khoảng những năm 270 - 300. Đây là thời gian khi Tôn Hạo gửi đám
"thứ sử Giao Châu Lưu Tuấn, tiền bộ đốc Tắc Tu v.v.. đến đánh
Giao Chỉ, bị tướng Tấn Mao Đài v.v... phá, đều chết, quân tan trở về
Hợp Phố". Tháng 11 năm sau, tức năm 269, sai giám quân Ngu Phiếm, uy nam
tướng quân Tiết Vũ, thái thú Thương Ngô Đào Hoàng do đường Kinh châu,
giám quân Lý Úc, đốc quân Từ Tồn theo đường biển Kiến An, đều đến
Hợp Phố, đánh "Giao Chỉ". Mùa xuân năm Kiến Hành thứ 2 (270)
"Lý Úc cho đường Kiến An không lợi, giết tướng dẫn đường Phùng
Phỉ, dẫn quân về". Mùa hè tháng 4 năm đó, "Điện trung liệt tướng
Hà Đình trình Thiếu phủ Lý Úc giết oan Phùng Phỉ, tự ý rút quân về.
Úc và Từ Tôn, gia thuộc đều bị giết". Năm 271, "Phiếm, Hoàng
phá Giao Chỉ, bắt giết thú tướng do nhà Tấn đặt, Cữu Chân, Nhật Nam
đều trở về lệ thuộc".
Về Đào Hoàng [^]
Chín năm sau, Tôn Hạo đầu hàng
nhà Tấn. Đào Hoàng lại trở về đầu phục tân triều. Có lẽ do cảm thấy
bất ổn đối với triều đại mới, Đào Hoàng đã có một chánh sách hết
sức cởi mở đối với nước ta, cố gắng thu phục lòng dân, tự mình Việt
hóa để củng cố cho vị thế và quyền lực mình qua việc cho tu sửa lại
chùa Pháp Vân và ca ngợi sự linh nghiệm của đức Phật chùa này. Văn bia
của lần trùng tu này, theo Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục
chép lại, đọc như sau: "Phật Pháp Vân đất Cổ Châu là thiêng nhất
ở trong nước. Hễ gặp năm nắng nôi sâu bọ ốm đau, vâng mệnh nhà nước
để mà cầu đảo thì bao nhiêu tai nạn đều khỏi. Cho đến công khanh sĩ
dân, những người hiếm con, đến Phật cầu đảo đều được cảm ứng.
Đến tới quan trên cùng đám buôn bán chăn nuôi, lụa tằm hễ cầu xin khấn
vái, đều được như nguyện".
Đây có lẽ là văn bia đầu tiên
được chép lại trong lịch sử kim thạch học của nước ta, nếu ta giả
thiết tác giả Cổ châu Pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục, nếu không phải
là chính tác giả Báo cực truyện đã trực tiếp nhìn thấy bia văn ấy còn
tồn tại ở chùa Dâu của Luy Lâu vào những thế kỷ 11 - 14. Đại Việt sử
ký ngoại kỷ toàn thư 4 tờ 6b8-7a3 viết về sự cai trị của Đào Hoàng
ở nước ta như sau: "Đến khi Ngô chúa đã hàng, nhà Tấn viết thư
tay, sai Mã Dung ra lệnh cho Đào Hoàng qui thuận. Hoàng chảy nước mắt mấy
ngày, sai sứ đưa ấn và đai đến Lạc Dương. Vua Tấn xuống chiếu Hoàng
phục chức, phong là Uyển lăng hầu, rồi cải phong Quán quân tướng quân.
Hoàng ở châu ba mươi năm, ân uy rất nổi, làm cho người khác tục rất
hâm mộ. Đến khi chết, cả châu khóc lóc như thương cha mẹ mình". Viết
như thế, Ngô Sĩ Liên có lẽ là đã quá lời khi dùng chính ngay những lời
lẽ của kẻ thù. Dẫu vậy, việc Đào Hoàng đã biết cúi đầu trước vị
Phật bản địa Pháp Vân, đã nói lên quá trình vừa muốn Việt hóa vừa
muốn giữ vững vị thế của mình của Đào Hoàng. Tất nhiên trong những
năm tháng này, vai trò của những người trí thức ưu tú như Đạo Thanh hoặc
học trò của ông có thể đã đóng một vai trò nào đó trong quá trình Việt
hóa những phần tử như Đào Hoàng. Cần nhớ là trong cuộc tiến quân vào
năm 269, cùng với Đào Hoàng có Tiết Vũ, người con của Tiết Tôn vẫn tiếp
tục coi nước ta là "cõi mọi rợ" (man thùy). Cho nên việc cúi đầu
và ca ngợi đức Phật Pháp Vân linh thiêng là một biểu thị ít nhiều
quá trình Việt hóa của bản thân Đào Hoàng.
Về Cương Lương Tiếp [^]
Cuối cùng, vị sư Chi Cương Lương
Tiếp với chữ Chi đi đầu biểu thị nguồn gốc dân tộc Scyth, một dân
tộc ở phía Tây Bắc Ấn Độ, dịch là xứ Nguyệt Chi. Còn tên "Cương
Lương Tiếp", ta được biết tiếng Hán dịch là Chính Vô Úy. Chữ Cương
Lương có thể tái thiết lại là Kalyàna, và từ này trong tiếng Hán cũng
thường được dịch là chánh chơn, chơn thiện, chơn thật v.v... Còn
"tiếp" thì có thể tái thiết, tiếng Phạn lại là siva, mà tiếng
Hán thường dịch là an ổn, cát tường, v.v.. Cương Lương Tiếp như vậy
có tên tiếng Phạn là Kalyàna'siva, chư không phải như Bagchi1 đã đề nghị
là Kàla'siva. Tuy nhiên, Phí Trường Phòng trong Lịch đại tam bảo ký 6 tờ
65a8-11 có ghi là một "Sa-môn ngoại quốc tên Cương Lương Lâu Chí, tiếng
Tấn gọi là Chân Hỉ, vào năm Thái thủy thứ 2 (266) từ Quảng Châu"
dịch Thập nhị du kinh, và nói là căn cứ vào Thủy hưng lục và Bảo xướng
lục. Mẫu tin này, sau đó Đại Đường nội điển lục 3 tờ 243b6-9; Cổ
kim dịch kinh đồ ký 2 tờ 354a 26-28; Đại Châu san định chúng kinh mục lục
9 tờ 431a 11 - 13; Khai Nguyên Thích giáo lục 2 tờ 497b18-22 và Trinh nguyên
tân định Thích giáo mục lục 4 tờ 794c6-10 đã chép lại. Cho nên Pelliot
trong bản nghiên cứu về Thập nhị du kinh 2 đã đồng nhất Chi Cương
Lương Tiếp với Cường Lương Lâu Chí. Điều này đã dẫn Trần Văn Giáp
ghi nhận sự có mặt của Cương Lương Lâu Chí tại nước ta và sau đó những
người viết lịch sử Phật giáo Việt Nam đều lập lại sai lầm này.
Zurcher 3 cũng muốn đồng nhất hai người này với nhau, nhưng vì có tộc
danh Chi (ethnikon) đứng trước Cương Lương Tiếp và vì nghĩa của hai tên
Cương Lương Tiếp và Cương Lương Lâu Chí khác nhau nên cũng không biết
giải quyết ra sao.
Chúng tôi nghĩ rằng Cương Lương
Tiếp và Cương Lương Lâu Chí là hai nhân vật khác nhau. Một nhân vật sống
tại nước ta vào khoảng những năm 256 tên Chi Cương Lương Tiếp, mà chữ
Phạn là Kalyàna'siva, còn nhân vật Cương Lương Lâu Chí sống tại Quảng
Châu 10 năm sau đó (266) có tên chữ Phạn là Kalyànaruci. Dù cho bản in đời
Nguyên và Minh của Đại Đường nội điển lục 2 tờ 226c10 có Cương
Lương Tiếp viết thành Cương Lương Lâu và Đại Châu san định mục lục
có Cương Lương Lâu dịch kinh Pháp Hoa tam muội, thì toàn bộ các kinh lục
khác từ Lịch đại tam bảo ký cho đến Trinh nguyên tân định Thích giáo
mục lục cũng như các bản in của những kinh lục này từ Cao Lệ, Tống
cho đến Nguyên, Minh, trong đó gồm có bản in đời Tống và Cao Lệ của
Đại Đường nội điển lục, đều nhất trí ghi tên Cương Lương Tiếp
đã cùng với Đạo Thanh dịch Pháp Hoa tam muội kinh. Cương Lương Tiếp và
Cương Lương Lâu Chí do thế dứt khoát là hai nhân vật khác nhau.
Vì Cương Lương Tiếp, Kalyàna'siva,
có tộc danh là Chi, cho nên quan hệ giữa Đạo Thanh và vị Sa-môn này
không phải là quan hệ thầy trò mà chỉ là một quan hệ hợp tác trong việc
dịch thuật. Ta biết điều này bởi vì các kinh lục đều ghi Đạo Thanh với
tư cách là Sa-môn Đạo Thanh hay Sa-môn Thích Đạo Thanh, như Lịch đại tam
bảo ký và Đại Đường nội điển lục ghi, trong khi đó Cổ kim đồ thư
ký, Khai Nguyên Thích giáo lục và Trinh nguyên tân định Thích giáo mục lục
đều nhất trí ghi là Sa-môn Trúc Đạo Thanh. Với tộc danh Trúc đứng trước
tên mình, Đạo Thanh dứt khoát phải là đệ tử của một nhà sư Ấn Độ
tại nước ta vào thượng bán thế kỷ III sdl. Ai có thể là vị thầy này
của Đạo Thanh? Trong số những nhà sư Phật Giáo có mặt tại nước ta
trong thượng bán thế kỷ III này, ngoài Mâu Tử, Khương Tăng Hội, mà cả
hai người đều không có họ Trúc được, ta có vị sư Thiên Trúc nổi tiếng
Khâu Đà La (Ksudra).
Trong chương trên, ta đã ghi nhận
là Khâu Đà La mất khi đã hơn 90 tuổi, và niên đại ông có thể rơi vào
khoảng những năm 160 - 255. Và nhà sư này cứ vào Cổ châu Pháp Vân Phật
bản hành ngữ lục là người Tây Thiên Trúc và đã có một quan hệ mật
thiết với trung tâm Phật giáo Luy Lâu, đặc biệt với sự hình thành truyền
thống Phật giáo Tứ Pháp của chùa Dâu. Có khả năng rất lớn là Đạo
Thanh đã học tiếng Phạn với Khâu Đà La, để sau này có thể bút thọ
Pháp Hoa tam muội kinh với Cương Lương Tiếp.
Bút thọ là một hiện tượng dịch
kinh đặc thù của Phật giáo nước ta và sau này của Trung Quốc. Trong lịch
sử Phật giáo Trung Quốc , hiện tượng bút thọ đầu tiên được ghinhận
là xảy ra vào ngày rằm tháng 5 năm Nguyên Khương thứ nhất (291) ở tại
chùa Thủy Nam, đất Thương Viên của Trần Lưu, khi Sa-môn Moksala người Vu
Điền (Khotan) cầm bản Phạn, Ưu-bà-tắc Trúc Thúc Lan khẩu truyền, còn
Chúc Thái Huyền và Chu Huyền Minh bút họ. Hiện tượng bút thọ xảy ra
là do sự không thông hiểu lắm tiếng bản dịch của người dịch, cho nên
cần một trung gian vừa hiểu tiếng của bản văn cần dịch vừa hiểu tiếng
bản địa để có thể truyền đạt và ghi chép lại ý nghĩa của bản
văn cần dịch ra tiếng bản địa. Ở nước ta, khi Đạo Thanh bút thọ
Pháp Hoa tam muội kinh thì điều này có nghĩa Cương Lương Tiếp không rành
tiếng Hán cho lắm. Và về bản thân Đạo Thanh thì ông phải một phần
nào biết chữ Phạn và một phần nào biết chữ Hán để có thể bút thọ
bản kinh này. Bản kinh này dứt khoát là phải được ghi bằng chữ Hán
vì sau này nó đã xuất hiện ở Trung Quốc để được ghi vào Ngụy thế
lục mục. Ngoài ra, cũng vì hiện tượng bút thọ này ta có thể giả thiết
hoặc là Cương Lương Tiếp mới đến nước ta cho nên không rành tiếng
Hán, và phải nhờ sự trợ giúp bút thọ của Đạo Thanh. Hoặc cũng có thể
Cương Lương Tiếp đã đến nước ta lâu ngày, sống trong các ngôi chùa Việt,
rành tiếng Việt nhưng không rành tiếng Hán, vì thế đến lúc do yêu cầu
chính trị của việc dịch kinh điển Phật giáo ra tiếng Hán, Đạo Thanh
đã giúp Chi Cương Lương Tiếp, bút thọ Pháp Hoa tam muội kinh. Giả thiết
này không phải là hoàn toàn vô bằng, khi ta chú ý đến sự xuất hiện của
Pháp Hoa tam muội kinh trong Ngụy thế lục mục.
Nội dung Pháp Hoa tam muội [^]
Điều đáng tiếc là Pháp Hoa tam muội
kinh đã khuyết bản từ lâu. Do vậy ta không thể nào biết nội dung nó gồm
những gì. Tuy nhiên với đầu đề Pháp Hoa tam muội kinh thì đây chắc hẳn
phải ít nhiều liên hệ đến các phương pháp thiền định. Điểm lôi cuốn
đối với chúng ta là khi chú thích kinh An ban thủ ý, Khương Tăng Hội đã
nêu ra cái gọi là lục diệu pháp môn, tức: Sổ (gananà), tuỳ (anugama), chỉ
(sthàna), quán (upalaksanà), hoàn (vivartanà), tịnh (pari'suddhi) như đã thấy.
Đến thời Trí Khải (538 - 597) thành lập phái Thiên Thai ở Trung Quốc, lấy
kinh Pháp Hoa làm chủ đạo, lại viết Lục diệu pháp môn, ĐTK 1918 tờ
555a15-29 đã ghi nhận: "Sao gọi là tương tự viên chứng sáu diệu
môn? Như kinh Pháp Hoa nói: "Trong nhãn căn thanh tịnh có thể đếm số
lượng pháp ngang với sắc và tâm của phàm và thánh của mười phương, nên
gọi là sổ môn. Tất cả sắc pháp tùy thuận ở nhãn căn, mắt không
trái với sắc pháp, cùng tùy thuận nhau, nên gọi là tuỳ môn. Như thế, lúc
thấy, nhãn căn biết vắng lặng bất động, nên gọi là chỉ môn. Không
dùng hai tướng mà thấy các nước Phật, thông đạt vô ngại, khéo léo
phân biệt, soi rõ pháp tính, nên gọi là quán môn. Trở về trong cảnh giới
của nhãn căn, thấu suốt cảnh giới của các căn tai, mũi, lưỡi, thân,
ý, hết thảy hiểu rõ vô ngại tướng không một không khác, nên gọi là
hoàn môn. Lại khi đã thấy cảnh giới nhãn căn, trở về xuất hiện trong
nhãn giới của phàm thánh mười phương, đó cũng gọi là hoàn môn. Tuy rõ
rệt thấy thấu suốt việc như thế mà không dấy lên vọng tưởng phân
biệt, biết bản tính thường tịnh là pháp không thể bị nhiễm, không trụ
không bám, không dấy khởi pháp ái, nên gọi là tịnh môn. Đấy là nói
tóm tắt về việc chứng tương tự tướng sáu diệu môn trong nhãn căn
thanh tịnh. Năm căn còn lại cũng như vậy, nói rộng như kinh Pháp Hoa đã
chỉ rõ".
Như vậy Kinh Pháp Hoa có liên hệ
chặt chẽ với phương pháp thiền định an ban mà vào thời Hùng Vương đã
truyền vào nước ta và sau đó đã được Khương Tăng Hội xiển dương mạnh
mẽ qua việc chú giải An ban thủ y kinh mà ta đã bàn trên. Tuy nhiên một số
nhà tư tưởng đã thấy ngay phương pháp ấy cần có một cơ sở lý luận
sâu hơn. Từ đó Đạo Thanh đã tham gia vào việc dịch Pháp Hoa tam muội
kinh với Cương Lương Tiếp. Trí Khải trong Lục diệu pháp môn ĐTK 1918 tờ
555a19-b19 giải thích tiếp cho ta biết thế nào là tam muội Pháp Hoa:
"Sao gọi chân thật viên chứng sáu diệu môn? Có hai thứ. Một là biệt
đối. Hai là thông đối. Biệt đối là: mười trụ là sổ môn, mười hạnh
là tùy môn, mười hồi hướng là chỉ môn, mười địa là quán môn, đẳng
giác là hoàn môn, diệu giác là tịnh môn. Hai, thông đối có ba thứ. Một
là sơ chứng. Hai là trung chứng. Ba là cứu cánh chứng. Sơ chứng là có Bồ-tát
nhập A tự môn, cũng gọi sơ phát tâm trụ, chứng được tuệ chân vô
sinh pháp nhẫn. Lúc ấy có thể ở trong một tâm niệm đếm các tâm hạnh
và đếm vô lượng pháp môn của chư Phật, Bồ-tát, thanh văn, duyên giác
của các thế giới như hạt bụi nhỏ không thể nói hết, nên gọi là sổ
môn. Có thể trong một tâm niệm tùy thuận sự nghiệp của pháp giới,
nên gọi là tùy môn. Có thể trong một tâm niệm nhập trăm ngàn tam muội
và hết thảy tam muội, hư vọng và tập đều ngưng dứt, nên gọi là chỉ
môn. Có thể trong một tâm niệm hiểu rõ hết hảy pháp tướng, đầy đủ
mọi thứ quán trí tuệ, nên gọi là quán môn. Có thể trong một tâm niệm
thấu suốt các pháp rõ ràng phân minh, thần thông chuyển biến, điều phục
chúng sinh, quay về nguồn gốc, nên gọi là hoàn môn. Có thể trong một
tâm niệm thành tựu các việc như trên đã nói, mà tâm không nhiễm trước
và không bị các pháp làm nhiễm ô, có thể làm sạch nước Phật, khiến
chúng sanh đi vào đường sạch của ba thừa, nên gọi là tịnh môn. Sơ tâm
Bồ-tát vào pháp môn ấy, như kinh dạy, cũng gọi là Phật, đã được chính
tuệ Bát-nhã, nghe Như Lai tạng, rõ chân pháp thân, đầy đủ (định) thủ
lăng nghiêm, thấy rõ tính Phật, ở đại niết bàn, vào cảnh giới không
thể nghĩ bàn của tam muội Pháp Hoa".
Đó là quan hệ giữa tư tưởng Pháp
Hoa và tam muội Pháp Hoa với phương pháp an ban. Ngày nay, tuy kinh Pháp Hoa
tam muội kinh do Cương Lương Tiếp và Đạo Thanh đã mất, nhưng vào thời
Trí Khải, nó chắc chắn vẫn còn lưu hành,bởi vì Đại Đường nội điển
lục của Đạo Tuyên chưa ghi nó vào loại "khuyết bản". Chỉ từ
thời Trí Thăng trở đi, Pháp Hoa tam muội kinh mới bị liệt vào "khuyết
bản" trong Khai Nguyên Thích giáo lục. Do thế, những lý giải vừa
trích của Trí Khải, cũng có thể cho ta thấy một số ý niệm về tam muội
Pháp Hoa, mà ông có khả năng rút ra từ kinh ấy. Điểm đặc biệt là việc
kết nối phương pháp tam muội Pháp Hoa với Lục diệu pháp môn ít nhiều
bộc lộ khuynh hướng giải thích lối thiền định an ban mà vào thời điểm
dịch kinh Pháp Hoa tam muội đã có một số sơ hở cần phải xử lý. Pháp
Hoa tam muội kinh đã giúp xử lý các sơ hở ấy. Cho nên, khoảng nửa thế
kỷ sau khi Đạo Thanh mất và sự ra đời của các nhân vật Đạo Cao (không.
360 - 450), Pháp Minh (không. 370 - 460) và Lý Miễu (không. 380 - 465), vấn đề
"tại sao không thấy Phật" đã được nêu ra, và Đạo Cao đã
liên tục trích dẫn kinh Pháp Hoa từ các phẩm "Như Lai thọ lượng"
và "Hoá thành" để trả lời câu hỏi vừa nêu. Kinh Pháp Hoa và
Pháp Hoa tam muội như vậy có một vị thế rất xung yếu trong lịch sử tư
tưởng giai đoạn đầu của Phật giáo tại nước. Dầu thế, câu hỏi ấy
chỉ được trả lời dứt khoát và giải tỏa với sự ra đời của dòng
thiền Pháp Vân qua sự hiện diện của Tì-ni-đa-lưu-chi và Pháp Hiền mà
ta sẽ đề cập ở dưới.
| Mục lục | I | II | III | IV | IVb | V | VI | VII | VIII | VIIIb | IX | IXb | X | XI | XII |