- Lịch sử Phật giáo Việt
Nam
- Từ khởi nguyên đến thời
Lý Nam Đế
- Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
- Chương VIII-B
- Sáu lá thư và cuộc khủng
hoảng
- của nền Phật gia'o thế kỷ
thứ V
Huệ Lâm và lý do ra đời
của 6 lá thư
Niên đại của Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu
Về Hiền Pháp sư
Nội dung cuộc khủng hoảng
Những đóng góp của Sáu lá thư
Về nghệ thuật
Về âm nhạc
Về văn học
Về lịch sử Phật giáo
Về lịch sử chính trị
Huệ Lâm và lý do ra đời của sáu lá thư [^]
Về câu hỏi sau, để trả lời, chúng
ta cần nhớ đến nghệ thuật Tiên Sơn. Chúng tôi gọi nghệ thuật Tiên Sơn
những gì tìm thấy trên bệ đá chùa Vạn Phúc, mà trước đây chúng tôi
đã đặt tên là nền nghệ thuật Vạn Phúc một cách không chính đáng cho
lắm. Đặc điểm của nền nghệ thuật này nằm ở chỗ, đức Phật không
bao giờ được tượng trưng bằng hình người, mà bằng một cánh hoa sen
đặt vào giữa lòng một trang trí theo dáng hình lá bồ đề. Quan niệm đức
Phật của người nước ta vào thế kỷ thứ V như vậy biểu lộ không ít
qua nền nghệ thuật ấy. Và cố nhiên là có thể truy tối thiểu về cái
thuyết "thanh nhân năng thụ nhân đạo, bất năng sử nhân lý nhi hành
chi giả" của Mâu Tử vào thế kỷ thứ II trong Mâu Tử lý hoặc Luận,
theo đó, giá trị của Phật giáo không nằm đâu xa hơn là chính lý thuyết
Phật giáo và sự thực hành nó.
Điểm này giải thích cho ta khá nhiều
những băn khoăn về chuyện không thấy bản thân đức Phật của những Phật
tử thời bấy giờ như Lý Miễu, tạo cơ hội cho sự ra đời Sáu lá thư
của chúng ta.
Đương nhiên, sự mong ước nhìn thấy
bản thân đức Phật ấy không chỉ giới hạn vào, hay hậu quả của, quan
niệm Đức Phất phát biểu trong nền nghệ thuật Tiên Sơn tại nước ta.
Nó cũng xuất hiện ở Trung Quốc với trường phái Tịnh Độ của Huệ Viễn
tại Lô Sơn, mà bằng chứng còn sót lại trong những lá thư do ông và Cưu
Ma La Thếp viết, lưu truyền dưới tên Đại thừa nghiã chương. Những
băn khoăn này đã không những được họ phát biểu một cách hùng hồn
và kỳ diệu bằng nghệ thuật, mà còn bằng văn tự và lý luận một
cách minh nhiên và khúc chiết. Nghệ thuất là tiếng nói của con tim và niềm
tin; văn tự là tiếng nói của trí óc và hiểu biết. Tuy thế, niềm băn
khoăn ấy chưa hẳn là động cơ duy nhất cho sự xuất hiện những lá thư
trên. Nói là chưa hẵn, bởi vì trong những lá thư của Đạo cao và Pháp
Minh ta thấy họ đề cập đến nhiều vấn đề, mà Lý Miễu không bao giờ
nêu ra hay nhắm tới.
Chẳng hạn, ở lá thư thứ tư Đạo
Cao nói về sự "hấp tấp trong việc đồng qui"; hay ở lá thư thứ
sáu, Pháp MInh khiển trách những kẻ "tuy thế trí biện thông, sách vở
đầy bụng, trăm nhà thấu suốt, chín phái rõ qua, biết sống chết có mạng,
giàu sang tại trời, quỉ thần không dể cản ngăn, thánh hiền không thể
dự đoán, cũng không thoát khỏi sự sai lầm để che lấp tâm tình hay sự
nghi ngờ từa tựa để lo nghĩ mômg lung, rồi phó thác cho đồng bóng, đầu
thành với phù chú , ôm lấy chuyện bậy để hy vọng điều phải, giữ chặt
việc giả để chờ đợi sự chân, chần chờ hai lòng, trù trừ đôi
ngã". Những vấn đề cũng như sư khiển trách loại ấy chỉ có thể
hiểu được, nếu ta giả thiết, chúng không chỉ nhằm tới cá nhân Lý Miễu
của chúng ta, mà còn tới một số người khác. Thế thì những người khác
này là ai ?
Kiểm soát văn cú và vấn đề
trong Sáu lá thư trên. ta thấy chúng có những tương tự đáng chú ý với
Quân thiện luận của Thích Huệ Lâm do Trầm Ước (441 - 513) ghi lại trong
Tống thư quyển 97 tờ 14b7-19b8 và Nghiêm Khả Quân trích trong Toàn Tống văn
quyển 63 tờ 5b6-8a3. Cho nên không phải là hoàn toàn không lý do, khi ta có
thêm đoạn "hậu bút" trích từ Minh Phật luận của Tôn Bính sau
lá thư của Pháp Minh.
Quân thiện luận hay Quân thánh luận
là một tác phẩm nhằm chính minh thuyết thần diệt và thuyết Phật giáo
và Khổng giáo đều hay, giã trang dưới hình thức một cuộc đối thoại
giữa một Bạch học tiên sinh và một Hắc y đạo sĩ. Hắc y đạo sĩ dĩ
nhiên là một tên gọi khác những nhà tu hành Phật giáo. Thí dụ trong Đoạn
tửu nhục văn ở Quảng hoằng minh tập quyển 26 ĐTK 2103 tờ 29b18-19,
Lương Vũ Đế nói: "Phù khuôn chính Phật pháp thị hắc y nhân sự,
nãi phi đệ tử bạch y sở cấp".
Cuốn luận đó kết luận với sự
thua lý của Hắc y đaọ sĩ và lời đoán án thắng trận sau đây của Bạch
học tiên sinh: "U minh chi lý. cố bắc cực ư nhân sự; Chu Khổng nghi
nhi bất biện, Thích Ca biện nhi bất thật, tương nghi phế kỳ hiển hối
chi tích, tồn kỳ sở yếu chi chỉ ..., đản tri lục đọ dự ngũ giáo tịnh
hành, tín thuận dự từ bi tề lập nhĩ, thù đồ đồng qui giả, bất đắc
thu kỳ phát luân chi triệt dã".
Đoán án này do một nhà sư Phật
giáo viết ra tất phải tạo nên những tức giận trong hàng ngũ Phật giáo,
nhất là cái câu"Thích Ca biện nhi bất thật". Trầm Ước sau khi
cho chép lại hết cả Quân thiện luận, đã phải viết: "Luận hành ư
thế, cựu tăng vị kỳ biếm truất Thích thị, dục gia tẩn xích".
Và bằng cớ chúng ta không cần phải
đợi lâu, bởi khi cách Ước không xa, Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 7 tờ
368a11-12 viết về Lâm thế này: "Sau lại làm ra quyển Bạch hắc luận,
trái với lý thuyết Phật giáo, thái thú Hoặch dương Hà Thừa Thiên cùng
Lâm đọ giáp, giúp nhau kích dương, làm ra quyển Đạt tính luận, cũng câu
trệ về một phía, mà mắng chê Phật giáo ..., Lâm khi đã tự phá hủy
pháp bị của mình, bị đuổi ra Giao Châu".
Thế là, như một nhà sư Phật giáo,
Lâm đã phê bình Phật giáo một cách gắt gao, tạo nên những tức giận
trong hàng ngũ Phật giáo, đến nổi họ phải gọi một cách khinh thường
Quân thiện luận là Bạch hắc luận, để cuối cùng bị đuổi ra nước
ta, mặc dù một số Phật tử đồng thời như Trầm Ước và những nhà sư
Phật giáo về sau như Đạo Tuyên (596 - 667) đã tha thứ cho Lâm, điển hình
qua cái dẫn chứng trên của Ước và cái tóm tắt tiểu sử và đầy tư
tưởng thiện cảm về Lâm trong Quảng hoằng minh tập quyển 9 tờ
132b29-c4.
Trong lời đoán án vừa thấy , Lâm
đã nói tới chuyện "hiển hối chi tích" và "thù đồ dồng
qui". Về "thù đồ đồng qui", chúng ta đã nhận ra trong lời
phê bình của Đạo Cao về sự "hấp tấp trong việc đồng qui". Còn
chyện "hiển hối chi tích", thì tuy Lâm đòi hãy bỏ nó đi, Đạo
Cao đã mở đầu lá thư đầu tiên của mình với chính những chữ ấy:
"Phụng thùy vấn chí thánh hiển hối chi tích".
Những lá thư của Đạo Cao do thế
có thể nói không phải chỉ trả lời cho những vấn nạn của Lý Miễu,
mà còn là một trả lời cho cái kết luận trên của Quân thiện luận của
Huệ Lâm. Những lời khiển trách trong lá thư của Pháp Minh về chuyện
"thế trí biện thông, sách vở đầy bụng, trăm nhà thấu suốt, chín
phái rõ qua, do thế phải kể là nhắm tới Huệ Lâm nhiều hơn là Lý Miễu,
mà sư non nớt đã được chính Minh vạch ra trong cái mâu thuẫn về lý
thuyết của Nho giáo.
Mà quả thực, những lá thư của Lý
Miễu đã vang dội một phần nào ngôn từ và quan điểm của không những
Quân thiện luận, mà còn của những lá thư trao đổi của Hà Thừa Thiên
và Tôn Bính. Chẳng hạn trong lá thư thứ ba, Lý Miễu nói tới việc "Đấng
đại thánh ban cái trí vô ngại, duỗi lòng thương không cầu, thì sao lại
tiếc cái ánh sang rực rỡ của mình ..." . Trong lá thư viết trả lời
Tôn Bính ở Hoằng minh tập quyển 2 DTK 2101 tờ 19b27-28, Hà Thừa Thiên viết:
"Há Thích Ca chỉ không tiếc những lời giảng dạy dài dòng vào mươi
trăm vạn lời, mà lại đi tiếc một chút ánh thần trong giây lát ..."
Vậy thì Huệ Lâm bị đuổi ra nước
ta lúc nào ở đâu ?
Trả lời câu hỏi ấy, ngày nay
chúng ta không có một mẫu tin nào chắc chắn hết. Ngay cả việc Lâm bị
đuổi ra nước ta cũng đã không được ba trong số năm bản tiểu sử về
Lâm nói tới, đấy là Tống thư của Trầm Ước và Quảng hoằng minh tập
của Đạo Tuyên và Nam sử quyển 78 tờ 17a9-18al của Lý Diên Thọ. Cao Tăng
truyện ghi lại nó, nhưng không cho biết nó xảy ra năm nào. Thích môn tự
cảnh lục quyển thượng DTK 2038 tờ 809b29-c8 cũng thế, dâu có thêm là,
Lâm bị mù mắt vài năm rồi buồn chết.
Chúng ta do đó phải dựa vào một
số những bằng cớ trường hợp sau cho việc phỏng đoán thời điểm Lâm
đến nước ta. Thứ nhất, Huệ Lâm viết lụy văn cho hai người chết vào
năm 435, đấy là Trúc Đạo Sinh và Thích Pháp Cương, mà nguyên bản Đạo
Tuyên sưu tập lại trong Quảng hoằng minh tập quyển 23 tờ 265b3-c12 và
Nghiêm Khá Quân trích trong Toàn Tống văn quyển 63 tờ 8a4-10a10. Lâm như vậy
cho đến năm 435 đang còn ở Trung Quốc và đang có những liên lạc mật
thiết với hàng ngũ Phật giáo.
Nói thế, chúng tôi không kể đến
lụy văn do một người mang tên Thích Huệ Lâm, mà các ấn bản Trung Quốc
khắc thành hoặc như hoặc như viết cho Thích Huyền Vận mất vào năm 498
và xuất hiện trong Quảng hoằng minh tập quyển 23 tờ 268a25-c11, bởi vì
nó không quan trọng cho lắm với vấn đề của chúng ta ở đây. Nghiêm Khả
Quân trong khi cho trích nó ở Toàn Tề văn quyển 26 tờ 24a4-25a12, đã chú
thích Huệ lâm ấy như "vị tướng". Đạo Tuyên đã xác định Lâm
ấy là Lâm của thời Nam Tề, ngoài chuyện viết nó thành ? cứ theo ấn bản
Đại tạng kinh ngày nay. Chúng tôi nghĩ, chúng ta có thể giả thiết sự
có mặt của hai người cùng tên Thích Huệ Lâm.
Thứ hai, Lâm phải viết cuốn Quân
thiện luận của mình vào trước năm 434, bởi vì nó là chủ đề bàn cãi
của Minh Phật luận hay cũng gọi là Thần bất diệt luận , do Tôn Bính viết.
Bính mất năm 443 lúc ông 69 tuổi. Việc này, Hà Thượng Chí nói rõ trong
lá thư ông viết cho Tống Văn Đế vào năm 435, mà Tăng Hựu sưu tập dưới
nhan đề Hà lệnh Thượng Chi đáp Tống Văn hoàng đế tán dương Phật sự
ở Xuất tam tạng ký tập quyển 11 DTK 2102 tờ 69a13-14, như "Lúc bấy
giờ có Sa - môn Huệ Lâm giả mặc áo thầy tu, mà hủy báng giáo pháp của
mình, làm ra quyển Bạch hắc luận; thái thú Hoạnh dương Hà Thừa Thiên
cùng Lâm đọ giáp, giúp nhau kích dương, làm quyển Đạt tính luận, cũng
câu nệ một phía mà mắng chê Phật giáo; thái thú Vĩnh gia Nhan Diên Chi
và thái tử Trung xá nhân Tôn Bính đều là những người tin tưởng giáo
pháp, kiểm soát và bác bỏ hai cuốn luận ấy, mỗi một người hơn một
vạn lời; Lâm v.v... ban đầu cũng có thư từ qua lại, nhưng sau vì hết
lý, bèn thôi, Bính nhân đó làm quyển Minh Phật luận, để mở rộng tôn
chỉ của mình; vua khen hay".
Thứ ba, cứ vào lời dẫn của Hà
Thượng Chi, thì Huệ Lâm đã bị coi là "giả phục tăng thứ nhi hủy
kỳ pháp", ngay trong lúc Tống Văn đế đang còn sống, nghiã là bị coi
giả mặc áo thầy tu ngay trước năm 454, năm Văn đế chết. Đây là một
điểm chú ý, bởi vì theo Tống thư của Thẩm Ước thì chính trong thời Tống
văn đế này, mà cuốn Quân thiện luận của Lâm "ban hành ở đời, các
cựu tăng cho nó là chê bỏ Thích thị, muốn đòi tẩn xuất đuổi đi; Thái
tổ thấy cuốn luận, bèn khen; trong khoảng Nguên gia, Lâm tham gia chính quyền,
moị việc lớn ở triều đình đều cùng nghị bàn, khách khứa lui tới đông
đúc, xe cộ trước cửa thường có vài chục cặp, bốn phương nối nhau gởi
tặng của cải, thế khuynh một thời.
Nguyên gia, mà bản in Bách nạp viết
thành Nguyên trực, là niên hiệu suốt qua giai đoạn ngự trị từ năm 424
của Thái tổ, và Thái tổ là miếu hiệu của Tống Văn đế. Trong khoảng
những năm 424 - 454 Lâm như vậy đã đóng một vai trò quan trọng giữa triều
đình của Tống Văn đế. Nhưng đồng thời cũng tại khoảng đó Hà Thượng
Chi đã viết những dòng trên. Việc "Thái tổ thấy cuốn luận bèn
khen" đây chắc hẳn phải xảy ra trước khi Nhan Diên Chi và Tôn Bính
bác bỏ vào khoảng trước năm 435 không lâu. Một khi đã thế, Huệ Lâm
có bị đuổi ra Giao Châu chăng nữa thì cũng phải xảy ra sau khi Văn đế
chết, tức sau năm 454. Cứ vào ba bằng cớ trường hợp vừa dẫn, chúng
ta có thể giả thiết Huệ Lâm đã đến nước ta vào khoảng sau năm 454.
Từ đó, năm sinh của ông có lẽ rơi
vào khoảng 380. Đặt vào khoảng ấy, bởi Lâm viết lụy văn cho Pháp Cương
vào năm 435 với tư cách một người bạn, mà Pháp Cương vào năm 388 đã
là một pháp sư nổi tiếng tại giảng trường của Vương Tuân. Cương do
thế phải sinh khoảng 360. tuổi Lâm vì vậy cũng phải không cách Cương quá
xa, nghiã là, Lâm sinh khoảng năm 380, nếu không là sớm hơn. Ngoài ra, LÂm
vào năm 423 đã tham dự vào những tranh luận đương thời với Pháp Cương
và Tạ Linh Vận, mà thư từ qua lại giữa họ đã được Đạo Tuyên sưu
tập trong Quảng hoằng minh tập quyển 8 tờ 226b6-227a25, đặc biệt là khi
Vân gọi Lâm bằng Lâm công. Thêm vào đó Lâm là đệ tử của Đạo Uyên,
cứ vào tiểu sử của Uyên ở Cao Tăng truyện quyển 7 tờ 368a1-11 thì ông
mất lúc 78 tuổi dưới thời Tống Văn đế. Giả như Uyển mất khoảng
năm 430, thì ông sinh khoảng những năm 350 - 360. Năm sinh 380 của Lâm như vậy
không đến nỗi xa vời cho lắm. Bằng vào những phân tích ấy, niên đại
370 - 470 có thể được rút ra cho Huệ Lâm, mặc dù cái câu "sở tuế
phẫn kết nhi tốt" của Hoài Tố nói trên.
Lâm có lẽ là một người dễ tạo
hiểu lầm và bàn cãi, do thế ngày nay ta có ít nhất hai hình ảnh khá
trái ngược về ông.
Huệ Hạo, trong Cao Tăng truyện đã
cho biết: "Đệ tử của Uyên là Huệ Lâm, vốn họ Lưu, người Tần
quận, giỏi biết các kinh và Trang Lão, bày chuyện khôi hài, ưu nói cười,
sở trường về viết lách; cho nên có tập làm 10 quyển, nhưng tính ngông
ngạo, lại tự hay khoe khoang. Uyên thường đến Phó Lượng, Lâm ban đầu
đang ngồi; tới khi Uyên đến, Lâm không chịu trí lễ. Uyên nổi giận, đỏ
cả mặt. Lượng bèn phạt Lâm hai mươi trượng. Tống Thế tổ nhã trọng
Lâm, khi tới thăm, thì thường một mình lên trên giường. Nhan Diên Chi, mỗi
lúc đem điều này ra chê trách, vua liền không vui. Sau LÂm viết Bạch hắc
luận, trái với lý thuyết Phật giáo. Thái thú Hoạnh dương Hà Thừa
Thiên cùng Lâm đọ giáp cùng nhau kích dương, làm Đạt tính luận, cũng câu
nệ một phía, chê mắng Thích giáo. Nhan Diên Chi và Tôn Bính kiểm bác hai
cuốn luận ấy, mỗi một người hơn một vạn lời. Lâm, khi đã hủy
báng pháp bị của mình, liền bị đuổi ra Giao Châu. Đời nói: "Uyên
công thấy ma tinh, tức là người này vậy".
Cái câu nhận xét cuối cùng, nói
lên không ít thái độ đầy tức giận của Huệ Hạo và hàng ngũ Phật giáo
thời ông và trước ông. Về phía khác Tống thư và Nam sử không ghi lại
một điểm gì làm cho ta nghĩ Lâm là một người "ưu khoe khoang ngông
ngạo đùa bỡn". Hơn nữa chúng cũng chép lại hoàn toàn nguuyên văn của
Quân thiện luận, nhờ thế, ngày nay ta mới biết một phần nào tư tưởng
của Lâm, và cho những thầy tu muốn tẩn xuất Lâm vì cuốn sách đó là
những "cựu tăng". Chúng viết: "Huệ Lâm, người huyện Tần,
quận Tần, nguyên họ Lưu, thưở nhỏ xuất gia ở chùa Trị Thành, có tài
chương, học gồm cả trong ngoài, là chỗ sở tri chân nghiã của Lô Lăng
vương. Ông từng viết Quân thiện luận, lời nó thế này (...) Luận ban
hành ra ở đời, cựu tăng cho là chê trách Thích thị, muốn tẩn xuất
LÂm. Thái tổ thấy cuốn luận, bèn khen. Trong khoảng Nguyên gia, Lâm tham dự
vài quyền yếu, triều đình đại sự đều dự vào mà bàn cải, khách khứa
lui tới đông đúc, xe cộ trước cửa thường có vài chục cặp , bốn phương
nối nhau gởi tặng của cải, thế khuynh một thời. Ông chú thích Hiếu
kinh và thiên Tiêu diêu của Trang Tử, văn luận còn truyền ở đời".
Với hai bản tiểu sử này, ta có
thế thấy, những người đồng đaị trẻ tuổi của Lâm đã nhìn Lâm như
thế nào. Điểm lôi cuốn nằm ở chỗ, họ để Lâm lộ ra như một người
trung thực và có cam đảm nói ra sự trung thực của mình. Là một người
trung thực, bởi vì ông dám bảo "Thích Ca biện bất nhi thật", dù
ông là một nhà sư Phật giáo và thừa nhận giá trị đạo đức của Phật
giáo về khía cạnh "lục độ dự ngữ giáo tịnh hành, tín thuận dự
từ bi tề lập", cuối cùng dẫn đến sự ra đời của thuyết "thù
đồ đồng qui". Là cam đảm, bởi vì ông dám viết ra nó một cách
công nhiên. Đây là lối đánh giá của HÀ Thừa Thiên. Trong lá thư gởi
cho Tôn Bính ở Hoằng minh tập quyển 3 tờ 20a14-16, Thiên viết: "Lâm Tỳ
- kheo tuy mặt mũi là thầy tu, nhưng tính tình ngay thẳng, hình như sâu biết
sự chân giả khác nhau, nên không kiêng kinh, giúp thầy, để mà tô vẽ cho
một học thuyết sai. Tôi vì thế kính trọng ông".
Với những đánh giá như thế, việc
Lâm nêu lên thuyết "thù đồ đồng qui"không những nhằm địa
phương hóa lý thuyết Phật giáo cho những người Phật tử thuộc văn minh
viễn đông, mà còn tượng trưng một nỗ lực đầu tiên việc xã hội
hóa Phật giáo, biến nó thành một thứ Phật giáo dấn thân với một lý
thuyết xã hội dấn thân. Và điểm này phải kể là một đóng góp đặc
sắc của Lâm.
Nhưng trong khi làm thế, nhất là
khi ông ra mặt thẳng thắn phê bình Phật giáo thời ông, Lâm đồng thời
tạo nên những phản ứng quá khích từ hàng ngũ Phật giáo Trung quốc, mà
bằng chứng la ta đã có dịp thấy qua những nhận xét trên của Hà Thượng
Chi và Huệ Hạo. Phản ứng ấy cũng như quan niệm Phật giáo của Lâm chắc
hẳn đã được biết đối với hàng ngũ Phật giáo nước ta cứ vào sự
giao thương điển tịch và tin tức do chúng tôi phân tích ở trước.
Một khi đã thế, chúng ta không có
gì ngạc nhiên về việc Đạo Cao cảnh cáo Lý Miễu đừng có "hấp tấp
trong việc đồng qui", mặc dù ông vẫn cứ lập đi lập lại cái truyện
"tiên nho vảng triết đều có nói sơ điển ấy từ lâu, đường không
khác lối, họ chỉ thuật lại mà không làm ra". Khẳng định như vậy,
Nho giáo không gì hơn là một nối dài của Phật giáo.
Và chúng ta cũng không có gì mà phải
ngạc nhiên, khi Pháp Minh đã khiển trách một cách bóng gió những kẻ
"tuy thế trí biện thông, sách vở đầy bụng, trăm nhà thấu suốt,
chín phái rõ qua ... mà cũng chưa thoát khỏi sự sai lầm để che lấp tâm
tình hay sự nghi ngờ từa tựa để lo nghĩ mông lung, rồi phó thác cho đồng
bóng, đầu thành với phù chú, ôm lấy chuyện bậy để hy vọng điều phải,
giữ chặt việc giả để chờ đợi sự chân, chần chờ hai lòng, trù trừ
hai ngã..."
Những phê bình và khiển trách loại
vừa kể, hẳn một phần nào nhắm tới Huệ Lâm. Khẳng định như vậy,
người ta sẽ hỏi, thế thì ta có thể biết gì về những liên lạc giữa
Lâm và Lý Miễu cùng những lãnh tụ chính trị khác nhau của nước ta thời
bấy giờ, nhất là khi ta không biết một cách chắc chắn Lý Miễu là ai.
Trước câu hỏi này, chúng tôi tất
không thể bàn cãi gì thêm, bởi ngoài chuyện không biết một cách chắc
chắn về Lý Miễu, chúng ta không có một dữ kiện nào hết, thành văn hay
bất thành văn về họ. Tuy thế, nếu Lâm trong khi còn ở Trung Quốc, đã
giữ vai trò trọng yếu tại triều đình, thì ta có thể hy vọng là, lúc bị
đuổi ra nước ta, đặc biệt là những người có trách nhiệm khởi nghĩa,
đón nhận ông như một đóng góp mới cho thành phần trí thức và lãnh đạo
Việt Nam.
Việc những lãnh tụ người nước
ta vào thế kỷ thứ V là những người Phật giáo và cần đến sự giúp
đở của thành phần tu sĩ Phật giaó Việt Nam chống Trung Quốc, có thể
thấy qua mẫu chuyện sau đây về sự liên lạc giữa Lý Thúc Hiến và một
nhà sư tên Huệ Đào.
Như đã thấy, Lý Thúc Hiến là
tùng tử và là người kế nghiệp sự khởi nghĩa của Lý Trường Nhân.
Trong Pháp uyển châu liêm quyển 36 ĐTk 2122 572a20-b3 viết vào năm 666, Đạo
Thế cho trích từ Lương kinh tự ký câu chuyện sau: "chùa Nam minh chân
đời Lương tại huyện Mạc Lăng làng Trung Hưng vào năm Phổ thông thứ năm
(525), Sa - môn Huệ Đào khởi tạo, Đào lúc sinh vốn họ Từ, đầu đời
Tề, bèn theo cậu mình ra ở Lô Lăng, giữa đường lượm được một cái
xiêm, bên rong cái xiêm có một cái khăn năm màu, bên trong cái khăn có chỉ
ngũ sắc, mỗi một chúng làm thành ra một gói. Bèn bắt đầu mở chúng
ra, tới bốn vòng thì đều không thấy chúng đâu cả. Cuối cùng ông mở
cái vòng chỉ dưới hết, thì thấy bóng sáng chớp , chiếu sáng cả một
nhà. Nhân thế ông đồng thời cảm thấy cái điều tốt của thần, vào nước
không chết vào lửa không cháy. Người nhà cho ông là phát cuồng, bắt đầu
làm lồng cũi, đóng khóa rất chặt. Nhưng bổng chốc ông lại lọt ra. Họ
liền biết ông có thần lực, nhơn đó họ thiết ghế trống, xin ông làm
phước, thì trên không có tiếng nói rằng: "Ta là Bồ TÁt Trường
Sinh, ứng ra để làm lợi đất nước; các người nên quy y Phật pháp, mà
thanh tịnh cúng dường". Từ đó, họ dành nhau đem hoa hương dâng
cúng, mỗi mỗi đều có linh nghiệm. Người miền nam là Lý Thúc Hiến kết
nguyện xin mời về châu mình, sau Hiến quả nhiên được làm thứ sử Giao
Châu, bèn liền tạo bức thần ảnh bằng trầm hương. Người đời cho thần
là quí bông đẹp, nhân thế họ gọi là thần Hoa nương. Trăm họ gởi đồ
đến cúng đấy nức, sau khi trai hội có dư. Huệ Đào dạy cho tất đều
đem làm chùa".
Đây có lẽ là một mẫu chuyện
duy nhất trước thời Đinh Tiên HOàng nói tới những liên lạc cụ thể giữa
những lãnh tụ chính trị nước ta và hàng ngũ Phật giáo một cách công
nhiên. Nó được Đạo Thế bảo là trích từ Lương kinh tự ký. Ngày nay
chúng ta không biết cuốn Lương kinh tự ký này do ai viết và viết lúc
nào. Điều chắc chắn là nó phài ra đời khoảng giữa những năm 525 và
666, bởi vì Thế viết xong quyển Pháp uyển châu lâm trước năm 666, còn
nó lại nói đến Phổ thông thứ năm của Lương Vũ đế, tức năm 525.
Cứ vào mẫu chuyện này, thì Lý
Thúc Hiến đã mời Huệ Đào, mà trong những cơn "phát cuồng" được
biết như Bồ Tát Trường Sinh đến nước ta và sau đó được chức thứ
sử Giao Châu và Huệ Đào vào khoảng "Tề sơ" mới bắt đầu phát
cuồng.
Đây là một điển đáng chú ý, bởi
vì Tiêu Đại Thành lên ngôi vào tháng 4, thì tháng 6 ông đã ra chiếu cho
Hiến làm thứ sử Giao Châu: "Giao CHỉ và Tỉ cảnh riêng cảnh thơ sóc,
ấy là vì vận của triều đình trước mới suy, nên chúng ỷ thế biển,
mà không vào chầu, nhân mê muội, chúng đi quá, không còn qui khoản; nay đáng
tha thứ cho Giao Châu, trong xứ ấy chỉ có một người Lý Thúc Hiến tức
có thể yên phủ nam thổ, văn vũ rõ tài tuyển dụng, cùnn sai đại sứ nêu
rõ lại ân đức của triều đình, nên lấy thí thủ Vũ Bình thái thú
hành Giao Châu phủ sự Lý thúc Hiến làm thứ sử Giao Châu."
Nếu vào khoảng Tề sơ Huệ Đào mới
có thần lực, thì phải chăng chỉ trong hai tháng, mà tiếng vang đã đến
tai Lý Thúc Hiến, để Hiến xin về châu mình? Huyện Mạt Lăng, ở phủ
Khai Phong tình Hà Nam và huyện Lô Lăng tại phủ cát An tỉnh Giang Tây, cả
hai khá xa xôi với người nước ta. dẫu sao đi nữa, Lý Thúc Hiến là một
Phật tử và đã có liên lạc với hàng ngũ Phật giáo thời ông. Thái độ
tôn giáo của Hiến biểu lộ không ít trong việc tạo ra một thần ảnh của
Bồ Tát Trường Sinh bằng trầm hương. Trần hương dĩ nhiên là một thổ
sản nổi tiếng của nước ta, mà Nam châu dị vật chí do Vạn Chấn viết
vào khoảng năm 290 và Đạo Thế dẫn trong Pháp uyển châu lâm quyển 36 tờ
573c24-574a3 cho biết thế này: "Mộc hương sản xuất ở Nhật Nam, muốn
lấy nó thì nên trước phải chặt cây cho nó nằm trên đất khá lâu, vỏ
bên ngoài hủ xám đi, cái lòng bên trong của nó cứng, để vào nước liền
chìm, nên gọi là trầm hương, cái khúc giữa cái lòng và vỏ thì không cứng
thuần cho lắm, để vào nước thì không nổi không chìm, cùng ngang với nước,
nên gọi là chiêm hương, còn cào vỏ rất thô vụn thì gọi là tạm hương".
Câu chuyện vừa dẫn không những
cho thấy một phần nào khía cạnh tôn giáo của những lãnh tụ khởi nghĩa
nước ta vào thế kỷ thứ V, nghĩa là, cho biết họ là những Phật tử,
mà còn bày tỏ khá nhiều sự ân cần đến nhân tài trong những cuộc vận
động độc lập chóng Trung Quốc của họ. Và những nhân tài ấy đôi khi
gồm cả người Trung Quốc như trường hợp Huệ Đào vừa kể trên.
Sự tình này giải thích không ít,
tại sao Huệ Lâm có thể tham dự vào phong trào vận động độc lập tự
trị kiểu của Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến. Nếu Lý Miễu là Lý Trường
Nhân và Huệ LÂm, sau khi bị đuổi ra nước ta vào khoảng năm 454. đã làm
việc với Miễu, thì chuyện Nhân giết "bắc lai bộ khúc" của Trương
Mục vào năm 468 không có gì lạ hết. Lâm đã bị tập thể tăng lữ cũng
như chính trị xứ mình khai trừ và đuổi đi, tất có cả lý do để hợp
tác với những phong trào chống lại tập thể tăng lữ và nhất là tập
thể chính trị đó.
Về phiá nước ta, Lâm quả là một
nhân vật đáng chú ý. Ông không những là một nhà sư nổi tiếng và một
học giả với một kiến thức sâu rộng, biểu hiện qua việc ông viết
chú thích cho Hiếu kinh và thiên Tiêu Diêu của Trang Tử, mà còn là một người
tham dự vào chính trị tại triều đình Trung Quốc, mà người đương thời
như Khổng Khải đã gọi một "hắc y tể tướng" - vị tể tướng
thầy tu - và thụ hưởng sự sủng ái kính trọng của kẻ đứng đầu triều
đình ấy, tức Tống Văn đế. Yếu tố sau đối với những lãnh tụ cuộc
khởi nghĩa năm 468 chắc hẳn là một yếu tố quan trọng, bởi vì nó giúp
họ thấy một phần nào cái cơ chế và diễn trình quyết định chính trị
của chính quyền Trung Quốc về nước ta, từ đó họ có thể đề ra những
biện pháp đối phó thích hợp.
Về Lý Trường Nhân thành công
trong công tác giết "bắc lai bộ khúc" của Mục, mà không tạo
nên một phản ứng đáng kể nào từ chính quyền của Tống Minh đế, không
phải là không có lý do của nó. Và việc Nhân đợi cho Mục chết, để làm
chuyện ấy, cũng không phải là hoàn toàn vô cớ. Mục là người Trung Quốc
và là một Phật tử thuần thành, bởi vì người con gái của ông đã đi
tu trở thành một ni cô. Dưới sự lãnh đạo của Thích PHáp Độ, cô đã
tạo khá nhiều tiếng tăm bàn tán, mà dấu tích ta còn thấy trong một bài
do Tăng Hựu sưu tập lại ở Xuất tam tạng ký tập quyển 5 tờ 40c19-42c1,
và trong bản tiểu sử của Pháp Độ ở Cao Tăng truyện quyển 1 tờ
329c16-28.
Cứ vào hai tài liệu ấy, Pháp Độ
đã phê bình chế độ sống tập thể tăng lữ Phật giáo Trung Quốc bấy
giờ, nhất là chế độ ăn, mặc và trì giới, và cổ vũ việc trở về với
đời sống tăng già Ấn Độ của Phật giáo, đó là quấn y và xin ăn ấy,
đặc biệt là cảnh các ni cô quấn y xin ăn và trật bả vai trong khi Bố
Tát, trong liên hệ đó, họ kẻ đến những người đi theo cách sống quấn
y xin ăn man rợ này của Pháp Độ và than vãn là, chúng gồm cả những con
nhà quyền quí như ni cô Phổ Minh ở chùa Hoằng Quang, người con gái của
thứ sử Giao Châu Trương Mục.
Việc Huệ Thắng chỉ sống nhờ phần
vệ và Đạo Thiền hoang thực tệ y, mà ta gặp sau này, như vậy không phải
là những thí dụ ngoại lệ. Chế độ quấn y xin ăn do đó rất có thể
là khá phổ biến ở nước ta vào thế kỷ V.
Trương Mục đến nhậm chức thứ
sử ở nước ta vào năm 464. Bốn năm sau Lý Trường Nhân nổi lên. Bối cảnh
Phật giáo của Mục từ đấy chắc hẳn đã đóng góp không ít cho sự
thành công của Nhân và một lần nữa cái chức thứ sử của ông chỉ có
danh nhưng chắc không có thực, như phần lớn những người trước và sau
ông. Nói tắt, nếu Nhân đã thành công mở đầu cho giai đọan độc lập
khá dài đầu tiên , thì ông hẳn đã được những người như Huệ Lâm,
Đạo Cao hay Pháp Minh giúp sức như Huệ Đào đã giúp người kế nghiệp Lý
Thúc Hiến, dù ngày nay ta không có một tư liệu thành văn nào công khai khẳng
định như thế.
Niên đại của Đạo cao Pháp Minh và Lý Miễu [^]
Qua những bàn cãi trên, bây giờ
nó có thể trở thành rõ ràng là, trong tình trạng tư liệu và dữ kiện
hiện tại, chúng tôi không thể xác định được một cách chắc chắn đáng
muốn những tác giả của Saú lá thư trên là những người ra sao, sống vào
những năm tháng nào và viết những lá thư tại những thời điểm nhất
định nào. Điểm chắc chắn là, họ phải viết chúng sau năm 435, năm Quân
thiện luận lưu hành, và trước năm 455, năm Đàm Hoằng tự thiêu tại
chùa Tiên sơn. Tuy những dữ kiện chắc chắn ấy, chúng tôi đã dựa vào
một số những bằng cớ trường hợp nội tại và rút ra niên đại 454 -
455 như là kỳ gian ra đời của Sáu lá thư.
Nếu chấp nhận kỳ gian đó, niên
đại của Lý MIễu, Đạo Cao và Pháp Minh có thể giả thiết như thế này.
Miễu có lẽ sống vào khoảng 400 - 470 và rất có thể đồng nhất với Lý
Trường Nhân. Lý Đam Chi, trước khi làm thứ sử Giao Châu vào năm 435 đến
năm 437, đã làm thứ sử Giao Chỉ. Ông do đó, cứ vào nguyên lai của những
thái thú, tất có thể là người nước ta. Ông cùng Lý Miễu và Lý Trường
Nhân có những liên lạc gì, ngày nay chúng ta không thể bàn cãi được. Nếu
Lý Đam Chi là Lý Miễu, thì cố nhiên niên đại của Lý Miễu, phải mở rộng
ra và thành khoảng 39 - 470. Nói cách khác, niên đại của Lý Miễu có lẽ
nên đặt trong khoảng 390 - 470, ngay cả khi ông chỉ sống giữa những năm
420 - 470.
Niên đại của Pháp Minh, nếu lá
thư thư sáu của ông viết vào khoảng 434 - 455, thì chúng ta có thể đặt
ông giữa khoảng 370 - 460, bởi vì khi viết nó ông đã "đầu bạc".
Về niên đại của Đạo Cao, tuy Cao không cho biết tóc tai của ông thế
nào, nhưng với cái xưng danh "đại hoà thượng" của Lý Miễu, ta
có thê giả thiết ông sống cùng thời với Pháp Minh, và chắc già hơn Pháp
Minh. Hơn nữa hai lá thư đầu trả lời cho Lý Miễu thì do Đạo Cao viết,
nhưng đến lá thư thứ ba, Pháp Minh phải viết. Tại sao ? Có thể Cao vì
đau yếu hay không muốn trả lời, nên đã giao cho Pháp Minh viết hộ. Hay cũng
có thể Đạo Cao đã chết, nên không thể viết đựợc. Dù với trường
hợp nào chăng nữa, thì rõ ràng Đạo Cao với chức vị "đaị hoà thượng
của mình cũng phải già hơn Pháp Minh. Vì vậy, chắc Đạo Cao phải sống
giữa những năm 365 - 455.
Bây giờ, phối hợp niên đại này
với những phê bình và dữ kiện nêu trên, ta có thể vẽ sơ lại cuộc đời
của Đạo Cao như thế này. Sinh khoảng năm 365. Ông viết Tá âm và Tá âm
tự khỏang những năm 390 - 450. Khoảng những năm 435 - 455 ông viết những
lá thư cho Lý Miễu. Ông mất khoảng năm 455 hay trước đó, khi đang có những
trao đổi thư tín giữa ông và Miễu. Cuọc đời ông chắc viết nhiều,
nên đã có Đạo Cao pháp sư tập lưu truyền ở Trung Quốc cho đến khi nó
lưu lạc đến Nhật Bản và được ghi vào Nhật BẢn kiến quốc tại thư
mục lục vào thế kỷ thứ 9.
Một lần nữa, những niên đại
ấy là những niên đại giả thiết. Nếu nay mai những dữ kiện mới tìm
thấy, như việc khai quật gặp ngôi mộ hay bia văn của một trong những
người vừa kể chẳng hạn, xuất hiện, chúng ta đương nhiên phải tái kiểm,
và tái định chúng. Ở giai đoạn này, nếu chúng có thể được chấp nhận,
thí ít nhất trước Huệ Thắng và Đạo Thiền, Phật giaó nước ta còn
có hai vị sư khác, đó là Đạo Cao (365 - 455) và Pháp Minh (370 - 460).
Trong khi Đạo Cao và Pháp Minh đối
diện với cuộc khủng hoảng niềm tin do Quân thiện luận gây ra dưới ngòi
bút của Lý Miễu, thời một vị sư khác vẫn tiếp tục lối tín ngưỡng
thực tiễn của nền Phật giáo truyền thống. Vị sư ấy ngày nay viết dưới
tên Hiền pháp sư. Để thấy rõ những xu hướng cũng như những thái độ
phản ứng chung của Phật giáo thời bấy giờ với vấn đề tín ngưỡng,
ta nên tìm hiểu vị sư này.
Ve͊ Hiền pháp sư [^]
Hiền pháp sư lần đầu tiên được
Maspéro vạch ra trong bài nghiên cứu về giấc mộng người vàng do Vương
Diệm ghi lại trong Minh tường ký. Có lẽ là Maspéro đã Trung hoá cách đọc
cái tên của pháp sư thành Kien, nên cả Trần văn Giáp lẫn thầy Mật Thể,
mặc dù có kể đến bản nghiên cứu vừa nói của Maspéro đã không liệt
ra cái tên Hiền pháp sư, và không tra khảo nó, trong những luận văn của
họ. Thêm vào đó, vì chú trọng đến giấc mộng người vàng Maspéro
không bao giờ thử nghiên cứu vị tên Hiền pháp sư ấy, trừ chuyện kể
tên như đã nói.
Ngày nay, chúng ta có cả thảy ba tư
liệu cho việc nghiên cứu vị sư này, đó là một tóm tắt của Đạo Tuyên
trong Tập Thần châu tam bảo thông lục quyển trung ĐTK 2106 tờ 419a15-b6 viết
năm 664, mà hai năm sau Đạo Thế cho chép lại trong Pháp uyển châu lâm quyển
14 tờ 388c10-29 và tạo nên tư liệu thứ hai. Cuối cùng là lời tự của
chính Vương Diệm cho tác phẩm Minh tường ký của ông, mà may mắn mà Đạo
Thế đã cho trích một cách hoàn toàn cũng trong Pháp uyển châu lâm quyển
17 tờ 411a8b13.
Cứ vào tóm tắt của Đạo Tuyên
thì "vào khoảng đầu Tề Kiến Nguyên, Vương Diệm xưa khi tuổi còn
nhỏ dại, ở Giao Chỉ thọ ngũ giới với Hiền pháp sư. Sư cho một tượng
Quan Âm bằng vàng bảo cúng dường, Diệm bèn đem về Dương Đô, gởi
chùa Nam Giản. Diệm ban ngày ngũ, mộng thấy tượng đứng ở một góc
nhà, bèn cho thật là lạ, liền đến chùa thỉnh về nhà. Chiều đó Nam Giản
mất hơn mười tượng, người ta ăn trộm, để hủy mà đúc tiền. Đến
mùa thu Tống Đại Minh năm thứ 7, nó liền phóng quang, rọi tới 3 thước,
ánh vàng dọi chóa mắt, cả nhà đều thấy. Sau đem tượng gởi chùa Đa Bảo,
vì Diệm đi lên đất Sở châu kinh. Trải gần 10 năm không biết tượng
ở đâu. Đến khi về lại Dương Đô, bèn mộng thấy tượng rõ ràng ở
giữa những tiểu tượng tại phía đông của điện chùa. Sáng mai bèn đến
chùa tìm được như trong mộng, ấy là ngày 13 tháng 7 năm Kiến Nguyên thứ
nhất. Cho nên lời tự của Diệm trong Minh tường ký nói rằng ...".
Đấy là lời tóm tắt của Đạo
Tuyên, mà Đạo Thế đã trích dẫn. Chúng tôi cho dịch hết, trừ đoạn dẫn
lời tựa của Vương Diệm. Chúng tôi không cho dịch đoạn dẫn ấy, bởi
vì nó chỉ là một trích dẫn ngắn ngủi không hoàn tòan và vì chúng tôi
có ý dịch cả lời tựa dưới dây.
Với tóm tắt vừa thấy, thì Vương
Diệm là người Thái nguyên, lúc nhỏ đến ở nước ta và thọ năm giới
với một vị sư, mà ký ức bé nhỏ của Diệm chỉ cho biết là tên Hiền
pháp sư. Vị sư cho Diệm một cái tượng Quan Âm và sau đó những thần dị
đã xảy ra giữa khoảng Tống Đại Minh và Tề Kiến Nguyên, tức giữa khoảng
năm 457 - 483. Lời tóm tắt này như vậy quá đại lược. Vì nó quá đại
lược và vì sự quan trọng của việc xác định niên đại của vị sư,
toàn lời tự tựa của Diệm đáng được dịch ra đây.
Lời tự tựa ấy như đã nói, may
mắn được Đạo Thế cho trích một cách hoàn toàn trong bộ Pháp uyển
châu lâm của ông. Nó như thế này:
"Diệm dưới thời Tống lúc nhỏ
ở tại Giao Chỉ. Xứ ấy có Hiền pháp sư là một vị sư chùa Đạo Đức
- hay một vị sư Đạo Đức - bèn thấy trao cho Diệm ngũ giới, rồi lấy
một cái tượng vàng Quan Âm đem cho, bảo cúng dường. Hình của tượng làm
khác với ngày nay, nhưng không phải là loại rất xưa. Nó được đúc
trong khoảng Nguyên gia, thêm công trau chuốt nên tợ như có sự chân hảo.
Diệm thỉnh về Dương Đô, thì lúc đó tuổi mới lên tám, cùng với hai
người em, thường hết lòng siêng năng chuyên tinh cúng dường không mệt.
Sau nhà hư phải sửa, nên không có chỗ an thiết, phải đem gởi trong chùa
Nam giải ở Kinh sư. Bấy giờ, trăm họ đua nhau đúc tiền, cũng có kẻ
ăn trộm vàng về phá ra mà đúc. Khi ấy, tượng ở chùa đã trãi vài
tháng. Diệm ban ngày nằm ngủ thì mộng thấy tượng đứng ở một góc
nhà, ý cho là rất lạ. Lúc ấy ngày đã chiều, Diệm lập tức chạy đến
chùa xin nghênh về. Tối hôm đó, hơn mười cái tượng ở Nam Giai bị ăn
trộm mất. Sau đấy khá lâu vào lúc hoàng hôn, tượng phóng ánh sáng, chiếu
dọi hơn ba thước, ánh vàng đẹp dậy, sáng chóa cả mắt. Anh em của Diệm
và nô bộc trong nhà đều thấy, cả thảy hơn mười người. Bấy giờ vì
Diệm đang còn bé nhỏ, không thể lập tức ghi chép, sau đó viết ra thì
đã quên ngày tháng chỉ nhớ là ở vào mùa thu năm Tống Đại Minh thứ 7
thôi. Đến cuối đời Thái Thỉ, Diệm dời đến ở chùa Chu Toàn phố Ô
Y. Nhà sư chùa ấy đem tấm tượng ấy quyền ngụ chùa Đa Bảo. Diệm lúc
đó tạm lên ở Giang Đô, vị sư ấy đồng thời cũng đi lên Kinh sở,
nên không biết tượng ở nơi đây, trải gần 10 năm, thường sợ thần
tượng nhân đó mất tuyệt. Đến cuối đời Tống Thăng Minh, lại lướt
gót tới Giáp Biểu, trong khi đi ngang qua Giang Lăng, thì gặp vị Sa - môn
ấy, mới biết cái tượng ở đâu. Năm ấy Diệm trở về kinh sư, liền
đến chùa Đa Bảo hỏi. Vị chủ chùa là Ái Công nói "không có cái tượng
ấy" Diệm trở về nhà, nghĩ vị sư đó đi đứng đó đây nên làm mất
cái tượng ấy, lòng buồn vô hạn. Đêm ấy nằm mộng thấy một người
hiện ra nói rằng: "Tượng ở tại Đa Bảo, Ái công quên đó thôi, đáng
nên được đó". Rồi hiện đem Diệm đến chùa, người ấy tự tay mở
điện, thì tượng rõ rành rành rành giữa những tượng nhỏ tại phía đông
của điện. Đến sáng mai Diệm liền đến chùa nói cho Ái Công biết hết
thảy những gì mình mộng thấy. Ái Công liền vì thế mở điện, thì quả
nhiên thấy tượng tại phía đông của điện, như ở trong mộng, liền
đem tượng về. Lúc bấy giờ là ngày 13 tháng 7 năm Kiến Nguyên thứ nhất.
Tượng ấy, Diệm ngày nay thường tự cúng dường, gần như là rường cột
cho suốt cuộc đời mình. Chép lại việc này, lòng tôi vẫn xúc động sâu
xa, nhân đó đem những gì mình đã thấy, dệt thành cuốn ký này. Rằng
soi nhận tình gần, không gì hơn là nghi tượng; thụy nghiệm phát ra phần
lớn từ đấy mà nổi lên. Kinh nói rằng: "những loại hình tượng đúc,
đẽo, vẽ, dệt đều có hành động và phát ra ánh sáng". Nay hai bức
tượng Thích Ca và Di Lặc ở Tây vực đã phát ra ánh sáng như ánh bình
minh, ấy thuộc loại hình tượng đấy ư ? Nay Hoa Hạ đã rộng noi theo,
nên thần ứng rất hiển trước, ấy cũng vì qua năm, quần sinh nhạn mà cảm,
thì thánh linh liền mượn nhờ gỗ đá mà hiện ra sự u dị, mà không cần
phải hình dung cho đẹp đẽ mới có thể được vậy. Cho nên, đá chìm nổi
đáy, thật làm rõ sự giáo hóa của Mân Ngô; bụi vàng dờn dụa, dùng chỉ
ra cái họa của Hành Tống. Số còn lại giải bày cũng có liên hệ, tuy
khó cắt nghĩa một cách khúc chiếc, nên đem hết chỗ hay của chúng cùng
họp lại thành từng mục. Rằng, nếu kinh tháp có hiển hiệu thì sự chỉ
chứng của chúng cũng giống thế. Về những chuyện không được nhất quán
cho lắm, tôi xếp chúng tiếp theo ở cuối sách.
Đấy là toàn lời tự tựa của Vương
Diệm viết cho cuốn Minh tường ký của ông vào khoảng những năm 479 0
502. Chúng tôi cho dịch hết, không những vì nó sẽ giúp xác định niên đại
của vị sư tên Hiền pháp sư mà còn vì Vương Diệm là một người đã sống
tại nước ta và tiên phong khai sáng ra nền văn học tiểu thuyết của
Trung Quốc.
Nguyên bản Minh tường ký ngày nay
đã tán thất, nhưng được nhiều tác phẩm Phật giáo trích dẫn, mà với
một kiểm điểm sơ sài, chúng tôi đã đếm tới hơn một trăm câu chuyện
của nó đã xuất hiện chỉ trong Pháp uyển châu lâm thôi. Nó chắc chắn
phải viết thời Nam Tề, tức khoảng năm 479 - 502, bởi vì Huệ Hạo đã dẫn
nó như một nguồn tài liệu trong lời tựa ông viết vào năm 519 cho Cao
Tăng truyện quyển 14 tờ 418b29-c1.
Cứ vào lời tự tựa trên thì
trong khoảng Nguyên gia, Diệm đang ở tại nước ta và thọ giới với một
Hiền pháp sư. Pháp sư cho ông một cái tượng đức Quan âm bằng vàng. Đến
tám tuổi, ông trở về Dương Đô, đem theo cái tượng ấy. Số tuổi này,
chúng tôi dịch sát nghĩa đen của chữ "điêu sấn" trong câu
"thời niên đại điêu sấn", dựa trên định nghĩa của Hàn thi
ngoại truyện, theo đó "con trai tám tháng thì sinh răng, tám tuổi thì
điêu răng; con gái bảy tháng thì sinh răng, bảy tuổi thì sấn răng".
Thuyết văn giải tự cho biết "sấn" có nghĩa là "rụng".
Đến năm đại Tống Đại Minh thứ
bảy, tức năm 463, Diệm đang còn than vãn là "ấn tiểu" nên không
thể làm chuyện "đề ký tỷ gia soạn lục", đến nổi sau khi lớn
lên, quên cả ngày tháng xảy ra cái biến cố thần dị, ở đó cái tượng
Quan Thế Âm do Hiền pháp sư cho phóng quang, và chỉ nhớ cái năm Đại Minh
thứ 7 vừa thấy.
Bằng hai chi tiết này, chúng ta có
thể giả thiết là, Diệm ở ta nước ta vào khoảng năm 445 - 450. Hiền pháp
sư của chú bé Diệm như vậy chắc phải sống giữa những năm 360 - 450. Vì
Hiền pháp sư truyền giới cho Diệm, lúc Diệm còn quá bé nhỏ, nên trong
lúc viết về nhà sư này, ông không có một ký ức rõ ràng nào cho việc
mô tả, mà chỉ có thể viết một cách ngắn ngủi: "Hiền pháp sư giả,
đạo đức tăng dã".
Bốn chữ "đạo đức tăng dã"
này, ở trên chúng tôi cho dịch thành hoặc như "là một nhà sư chùa
Đạo Đức" hoặc như "là một nhà sư đạo đức". Hai trường
hợp này đều có thể. Nếu là trường hợp đầu, chúng ta biết thêm một
ngôi chùa xưa nhất của nước ta, đấy là chùa Đạo Đức. Nếu là trường
hợp sau, giá trị tin tức của nó không gì nhiều, đấy là cách hiểu
thông thường về bốn chữ ấy. Dù với trường hợp nào đi nữa, Hiền
pháp sư đã phải sống vào khoảng 360 - 450 và đã có một ảnh hưởng sâu
đậm trên nhà văn nổi tiếng Trung Quốc với cái tượng Quan Âm của người.
Về Vương Diệm, một số người
viết văn học sử Trung Quốc đã coi ông như một nhà sư xuất gia tại nước
ta, và như vậy là một đệ tử của Hiền pháp sư. Nhưng cứ vào lời tựa
trên, thì điểm này không rõ ràng gì hết, ít nhất là trước lúc Diệm tới
chùa Ô Y khoảng những năm 470 - 472, bởi vì ông không những nói tới cái
nhà tranh của ông, mà còn tới những nô bộc trong nhà. Trước năm 470 -
472, Diệm chắc hẳn đang còn ở nhà, và Hiền pháp sư không gì hơn là một
Bổn sư Qui y, chứ không phải là một Bổn sư thọ giới.
Với sự có mặt mới này của Hiền
pháp sư, lịch sử Phật giáo nước ta trước năm 440 bây giờ có thêm một
người nữa. Điều đáng tiếc là, trong tình trạng nghiên cứu và tư liệu
hiện tại, chúng ta không thể biết gì hơn ngoài cái tên của nhà sư. Và
ngay cả cái tên ấy, nó cũng không phải là một cái tên tiêu chuẩn đầy
đủ ý nghĩa như đa số những tên Phật giáo tiêu chuẩn khác.
Cố nhiên, việc Diệm nhớ cái tên
ấy như Hiền pháp sư, chứng tỏ, vì sư ấy chắc hẳn được gia đình
cha mẹ Diệm kính trọng và tin tưởng một cách đặc biệt. Ông rất có
thể có một liên lạc mật thiết với gia đình Diệm, điển hình là cái
tượng ông cho Diệm và bảo Diệm hãy cúng dường.
Trong lời tự tựa trên, Diệm
không cho ta biết nguyên quán ở đâu. Theo Huệ Hạo, từ đấy Đạo Tuyên,
thì Diệm đến từ quận Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây. Một lần nữa, đó là
tất cả những gì chúng ta biết về nhà văn, và rất có thể nhà sư này,
vì thế không thể bàn cãi gì thêm. Tuy thế, chúng tôi nghĩ, dù phát tích
từ Trung Quốc, Diệm rất có thể sinh ở nước ta, cứ vào sự thọ giới
sớm kể trước.
Điều đáng ngạc nhiên là, trừ
cái tượng Quan Âm thần dị ấy, những trích dẫn còn lại hiện nay trong
những bộ sách Phật giáo Trung Quốc như Tập Thần châu tam bảo cảm
thông lục hay Pháp uuyển châu lâm v.v... không một câu chuyện nào đã
liên hệ với tình trạng Phật giáo nước ta. Nước ta tất không phải là
thiếu những chuyện thần dị kiểu của Minh tường ký.
Sự vắng mặt này không biết đã
đến chính từ Diệm hay từ những người trích dẫn Trung Quốc, vì nguyên
bản của Minh tường ký ngày nay đã tán thất, như đã nói. Dù không một
bằng cớ hiển nhiên nào, chúng tôi nghĩ, sự vắng mặt xảy ra vì những
người trích dẫn. Bởi vì về một mặt Diệm nói tới chuyện ông "tu
phục kỳ thành" cái cuốn Ký của ông. Về mặt khác, nước ta có những
chuyện thần dị xuất hiện vào thời Diệm làm chuyện chuyết thành đó,
kiểu câu chuyện Lý Thúc Hiến và Huệ Đào, mà chúng ta đã có dịp thưởng
thức ở trên.
Dù những thiếu thốn và bất xác
đáng tiếc ấy, việc có một pháp sư tên Hiền sống khoảng những năm
360 - 450, là một điều chắc chắn. Qua những phân tích trên, ta thấy dù
những luận điển do những lá thư của Lý Miễu nêu lên, niềm tin vào sự
thần di linh ứng vẫn tiếp tục được ngợi ca và cổ xúy. Dĩ nhiên, xu hướng
chung hẳn phải là chống một niềm tin như vậy, nên sau này Vương Diệm,
vị học trò của Hiền pháp sư, đã phải viết Minh tường ký để xác định
và tuyên truyền niềm tin tưởng vào u minh, nà những điềm lành, điềm gỡ.
Điều này, ta sẽ thấy rõ, khi phân tích nội dung của cuộc khủng hoảng
No䩍 dung cuộc khủng hoảng [^]
Qua những phân tích lịch sử trên,
ta thấy Sáu lá thư ra đời biểu hiện những mâu thuẫn nội bộ của
tình trạng lý luận và tín ngưỡng Phật giáo nước ta, mà vào lúc ấy đã
đạt đến một mức độ gay gắt khó giải quyết. Nó gay gắt đến nỗi
không có một cách thức giải quyết nào hơn là chính Đàm Hoằng phải tự
thiêu mình nhằm chứng minh luận điểm "quên mình, mà đem hết lòng
thành thì tất có cảm, có cảm tất có thấy được Phật" của Đạo
Cao là đúng, và khẳng định "nay học đòi theo ánh thần mà chẳng có
mật tấc sáng" của Huệ Lâm là sai lầm. Dĩ nhiên, những mâu thuẫn
ấy đã hiện diện trong quá trình hình thành lịch sử Phật giáo Việt
Nam, mà đến thời Đạo Cao đã chín mùi, để chỉ cần một kích thích
bên ngoài cũng đủ làm cho chúng tạo nên một tình trạng khủng hoảng.
Xét nội dung sáu lá thư, vấn đề xoay quanh câu hỏi, tại sao không thấy
chân hình Phật ở đời ?
Lý Miễu, người đầu tiên nêu
lên vấn đề, đã phát biểu trong lá thư thứ nhất: "Nếu giáo pháp
là khéo hay lợi vật độ thoát nhiều người, thì tại sao lại không thấy
chân hình nó ở đời ? Ấy phải chăng chẳng qua là lời nói suông không
thật ? Nay chính là lúc phải cần tìm nguồn gốc phương Tây của
nó". Trong lời đáp, Đạo Cao trả lời là, nếu chúng ta chưa thấy chân
hình Phật ở đời, ấy là vì chưa phải lúc. Cho nên, trong lá thư tiếp
theo, Miễu nói: "Đại nghĩa đã bị khó khăn, bọn Nho Mặc đang tranh
nhau nổi lên, thì há để cho chính tín bị lu mờ, làm cho sự hủy báng hiểu
lầm càng thêm tăng hấn sao ? Có thể nào không lấy sự thị hiện và ấn
ký để làm chứng, nhằm giữ lấy mình ư ? Đấng Đại Thánh ban cái trí
vô ngại, duỗi lòng thương không cầu, sao lại hà tiện cái ánh sáng rực
rỡ của mình để làm tối tăm những tài năng đi tìm hiểu..." . Nói
cách khác, Lý Miễu muốn hỏi tại sao là chưa phải lúc ? Nếu Đức Phật
sẵn lòng tư bi vô hạn, sao lại không hiện ra cho mọi ng7ời thấy, để dứt
mọi nỗi nghi ngờ ? Để trả lời, Cao đưa ra thuyết cảm ứng, nói rằng
"quên mình và đem hết lòng thành thì tất có cảm, có cảm tất có thấy,
không có cảm thì không có thấy, thì người không thấy rốt cuộc cũng không
tin có thấy, (nên) thánh nhân đâu phải là không thường thấy". Trong
lá thư thứ sáu, Pháp Minh đã cho thấy cụ thể thuyết cảm ứng vừa nói
là gì.
Giải quyết vần đề Lý Miễu nêu
ra bằng thuyết cảm ứng, Đạo Cao đã tự đặt mình vào truyền thống
tín ngưỡng nhân gian của dân ta, mà từ thời Tăng Hội trở đi đã trở
thành một bô phận không thể thiếu được trong toàn bộ tín ngưỡng Phật
giáo. Sự thực, Tăng Hội là người đầu tiên xướng thuyết cảm ứng.
Cao Tăng truyện quyển 1 tờ 325b9 trong khi mô tả việc cầu xá lỵ của Hội,
đã ghi câu nói của Hội rằng: "Phép thiên ứng xuống, nhưng chúng ta
không cảm thấy" - pháp linh ứng giáng nhi ngô đẳng vô cảm.
Như vậy, vấn đề không phải là
không có Phật hay không có những thị hiện của Ngài ở đời, bởi vì
"Ngài đâu phải là không thường ở với chúng sanh, đâu phải là
không thường thấy". Ta không thấy là vì không cảm thấy đó thôi.
Trong lá thư thứ sáu Pháp Minh đã đưa ra làm chứng cớ cho sự đúng đắn
của luận điểm ấy, mà chúng ta phân tích ở trên.
Ngoài chúng ra, không phải là chúng
ta không có những cớ khác. Tập thần châu tam bảo cảm thông lục quyển
thượng tờ 411a7-14 và 414b11-15 do Đạo Tuyên viết khoảng năm 664 đã ghi lại
ít nhất hai trường hợp. Về trường hợp đầu, nó viết: "Tấn nghĩa
Hưng năm thứ nhất (405), có người Lâm ấp thường có một viên Xá - lỵ,
mỗi khi đến ngày chay thì phóng tỏa sáng. Sa - môn Huệ Thúy theo thứ sử
Quảng Châu là Nhẫn Quỳ sống tại miền nam, vì kính mộ ánh sáng đó, ý
muốn thỉnh, nhưng chưa kịp nói ra thì viên Xá - lỵ đã phân làm hai. Quỳ
nghe nói, lòng vui vẻ, lại xin lưu để kính thờ, thì nó lại phân làm ba.
Quỳ muốn phỏng tượng chùa Trường Can, chủ chùa cố chấp không cho,
thì đêm ngũ mộng thấy một người cao vài trượng nói: "Tượng cốt
để tuyên truyền hướng dẫn thì sao lại bỏn sẻn đến thế". Hôm
sau, bèn báo, đồng ý cho Quỳ mô phỏng tượng. Khi phỏng tượng xong, Quỳ
đem Xá - lỵ gắn trên nhục kế của tượng. Các tượng từ Tây Trúc tới
có phóng ánh sáng, ấy vì phần lớn đều gắn Xá - lỵ".
Trường hợp thứ hai kể lại chuyện
một người đi mò ngọc trai thấy được ánh sáng nổi trên mặt biển.
Nó viết: "Đến năm Hàm An thứ nhất (371) người đi mò ngọc trai ở
Hợp phố của Giao Châu ở biển nam tên Đổng Tôn Chi, thường thấy đáy
biển có ánh sáng nổi lên tới trên mặt nước, tìm kiếm thì được ánh
sáng từ một tượng Phật bèn đem báo cáo lên trên. Vua Giản Văn cho kéo
tượng lên, lỗ huyệt đều giống, sắc sáng không khác ..."
Ngoài hai trường hợp đây, ta còn
có trường hợp của Huệ Đào và Đàm Hoằng, mà chúng tôi đã có dịp
bàn sơ.
Ta còn có cái báo cáo của Lưu Hân
Kỳ trong Giao Châu ký và bản tiểu sử của Đạo Thiền trong Tục Cao Tăng
truyện. Viết Giao Châu ký vào khoảng cuối thế kỷ thứ III đầu thế kỷ
thứ IV, Kỳ nói: "Mẹ đã chín con, ngồi cao 7 thước, nay ở trong chùa
của châu, chín con đều bám vào hình đá, tương truyền là trôi từ biển
vào, sĩ phu thứ dân cầu đảo xin có con trai, phần lớn đều hiệu nghiệm,
đến nay chưa dứt". Nhạc sử đã dẫn chuyện này dưới mục huyện
Long biên trong Thái bình hoàn vũ ký 170 tờ 7b10-8a2, xác nhận ngôi chùa đó
thuộc vào vùng Long Biên ấy, khoảng một thế kỷ sau, Đạo Thiền (457 -
527) đã đến trú ngụ trong chùa núi Tiên Châu, một nơi thường có "hổ
hại", và Thiền đã làm "tai ách ấy đi xa", như Tục Cao Tăng
truyện 21 tờ 607b117 đã ghi.
Như vậy, nêu lên thuyết cảm ứng
nhằm giải đáp vấn đề tại sao không thấy Phật do Lý Miễu đề ra, Đạo
Cao đã xuất phát từ xu thế tin tưởng chung của thời đại mình. Nhưng với
sự xuất hiện của câu hỏi tại sao không thấy Phật ấy, cơ sở lý luận
của xu thế tin tưởng vừa nói đã bị lay động mạnh mẽ trước sự
chuyển mình của một xu thế tư duy mang một màu sắc ít nhiều duy lý hơn,
trước sự trỗi dậy của một khả năng tự ý thức sâu xa. Thế thì, cơ
sở lý luận của xu thế tin tưởng đó là ?
Khi nêu lên câu hỏi tại sao không
thấy chân hình của Phật ở đời, Lý Miễu đương nhiên phải có một
quan niệm nào đó về Phật, nghĩa là Phật gì, mà có thể hiện ra cho đời
cho ta thấy. Cũng thế, khi Đạo Cao trả lời câu hỏi ấy với thuyết cảm
ứng của mình, thì ông tất phải có một số ý niệm về khả năng ứng
của Phật cũng như cách thức cảm của những người trần. Ấy vậy, mà
trong Sáu lá thư không một lần ta tìm thấu một định nghĩa rõ ràng về
Phật. Điều này giả thiết rằng cả Lý Miễu và Đạo Cao chắc chắn phải
có một quan niệm chung về Phật. Vào thế kỷ V, khi kinh điển Phật giáo
đã truyền tới Trung Quốc một cách tương đối đầy đủ, thì từ những
dịch phẩm cũng như những gì do các tác giả Trung Quốc viết ra, Phật đã
được quan niệm như sau.
Trong Giáo hóa bệnh kinh của Trung A
hàm kinh 6 tờ 459c24-27 do Sanghadeva dịch giữa những năm 397 - 398, Phật được
định nghĩa thế này: "Có dòng giống Thích mà bỏ họ hàng Thích, cạo
bỏ râu tóc, mặc áo Cà - sa, rất mực tin tưởng đến bỏ nhà cửa, mà
trở thành không nhà cửa để học đạo, đạt được sự giác ngộ đúng
đắn chính xác không gì hơn, thì gọi là Phật". Nguyên bản Phạn văn
của Giáo hóa bệnh kinh ngày nay hiện chưa tìm thấy. Bản tương đương
trong tạng Pali là Anathapindikavada - sutam của Trung bộ kinh lại không có một
nghĩa như vậy. Do đó, định nghĩa vừa dẫn có thể là một thêm thắt của
Sanghadeva hay những vị đã truyền đạt văn bản phạn văn của Trung A hàm
kinh. Dù với trường hợp nào đi nữa, nó rõ ràng thể hiện một cách
khá trọn vẹn và tương đối khá chính xác một quan niệm lịch sử cụ
thể về Phật, trong khi định nghĩa. Thực vậy, định nghĩa Phật là người
"có giòng giống Thích mà bỏ họ hàng Thích để cạo hết râu tóc, bỏ
nhà ra đi học đạo và thành vị giác ngộ đúng đắn chính xác không gì
hơn" thì quả đã tóm tắt một cách khá hoàn toàn và đại cương chính
lai lịch của vị khai sáng đạo Phật.
Xuất phát từ một quan niệm cụ
thể lịch sử về Phật như thế, các dịch phẩm Phật giáo ở Trung Quốc
cho đến giữa thế kỷ thứ năm đã coi Phật như một vị giác ngộ về sự
thật của mọi vật, như một vị "nhận thức tất cả". Kinh 299 của
tạp A hàm kinh 12 tờ 85b24-27 do Gunabhadra dịch giữa những năm 436 - 443 đã
viết: "Phật bảo một Tỷ - kheo; Pháp duyên khởi không phải do ta tạo
ra, cũng không phải do người khác tạo ra. Nhưng các Như Lai ra đời hay
chưa ra đời, pháp giới vẫn thường trú, vị Như Lai kia tự giác ngộ
được pháp đó thì trở thành giác ngộ một cách đúng đắn chính
xác". Quan niệm Phật như một người hiểu biết trọn vẹn về thực
tại khách quan này là một quan niệm hầu như phổ biến khắp các kinh điển
truyền dịch ở Trung Quốc.
Phẩm Thích tướng của Đại trí
độ luận quyển 90 tờ 549a24-25 nhân viết về hiện tượng không, hiện tượng
bát nhã v.v... cũng nói: "Có Phật hay không Phật, các hiện tượng đó
đều thường trú, Phật có thể biết tướng đó, nên gọi là Phật".
Nó xác định Phật như vậy thuần túy trên phương diện tri thức. Điều
này phản ảnh xu thế chung của những quan niệm về Phật trong các dịch
phẩm thực hiện ở Trung Quốc thời Đạo Cao và Pháp Minh. Phẩm Đạo hạnh
của Ma Ha Bát nhã ba - la - mật - đa kinh quyển 22 tờ 379a14-17 do Kumàrajĩva
dịch khoảng năm 408, trả lời câu hỏi của Phật là gì, đã viết:
"biết thật nghĩa của các pháp cho nên gọi là Phật, lại nữa, hiểu
được thật tướng của các pháp, cho nên gọi là Phật; lại nữa, thông
đạt được thật nghĩa, cho nên gọi là Phật". Rồi Trì phẩm của Đại
Minh độ kinh quyển 2 tờ 403c3-4 do Chí Khiêm dịch khoảng năm 222 - 257 cũng
viết: "Thiên trung thiên có giữ được trí tuệ vĩ đại, vì nhận
được sự nhận thức tất cả" - Thiên trung thiên hữu trì đại minh
giả, vị thọ nhất thiết trí hỉ.
Và những dịch phẩm đầu tiên của
Phật giáo Trung Quốc, mà quan trọng nhất trong chúng là của Chi Lâu Ca Sấm
(Lokaksema) đã mở đầu cho cái xu thế chung vừa thấy về quan niệm Phật.
Dịch Đạo hành Bát nhã kinh 1 tờ 426a23-24 khoảng năm 179, Lokaksema đã nêu
lên quan điểm là, vị Bồ tát "nếu không thực hành bát nhã ba la -mật
thì không được tát vân nhã". Tát vân nhã, dĩ nhiên, là một phiên
âm xưa xủa chữ sarsajnà, mà những nhà cựu dịch và tân dịch đã nhất
trí phiên thành nhất thiết trí "sự nhận thức tất cả". Như thế,
trung thành với truyền thuyết trí thức bát nhã Lokaksema đã truyền đạt
cho độc giả Phật giaó Trung Quốc một khái niện thuần túy trí thức về
Phật. Phật thể quan nay dần dà chiếm ưu thế trong giới tư tưởng Phật
giáo với sự du nhập và phiên dịch ngày càng nhiều những kinh điển thuộc
văn hệ Bát nhã, và hoàn toàn phù hợp với tư trào chung của thời đại
và huyền học thanh đàm, chú trọng khía cạnh tìm hiểu về lý lẽ xa vời
huyền diệu của trời đất, về bản chất thực sự của con người và sự
sống một cách triết lý.
Đương nhiên, song song với truyền
thống Phật thể quan chiếm ưu thế này, một số Phật thể quan khác đã
xuất hiện, nhưng tựu trung vẫn qui về Phật thể quan ấy, Chẳng hạn, Tôn
Xước trong Dụ đạo luận do Tăng Hựu chép ở Hoằng minh tập 3 tờ
17a7-10 dù chủ trương quan điểm "Chu Khổng tức Phât, Phật tức Chu Khổng"
vẫn tiếp tục định nghĩa Phật thế này: "Phật là tiếng Phạn, Tấn
dịch là giác, nghĩa của giác tức nói hiểu sự vật như Mạnh Kha cho thánh
nhân là bậc tiên giác, ý chỉ nó là một vậy" - Phật giả Phạn ngữ,
Tuấn huấn giác giả, giác chi vi nghĩ, ngộ vật chi vị, do Mạnh Kha dĩ thánh
nhân vi tiên giác kỳ chi nhất giả. Rõ ràng đối với Xước, dẫu Phật có
được đồng nhất với Chu Khổng đi nữa thì vẫn còn là một vị giác
ngộ về sự thật của mọi vật. Nói cách khác, Xước vẫn nằm trong truyền
thống Phật thể quan của thời đại mình và trung thành với truyền thống
đó để nhìn Phật như một bậc "nhận thức tất cả", một bậc
nhất thiết trí. Cho nên, khi gặp phải những yêu cầu của thực tế
khách quan bắt buộc phải đồng hóa Phật với Chu Khổng của nền văn hoá
Trung Quốc, thì quaan niệm Phật như một nhất thiết trí vẫn đóng một
vai trò chủ chốt và tức khắc được coi như đồng nhất với quan niệm
tiên giác của Nho gia. Xu thế định nghĩa Phật một cách cụ thể và lịch
sử mang tính chất tri thức luận này, như vậy, là một xu thế chủ yếu
và nổi bật của những tác phẩm Phật giáo viết và dịch ở Trung Quốc,
đại biểu trung thực cho quan niệm Phật của giới Phật giáo Trung Quốc
thời ấy.
Với một quan niệm Phật vừa dẫn,
dĩ nhiên vấn đề thấy chân hình Phật ờ đời không thể nào được đặt
ra. Bởi vì Phật vừa được quan niệm một cách lịch sử cụ thể như một
cá nhân thuộc một dòng họ nào đó, lại vừa mang một nội dung tri thức
luận, nghĩa là, Phật được hiểu như một người có khả năng nhận thức
hiểu biết được thực tại khách quan một cách chân thật. Phật do thế
không thể nào đòi hỏi phải hiện thân ở đời. Sự kiện Lý Miễu viết
thư hỏi Đạo cao về vấn đề sao không thấy chân hình Phật ở đời, từ
đấy, phải xuất phát từ một quan niệm khác về Phật, từ một xu thế
ý luận Phật giáo khác với xu thế chung của nền Phật giáo Trung Quốc từ
khởi nguyên cho đến lúc bấy giờ. Quan niệm khác ấy đương nhiên phải
bắt nguồn trong quá trình hình thành Phật giaó của dân tộc ta, như nó đã
phản ảnh trong những tác phẩm viết và dịch tại Việt Nam cho đến thời
của Lý Miễu và Đạo Cao. Trước hai người này, hai tác phẩm nổi bật
nhất đương nhiên là Mâu Tử lý hoặc luận của Mâu BÁc và Lục độ tập
kinh của Khương Tăng Hội. Những tác phẩm này đã bày tỏ một quan niệm
gì về Phật ? Mâu Tử, trong khi trả lời câu hỏi sao gọi là Phật và Phật
có ý nghĩa gì, đã viết trong Mâu Tử lý hoặc luận do Tăng Hựu chép lại
ở Hoằng minh tập 1 tờ 2a7-13: "Phật là thụy hiệu giống như gọi Thần
Tam Hoàng, Thánh Ngũ Đế vậy. Phật là nguyên tố của đạo đức, là mối
giềng của thần minh. Phật có nghĩa là giác ngộ, hoảng hốt biến hóa,
phân thân tán thể, hoặc còn hoặc mất, hay nhỏ hay lớn, hay ẩn hay hiện,
đạp lửa không cháy, đi dao không đứt, ở nhớp không dơ, trong rủi không
xui, muốn đi thì bay, ngồi thì phóng quang, nên gọi là Phật".
Đọc qua định nghĩa vừa dẫn, hiển
nhiên Phật không còn được quan niện như một nhân vật lịch sử thuộc
một giòng giống cụ thể nhất định, mang một số khả năng tri thức đáng
muốn. Phật không còn "có giòng giống Thích" mà trở thành
"nguyên tố của đạo đức và giềng mối của thần minh". Phật
không còn là một vị nhất thiết trí, một vị nhận thức tất cả trong
giới hạn của thực tại khách quan, một thực tại luôn luôn có mặt, dù
có Phật hay không có Phật. Trái lại, Phật là một vị có thể hoảng hốt
biến hóa, phân thân tán thể của mình, có thể lớn có thể nhỏ, có thể
già có thế trẻ, thậm chí có thể tròn hay có thể vuông, có thể còn hay
có thể mất, đi lửa thì không sợ cháy, đạp lên lưỡi dao thì không sợ
đứt. Định nghĩa Phật như vậy tức đã đưa Phật ra khỏi thế giới loài
người và quàng lên ngài bộ áo một vị thần linh, tước bỏ hết bản
chất con người của Ngài với tất cả những giới hạn của cuộc sống
con người, để trở thành một bậc có những khả năng siêu nhân, nếu
không nói là một bậc vạn năng.
Với định nghĩa ấy, quan niệm Phật
của Mâu Tử dứt khoát không thể xuất phát từ xu thế chung của quan niệm
Phật của nền Phật giáo trung Quốc, bởi vì chúng không có những điểm
gì tương đồng với nhau cả. Thang Dụng Đồng trước đây đã đồng hóa
quan niệm Phật của Mâu Tử với quan niệm Phật của Chí Khiêm, rồi dẫn
đến câu sau đây từ bản dịch Đại minh độ kinh 1 tờ 478a8-17 của Khiêm
làm bằng: "Thiện Nghiệp ngôn : Như Thế Tôn giaó, lạc thuyết bồ
tát minh độ vô cực, dục hành đại đạo đương tự thử thí. Phù thế
đạo vi bồ tát. diệc không hư giả (...) Ngô ư tư đạo, vô kiến vô đắc,
kỳ như bồ tát bất khả kiến, minh độ vô cực diệc bất khả kiến. Bỉ
bất khả kiến, hà hữu bồ tát đương thuyết minh độ vô cực. Nhược
như thị thuyết, bồ tát ý chí, bất di bất xả, bất kinh bất đản, bất
dĩ khủng thọ, bất bì bất tức, bất ác nạn. Thử vi diệu minh độ, dư
chi tương ưng, nhi dĩ phát hành, tắc thị khả vị tùy giáo giả dã".
Đọc qua đoạn văn vừa dẫn, mà chúng tôi không dịch nhằm cho người đọc
có thể trực tiếp tiếp xúc với nguyên bản và tự mình nhận ra những
hàm ý của nó, ta không thể nào tìm thấy một dấu vết gì cho phép khẳng
định "giải thích" của Mâu Tử về Phật giáo là có thể
"tìm thấy" trong Đại minh độ kinh của Chi Khiêm. Điều này tất
không có gì đáng ngạc nhiên lắm, bởi vì như đã thấy, quan niệm Phật
của KHiêm cũng nằm trong xu thế chung của quan niệm Phật của nền Phật
giáo Trung Quốc thời đó. Chỉ có điểm đáng ngạc nhiên là, Thang Dụng
Đồng lại đi đồng nhất quan niệm Phật của mâu Tử với quan niệm của
Khiêm, khi chúng không có liên hệ thực sự nào.
Không những liên kết đối với
Khiêm, Thang Dụng Đống còn móc nối quan niệm Phật của mâu Tử với quan
niệm "đại nhân" của Nguyễn Tịch (210 - 263) trong Đại nhân tiên
sanh truyện và cho chúng là "phù hợp với nhau". Theo Tịch thì
"đại nhân" là kẻ cùng tạo hóa đồng thể, cùng sinh với trời
đất, tiêu diêu thoát đời, cùng đạo đều thành, biến hóa tụ tán,
hình nó không thường, trời đất hạn chế mình vào trong, nhưng thần minh
mở vượt tới bên ngoài". dẫn định nghĩa đó của Tịch, dưới những
chữ "biến hóa tụ tán hình nó không thường", Đồng chua vào những
từ Mâu Tử dùng để định nghĩa Phật: "Hoảng hốt biến hóa, phân
thân tán thể, năng tiểu năng đại", nhằm cho thấy những gì MÂu TỬ
nói vể Phật và những gì Tịch viết là đại nhân, "lý thú chúng là
hợp nhau".
Trong một giới hạn nhất định nào
đó, sự phù hợp không phải không có. Điều quan trọng là, sự phù hợp
có mang một liên hệ tất yếu lịch sử và luận lý hay không, hay chỉ là
một sự phù hợp ngẫu nhiên, biểu hiện cho tính nhân loại và quốc tế
của một số tư tưởng loài người. Về điểm âý, như chính Đồng đã
mặc nhiên nhận ra, sự phù hợp vừa nói chỉ là ngẫu nhiên, bởi vì một
số phát biểu của Tịch đã có những tương tự với qua niệm logos của
Thiên Chúa giáo nguyên thủy, và đương nhiên không ai lại bảo giữa Tịch
và Thiên Chúa giáo nguyên thủy đã có những ánh hưởng hổ tương. Do thế,
một số chữ của Tịch có thể cắt nghĩa theo những mô tả Phật của
Mâu Tử, sự kiện ấy không nhất điểm chỉ Mâu Tử đã chịu một truyền
thống học thuật cùng với Tịch, chứ khoan nói chi tới việc chịu cùng một
quan niệm về Phật hay đại nhân. Rất có thể đã xảy ra một quá trình
"đao tập thiết thủ", và quan hệ giữa Tịch và Mâu Tử là thứ
quan hệ đó, không hơn không kém. Nói thẳng ra, có thể Tịch đã sao tập,
nếu không là "thiết thủ" quan niệm Phật của Mâu Tử để viết
nên định nghĩa đại nhân của mình.
Như vậy, trong khi ta rất khó mà
tìm được một tư liệu Phật giáo Trung Quốc nào có một định nghĩa về
Phật mang những nét giống với định nghĩa Phật của Mâu Tử, thì những
kinh điển dịch và viết xuất phát từ nước ta đã bàng bạc một quan niệm
kiểu Mâu Tử về Phật. Kinh 79 và kinh 81 trong Lục độ tập kinh 7 của
Khương Tăng Hội là những thí dụ điển hình. Kinh 19 Hội viết: "Đạt
được sự không lạnh không nóng, không đói không khát, công nghiệp và phước
đức hội tụ, mọi thư độc không thể gia hại, ở đời làm Phật, ba
cõi đặc biệt tôn trọng. Ở kinh 81, Hội càng nói rõ hơn: "Tôi sinh
phải thời đáng oán, không gặp đời Phật, không nghe kinh Phật, bậc thế
tôn chí tôn hiện tại ở mười phương thấy khắp nghe hết, đều biết tất
cả, hoảng hốt phảng phất, hào quang không đâu tới, nguyện hiện tôn
linh, khiến ta thấy Phật.
Qua hai mô tả vừa nêu, rõ ràng
quan niệm Phật của Khương Tăng Hội hầu như đồng nhất với quan niệm
của Mâu Tử, chỉ ngay trên phương diện ngôn từ thôi, chứ khoan nói tới
ý tứ. Phật đối với Hội cũng "hoảng hốt phảng phất", cũng có
hào quang "không đâu không tới", cũng "hiện tôn linh",
"mọi thứ độc không thể gia hại", "đạt được sư không lạnh
không nóng, không đói không khát". Đúng là Phật nếu không là
"nguyên tố của đạo đức", thì ít nhất với những đặc tính vừa
liệt, cũng phải là "tôn tự của thần minh", phải là một vị
có quyền năng biến hóa ẩn hiện, một khả năng vượt ra ngoài những giới
hạn sinh vật lý của thế giới loài người để thực hiện những trạng
thái sống và hoạt động không thể thực hiện được đối với những
con người thông thường.
Quan niệm Phật một cách tổng
quát với những khả năng như thế, cho nên mới dẫn đến vấn đề sao chân
hình Phật không hiện ra ở đời, sao ta lại không thấy PHật, mà Lý Miễu
đã nêu ra với Đạo Cao và Pháp Minh. Cần chú ý là, cả Mâu Tử và Khương
Tăng Hội lẫn Lý Miễu cùng Đạo Cao và Pháp Minh đều nói Phật một
cách tổng quát, chứ không nhắm đến một đức Phật nhất định nào. Đối
với họ, nếu đã là Phật thì phải hội tụ đủ một số những đặc tính
và khả năng như họ quan niệm, mà không cần phải phân biệt sự khác
nhau giữa các đức Phật. Điểm này ta cần chú ý, bởi vì vấn đề thấy
Phật không phải là không đạt ra trong xu thế quan niệm Phật một cách lịch
sử cụ thể và mang tính chất tri thức luận của nền Phật giáo Trung Quốc.
Nhưng nó đã đặt ra trong khung cảnh của một phân biệt giữa quan niệm lịch
sử cụ thể về Phật Thích Ca, và quan niệm có vẻ siêu hình đối với các
đức Phật khác như Phật A Di Đà hay Di Lặc mà các truyền thống chưa bao
giờ minh nhiên xác định là hiện hữu một cách lịch sử cụ thể kiểu
Phật Thích Ca.
Kể từ ngày tín ngưỡng các đức
Phật Di Đà và Di Lặc truyền vào Trung Quốc, vấn đề thấy các đức Phật
ấy đã trở thành một chủ đề bàn cãi khá sôi nổi. Về tín ngưỡng Phật
Di Đà chẳng hạn, kinh Ban chu tam muội ĐTK 417 tờ 899a10-14 mà các kinh luật
và các ấn bản nhất trí cho là do Lokaksema dịch tại Lạc Dương vào năm
179, đã viết: "Nếu có Tỷ - kheo, Tỷ - kheo - ni, Ưu - bà - tắc, Ưu -
bà - di, như phép đó hành trì ..., qua bảy ngày rồi, sau đó thấy Phật A
- Di - Đà, giống như chỗ thấy của người trong mộng ..." . Viết thế,
kinh Ban chu tam muội tự nó gây nên nhiều thắc mắc rất khó giải quyết,
đến nỗi cuối thế kỷ thứ IV đầu thế kỷ thứ V Huệ Viễn (334 - 417)
đã phải viết thư hỏi Kumarajìva (Cưu Ma La Thập). Trong Đại thừa đại
nghĩa chương quyển trung tờ 134b4-135a11, Viễn đã viết: "Niệm Phật
tam muội, trong chương niệm Phật của kinh Ban chu nói, phần nhiều dẫn mộng
làm thí dụ. Mộng là cảnh của phàm phu ... Nếu Phật là giống với chỗ
thấy mộng, thì nó là cái tướng được chiêm tưởng của tướng ta chuyên
chú thì thành định, định thì thấy Phật, đức Phật được thấy không
từ ngoài đến, ta cũng không đi, chỉ là chuyện chú tưởng tượng mà lý
hội ... Phải chăng là đức Phật ở trong định ? Phải chăng là đức Phật
từ ngoài đến ? Nêú là đức Phật trong định, ấy là do ta tưởng tượng
mà dựng nên, rốt cục lại trở về ta. Nếu là đức Phật từ ngoài định,
ấy là vị thánh nhân ngoài giấc mộng, thì không được đem mộng ra để
chứng minh. Niệm Phật tam muội; pháp pháp lại như vậy ư ?"
Trước những câu hỏi đó "Cưu
Ma La Thập phải phân loại và đánh giá phương pháp niệm Phật: "Tam
muội thấy Phật có ba thứ. Một là, vị bồ - tát hoặc có được mắt
trời, tai trời, hoặc hay đến chỗ Phật mười phương, thấy Phật gặng
hỏi, cắt hết mọi lưới ngờ. Hai là, tuy không có thần thông, thường
tu niệm các đức Phật hiện tại như Phật A - Di - Đà v.v..., lòng ở một
nơi thì được, thấy Phật xin hỏi chỗ ngờ. Ba là, học tập niệm Phật,
hoặc đã ly dục, hoặc thấy tượng Phật. hoặc thấy sanh thân, hoặc thấy
các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Đó là ba thứ định, đều gọi
là niệm Phật tam muội, nhưng sự thật chúng không giống nhau. Thứ cao là
có được thần thông thấy Phật ở mười phương, số còn lại đều là
thấp". Sau khi phân loại đánh giá như vậy. Cưu Ma La Thập tiếp theo xác
định phương pháp niệm Phật tam muội là có thể giúp người ta thấy Phật,
và đức Phật ấy hiện hữu một cách khách quan "tại phương tây trải
qua mười vạn cõi Phật". Do vậy, vì sợ "người thông tin, mà
không thực hành phương pháp thiền định ấy, nghĩa rằng chưa được thần
thông thì làm sao ở xa mà thấy Phật được, nên Phật mới đem mộng làm
thí dụ".
Cốt tủy câu trả lời của Cưu Ma
La Thập là thế đối với câu hỏi thấy Phật có phải như nằm mộng không
của Huệ Viễn. Rõ ràng vấn đề thấy Phật ở đây đặt ra và giải quyết
đúng theo xu thế quan niệm của nền Phật giáo Trung Quốc, mà ta đã mô tả
trên. Nó không liên hệ với đức Phật cụ thể lịch sử Thích Ca Nâu Ni,
trái lại có một liên hệ mật thiết với các đức Phật huyền sử kiểu
Di Đà và Di Lặc. Và những Phật tử Trung Quốc chủ yếu chỉ đòi thấy
các đức Phật này mà thôi. Đồng thời với Huệ Viễn, Vương Mật (360 -
407) cũng đã viết thư hỏi Cưu Ma La Thập về việc "sao không thấy Di
Lặc và cả nghìn đức Phật", Toàn văn lá thư ngày nay đã mất nhưng
cái đầu đề "Vấn bất kiến thiên Phật" được Trừng ghi lại
trong Pháp luận và Tăng Hựu sao vào Xuất tam tạng ký tập 12 tờ 83c29,
bày tỏ một phần nào nội dung vấn đề Vương Mật muốn nêu ra. Từ những
dự kiến ấy, yêu cầu thấy các đức Phật huyền sử là một xu thế
chung của Phật giáo Trung Quốc thời đại ấy.
Đối với đức Phật lịch sử cụ
thể Thích Ca Mâu Ni, vấn đề ấy ta chưa thấy đề ra. Ngay cả những khả
năng biến hóa, những "oai thần", cũng chỉ được quan niệm trong
liên hệ với chân pháp thân của Phật thôi. Trong lá thư gửi cho Cưu Ma La
Thập ở Đại thừa đại nghĩa chương quyển thượng tờ 125b22-c4 Huệ Viễn
nêu lên câu hỏi các hình tượng do các nhà sư đúc vẽ đẽo gọt có tả
hết được thân tướng của Phật không. Trong lời đáp cũng ở quyển
thượng tờ 125c5-126b2 Cưu Ma La Thập nói: "Thân Phật Thích Ca Mâu Ni
có thể cùng một lúc ở một vạn quốc độ, đều làm việc Phật, có đủ
thứ tên gọi, có đủ thứ xác thân, để giáo hóa chúng sinh". Cho
nên, "như kinh Mật Tích nói: "Thân Phật ứng hiện không phân biệt
địa phương, chúng sinh trong một hội, có người thấy thân PHật màu
vàng, có người thấy màu bạc, hoặc có loại màu xa cừ, mã não v.v..., hoặc
có chúng sinh thấy thân Phật không khác con người, hoặc có người thấy
thân Ngài một trượng sáu, hoặc thấy ba trượng, hoặc thấy hình ngàn vạn
trượng, hoặc thấy như núi Tu - di v.v... hoặc thấy vô lượng vô số biến
thân. Đó là thần lực của pháp thân không gì là không có thể". Vì
thế, thân Phật không phải là không thể quan niệm theo hình ảnh con người
và biểu tượng theo quan niệm ấy. Và chúng sanh "không có thể thấy
đủ thân Phật, vì công đức chưa đầy đủ", như Cưu Ma La Thập đã
viết ở một lá thư khác cũng trong Đại thừa đại nghĩa chương quyển
thượng tờ 129b26-28. Nói tắt, đối với đức Phật lịch sử cụ thể không
có vần đề thấy, càng không có vần đề hiện ra. Có thấy và có hiện
ra chăng, ấy là Phật thân hay pháp thân của Phật, nghĩa là, giảm trừ đức
Phật cụ thể lịch sử thành một đức Phật huyền sử. Cho nên, ngay khi
đề cập tới vần đề thấy Phật hay vấn đề Phật hiện ra, những người
Phật tử Trung Quốc vẫn bị giới hạn trong xu thế chung của quan niệm Phật
một cách lịch sử cụ thể mang tính chất tri thức luận. Thực ra, họ
không phải không có một số ý niệm nào đó về một đức Phật thần thông
biến hóa đâu. Nhưng số ý niệm ấy không chiếm một ưu thế lý luận tư
tưởng và tín ngưỡng để trở thành chi phối toàn bộ tư tưởng Phật gíao
Trung Quốc.
Trong lá thư thứ bảy viết cho Cưu
Ma La Thập ở Đại thừa đại nghĩa chương quyển trung tờ 129c18-130a6 Huệ
Viễn đã nêu lên vấn đề "pháp thân cảm ứng", xác định rõ
ràng là có thần thông mới có cảm ứng, bởi vì "thần thông đã rộng
thì tùy cảm ứng". Nhưng tiếp theo, Viễn đã không nói thẳng ra là đức
Phật có thần thông không. Trái lại, ộng vẫn rơi vào quĩ đạo của quan
niệm Phật mang tính chất tri thức luận. Ông viết: "Cho nên kinh nói
đức Như Lai có các thông huệ. Thông huệ tức là biến nhất thiết trí.
Ấy là mỗi một nhóm của muôn dòng, là chỗ ra của mây lành pháp
thân". Có lẽ thấy Viễn mắc nghẹn vào xu thế quan niệm Phật chung của
Phật giáo Trung Quốc, Cưu Ma La Thập có khơi ra ý niệm một đức Phật thần
thông. Ông viết trong lá thư đáp cũng ở Đại thừa đại nghĩa chương
quyển trung tờ 130b2-3: "Thiền định là cỗi gốc của thần thông, Phật
biến hóa các thứ thân ở khắp các nước mười phương để làm các việc
Phật". Ý niệm đức Phật thần thông này, đến giữa thế kỷ V,
chưa trở thành ý niệm chủ đạo của nền tín ngưỡng Phật giáo Trung Quốc,
như cái định nghĩa thông huệ vừa nêu của Huệ Viễn là một điểm chỉ.
Trong khi đó, ở nước ta ý niệm
đức Phật thần thông ấy đã nâng lên hàng một quan niệm để định
nghĩa và mô tả về Phật, và quan niệm này đã xuất hiện rất sớm trong
lịch sử Phật giáo du nhập tại Viễn đông. Đối với cả Mâu Tử lẫn
Khương Tăng Hội, Phật phải là bậc có những quyền năng "có thể
còn, có thể mất, có thể già, có thể trả, có thể ẩn, có thể hiện,
không bị nóng, không bị lạnh, không đói khát, biến hóa không chừng, hoảng
hốt phảng phất". Đúng là Phật thì phải là một vị Phật thần
thông biến hóa. Quan niệm Phật này hoàn tòan phù hợp với những truyền
thuyết dân gian của dân ta về đức Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và
Pháp Điện, mà Lĩnh Nam trích quái cùng bài thơ cổ phong của Lý Tử TẤn
trong Kiến văn tiểu lục 9 tờ 14b5-15b9 đã ghi lại. Chỉ với một quan niệm
về Phật đầy quyền năng biến hóa như vậy, vấn đề tại sao Phật không
hiện ra và sao không thấy Phật mới được nêu lên. Nhưng thấy bằng cách
nào ?
Mâu Tử không nói rõ phương pháp
ta có thể thực hiện thấy Phật. Song Khương Tăng Hội thì nói rất rõ,
rõ từng bước. Trong An ban thủ ý kinh tự ở Xuất tam tạng ký tập 6 tờ
43b7-13, Hội viết: "người được hạnh an ban thì lòng liền sáng,
đưa mắt nhìn xem, không chỗ tối gì mà không thấy, việc từ vô kiếp đến
nay, hiện tại các cõi, trong đó có đức Thế Tôn giảng pháp, đệ tử tụng
tập, không nơi xa nào không thấy, không một tiếng nào là không nghe, hoảng
hốt phảng phất, tự do còn mất, lớn trùm tám phương, nhỏ lọt mảy lông,
chế phục trời đất, diên trì mạng sống, thần đức rợn rùng, binh trời
bại hoại, thế giới chấn động, các cõi đổi dời, có tâm chẳng nghĩ
nghì, Phạm thiên chẳng lường nổi, thần đức không giới hạn. Ấy là
đều do sáu hạnh mà ra". Vậy thì, theo Hội, để có những khả năng
nghe xa trông ngái, còn mất tự do, để thấy Phật hiện đang giảng pháp
ta chỉ cần thực hành sáu hạnh của phương pháp an ban (ànàpànasati).
Hạnh thứ nhất là "buộc ý
vào hơi thở, đếm 1 đến 10 không sai. thì ý định tại đó, định nhỏ
ba ngày, định lớn 7 ngày, vắng lặng không có quan niệm nào khác, nhạt
nhẽo như người chết, gọi là nhất thiền". Hạnh thứ hai là
"chuyển niện vào tùy ... ý định tại tùy là do đếm, bụi dơ tiêu hết,
lòng dần trong sạch, gọi là nhị thiền". Hạnh thứ ba là "dồn
ý vào đầu mũi, thì gọi là chỉ ... hành thiền dừng ý, treo nó vào đầu
mũi, đó gọi là tam thiền". Hạnh thứ tư là "trở về xem lại
thân mình từ đầu đến chân, xem đi xét lại chi li dơ bẩn trong thân tiết
ra, lông lá mọc đầy, như thấy nước mắt nóng hổi, rõ soi đầy đủ với
chúng thì trời đất người vật, thịnh cũng như suy, không gì tồn tại
mà không hủy mất, tin Phật Tam bảo, mọi tối đều rõ, ấy gọi là tứ
thiền". Hạnh thứ năm là "buộc tâm về niệm, các ấm đều diệt,
ấy gọi là hoàn. Hạnh thứ sáu là "uế dục lặng hết, lòng mình
không tưởng ấy gọi là tịnh". Đấy là sáu hạnh, hay cũng gọi là
"sáu cửa nhiệm mầu" tức sáu tiến trình của phương pháp an ban
thủ ý mà An Thế Cao truyền dịch vào Trung Quốc và Khương Tăng Hội giới
thiệu và giải thích. Người nào thực hành nó theo sáu tiến trình ấy
thì đạt "được hạnh an ban" và có những khả năng phi thường mô
tả ở trên.
Phương pháp đây với sáu tiến
trình của nó, mặc dù được Hội giới thiệu và giải thích nhưng về
sau vẫn xảy ra truyền thuyết cho rằng chính Hội là người thừa kế và
quảng bá tư tưởng và phương pháp thiền của An Thế Cao, như Cao Tăng
truyện 1 tờ 324a17-18 ghi lại. Trong lời mở đầu cho chương Thiền độ vô
cựu của Lục độ tập kinh là nhằm "chính tâm, nhất ý, tập hợp mọi
lành duy trong tâm, ý thức các xấu bẩn, để đe, điều lành mà tiêu trừ".
Và tiến trình nó gồm có bốn nấc, chứ không phải kiểu sáu nấc của
phương pháp an ban.
Việc làm của nấc thiền thứ nhất
là khử bỏ tham ái, năm yêu tà sự, như mắt thấy sắc đẹp, tâm sinh
dâm cuồng, khử bỏ thanh hương vị xúc đối với tai mũi lưỡi thân. Người
có chí hành đạo tất phải xa lánh chúng. Lại có năm ngăn che (phải khử
bỏ): tham tài, giận dữ, mê ngủ, dâm lạc và nghi ngờ hối hận. Đối với
những vấn đề như có đạo hay không có đạo, có Phật hay không có Phật,
có kinh hay không có kinh, khi tâm y thức niệm đã trong sạch không bụi bặm,
tâm sáng thấy được chân lý thì đạt đến sự không gì là không biết,
mà trời rồng quỷ yêu không thể đánh lừa được. Giống như người có
mười kẻ thù lánh mình thoát khỏi, một mình ở trong núi chẳng hay biết,
thì không còn sợ nữa. Người xa lánh tình dục, nội tâm tịch tịnh. Đó
gọi là thiền thứ nhất".
"Nấc thiền thứ hai giống như
người trốn tránh oán thù tuy ở núi sâu, còn sợ kẻ thù tìm thấy, càng
tự trốn sâu. Người hành thiền, tuy đã xa mười thứ dục tình, còn sợ
giặc dục ấy tìm theo phá hoại chí đạo của mình. Được thiền thứ
hai thì tình dục xa dần, không còn thể làm dơ mình được.Ở nấc thiền
thứ nhất thì thiện ác tranh nhau, đem thiện để trừ ác, ác lui thì thiện
tiến. Ở nấc thiền thứ hai, lòng vui lặng dừng, không còn đem thiện để
diệt ác đã dứt tuyệt, không còn nhân duyên nào bên ngoài xâm nhập vào
nữa. Giống như núi cao trên đỉnh có con suối, không còn khe nào chảy
vào, cũng không do rồng mưa, nước từ đó chảy ra, nước sạch suối đầy.
Điều thiện đã từ trong tâm ra thì các điều ác không còn do mắt tai mũi
miệng mà vào được. Chế ngự tâm như vậy mà hướng đến thiền thứ
ba".
"Nấc thiền thứ ba gồm giữ tâm
ý kiên cố, thiện và ác không thể xâm nhập. Tâm yên vững như núi Tu Di.
bên trong các thiện không phát xuất, bên ngoài thiện, ác và tịch diệt
không xâm nhập. Tâm giống như hoa sen, gốc lành ở dưới nước, khi hoa búp
chưa nở thì bị nước phủ lấp. Người thực hành thiền thứ ba thanh tịnh
như hoa, xa lìa mọi ác, thân tâm an ổn. Chế ngự tâm như vậy mà hướng
đến thiền thứ tư".
"Bỏ hết thiện ác, tâm không
nhớ thiện cũng không nhớ ác, trong tâm sang sáng như ngọc lưu ly ... Bồ tát
tâm tịnh, đạt thiền thứ tư, thì muốn làm gì cũng được, bay lượn trên
không, đạp nước mà đi, phân thân tán thể, biến hóa muôn cách, vào ra
không ngại, còn mất tự do, rờ mó trời trăng, chấn động trời đất,
thấy thông nghe suốt, không gì là không thấy nghe, tâm tịnh quán minh, được
nhất thiết trí (biết) chúng sanh thay đổi lúc chưa có trời đất, tâm người
trong mười phương hiện tại đang nghĩ những việc chưa manh nha ...Hễ được
thiền thứ bốn, muốn được sự sáng sủa của đức Phật Như Lai chính
nhân bình đẳng giác ngộ chính xác không gì hơn, cầu nó thì liền được..."
Phương pháp bốn thiền của Lục
độ tập kinh như vậy cũng đạt được những kết quả giống như
phương pháp an ban với sáu tiến trình. Việc Hội đề tựa và viết chú
thích cho An ban thủ ý kinh chắc hẳn nhằm giải thích phương pháp thiền của
An Thế Cao cho những Phật tử Trung Quốc, mà cho đến thời Hội đã chịu
ảnh hưởng nặng nề của phương pháp thiền đó. Nói khác đi, mặc dù
truyền thuyết Trung Quốc xuất hiện khá sớm khoảng năm 290 cho Hội là người
thừa kế và quảng bá thiền kinh của An Thế Cao, nhưng ta có thể nói Hội
đã có một truyền thống tư tưởng và phương pháp thiền khác với An Thế
Cao. Thế thì, dẫu với phương pháp nào đi nữa, kết quả tu thiền vẫn là
một. Đó là đạt được một số những quyền năng phi thường, mà quan
trọng nhất dĩ nhiên là quyền năng ấy hoàn toàn đồng nhất với những
từ Mâu Tử cũng như Khương Tăng Hội dùng để định nghĩa Phật.
Như thế, trong quan niệm của nền
Phật giáo Mâu Tử Khương Tăng Hội, những người thực hành Phật giáo
không những có thể thấy Phật ở chính ngay cuộc đời hiện tại này. Hội
đã đề lên một phương pháp và một phương án thực tiễn và chi tiết
nhằm hiện thực quan niệm đó. Xuất phát chính từ cơ sở lý luận về
Phật và một phương pháp nhằm thực hiện Phật kiểu ấy, ta bây giờ mới
thấy tại sao Lý Miễu đã nêu lên câu hỏi không thấy chân hình Phật ở
đời. Cơ sở lý luận trên cho biết Phật là gì, và phương pháp thiền Khương
Tăng Hội hứa hẹn ta sự thành công của việc hiện thực quan niệm Phật
đó bây giờ và ở đây. Nhưng kể từ khi Hội chết đi vào năm 280, trải
qua hơn cả 150 năm chưa thấy có một thành công nào cả, thì đương nhiên
các Phật tử như Lý Miễu tất phải nêu lên vấn đề. Phải chăng quan niệm
Phật do Mâu Tử Khương Tăng Hội thiết định là sai lầm ? Phải chăng
phương pháp nhằm thực hiện Phật là vô hiệu quả ?
Những câu hỏi này Lý Miễu đã đề
ra, và Đạo Cao cùng Pháp Minh đã tìm câu giải đáp bằng cách nhắc đến
thuyết cảm ứng cũng do Khương Tăng Hội dựng nên. Dù có giải đáp gì
chăng nữa, thì chúng cũng đã bắt đầu khơi dậy cả một quá trình dẫn
cuối cùng đến sự sụp đổ và biến thân của nền Phật giáo do Mâu Tử
và Khương Tăng Hội làm đại biểu, và tạo cơ hội cho sự ra đời của
một quan niệm Phật giáo mới với dòng thiền Pháp vân của Tì Ni Đa Lưu
Chi và Pháp Hiền. Chúng đánh dấu một sự mất tin tưởng vào quan niệm cũng
như phương pháp giáo tôn về Phật không còn có thể đảm trách đáp ứng
những yêu cầu của thời đại nữa. Thực vậy, đến giữa thế kỷ thứ
V khi Quân thiện luận của Huệ Lâm đã gióng lên tiếng chuông dồn dã
báo hiệu một sự tra hỏi duy lý vào toàn bộ tư tưởng và nếp sống Phật
giáo, thì làm sao một quan niệm quyền năng và một phương pháp nhằm thực
hiện quyền năng về Phật có thể đảm trách nhiệm vụ lịch sử của
mình được ?
Quan niệm quyền năng và phương pháp
quyền năng ấy vào cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III, khi nền văn hóa Lạc
Việt đang bị giẫy dụa trước những tấn công điên cuồng và man rợ của
nền văn hóa xâm lược Trung Quốc, thì có thể đề xuất, một mặt nhằm
tiếp thu những di sản tư tưởng và nhận thức do nền văn hóa Lạc Việt
truyền thụ, và mặt khác, nhằm chống đối lại hữu hiệu những cuộc tấn
công vũ bảo đó. Dân tộc ta, sau cuộc bại trận của Hai Bà Trưng và những
cuộc khởi nghĩa tiếp theo, đang bàng hoàng gượng mình đứng dậy đi tìm
những sức mạnh mới, những sức mạnh có tính chất phi thường để chống
đỡ trong cuộc đấu tranh cam go và gian khổ cùng một lúc đối với hai kẻ
thù, đó là kẻ thù thiên nhiên và kẻ thù xâm lược. Quan niệm và phương
pháp quyền năng về Phật của Mâu Tử và Khương Tăng Hội là một thể
hiện sức mạnh ước mơ đó. Phật phải là một vị có mọi khả năng
phi thường, có mọi quyền năng vô địch, có thể chấn động trời đất,
có thể chuyển đi mọi quốc độ, có thể làm rùng rợn cả quỉ thần.
Tin vào Phật là tin vao một sức mạnh như vậy, là tham dự và chia phần với
nó, lấy lại cho mình một phần nào sức mạnh đã bị kẻ địch thiên
nhiên cũng như xâm lược, tước đoạt.
Nhưng với đà tiến của lịch sử,
qua kinh nghiệm những cuộc đấu tranh chống kẻ thù thiên nhiên và xâm lược
của mình, dân tộc ta đã dần dần nhận ra những sức mạnh phi thường và
quyền năng ấy chính là sức mạnh của mình. Chính là sức mạnh của
mình bị tha hóa vào một đối tượng ngoài bản thân mình, thực sự đánh
dấu một sự chuyển mình rất vĩ đại của quá trình tự ý thức về sức
mạnh, biến sức mạnh tự mình thành một sức mạnh cho mình. Đây là nội
dung cốt tủy của ý thức mới làm cơ sở cho cuộc vận động độc lập
và xưng đế của Lý Bôn sau này.
Từ một sức mạnh chưa được ý
thức là một sức mạnh của tự mình, dân ta kinh qua những cuộc đấu
tranh gay go và đa dạng, đã nhận ra sức mạnh ấy là của mình và cho
mình, để sử dụng cho việc khẳng định sự độc lập của dân tộc. Kể
từ khi Khương Tăng Hội chết vào năm 280, nhiều cuộc khởi nghĩa liên tục
nổ ra, khẳng định dần dần khả năng chiến đấu và ý thức về mình
và cho mình của dân tộc. Ý thức và khả năng ấy đã trưởng thành đến
đầu thế kỷ thứ V và trở thành một thực tại kết tinh lại trong những
con người lãnh tụ kháng chiến như Lý Bôn, Lý Dịch và đặc biệt là hai
chú cháu Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến. Họ ý thức rõ rệt về sức mạnh
và quyền năng của chính mình. Từ một sức mạnh và quyền năng tự mình,
họ đã biến chúng thành sức mạnh và quyền năng cho mình, cho dân tộc
mình để xử dụng chúng nhằm xây dựng và bảo vệ một tổ quốc, một
cuộc sống tươi đẹp hơn. Cho nên, nếu quan niệm Phật của Mâu Tử và
Khương Tăng hội biểu hiện một ước mơ về sức mạnh và quyền năng,
thì vào thế kỷ V, ước mơ ấy đã trở thành một hiện thực lịch sử.
Do đó, tra hỏi về việc tại sao
chân hình Phật lại không hiện ra đời tức tra hỏi về hiện thực lịch
sử của sức mạnh và quyền năng ấy, tra hỏi về vai trò và vị trí nó
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mặt khác, vì ước mơ đã trở
thành hiện thực, nên tra hỏi về ước mơ tức biểu hiện một sự nghi
ngờ về tính thực của ước mơ, về sự không cần thiết của ước mơ
nữa. Khi ước mơ trở thành hiện thực thì cũng chính là lúc tự nó hủy
mình để thành hiện thực. Khi đức Phật ước mơ của sức mạnh và quyền
năng đã trở thành một hiện thực lịch sử sức mạnh và quyền năng, thì
ta hỏi về đức Phật ấy là một biểu lộ một cáo chung của đức Phật
ước mơ ấy.
Vậy thì, không nói chi tới những
diện khác, chỉ xét trên diện giải thích, ý nghĩa lịch sử của quan niệm
Phật giáo Mâu Tử và Khương Tăng Hội, ta thấy quan niệm ấy vào giữa thề
kỷ V bắt đầu mất dần ý nghĩa. Nó đã đóng xong vai trò lịch sử của
nó.
Nói thế, đương nhiên phải giả
thiết nó đã xuất sinh trong một hoàn cảnh lịch sử kinh tế chính trị
nhất định, nhằm đáp lại một số yêu cầu nhất định của hoàn cảnh
lịch sử ấy, chứ không thể nào quan niện nó một cách thoát ly không có
một liên hệ gì với thực tiễn. Cũng chính vì xuất sinh trong một hoàn cảnh
kinh tế chính trị nhất định, cho nên tới một giai đoạn nào đó, khi
quá trình phát triển lịch sử đang bước qua những khúc quanh, nó bắt buộc
phải chấm dứt vai trò lịch sử của mình.
Mà đúng thế. Sau cuộc xưng đế của
Lý Bôn và sự ra đời của dòng thiền Pháp vân của Tì NI Đa Lưu Chi và
Pháp Hiền, thì ta không bao giờ thấy nêu lên câu hỏi thấy Phật nữa. Đức
Phật tự mình của giai đoạn Phật giáo Mâu Tử Khương Tăng Hội đã trở
thành đức Phật cho mình của giai đoạn Phật giáo Pháp vân. Vấn đề do
thế nằm ở chỗ thực hiện đức Phật đó cho mình, chứ không còn tra hỏi
đòi thấy. Cũng thế, sức mạnh và quyền năng tự mình bây giờ đã biến
thành sức mạnh và quyền năng cho mình. Vì vậy, làm sao để vận dụng sức
mạnh và quyền năng ấy trong công cuộc giải phóng và bảo vệ dân tộc,
chứ không còn ở trong quá trình đi tìm sức mạnh quyền năng ấy. Các vị
sư dòng thiền Pháp vân đã thể hiện rõ rệt xu thế ấy của thời đại.
Họ đã thực hiện đức Phật của họ với những câu sấm vĩ vận động
giải phóng dân tộc. Sấm vĩ là một công cụ để vận động và sử dụng
sức mạnh cùng quyền năng cho mình đó.
Ấy chỉ là nhìn theo diện giải
thích lịch sử. Nếu đứng trên lập trường nghiên cứu lý luận, quan niệm
Phật theo Mâu Tử và Khương Tăng Hội tất phải dẫn đến những mâu thuẫn
giữa quan niệm ấy và thực tiễn thực hành Phật giáo. Thực tiễn thực
hành Phật giáo hứa hẹn một phương pháp giúp ta có những quyền năng phi
thường, bao gồm cả quyền năng thành Phật như họ quan niệm, chứ khôngphải
chỉ thấy Phật thôi đâu. Nhưng trong lịch sử đã có người nào đạt đến
những quyền năng phi thường ấy chưa ? Theo Pháp Minh trong lá thư thứ sáu
thì đã có một số người đạt đến chúng dưới một hình thức này hay
khác, mà ông cho dẫn ra bảy trường hợp ta thấy ở trên. Nhưng thực sự
có ai bằng thực hành phương pháp được đề ra, đã sở hữu những quyền
năng phi thường trong lịch sử nước ta ? Câu hỏi này Pháp Minh cũng như
Đạo Cao không có một lời giải đáp nào. Nói cách khác, có một sự
tách rời giữa thực tế và lý luận giữa ước mơ và đời thật, giữa
quan niệm và cụ thể, giữa phương pháp và kết quả do phương pháp đem
đến. Cho nên, dù Đạo Cao và Pháp Minh có tiếp tục tin tưởng vào truyền
thống Phật giáo Mâu Tử Khương Tăng Hội và dù cho có thuyết phục được
Lý Miễu về sự đúng đắn về những quan điểm của họ, thì câu hỏi
sao chân hình Phật không hiện ra ở đời đã đánh dấu sự ra đời của
một xu thế Phật giáo mới xuất phát từ những yêu vầu mới của thời
đại.
Thời đại của Lý Miễu, tuy đang
đầy dẩy những tín ngưỡng thần kỳ theo thuyết cảm ứng của Khương
Tăng Hội, đã mang trong mình một số hạt nhân duy lý. Vì thế, không phải
ai cũng giống như Hiền pháp sư và Vương Diệm, tin tưởng "thành linh
nhở gỗ đá mà hiện ra sự u di ". Cũng không phải ai cũng làm theo lối
Lý Thúc Hiến cho mời Huệ Đào về thờ cúng mà được chức thứ sử. Lý
Miễu nêu câu hỏi sao Phật không hiện chân hình ở đởi, thực sự đại
biểu cho một xu thế đang lên, để sau này kết tinh trong dòng thiền Pháp
vân. Chính nó đã báo hiệu sự cáo chung của tình trạng tín ngưỡng vừa
nói và mở màn cho một nền Phật giáo mới, một nền Phật giáo cho mình.
Do vậy, vấn đề không phải nằm trong những câu giải đáp và những điểm
thỏa thuận giữa ba người Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu.
Sự thực, Đạo Cao đã giải đáp
được những thắc mắc của Lý Miễu. Về phía Lý Miểu cũng đã chấp nhận
phần lớn những gì Cao đưa ra. Hai lá thư cuối cùng trao đổi giữa Miễu
và Pháp Minh mang tính chất những lá thư tổng kết, xác định một lần
chót khả năng tiếp thu của Phật giáo đối với các học thuyết khác và
tính ưu việt của nó đối với chúng. Điểm cốt tủy vẫn nằm trong câu
hỏi Miễu đề xuất. Nó gây nên những chấn động mạnh mẽ ngay giữa
trung tâm huyệt của nền tín ngưỡng trên, đưa cuối cùng đến sự sụp
đổ và thay thế vào bằng một nền Phật giáo mới của thời đại.
Nền Phật giáo mới này do yêu cầu
của lịch sử, không còn chú trọng đến những quan niệm quyền năng cũng
như những phương pháp quyền năng về Phật giáo nữa. Nó không còn đặt
lên hàng đầu sự thực hiện những khả năng phi thường cá nhân bằng an
ban thủ ý hay tứ thiền. Cộng thêm với sự xuất hiện của Quân thiện
luận và sự có mặt của Huệ Lâm, nó càng vững bước phát triển, để
kết tinh vào dòng thiền Pháp vân sao đó, song song với sự lớn mạnh của
phong trào giải phóng dân tộc, mà đỉnh cao là sự nghiệp xưng đế của
Lý Bôn. Đối với Huệ Lâm có thể khi đến nước ta, được Lý Miễu tiếp
đón và yêu cầu cộng tác, Lâm đã tự đứng vao hàng ngũ những người
Trung Quốc được Việt hóa, như nhà trí thức nổi tiếng Đàm Hoằng trước
ông, ly khai ra khỏi những ràng buộc và gắn cuộc sống cùng đặt quyền
lợi mình với cuộc sống và quyền lợi của dân ta. Từ sự gắn bó đó,
Lâm hẳn đã chinh phục được sư ngưỡng mộ và tin tưởng của những
người có trách nhiệm điều hành bộ máy nhà nước như Lý Miễu. Điều
này tạo cơ hội cho Miễu học tập và suy niệm về những vấn đề Phật
giáo đang thịnh hành thời ấy, mà nổi bật nhất dĩ nhiên là tình trạng
tin tưởng phổ quát vào một thứ Phật giáo quyền năng. Rất tiếc là
ngày nay ngoài Sáu lá thư, ta hiện chưa có những tài liệu xác minh. Nhưng
có thể nói chính những họa tập và suy niệm vừa nói đã dẫn Miễu viết
những lá thư cho Đạo Cao và Pháp Minh. Và tư tưởng và học phong của Huệ
Lâm, như sẽ thấy dưới đây, mang nặng màu sắc duy lý và duy vật, một
thứ duy lý và duy vật thô sơ với những hiện tượng và vấn đề tôn
giáo. Cho nên, tư tưởng và học phong ất tất không thể nào không ảnh hưởng
đến Lý Miễu. Chính Lâm đã viết trong Quân thiện luận: "Kẻ cần
thành không thấy được mắt người thiện cứu" gợi nên như vậy một
sự nghi ngờ trức tiếp về khả năng hiện hình của Phật ở đời, nếu
không về sự hiện hữu của một vị Phật loại ấy. Từ đó, yêu cầu
thấy chân hình Phật ở đời của Lý Miễu không pphải đã không nằm
trong xu thế chung của một nền tư tưởng và học phong kiểu ấy.
Thế thì, xét trên diện nghiên cứu
lý luận, những lá thư lý luận, những lá thư trao đổi giữa Đạo Cao và
Pháp Minh với Lý Miễu, thể hiện một cuộc đấu tranh giữa khuynh hướng
thần bí duy tâm của không những Phật giáo, mà còn của toàn bộ nền học
thuật thời họ ở tại nước ta. Cuối cùng về lâu dài khuynh hướng duy
lý duy vật đã thắng. Thắng lợi này, điển hình qua sự cáo chung của nền
Phật giáo quyền năng do Mâu Tử và Khương Tăng Hội thiết lập với sự
ra đời của nhà nước Vạn Xuân và dòng thiền Pháp vân. Quả thực, nếu
khi nêu lên câu hỏi thấy Phật, Lý Miễu đặt mình vào xu thế tư tưởng
và học phong duy lý của Huệ Lâm, thì Đạo Cao, khi cậy đến thuyết cảm
ứng của Khương Tăng Hội để giải đáp, tức đã nhận mình thuộc
khuynh hứơng thần bí duy tâm của nền Phật giáo quyền năng. Đương nhiên,
tới một giới hạn nào đó, thuyết cảm ứng cũng có tính chất duy lý của
nó. Trong một số lãnh vực khoa học ngày nay, thuyết ấy vẫn có những
áp dụng khá đắc lực cho sự tìm hiểu ngoại giới và con người. Tuy nhiên,
ta đồng thời phải công nhận thuyết cảm ứng của Hội, như Cao Tăng
truyện 1 tờ 325b17 ghi lại, dứt khoát mang màu sắc thần bí duy tâm. Nó thần
bí, bởi vì nó từ chối khả năng lý hội và tái thực hiệu hành động
"phủi tuyết buốt cho cọp dữ" của Vu Pháp Lan, hay hành động làm
cho "suối khô phút chốc vọt nước" của Trúc Pháp Hộ. Trong cuộc
đấu tranh giữa hai khuynh hướng duy lý và thần bí, khuynh hướng duy lý đã
thắng thì ấy cũng là điều tất nhiên, vì nó đã phát triển theo đà
phát triển chung của lịch sử.
Thắng lợi đó đặt cơ sở cho sức
mạnh và quyền năng, tự mình biến thành sức mạnh và quyền năng cho mình,
cho nền Phật giaó quyền năng trở nên nền Phật giáo xã hội. Nền Phật
giáo quyền năng, khi tước bỏ lớp áo thần bí của nó, tất phải phơi bày
những mâu thuẫn lý luận trong nội bộ. Những mâu thuẫn ấy chỉ có thể
giải quyết trên nền tảng sinh hoạt xã hội. Như sẽ thấy khi viết Quân
thiện luận, Huệ Lâm đã nhận ra điểm đó, nên đã phê phán một cách
thành công những thứ Phật giáo không xã hội, và đưa ra truyền thống Phật
giáo xã hội của mình. Phật giáo xã hội là một Phật giáo nhìn như thuyết
lý chính trị xã hội, và Phật giáo không xã hội là thứ Phật giáo
không mang tính chất lý thuyết chính trị xã hội đó, trong ấy bao gồm cả
loại Phật giáo quyền năng. Điều này giải thích cho ta sự xuất hiện của
khuyng hướng tham dự chính trị rất nổi bật nền Phật giáo Pháp vân, từ
Tì Ni Đa Lưu Chi đến Trần Nhân Tôn, của một sự gắn bó gần như keo
sơn giữa đời sống tu hành và sự nghiệp giải phóng dân tộc cùng bảo
vệ tổ quốc của các vị thiền sư.
Cho nên, khi Lý Miễu nêu lên câu hỏi
Phật, ý nghĩa nó không thuần túy giới hạn vào việc tra hỏi một chủ
đề Phật giáo, trái lại đã để lộ ra cả một xu thế chung của thời
đại. Vào thế kỷ thứ V, qua những bằng chứng trên, Phật giáo đã thở
thành quảng bá rộng rãi trong quần chúng. Và nhân dân ta lúc ấy, ngoài những
nhu cầu trực tiếp của cá nhân, còn có một nguyện vọng, một ước muốn
sâu xa bức thiết lập và duy trì một nước Việt Nam độc lập và vững
mạnh. Nguyện vọng và ước mơ sâu xa đó đến lúc ấy, nền Phật giáo
quyền năng không còn đáp ứng hoàn tòan được nữa với những phương pháp
thiền và những trạng thái thiền của mình. Phải có một nền Phật giáo
gì mới. Phải có những phương pháp gì hữu hiệu và có tính quần chúng
hơn. Chính đòi hỏi này đã đẩy nền Phật giáo quyền năng vào hậu trường
để mở đường cho một loại hình Phật giáo mới. Lý Bôn khi xưng đế
đã dựng nên ngôi chùa "Mở nước" đầu tiên, chùa Khai Quốc, tại
kinh đô của mình. Sự kiện này chứng tỏ Phật giáo đã đóng một vai
trò tích cực như thế nào vào giài phóng dân tộc năm 544. Nhưng bất hạnh
là, ngày nay không còn một tư liệu nào điểm chí cho thấy sự tham dự
ấy ra sao, để qua quá trình tham dự, cuối cùng kết tinh nên dòng thiền
Pháp vân mang tính chất chính trị và ý thức lịch sử sâu xa.
Sự khủng hoảng cuả quan niệm về
Phật do thế là hậu quả của cả một quá trình phát triển và đấu
tranh trong nội bộ Phật giáo Việt Nam cũng như của khả năng nhận thức
và tiếp thu Phật giáo của dân tộc ta. Nó điển hình cho một sự lớn mạnh
chung của cả Phật giáo lẫn dân tộc. Nó đánh dấu sự cáo chung của một
gia đoạn và một nền Phật giáo hết khả năng đáp ứng yêu cầu của thời
đại và báo hiệu sự xuất hiện của một nền Phật giáo mới, của một
giai đoạn lịch sử mới.
Tất nhiên, trước sự thiếu thốn
tài liệu, mọi tổng hợp đều mang tính trừu tượng và rất dễ sai lầm
vì thoát ly thực tại. Người ta có thể tự hỏi, ngoài Sáu lá thư trên
Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu có còn viết những lá thư nào khác không ?
Những lá thư ấy có bàn về cùng chủ đề quan niệm Phật, hay bàn đến
những vấn đề khác nữa: Với sáu lá thư hiện còn, Lý Miễu đã hoàn
toàn chịu sư thuyết phục của Đạo Cao và Pháp Minh chưa ? Có những vấ
đề gì đang tồn tại giữa ba người ấy ? Nêu lên những câu hỏi như vậy
tức đồng thời cũng nêu lên nghi vấn về kết luận có một sự khủng
hoảng căn để trong nôi bộ lý htuyết Phật giáo Việt Nam song song với
phát triển có tính chất nhảy vọt của lịch sử dân tôc. Bởi vì trong một
tình trạng tư liệu khi mà những câu hỏi loại đó chưa thể giải quyết
một cách thích đáng thỏa mãn, thì làm có thể có những kết luận khái
quát về một giai đoạn lịch sử ?
Chúng tôi nghĩ rằng, ta cần nhận
rõ khả năng cũng như những giới hạn của ta, nhưng điều đó không có
nghĩa là ta thúc thủ, đành để cho những gì hiện còn lưu giữ cứ ở
trong tình trạng tản mạn lơ lửng không có kết liên gì với thực tại lịch
sự của dân tộc, mà tự nguyện ủy đã là mảnh đất khai sinh ra chúng.
Cho nên, dù có đứng trước những khó khăn tư liệu, chúng tôi vẫn đề
ra một số cách nhìn vần đề như trên.
Chúng tôi ý thức rằng còn có nhiều
yếu tố khác tham dự vào cuộc khủng hoảng. Chẳng hạn, sự phá giá của
đồng tiền Trung Quốc, mà vào thời đó cũng là tiền tệ cơ sở của
người nước ta, từ thế kỷ thứ II trở đi, đến thế kỷ thứ V đã trở
nên rất trầm trọng, gây nên một tình trạng kinh tế bất ổn định triền
miên làm cội gốc cho sự thăng trầm liên tục của các triều đại ở
Trung Quốc và những cuộc khởi nghĩa và các chính quyền khởi nghĩa kế
tiếp ở nước ta. Phải chăng sự phá giá ấy kéo theo luôn sự phá giá của
các quan niệm thuộc thượng tầng kiến trúc, trong đó chủ yếu là quan niệm
về Phật mà ta thấy thể hiện trong sáu lá thư.
Dẫu sao chăng nữa, Sáu lá thư đã
gợi cho ta một số suy nghĩ không những về lịch sự Việt Nam. căn cứ vào
tình trạng nghèo nàn tư liệu hiện tại, chúng có những đóng góp nhất
định cho công tác nghiên cứu bản thân lịch sử đó. Đương nhiên, hiện
đang còn nhiều vấn đề mà ta chỉ có thể giải quyết theo những quy diễn
phải chăng. Ví dụ chính quyền nhà nước độc lập của Lý Miễu có thể
là một vị hoàng đế Việt Nam khi viết những lá thư của mình. Thế thì
nếu một chính quyền độc lập như vậy hiện hữu, nó đã xuất hiện như
thế nào trong quá trình tự ý thức của sức mạnh tự mình biến thành sức
mạnh cho mình mà ta đã nêu lên ở trước. Nó xuất hiện lúc nào và ở
đâu ? Ta ngày nay không thể nào trả lời một cách chắc chắn được.
Trong liên hệ này ta cần vạch ra
là vì Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu đã viết thư trao đổi cho nhau, điều
này giả thiết họ phải sống ở đâu, tại ngôi chùa nào? Cón Lý Miễu với
chính quyền đế vương của mình đã đóng đô ở đâu? Vào thế kỷ V, ta
hiện biết có một ngôi chùa tên Tiên Sơn hay Tiên Châu Sơn. Tiên Sơn là nơi
đã xảy ra cuộc tự thiêu của Đàm Hoằng. Tiên Châu Sơn là nơi tu học của
Huệ THắng và Đạo Thiền cũng như nơi hoằng hóa của một vị sư Ấn Độ
tên Dharmadeva (Đạt Ma Đề Bà). Đây là hai tên chùa xưa nhất do những sử
liệu ghi lại. Như sẽ thấy dưới đây, hai tên này có thể chỉ nói tới
một ngôi chùa duy nhất nằm tại vùng núi Lạn Kha huyện Tiên Sơn tỉnh Hà
Bắc ngày nay, là trung tâm giáo dục Phật giáo nổi tiếng của nền Phật
giáo thế kỷ ấy. Phải chăng Đạo Cao và Pháp Minh cũng sống tại chùa
này ? Còn Lý Miểu phải chăng đã đóng đô cũng tại Luy Lâu tức vùng Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh hiện nay ?
Đó là một vấn đề lịch sữ ngày
nay ta chưa thể giải quyết. Nhưng Sáu lá thư đã có những đóng góp nhật
định cho việc nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của lịch sử.
Những đóng góp của sáu lá thư [^]
Bậy giờ, để kết luận những
nghiên cứu trên, chúng tôi thấy cần nói sơ về những đóng góp có thể
của những văn kiện vừa nêu cho công tác tìm hiểu những vấn đề khác
trong lịch sử Việt Nam như nghệ thuật, âm nhạc, văn học, Phật giáo,
chính trị và tư tưởng.
1. Về nghệ thuật [^]
Vấn đề lịch sử của nghệ thuật,
chúng tôi đã có dịp xác định là phải bắt đầu tối thiểu ở tiền bán
thế kỷ V với địa điểm ngôi chùa Tiên Sơn. Đặc điểm của nền nghệ
thuật này nằm ở chỗ, đức Phật không bao giờ được nhân cách hóa bằng
một hình người, ngược lại luôn luôn được tượng trưng nằng một cánh
hoa sen đặt vào giữa lòng một trang trí theo dáng hình lá bồ đề.
Cơ sở lý thuyết cho cách tượng
trưng này, ngày nay vẫn chưa được giải quyết một cách thỏa mãn. Nó rất
có thể xuất phát từ thái độ và tư tưởng chống ngẫu tượng của những
Phật tử thế kỷ IV và V ở nước ta, mà điển hình là những kiểu
"chó rơm đ8ạt suông" hay "Nghi tượng bày giả" của Lý Miễu
chẳng hạn trong những lá thư trên. Có lẽ vì thái độ chống ngẫu tượng
và nghi tượng này, nên Vương Diệm qua kinh nghiệm của ông đã phải viết
Minh tường ký, nhằm chứng minh rằng, "soi nhân tình gần thì không gì
hơn nghi tượng, điềm tốt ứng nghiệm phát ra, phần lớn bắt nguồn từ
chúng, cho nên kinh nói: "Những loại hình tượng đúc, đẽo, vẽ, đặt
đều có thể hành động và phát ra ánh sáng".
Cách tượng trưng ấy cũng rất có
thể xuất phát từ một quan điểm Phật thể, đặc biệt là khi Phật thể
ấy lại dựa trên cơ sở kinh Pháp Hoa, như P. Mus đã có dịp vạch ra trong
bản nghiên cứu về nền nghệ thuật Barabudur của ông. Cứ theo đấy thì
đức Phật đồng nhất với xác thân nhiệm thế. Nhưng với xác thân nhiệm
thể, Ngài trở thành bất khả tư nghì, vượt mọi diễn đạt tượng
trưng hình ảnh, Ngài vượt lên hết mọi thứ, và mọi thứ không thể tượng
trưng Ngài, nên chỉ có thể diễn đạt bằng ẩn dụ. Cái hoa sen nằm giữa
lòng một ngọn lá bồ-đề là ẩn dụ đó.
Điều này không phải là không có
thể, bởi vì kinh Pháp Hoa trong lịch sử Phật giáo nước ta, từ ngày Đạo
Thanh cho dịch toàn bộ nó ra tiếng Trung Quốc vào năm 255 cho đến lần in
năm 1848 bản dịch tiếng quốc âm đầu tiên hiện còn, đã là một bộ
kinh quan trọng, mà hầu hết những cao tăng Việt Nam còn lưu tên lại
không một người đã không từng say sưa đọc tụng. Từ Đạo Cao, Huệ Thắng
cho đến những người đứng chủ in bản tiếng quốc âm năm 1848, nó đã
là một nguồn cảm hứng vô biên đối với niềm tin của họ. Thêm vào đó,
cái Phật thể quan ấy cũng đã được những tác giả sáu lá thư của ta
quen thuộc, mà bằng cớ là câu viết sau đây của Pháp Minh: "Rằng,
pháp thân ngưng tịch, diệu sắc sáng trong, nên có thể ẩn hiện theo thời,
hành tàng khó biết".
Như vậy, dù bằng cắt nghĩa nào
đi nữa, rõ ràng là những lá thư ấy đóng góp không ít cho sự hiểu biết
cuả ta về cơ sở lý thuyết nằm đằng sau những phát biểu nghệ thuật
vĩ đại thần tình của nền nghệ thuật Việt Nam và Phật giáo Việt Nam
tại chùa Tiên Sơn. Chúng đồng thời cũng là một chứng cớ dữ kiện
khác làm vững thêm cái niên đại thế kỷ thứ V, nếu không là sớm hơn,
của nền nghệ thuật ấy mà chúng tôi đã đó dịp để lên_1.
2. Về âm nhạc [^]
Về vấn đề âm nhạc, những đóng
góp cuả Sáu lá thư ấy lại càng đặc sắc và quí giá hơn. Quí giá, bởi
vì chúng là những văn kiện xưa nhất và duy nhất nói đến sự hiện diện
một cách không chối cãi ở nước ta của những "ca tán tụng vịnh".
Từ đó, cho thấy tối thiểu vào thế kỷ V, âm nhạc Việt Nam gồm những
thứ gì. Đặc sắc, bởi vì nếu phối hợp báo cáo âm nhạc vừa nói những
hình ảnh nhạc cụ trên những bệ đá của nền nghệ thuật Tiên Sơn, chúng
ta có thể rút ra những kết luận rất lôi cuốn về lịch sử âm nhạc Việt
Nam và Phật giáo Việt Nam, đồng thời giải thích cho thấy, tại sao trên
những bệ đá ấy chúng ta chỉ có mười nhạc thần và chín thứ nhạc cụ
tấu nhạc, để ngợi ca cúng dường Người giác ngộ.
Thế thì, bốn chữ "ca tán tụng
vịnh", đặc sắc quí giá ấy, mà có bản viết thành "ca tụng
ngôn vịnh", có nghĩa gì? Trả lời câu hỏi này, một bình luận khá
da2i của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện quyển 13 tờ 414c21-415c7 đáng nên
được mọi người đọc, bởi nó cho ta biết một cách khá khúc chiết lịch
sử những đoạn chính yếu ở đây, nhằm làm tài liệu một phần nào cho
những nhà nhạc học nghiên cứu lịch sử âm nhạc Việt Nam và Phật giáo
Việt Nam.
"Rằng, tạo ra văn chương là
vì muốn nêu rõ bảo hoài, phô bày tình hướng; làm ra ca vịnh là vì muốn
cho ngôn vị lưu loát, từ vận nối nhau. Cho nên lời tựa kinh Thi nói:
tình động ở bên trong thì hiện ra ở lời nói, lời nói không đủ thì tất
phải có vịnh ca vậy. Song, ca của Đông quốc thì do kết vận để mà vịnh,
tán cuả phương Tây thì do làm kệ để mà hòa thanh. Tuy ca và tán là khác
nhau, nhưng chúng đều lấy sự hiệp hài với chung luật và sự phù mỵ với
cung thươnog, thì mới trở thành hay ho áo diệu được. Cho nên, tấu ca bằng
đồ kim đồ đá thì gọi là nhạc, chơi tán bằng đồ ống đồ dây thì
đặt tên là bối....
"Từ khi Đại giáo lưu nhập phía
đông, kinh dịch tuy đã nhiều, nhưng truyền thanh thì lại rất ít, lương
do Phạn âm trùng phức, còn Hán ngữ đơn kỳ. Nếu dùng Phạn âm và vịnh
Hán ngữ, thì thanh rườm rà, mà hệ bị áp bức. Nếu dùng Hán khúc mà vịnh
Phạn văn, thì vận ngắn ngủi, mà từ lại dài dòng. Vì thế, lời vàng
tuy đã có dịch, phạn hưởng không truyền. Tới khi có Trần Tư Vương nhà
Ngụy là Tào Thực, sâu học thanh luật, thuộc ý kinh âm, đã thông được
cái hưởng hay của Bàn già, lại cảm được nhạc thần chế ở Ngư Son,
khi ấy bèn san trị Thụy ứng bản khỉ để làm tôn chỉ cho những học
giả về sau, truyền thanh thì gồm hơn 3.000 bài, nhưng số còn lại thì chỉ
đếm tới 42. Sau đó có Bạch Kiều, Chi Thược, cũng nói tổ thuật theo Trần
Tư Vương, nhưng đã ưa thích sự thông linh và riêng cảm nhạc thần chế,
chế biến thanh xưa, số còn lại này chỉ có 10 hay 1000 bài mà thôi. Đến
trong khoảng Bình trung của Thạnh Lặc có thiên thần giáng xuống ở sảnh
đường cuả ấp An, phúng vịnh kinh âm tới 7 ngày mới dứt; lúc bấy giờ
có những bản truyền ra, nhưng đều là ngoa tác, nên phải bỏ. Tới thời
Tống Tề có Đàm Thiên, Tăng Biện, Thái Truyền, Văn Tuyên v.v...
Nhưng theo tục lệ địa phương của
Thiên Trúc, hễ ca vịnh pháp ngôn thì đều gọi là bối. Tới khi ở xứ
này thì vịnh kinh gọi là chuyển đọc, còn ca tán thì gọi là phạn bối".
Ban đầu, các thiên thần tán bối đều lấy vận mà phổ vào đồ ống đồ
dây. Vì ngũ chúng đã trái với đời tục, nên phải lấy thanh khúc mà
làm sự hay. Nguyên lai là, phạn bối bắt đầu, đến từ Trần Tư. Ông
ban đầu làm những bài Thái Tử công tụng và Diệm tụng v.v... nhân thế
mà chế ra thanh. Sau ông, cư sỹ Chi Khiêm cũng truyền lại phạn bối ba bài,
nhưng đều bị chôn vùi mất mất không còn. Đời còn bàn đến một bài,
e đấy là một bài còn lại của Khiêm vậy. Chỉ Nê hoàn phạn bối do Khương
Tăng Hội làm ra bài đang còn truyền tới cho đến ngày nay, nói gồm có chỉ
một bài, lời nó rút ra từ hai quyển Nê hoàn, cho nên gọi là Nê hoàn bối.
Đến đời Tấn có pháp sư Cao Tòa truyền ra Mích lịch, Hành địa ấn
văn ngày nay tức là làm theo phương pháp của ông vậy. Lục ngôn do Thược
công làm ra tức là bài Đại Từ ai mẫn, một kệ, cho đến lúc này vẫn
có người làm theo. Gần đây có Lương châu bối. Nó nguyên làm ra ở Quan
hữu, mà truyền tới Tấn dương, tức là bài Diện như mãn nguyệt ngày
nay vậy. Phàm những khúc dây đều do những danh sư chế tác ra. Sự chế
tác của người sau phần nhiều là ngoa dở, rồi có lúc chỉ những chú
sa-di và những đứa con nít truyền thọ cho nhau, và điều này dần dà
thành thói, nên không còn lại một bài. Thật đáng tiếc thay".
Dù đã được lược dịch, đoạn
bình luận vừa thấy của Huệ Hạo đã tỏ ra khá dài dòng. Chúng tôi vì
thế không thể bàn cãi hết được những chi tiết và nhân vật lịch sử
cùng những vấn đề xoay tròn quanh họ do ông nêu ra. Chẳng hạn, vấn đề
phải chăng Tào Thực (192-232), người con thứ tư cuả Tào Tháo và có tước
Trần Tư Vương, là thỉ tố cuả môn phạn bối tại Trung Quốc? Hay phải
chăng Thái Tử Thụy ứng của Phật thuyết thái tử Thụy ứng bản khỉ
kinh mà là về Hoàng thái tử Tào Phương, đứa con của người anh Tào Thực
là Tào Phi, như một vài người nghiên cứu đã chủ trương_1.
Mặc dù, sự lôi cuốn của những
vấn đề này cũng như nhiều vấn đề khác trong đoạn bình luận vừa dẫn,
chúng tôi sẽ không bàn đến và xin gác lại cho một nghiên cứu tương
lai, bởi vì giới hạn không gian của bản nghiên cứu này không cho phép.
Do thế, ở đây, chúng tôi chỉ bàn sơ quan những chi tiết và vấn đề liên
quan tới bốn chữ "ca tán tụng vịnh" trên và lịch sử âm nhạc
Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.
Cứ vào bình luận ấy, thì bốn chữ
"ca tán tụng vịnh" trên chỉ bốn thứ âm nhạc khác nhau, bởi vì
"ca cuả Đông quốc thì do kết vận mà thành vịnh, còn tán cuả phương
Tây thì do kệ mà hoà thanh" - Đông quốc chi ca giả, tắc kết vận dĩ
thành vịnh; tây phương chi tán giả, tắc tác kệ dĩ hòa thanh. Ca và tán
như vậy khác nhau. Tụng và vịnh cũng thế. Tụng cố nhiên không gì hơn làm
một dịch ngữ Trung Quốc của chữ Gàthà tiếng Phạn, mà người ta cũng
phiên âm thành "kệ". Câu của Huệ Hạo do thế có thể đổi thành
"đông quốc chi ca giả, tắc kết vận dĩ thành vịnh, tây phương chi tán
giả, tắc tán tụng dĩ hòa thanh".
Vậy thì, ca vịnh và tán tụng
khác nhau như thế nào? Hạo viết tiếp: "tấu ca vào đồ kim đồ đá
thì gọi là nhạc, chơi tán bằng đồ ống đồ dây thì đặt tên là bối"
- tấu ca ư kim thạch tắc vị chi dĩ vi nhạc, thiết tán ư quản huyền tắc
xưng chi dĩ vi bối - Như vậy, tối thiểu cho đến năm 519 sự khác nhau giữa
ca và tán đã được xác định trên cơ sở của sự khác nhau về những
nhạc cụ dùng để phổ chúng. Hay ít nhất đấy là cách hiểu của Hạo
và những người thời ông về sự khác nhau giữa ca vịnh và tán tụng dựa
vào những tin tức biết vào thời họ về âm nhạc Phật giáo Ấn Độ.
Những tin tức này đôi khi tỏ ra
không được chính xác cho lắm. Chẳng hạn, Hạo viết về thứ âm nhạc gọi
là bối thế này: "Theo tục lệ địa phương của Thiên Trúc, hễ lời
ca vịnh lời kinh thì đều gọi là bối, còn ở xứ này, vịnh kinh thì gọi
là đọc chuyển và ca tán thì gọi là Phạn bối". Bối cố nhiên là một
phiên âm Trung Quốc của chữ Bhanna tiếng Phạn, và bhanna có nghĩa là đọc
văn xuôi một cách đều đều, trái với Gàthà, hay kệ mà hòa thanh",
người ta tất không nói tiếp theo là "ca tán thì gọi là phạn bối",
mặc dù "ca vịnh lời kinh đều gọi là bối", vì lời kinh thường
thường là văn xuôi.
Sự không chính xác ấy phần lớn
xảy ra vì không có chính danh nhiều hơn là vì họ không có những kiến thức
thực sự về cái thứ âm nhạc, mà họ gọi là phạn bối. Điều này tương
tự như cái chú thích gần đây cho hai chữ phù đồ và bảo tháp, theo đây
phù đồ là stùpa và bảo tháp là pagoda, trong khi chúng thực sự phải ngược
lại, để bảo tháp là stùpa, và phù đồ là pagoda, bởi vì tháp đến từ
stùpa qua trung gian thùpa tiếng ba-li, còn pagoda đến từ chữ buddha tiếng
Phạn qua trung gian bud tiếng Ba Tư, như phù đồ là phiên âm Trung Quốc của
buddha.
Nói Huệ Hạo và những người thời
ông có một kiến thức thực sự về thứ âm nhạc, mà ông gọi là phạn
bối, bởi vì một ghi chú trong Pháp uyển châu lâm quyển 36 tờ 576a2-12 cho
biết Phạn bối không phải là một cách đọc văn xuôi đều đều, mà là
một thứ âm nhạc gồm tới những 7 thanh khác nhau và có thăng giáng. Nó
viết: "Tào Thực mỗi khi đọc kinh Phật, liền ròng rã thưởng ngoạn,
cho đấy là tôn cực của đạo lớn, bèn chế ra 7 thanh mới với những đời
phúng tụng, đều làm theo cách của ông". Nói khác đi, cái mà người
Trung Quốc gọi là bối, không có liên lạc gì hết với bhanna của Ấn Độ,
dù bối là một phiên âm của bhanna.
Cứ vào những phân tích sơ lược
vừa thấy, bây giờ ta có thể tạm thời xác định bốn chữ "ca tán
tụng vịnh" gồm có những nghĩa gì. Ca là bất cứ một lời gì, mà
người ta có thể hát được. Khi nó tấu bằng đồ kim đồ đá thì gọi
là nhạc. Khi lời hát có vần điệu thì gọi là vịnh. Khi lời hát ấy
có vần có điệu và có thanh thì gọi là tán. Và khi vịnh được viết
theo vần điệu Ấn Độ thì gọi là tụng. Tụng có thanh cũng gọi là
tán. Tán như vậy có thể nói là cao nhất và phức tạp nhất đối với
ca, tụng và vịnh. Nếu tán được chơi bằng đồ ống đồ dây thì gọi
là bối, nên lúc "các thiên thần tán bối thì đều lấy vận mà phổ
vào đồ ống đồ dây".
Bằng vào những xác định này, rõ
ràng là âm nhạc Phật giáo Việt Nam cho đến thế kỷ thứ V có đến bốn
thứ khác nhau, đấy là ca hát, ngâm vịnh, đọc tụng và tấu nhạc - hay
đúng hơn, nhạc bối. Nó như thế không phải chỉ thường gồm có niệm,
tụng và tán mà thôi, như những mô tả gần đây của ông Trần Văn Khê
đã quan niệm_1, và coi ca hát hay ngâm vịnh không phải là thuộc loại lễ
nhạc Phật giáo Việt Nam, mà là những nhập cảng mới của thế tục Tây
Phương hay đông phương. Ca hát và ngâm vịnh do đó là một thành phần
quan trọng trong lễ nhạc Phật giáo và ngày nay chúng ta có bổn phận phục
hồi lại địa vị chính đáng của chúng trong lễ nhạc Phật giáo nước
ta.
Việc những thiếu sót và sai lầm
đã xảy ra trong quan niệm hay mô tả lễ nhạc Phật giáo, dĩ nhiên đến
chính từ sự bỏ rơi quên lãng của hàng ngũ Phật giáo, mà vào năm 519 Huệ
Hạo đã phải than vãn là, "người về sau chế tác dở dang, rồi có
lúc chỉ những chú sa di và những đứa con nít truyền thọ cho nhau, lâu
thành thói quen, đến nỗi không còn có một bài hay bản nhạc". Nó vì
vậy không có gì đáng ngạc nhiên hết.
Điều may mắn là, ngày nay chúng ta
đang còn có được một đôi chữ kiểu những chữ trên, nhờ đấy một
phần nào sinh hoạt âm nhạc Việt Nam cũng như Phật giáo Việt Nam được
biết, giúp ta không những viết lại lịch sử âm nhạc Viêt Nam và lễ nhạc
Phật giáo Việt Nam, mà còn mở đường cho thấy âm nhạc Phật giáo và lễ
nhạc Phật giáo Việt Nam ngày nay phải như thế nào, để đáp lại lịch
sử âm nhạc và lễ nhạc vĩ đại đó. Thí dụ, chúng ta phải đưa những
bài hát và trường ca vào những buổi lễ hiện nay, mà không sợ bị chỉ
trích là "tân hóa" hay "hiện đại hóa" hay "làm theo
tây phương" v.v.. hay thiếu "cung kính". Ngay cả việc tấu nhạc
hay đại hòa tấu tại những buổi lễ Phật giáo cũng có thể được
đưa vào, nếu ta đủ người, bởi vì "tấu ca bằng đồ kim đồ đá
thì gọi là nhạc... và phổ tán bằng đồ ống đồ dây thì gọi là bối".
Tấu nhạc và ca hát như thế là những yếu quan trọng của âm nhạc và lễ
nhạc Phật giáo, chứ không phải chỉ có tán, tụng, hay những thứ như niệm
hương, thỉnh thoảng v.v.. mà ông Khê đã có dịp vạch ra.
Một khi đã nói tới tấu ca và phổ
tán, thì dĩ nhiên phải có nhạc cu. Trên cơ sở những báo cáo của Huệ Hạo
thì để làm những chuyện đó, người ta phải có những nhạc cụ bằng
kim loại, bằng đá, bằng ống và bằng dây. Bốn thứ nhạc cụ đây, Hạo
biết chúng ở Trung Quốc. Ở nước ta, Sáu lá thư trên không cho ta một mẫu
tin nào hết. Nhưng một lần nữa, chúng ta may mắn có được những cái bệ
đá chùa Vạn Phúc với những nhạc thần và nhạc cụ của chúng.
Như đã nói, những bệ đá ấy mỗi
một năm được khắc với một hình hoa sen ở giữa nằm trong một trang
trí theo dáng lá bồ đề và hai bên gồm có 5 nhạc thần tấu nhạc mỗi
bên. Ông Trần Văn Khê là người đầu tiên phân tích cho thấy mười nhạc
thần ấy chơi chín thứ nhạc cụ khác nhau, đấy là phách, hồ cầm, sáo,
kìm, hoàng sênh, tỳ bà, ống tiêu, đàn nguyệt và trống cơm. Nhưng ông đã
không phân tích tiếp theo nhằm giải thích tại sao lại chỉ vỏn vẹn có
9 thứ nhạc cụ đó. Trong số 9 nhạc cụ này, không cái nào có thể coi như
làm bằng kim loại hay làm bằng đá, ngược lại chúng hoàn toàn hoặc thuộc
loại làm bằng dây như hồ cầm, kìm, tỳ bà v.v... hay thuộc loại làm bằng
ống như ống sáo, hoàng sênh v.v...
Tại sao lại xảy ra sự tình này?
Phải chăng vì người nước ta chỉ biết chín thứ nhạc cụ ấy mà thôi
vào thế kỷ thứ V? Cố nhiên là không phải, bởi vì họ đã biết tối
thiểu là một hai cụ khác, ngoài 9 nhạc cụ vừa kể, và thuộc về về
loại đồ kim đồ đá, đấy là trống đồng ghi lại trong Hậu Hán thư và
khánh đã ghi ở Ngô chí cũng như trong Giao Châu ký của Lưu Hân Kỳ, mà Sơ
học ký quyển 16 tờ 15b2 và Nguyên hòa quận huyện đồ chí quyển 38 tờ
15b10 đã cho dẫn.
Như vậy, trống đồng và khách đá
đã xuất hiện ở nước ta vào cuối thế kỷ thứ IV đầu thứ V, cứ vào
tình trạng tư liệu vừa dẫn. Thế thí, nêú chín thứ nhạc cụ ấy đã
được khác ra, đấy không phải vì người nước ta và Phật tử nước ta
chỉ biết có 9 thứ đó mà thôi.
Để giải thích sự hiện diện của
chúng, chúng ta phải trở về đoạn bình luật trước của Huệ Hạo. Theo
Hạo "tư nguyên uỷ các thiên thần tán bối thì đều lấy vận mà phổ
vào đồ ống đồ dây". Chín nhạc cụ của ta, như đã nói; đều thuộc
đồ ống và đồ dây. Do vậy, mười nhạc sĩ chơi chín nhạc cụ ấy là
những thiên thần, và những nhạc thần này đang tán bối. Tán bối từ đó
phải nói là đã thông dụng và phổ biến ở nước ta.
Điều này cũng không c1o gì lạ cho
lắm, bởi vì, nếu Tào Thực không phải là người khai sáng ra khoa phạn bối
Trung Quốc, thì chính những Phật tử nước ta và miền Nam Trung Quốc đã
khai sáng nó, và họ không ai khác hơn là Chí Khiêm (180-257?) và Khương
Tăng Hội (190?-280).
Về Khiêm, cả Cao Tăng truyện quyển
I tờ 325b3 và Xuất tam tạng ký tập quyển 13 tờ 97c12-13 cho biết Khiêm
"hựu Vô lượng thọ trung bản khỉ, chế tán Bồ-tát liên cú phạn bối
tam khế - lại dựa vào câu chuyện bản khởi trong kinh Vô lượng thọ làm
ra ba lời tán phạn bối Bồ tát liên cú". Còn Hội thì Cao Tăng truyện
quyển I tờ 326a22-23 bảo "hựu truyền Nê hoan bối thanh chư mỵ ai lượng,
nhất đại mô thức - lại truyền Nê hoàn bối, thanh vận lưu loát buồn
bã trầm hùng, làm mô thức cho một thời đại". Hội như đã nói, là
một người xuất gia, tu học và thọ giới tại nước ta. Nên hoàn bối do
ông truyền cho Trung Quốc như thế rất có thể là một xuất phẩm văn hóa
của tập thể Phật giáo Việt Nam.
Lịch sử lễ nhạc Phật giáo Việt
Nam vì thế có thể nói là đã bắt đầu vào thế kỷ thứ II, nếu không
là bắt đầu với Nê hoàn bối và Khương Tăng Hội. Một khi đã nói bối,
người ta phải có chín nhạc cụ trên để tán nó hay phổ nó. Chín nhạc
cụ ấy do đó rất có thể xuất hiện trước thế kỷ thứ III. Chúng
giúp tạo nên nền lễ nhạc Phật giáo Việt Nam, và phân biệt nó ra khỏi
những thứ âm nhạc khác.
Trong liên hệ này, cũng cần thêm rằng
một lý do khác cho những nhạc cụ bằng đồ đá và đồ kim không xuất
hiện trong chín thứ âm nhạc cụ ấy rất có thể là sự phân biệt của
Hạo về nhạc và bối. Bối là một thứ lễ nhạc do phổ tán bằng đồ
ống dây mà thành, còn nhạc thì do "tấu ca bằng đồ kim đồ đá"
mà nên. Vì chỉ do tấu ca bằng đồ kim đồ đá" mà nên. Vì chỉ do tấu
ca bằng đồ kim đồ đá mà nên, nên nhạc có thể là bất kỳ một thứ
nhạc nào, từ nhạc sầu nhạc oán cho đến nhạc vui nhạc cợt hay nhạc
để cúng dường đức Phật. Theo mô tả nay, nhạc có thể nói là âm nhạc
tổng quát, còn bối là lễ nhạc tổng quát. Có lẽ vì phân biệt ấy, mà
những nhạc cụ thuộc loại đồ kim đồ đá không xuất hiện trong chín
thứ nhạc cụ cuả ta.
Bằng những bàn cãi sơ sài trên,
điều trở thành rõ ràng là, một phối hợp những mẫu tin về âm nhạc của
những lá thư với hình ảnh những nhạc cụ của nền nghệ thuật Tiên Sơn
đã đem lại cho ta những kết luận khá lôi cuốn về lịch sử âm nhạc
Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.
Đầu hết, dĩ nhiên là những kết
luận về lịch sử âm nhạc Việt Nam một cách tổng quát. Theo ông Trần văn
Khê, thì lịch sử âm nhạc nước ta có thể chia làm 4 giai đoạn, đấy là:
giai đoạn từ khi nguyên đến thế kỷ thứ IX, giai đoạn từ thế kỷ thứ
X đến thế kỷ thứ XV, giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ thứ
XVIII, giai đoạn từ thế kỷ thứ XIX cho đến bây giờ.
Về giai đoạn đầu, hay đúng hơn
về giai đoạn từ năm 111 tdl, cho đến năm 939, ông viết trong bản nghiên
cứu đầy khởi sắc và rất lôi cuốn của ông là "không một mẫu
tin về âm nhạc" đã tìm thấy_1. Bây giờ cứ những trình bày trên của
chúng tôi, chúng ta không thể lập lại kết luận ấy cuả ông Khê, bởi
vì người ta có khá nhiêeu "mẫu tin về âm nhạc" không những
trên những bệ đá chùa Vạn Phúc, mà còn trong những lá thư của Đạo
Cao và ghi chú của những người khác. Chúng ta biết sự có mặt của ca
hát, ngâm vịnh, đọc tụng và tấu nhạc cũng như của những nhạc cụ đồ
ống, đồ dây, đồ kim và đồ đá vào thế kỷ thứ V tại nước ta.
Sự có mặt phong phú và đa diện này
của âm nhạc Việt Nam thời đó không có gì đáng ngạc nhiên cho lắm, để
có thể nghi ngờ. Viết giữa những năm 380-420, Giao Châu ký của Lưu Hân Kỳ,
dẫn theo bản do Tăng Đào tái kiến năm 1820 quyển I tờ 2a9-10 đã phải nhận
xét về tình trạng âm nhạc nước ta thế này: "Phong tục Giao Châu
thích đánh trống gảy đàn, những đứa mục đồng cỡi trâu ở đồng lạch
cũng hát rêu rao những bài ca xa xa, trẻ con nhóm lại ở dưới trăng, vỗ
tay tạo nhiẹp thụ ư dã trạch thừa ngưu, xướng liêu liêu chi ca, đồng
lệ ư nguyệt hạ, phủ chướng phát liệt dao dĩ lịnh mỹ ca.
Với những nhận xét đoạn phiến
này, rõ ràng là, không chỉ Phật giáo, mà còn cả nhân gian Việt Nam đã
ưa đánh trống gãy đàn, xướng ca hát bội. Chúng như thế chứng thực một
cách không chối cãi và độc lập những phân tích trên cuả chúng tôi về
tình trạng âm nhạc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ V_1.
Sự ưa thích âm nhạc Phật giáo cũng
như không Phật giáo ấy giải thích cho ta không ít, tại sao từ sau năm 939
trở đi nhân dân ta từ vua cho đến dẫn ai ai cũng ưa nhạc đã thường là
một vấn đề khá khó khăn cho những nhà cầm quyền về phương diện luật
pháp cũng như chính trị. Nó cũng giải thích không ít, tại sao người nước
ta lại hay thiên trọng về thơ và vận văn.
Cố nhiên, để thuyên giải một
cách đầy đủ và thấu triệt những vấn đề này cũng như lịch sử âm
nhạc Việt Nam giai đoạn 111 tdl-939 người ta phải nghiên cứu hết mọi tư
liệu thành văn và không thành văn hiện còn, một việc chúng tôi không thể
làm ở đây. Tất cả những trình bày cho tới lúc này nhằm cho thấy, người
ta không thể kết luận một cách sai lầm là, giai đoạn năm 111 tdl - 939 không
có những mẫu tin về âm nhạc của nó, như ông Khê đã làm đồng thời nêu
lên một số những dữ kiện cho việc nghiên cứu lịch sử âm nhạc nước
ta ở giai đoạn đó.
Tiếp theo là những kết luận liên
quan tới lễ nhạc Phật giáo Việt Nam và âm nhạc Phật giáo Việt Nam. Và
chúng có thể được nhìn từ hai khía cạnh khác nhau, đấy là khía cạnh
lịch sử và khía cạnh thực tiễn.
Về khía cạnh lịch sử, chúng ta
biết lễ nhạc Phật giáo Việt Nam bắt đầu với Nê hoàn bối "do Khương
Tăng Hội truyền" vào bắt đầu thế kỷ thứ III, nếu không là sớm
hơn vào thế kỷ thứ II. Nó phát triển để trở thành tròn đầy vào thế
kỷ thứ V với sự ra đời cuả việc phân biệst ca vịnh ra khỏi tán tụng
cũng như ca ra khỏi vịnh và tan ra khỏi tụng, dựa trên thanh vận cũng
như nhạc cụ. Vào thế kỷ ấy, tối thiểu chín thứ nhạc cụ đã được
coi như cần thiết cho việc hiện thực thứ lễ nhạc Phật giáo biết như
là tán bối hay phạn bối. Những chuông và khánh chắc cũng phải có mặt
lúc đó. Còn về nhạc bản, thì ngoài Nê hoàn bối, chúng ta chắc có nhiều
bối khác. Nhưng như ngay cả thời Huệ Hạo, cái tình trạng, "người
về sau chế tác đã dở dang, rồi có lúc chỉ những chú tiểu hay những
đứa con nít truyền thọ cho nhau, lâu thành thói quen, đến nỗi không còn
lại được một bài", đã xảy ra. Cho nên, ngày nay chúng ta không biết
một tí gì hết về nhạc bản của thế kỷ V và trước đó trong tình trạng
tư liệu hiện tại. Dẫu sao đi nữa, lễ nhạc Phật giáo Việt nam tối
thiểu đã có một lịch sử, và đây phải kể là một may mắn
Về khía cạnh thực tiễn, việc
nghiên cứu những thành tố của lễ nhạc Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ
năm trên mở ra cho ta những con đường mới dẫn tới công tác xác định
tình trạng lễ nhạc Phật giáo nước ta hiện nay cùng những nhu cầu cần
thay đổi của nó.
Chúng tôi đã vạch ra là, cứ theo
ông Trần Văn Khê thì lễ nhạc Phật giáo Việt Nam ngày nay chỉ gồm có
tán và tụng. Ông không kể đến những loại âm nhạc khác điển hình
trong bài Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du hay bài trường ca Hào
quang máu lửa của Nguyên Thông. Có lẽ ông nghĩ, loại âm nhạc của văn tế
là một nhập cảng thế tục đông phương, còn thứ của trường ca là một
nhập cảng của tây phương hiện đại; chúng vì thế không đáng được
coi là thuộc loại âm nhạc Phật giáo, chứ khoan nói chi tới lễ nhạc Phật
giáo Việt Nam.
Bấy giờ, nếu từ thế kỷ thứ V
Đạo Cao đã phân biệt cho ta tối thiểu bốn thành tố khác nhau của nền
lễ nhạc Phật giáo Việt Nam, đấy là ca hát, ngâm vịnh, đọc tụng và
tán bối, thì ta không có lý do gì, mà không gồm những thứ văn tế, trường
ca v.v... vào loại lễ nhạc Phật Giáo Việt Nam nay.
Kết luận này là thực tiễn,
không những vì nó dựa trên tình trạng âm nhạc thực tiễn của Phật
giáo nước ta, mà còn vì muốn thay đổi cái khung cảnh thực tiễn ấy nhằm
chính thức đưa những bài trường ca đầy ý nghĩa và nhạc điệu trầm hùng
kiểu bài Hào quang máu lửa vào trong những buổi lễ cầu nguyện trước
đấng từ phụ của Phật tử chúng ta ngày nay.
Lễ nhạc Phật giáo Việt Nam có một
dòng sinh mệnh đặc thù của nó, và việc đưa vào những bài ca như thế
không gì hơn là một phát triển cuả giòng sinh mệnh đó, mà từ thới Đạo
Cao trở đi đã được xác định một cách khá rõ ràng, như đã thấy. Và
không cần phải ói, cao điểm cuả nền lễ nhạc cũng như âm nhạc Phật
Giáo Việt Nam hiện nay có bổn phận viết ra những bản hòa tấu dùng cho
những buổi lễ Phật giáo, như tổ tiên ta đúng hơn một ngàn năm trăm
năm trước đây đã làm, mà không sợ bị phê bình là "làm theo tây phương".
Cuối cùng là những kết luận về
âm nhạc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam một cách tổng quát. Âm nhạc Việt
Nam vào cuối cùng thế kỷ thứ IV đầu thế kỷ thứ V, như những mô tả
đoạn phiến của Lưu Hân Kỳ giữa những năm 380-420 trong Giao Châu ký cho
thấy, là một thứ âm nhạc khá phát triển.
Trước hết, người nước ta
"đánh trống gãy đàn". Nói vậy dĩ nhiên ta không thể biết trống
gồm những thứ trống gì và đàn gồm những đàn gì. Tuy thế, cứ vào những
phân tích của chúng tôi ở trên về âm nhạc Phật giáo Việt Nam, đặc biệt
là về những nhạc cụ của nền nghệ thuật Tiên Sơn ta có thể khẳng định
là, về trống nó phải gồm những thứ trống cơm, trống đồng và trống
da, còn về đàn nó phải gồm tối thiểu hồ cầm, kìm, tỳ bà và đàn
nguyệt. Ngoài ra, muốn đầy đủ, người ta phải kể đến chuông, mõ và
khánh.
Tiếp đến, chuyện mục đồng hát
những "bài ca xa xa" và những đứa con nít vỗ tay dưới trăng
"phát ra bài dao đẹp để khiến cho bài ca hay". Về chuyện mục đồng
hát những "bài ca xa xa", trên phương diện cắt nghĩa không đưa ra
một khó khăn đáng chú ý nào. Chỉ đáng tiếc là, Thái binh ngự lãm trong
khi cho dẫn "bài ca xa xa" nào đã tóm tắt nó thành "ca khúc
nói về sức trâu mạnh yếu tuỳ theo đồ cầy nặng nhẹ", mà không
chép nguyên văn nó ra. Dẫu sao đi nữa, đây là bài ca dao đầu tiên được
biết về niên đại và về nội dung. Nó là bài ca của những người nông
dân lao động.
Nhưng về chuyện những đứa con nít
v.v... chúng ta gặp một vài tối tăm cần nói. Nguyên văn chữ Hán trong
Thái Bình ngự lãm quyển 572 tờ 5b3-6a1 đọc: "Đồng lệ ư nguyệt hạ
phủ chưởng phát lệ dao dĩ lịnh mỹ ca", mà ta có thể dịch thành
"những đứa trẻ con dưới trăng vỗ tay phát ra bài dao đẹp để khiến
bài ca hay". Dịch như thế, người ta có thể cắt nghĩa nó theo nhiều
cách, đặc biệt là đối với chữ "dao". Dao là một bài hát
không có chương khúc, còn ca là một bài hát có chương khúc. Với định
nghĩa, thì làm sao "phát lệ dao dĩ lịnh mỹ ca" hiểu như "phát
ra hay hát ra những bài dao đẹp để khiến cho bài ca hay" lại có thể
được. Dao và ca là hai thứ khác nhau. Vậy, cách cắt nghĩa kết nối hai vế
"phát lệ dao" và "dĩ lịnh mỹ ca" với nhau tỏ ra không
xuôi cho lắm, dù nó vẫn có thể. Cách thứ nhì là cắt chúng thành hai vế
độc lập kết nối trực tiếp với vế "vỗ tay". Câu dẫn trên
có thể hiểu thành: "Nô lệ trẻ con dưới trăng vỗ tay làm phát ra vẻ
đẹp của bài dao hay để làm hay bài ca của chúng".
Nếu chấp nhận cách hiểu này,
chúng ta có thể thấy là, vào khoảng những năm 380-420 về phía âm nhạc
bình dân, ca và do ít nhất là hai thứ được họ ưa thích nhất. Phải chăng
về tính chất bình dân và ưa chuộng này mà ca hát đã trở thành một phần
của lễ lạc cũng như âm nhạc Phật Giáo Việt Nam thế kỷ thứ năm và
là một đóng góp đặc biệt của quần chúng Phật tử bình dân Việt Nam?
Hay sự ưa thích và phổ biến những thứ âm nhạc loại âý là một thành
quả của nổ lực truyền bá và đại chúng hóa của Phật giáo tại nước
ta vào thế kỷ ấy? Những câu hỏi này, ngày nay chúng ta không thể trả lời
đặng một cách chính xác đáng muốn, bởi vì về một phía chúng ta không
có tư liệu, và về phía khác những bài ca và nhũng bài dao bảo tồn cho tới
bây giờ đã không thể định tự thời gian xuất hiện một cách chắc chắn.
Chắc hẳn một diễn trình hổ tương
nào đấy đã xảy ra giữa âm nhạc Phật giáo và âm nhạc dân tộc ta cho
sự ra đời của thứ ca hát Phật giáo trong lễ nhạc Phật giáo Việt Nam,
và đang chờ đợi người nghiên cứu nó. Quan hệ giữa dân ca và dân nhạc
và giáo ca và giáo nhạc đáng được chú ý một cách thắm thiết hơn.
Sau cùng, cứ vào những phân tích
dân ca và giáo ca vừa thấy, thì việc Đạo Cao liệt ra thứ tự "ca tán
tụng vịnh? không phải là không có ý nghĩa của riêng nó. Nếu Phật giáo
là nhằm cho hết mọi ngưòi và nếu ngay cả những em mục đồng chăn trâu
cũng rêu rao "hát những bài xa xa", thì ca hát phải là một phương
tiện truyền giáo đầu tiên nhằm diễn đạt nó. Âm nhạc Phật giáo Việt
Nam mở ra một phần nào cách thế truyền bá Phật giáo cuả những thế kỷ
trước.
Mặc dù đã cố gắng sơ lược hết
sức trong việc trình bày giá trị của những lá thư đối với việc nghiên
cứu lịch sử âm nhạc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam bằng cách bỏ qua
một số lớn vấn đề và chi tiết, chúng tôi cũng vẫn không thể rút gọn
một cách đáng muốn. Có lẽ lịch sử âm nhạc nước ta trước sau 939 là
quá phức tạp để có thể viết gọn trong một hai dòng, như nhiều người
nghiên cứu trước đây, nhất là những kẻ mệnh danh học giả tay sai xâm
lược, đã từng làm. Chúng tôi hy vọng những bàn cãi và nhận xét trên sẽ
làm mối giục cho những người nghiên cứu khác yêu thương tổ quốc và lịch
sử dân tộc ta vĩ đại cùng gia tâm khảo cứu, khi họ có khả năng chuyên
nghiệp và điều kiện thuận lợi hơn chúng tôi.
Ngay lúc bấy giờ, chúng cho thấy
ít nhất là, lịch sử âm nhạc nước ta, thế nhạc cũng như giáo nhạc,
trước năm 939 không phải là không có những tư liệu của nó cho chúng ta
nghiên cứu. Những khẳng định kiểu "aucun renseignement sur la
musique" - không một mẫu tin về âm nhạc - của ông Trần Văn Khê dưới
ánh sáng những nghiên cứu trên không còn có thể đứng vững.
Cố nhiên, nhiều vấn đề hiện
đang vây phủ nó, như đã nói, và chỉ một tra khảo mới trong tương lai
hoàn toàn dành cho nó mới có thể soi sáng được, đặc biệt là vấn đề
liên quan giữa dân ca và dân nhạc nước ta với ca vịnh của Trung Quốc và
tán tụng của Ấn Độ. Vấn đề ấy là đặc biệt và quan trọng một
cách đặc biệt, bởi vì nó sẽ giúp ta nhận ra âm nhạc của dân tộc ta
gồm những thứ gì trước khi chịu ảnh hưởng cuả âm nhạc Trung Hoa và
Ấn Độ.
Ở trên, chúng tôi nhấn mạnh đến
cái thứ tự "ca tán tụng vịnh" do Đạo Cao liệt ra, ấy là nhằm
cho thấy âm nhạc Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc chắc đã bị Việt Nam
hóa, trước lúc trở thành lễ nhạc và âm nhạc Phật giáo Việt Nam, bởi
vì ca hát đã được đặt vào địa vị đầu tiên trên cả tán và tụng
của Ấn Độ và vịnh của Trung Quốc. Chúng tôi hy vọng, những nghiên cứu
tiếp theo cùng với những nhà nhạc học chuyên nghiệp sẽ giúp giải quyết
một phần nào những thứ vấn đề liên hệ vừa kể. Qua tất cả những
bàn cãi, kết luận và gợi ký ấy, bốn chữ "ca tán tụng vịnh"
của Đạo Cao trong lá thư của ngài quả thật là bốn chữ đặc sắc và
quí giá đối với lịch sử âm nhạc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.
3. Về văn học [^]
Về khía cạnh văn học, sáu lá thư
trên là những tác phẩm xưa nhất của lịch sử văn học nước ta được
phát hiện cho tới ngày nay. Đây không phải là chỗ cho chúng tôi bàn cãi
xem, những tác phẩm Hán văn do người nước ta sáng tác có nên coi là thuộc
lịch sử văn học nước ta hay không. Chỉ cần nói ngay lúc này, nếu người
ta dựa trên tính có thể hiểu được của những tác phẩm ấy, nghĩa là,
tính thông đạt ngôn ngữ học của chúng đối với người Việt Nam ngày
nay, để chối từ địa vị của chúng trong lịch sử văn học Việt Nam,
thì xin họ nhớ rằng, có nhiều nền văn học trên thế giới, ở đó người
đọc trong một ngôn ngữ đã không có thể hiểu được một tác phẩm viết
trong ngôn ngữ đó, nếu nó viết trước người đọc khoảng năm bảy
trăm năm.
Ngược lại, nếu người ta dựa vào
tính có thể hiểu được của những tác phẩm ấy đối với người Việt
Nam và sống vào lúc chúng ra đời, để loại chúng ra khỏi văn học Việt
Nam, thì một lần nữa phải đưa ra tư liệu chứng minh rằng, người nước
ta vào lúc bấy giờ không hiểu thứ ngôn ngữ xuất hiện trong những tác
phẩm ấy, đặc biệt là khi ngôn ngữ ấy có nhiều liên lạc với ngôn ngữ
của ta bấy giờ. Thêm vào đó, những người tham dự vào cuộc trao đổi
thư từ giữa họ đã có thể hiểu nhau một cách khá dễ dàng.
Lý luận như thế này, chúng tôi
không phải là không ý thức sự khác nhau giữa ngôn ngữ ta và ngôn ngữ
Trung Quốc. Nhưng với những phức tạp cuả vấn đề nguồn gốc ngữ tộc
của ngôn ngữ ta ngày nay, người ta không thể đơn thuần khẳng định một
cách vô bằng về nguồn gốc của sự khác nhau vừa nói, nhất là khi nhiều
ngôn ngữ trên thế giới đã chứng tỏ có một khả năng biến tính hầu
như ma quỉ, tạo nên những tình trạng như tình trạng Chaucer xơ đối với
người Anh ngày nay.
Ai có thể bảo là, ngôn ngữ nước
ta và dân tộc ta không biến thiên trong hơn một ngàn rưỡi năm từ thời
Đạo Cao cho tới bây giờ? Do thế, chúng tôi nghĩ nhũng tác phẩn hán văn
viết cách xa ta như của Đạo Cao đáng lý phải coi như thuộc lịch sử
văn học Việt Nam. Bằng xác định niên đại 454-455 trên của chúng tôi,
những lá thư ấy như vậy có thể nói là những tác phẩm xưa nhất hiện
còn của lịch sử văn học nước ta.
Nếu lịch sử Việt Nam có thể
chia ra làm ba thời đại chính, đấy là thời đại độc lập nguyên thủy
từ khi nguyên cho đến năm 43, thời đại giải phóng dân tộc từ năm 43
cho đến năm 939 và thời đại hùng cứ đế vương từ năm 939 đến bây
giờ, thì lịch sử văn học nước ta ở giai đoạn thứ hai có thể vạch
ra một cách sơ lược như sau:
Năm - Tác phẩm văn học chính.
17 tdl. Việt ca được ghi.
50-150 sdl. Kết tập các kinh Lục độ
tập, Cựu tạp thí dụ và Tạp thí dụ.
180 Sỹ Nhiếp viết Chỉ nam phẩm vựng.
198 Mâu Tử viết Lý hoặc luận và
những bài thơ chữ Hán xưa nhất.
230-280 Khương Tăng Hội dịch Lục
độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh, viết chú giải An ban thủ ý kinh,
Pháp kính kinh v.v...
259. Đạo Thanh dịch kinh Pháp Hoa
tam muội với Chi Cương Lương Tiếp.
k.350? Chí Hàm viết Triệt tâm ký.
390-404 Đạo Cao viết Tá âm và Tá
âm tự
k. 400 Xuất hiện truyện An Dương
Vương và Triệu Đà phỏng theo bản anh hùng ca Mahàbharatà cuả Ấn Độ.
433-459 Sáu lá thư cuả Đạo Cao, Pháp
Minh và Lý Miễu.
450-464 Đạo Cao pháp sư tập.
487-527 Đạo Thiền tham gia soạn Giới
quả trang nghiêm, Thọ giới tinh hoằng giới thức, chú Ưu Bà tắc giới
v.v...
580-600 Những bài thơ của Tì Ni Đa
Lưu Chi và Pháp Hiền.
660 Đại Thừa Đăng_1 viết Câu xá
luận ký, Duy thức chỉ nguyên, Đại thừa bách pháp minh môn luận thuật
ký.
675 Bài thơ thương Đạo Hy Pháp sư
của Đại Thừa Đăng.
780-805 Những bài thơ của Định Không
và những bài văn của Khương Công Phụ_2 và bài minh chuông chùa Thanh Mai.
815 Bài thơ của Liêu Hữu Phương_1.
850 Bài thơ của Cảm Thành và chuyện
Tấm Cám lưu hành dân gian_2
860 Bài thơ của anh cử nhân vô
danh
900 Những bài thơ của La Quí.
4. Về lịch sử Phật giáo [^]
Về khía cạnh Phật giáo, những
lá thư trên đã đóng góp vào sự soi sáng nhiều phương diện khác nhau của
những vấn đề da biệt của lịch sử Phật giáo nước ta từ nghệ thuật
và âm nhạc đã chứng tỏ. Do thế, chúng tôi ở đây chỉ đề cập thuần
túy đến phương diện lịcy sử quan niệm như một thiết lập thứ tự thời
gian cuả những nhân vật và biến cố lịch sử cùng phương diện tín ngưỡng
định nghĩa như thái độ tin tưởng của tập thể quần chúng thời bấy
giờ.
Về phương diện lịch sử, một số
vấn đề chúng tôi đã dài dòng bàn cãi trên, do thế không có gì để nói
thêm ở lúc này và chỉ chú trọng đến vấn đề thiết lập một bảng
niên biểu sơ lược về những nhân vật và biến cố Phật giáo cho đến
khi Lý Bôn xưng đế năm 544.
Năm Biến cố nhân sự
TKIII Itdl Phật giáo thời Hùng Vương.
43 Bát Nàn phu nhân đi tu
400 Người nước ta trồng Uất kim
hương trước để cúng Phật.
137 Sĩ nhiếp sinh.
k.165 Mâu Tử sinh.
180-200 Lễ hành thành cuả Sĩ Nhiếp_1
k.189 Khâu Đà La đến Việt Nam.
k.198 Mâu Tử viết Lý hoặc luân.
Khương Tăng Hội sinh.
k. 215 Đạo Thanh sinh.
k. 229 Khương Tăng Hội viết An ban
thủ ý kinh tự, Lễ nhạc Phật giáo Việt Nam phát triển. Khương Tăng Hội
dịch Lục độ tập kinh.
255 Đạo Thanh và Cương Lương Tiếp
dịch kinh Pháp Hoa tam muội. Khâu Đà La mất.
k.265 Vu Pháp Lan mất.
k.290 Vu Đạo Thúy sinh. Ma Ha Kỳ vực
đến nước ta.
300 Đạo Thanh mất. Ma ha Kỳ Vực về
Ấn Độ.
k. 320 Vu Đạo Thúy mất tại Giao Chỉ.
k. 325 Vu Pháp Lan mất tại Tượng Lâm.
350. Chí Hàm viết Triệt tâm ký?
k. 350-390 Hiền pháp sư, Pháp Minh
và Đạo Cao sinh.
k. 390 Huệ Lâm sinh.
425 Đàm Hoằng đến chùa Tiên Sơn,
Nghệ thuật Tiên Sơn phát triển. Mười nhạc cụ xuất hiện.
439 Huệ Lâm viết Quân thiện luận.
k. 440 Huệ Thắng sinh tại vùng Từ
Liêm.
k. 445 Hiền pháp sư thọ giới cho
Vương Diệm.
k. 434-455 Hiền Pháp sư mất. Sáu
lá thư ra đời. Ca hát, ngâm vịnh, đọc tụng và tán bối được kể đến.
454 Huệ Lâm đến nước ta.
455 Đạo Cao mất, Đàm Hoằng tự
thiêu.
457 Đạo Thiền sinh.
k. 460 Pháp Minh mất.
465 Trí Bân bị đuổi ra nước ta.
479 Huệ Đào ảnh hưởng Lý Thúc
Hiến.
485 Huệ Thắng bị bắt về Trung Quốc.
487 Đạo Thiền đến giảng ở Nam
Kinh.
510 Huệ Thắng mất.
527 Đạo Thiền mất tại chùa Tiên
Châu Sơn.
Về phương diện tín ngưỡng, quần
chúng Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ IV cho đến cuối thế kỷ thứ V đã
tỏ ra hầu như phần lớn là Phật giáo. Chúng tôi đã có dịp vạch ra việc
"cận thôn thiết hội, cử tự giai hàm ngụ đối với tình trạng tín
ngưỡng Phật giáo của nhân dân ta vào đầu thế kỷ thứ năm. Chi tiết này
bây giờ có thể được kiểm thảo và làm vững thêm với hai dữ kiện
sau.
Thứ nhất là dữ kiện liên quan tới
chuyện thọ ngũ giới cuả Vương Diệm và gia đình Diệm vào khoảng năm
445-450 và chuyện Lý Thúc Hiến làm một thần ảnh cuả bồ tát Trường
Sinh bằng trầm hương mà thờ. Bằng dữ kiện này người nước ta vào thời
ấy không những là Phật tử trên danh nghĩa, mà còn có những tập thể Phật
tử thực hành chịu thọ ngũ giới và tin tưởng thần linh. Dữ kiện thứ
hai nằm trong một báo cáo của Lưu Hân Kỳ ở Giao Châu ký, mà Thái bình
hoàn vũ ký quyển 170 tờ 7b10-8a2 đã cho dẫn như sau: "Thạch cửu tử
mẫu giả tọa cao thất xích, tại kim châu tự trung; cửu tử tất phụ ứ
thạch thể; truyền vân phù hải nhi chí; sĩ thứ đảo kỳ cầu tử đa
nghiệm, ư kim bất tuyệt". - Mẹ đã chín con, ngồi cao 7 thước, nay
ở tại trong ngôi chùa cuả châu; chín đứa con bám vào hình viên đá, người
ta bảo rằng viên đá trôi từ biển mà đến; sĩ phu và thứ dân đến cầu
đảo; xin có con trai, phần lớn đều có nghiệm, tới nay không dứt".
Dữ kiện ấy phải kể là lôi cuốn,
bởi vì lần đầu tiên nó nói tới sự hiện diện của hai lớp người tín
Phật giáo khác nhau ở nước ta, đấy là sĩ phu và thứ dân, và họ đã kết
nối với nhau qua trung gian của niềm tin Phật giáo. Viết giữa những năm
380-420 nó như vậy cho thấy người nước ta và Phật tử nước ta không
phân biệt trình độ trí thức đã có những thái độ tín ngưỡng nào.
Kết nối những dữ kiện kê ra
trong lá thư thứ tư của Đạo Cao, ở đấy Phật tử nước ta "có kẻ
ngồi thiền trong rừng rú, có người tu đức bên cạnh thành, hoặc cung
kính chấp tay hoặc ca hát tán tụng ngâm vịnh", nó làm rõ thêm cái
khía cạnh tín ngưỡng thực tiễn, mà vẫn còn sống sót cho tới ngày nay.
Từ đấy, ta có thể nói là, vào đầu thế kỷ thứ IV đa số người nước
ta đã chấp nhận Phật giáo hiểu theo dưới khía cạnh thực tiễn nó, nếu
không là theo khía cạnh lý thuyết. Thứ niềm tin thực tiễn ấy giải
thích cho ta không ít, tại sao Đạo Cao đã dùng những loại bằng chứng kiểu
Phật Di Lặc hay Định Quang cho việc trả lời câu hỏi của Lý Miễu.
Trong liên hệ này, cần chú ý là,
một số tín ngưỡng Phật giáo khác đã tương đối phổ cập trong quần
chúng như tín ngưỡng Long Hoa và tín ngưỡng Tịnh độ. Bên cạnh đó, những
trường phái tiền cũng như luật đã hoạt động mạnh mẽ để sau này ta
có những người đại biểu như Huệ Thắng và Đạo Thiền. Ngoài ra, tình
trạng trí thức nói chung đã đạt đến một trình độ cao. Với những phân
tích điển cố và thư tịch ở trên, ta thâý những người viết Sáu lá
thư đã có một giáo dục tương đối toàn diện rộng rãi và chắc chắn
về cả Phật giáo lẫn Nho giáo và các kiến thức tổng quát khác. Kinh
sách Phật giáo và ngoài Phật giáo tại nước ta lúc bấy giờ tương đối
toàn diện rộng rãi và chắc chắn về cả Phật giáo lẫn Nho giáo và các
kiến thức tổng quát khác. Kinh sách Phật giáo và ngoài Phật giáo tại nước
ta lúc bấy giờ tương đối cũng khá nhiều. Ngoài những kinh điển tiêu
chuẩn, ta còn có các sách vở thi cả của tác giả đồng đại cũng như
thưở trước. Đối với Phật tử như Lý Miễu, họ đã có một giáo dục
Phật giáo khá vững chãi. Đối với các nhà tu hành như Đạo Cao và Pháp
Minh, họ đã có một trình độ văn hóa khá phổ quát. Họ đã biết chắc
đến thơ văn của Phan Nhạc, dẫn tới cả những sách vở của Nho gia, sử
dụng những phạm trù của Lão Trang.
Giá trị của những lá thư dưới
ánh sáng của những dữ kiện ngoại tại vừa kể càng tăng lên vì sự
trung thực và đúng đắn của chúng trong việc phản ảnh tình trạng tổng
quát của niềm tin Phật giáo Việt Nam vào thế kỷ thứ V và trước đó.
5. Về lịch sử chính trị [^]
Về khía cạnh chính trị, người
đọc chắc có thể thấy, những lá thư trên đã đưa ra những mập mờ và
khó khăn nào. Ngay cả cái tên Lý Miễu, chúng ta cũng không thể tìm ra một
người nào bằng tên ấy trong lịch sử nước ta. Tuy thế, ta không lý do
gì, để nghi ngờ về sự có mặt của một "Lý Giao Châu Miễu"
và những pháp sư, mà Lý Giao Châu này đã viết thư, trong khi chờ đợi gặp.
Tăng Hựu cả trong Xuất tam tạng ký
tập lẫn Hoằng minh tập xác định một cách rõ ràng Lý Miễu là đến từ
Giao Châu với cách xưng hô quen thuộc Lý Giao Châu, như ông đã làm ở trường
hợp Hà Thừa Thiên và Nhan Diên Chi với Hà Hoạnh Dương và Nham Vĩnh Gia. Và
những người nghiên cứu sau như Nghiêm Khả Quân trong Toàn Tống văn quyển
57 tờ 6b1-8b5 và 63 tờ 11b3-142b cũng đồng ý coi Miễu là "Giao Châu thứ
sử" và hai pháp sư Cao và Minh là "Giao Châu pháp sư".
Vậy thì, cứ những phân tích trên
của chúng tôi, người ta có thể rút ra những kết luận nào về tình trạng
chính trị nước ta vào thế kỷ thứ V theo tác giả những lá thư? Trước
hết, những chữ "cư đại bảo chi địa" điểm chỉ một cách tương
đối đáng tin là, vào thế kỷ thứ V mặc dù người Trung Quốc không ghi
lại một cuộc khởi nghĩa hiệu vương xưng đế nào, một số người nước
ta đứng đầu chính quyền nước ta được nhân dân ta coi như thiên tử của
họ, ngay cả khi có sự hiện diện của những tên mệnh danh thứ sử có
danh không thực và ngay cả khi họ chỉ được chính quyền Trung Quốc thừa
nhận như những thái thú hay tư mã hoặc những chức tương tự không hơn
không kém.
Giả thiết này có thể đứng vững
được không? Cố nhiên, với sự thiếu thốn tư liệu hiện nay, một giả
thiết loại đó rất khó mà chối bỏ hay chấp nhận một cách dễ dàng
trên cơ sở những bằng chứng trực tiếp. Chúng ta do thế để có thể
rút ra một kết luận nào, phải dựa vào những chứng cớ trường hợp
ngoại tại đặc biệt là những chứng cớ thuộc về những thời kỳ sau,
khi lịch sử nước ta được ghi lại một cách tương đối minh bạch và
đầy đủ.
Điểm đầu liên quan với hai cái
nhìn khác nhau về người đứng đầu chính quyền nước ta, đây là việc
người Trung Quốc nhìn vị ấy như một thứ quan chức của Trung Quốc và
việc người nước ta nhìn như một thiên tử ngang hàng với thiên tử của
Trung Quốc. Cái cách nhìn nhị nguyên này, nếu đã xảy ra vào thế kỷ thứ
V, thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên hết, bởi vì năm thế kỷ sau
người Trung Quốc cũng vẫn tiếp tục có nó. Thí dụ điển hình cho khẳng
định này không gì hơn là việc vua Tống phong chức cho Lê Đại Hành. Năm
980 Lê Hoàn phế Đinh Vệ Vương và lên thay, xưng hiệu là Hoàng đế Minh càn
ứng vận thần vũ thăng bình chí nhân quảng hiếu. Nhưng đến năm 985 vua
Tống vẫn không cho một chức gì hơn là Tỉnh hải quân tiết độ sứ. Giả
như người nước ta không ghi lại những sự việc của Lê Hoàn và chúng
ta phải nghiên cứu qua tư liệu của người Trung Quốc, thì một đoán án
đương nhiên phải xảy ra, đấy là Hoàn không xưng đế xưng vương hay đặt
quốc hiệu lập xã tắc gì hết, ngược lại chỉ là một tiết độ sứ,
một quan chức của nhà Tống.
Điểm thứ nhì liên quan với cái
tên Lý Miễu. Như đã nói, cái tên này không thể tìm thấy trong các sử
sách Trung Quốc - chúng tôi không nói đến sử sách hậu kỳ của ta như Đại
Việt sử lược hay Đại Việt sử ký toàn thư, vì phần lớn chỉ chép lại
sử sách Trung Quốc những sự việc của giai đoạn chúng ta đề cập tới.
Sự tình này một lần nữa cũng không có gì làm chúng ta ngạc nhiên, bởi
vì nó không phải là một sự tình duy nhất vô tiền khoáng hậu. Chúng ta
có trường hợp những vua chúa nhà Trần chẳng hạn. Giả như chúng ta
không có Đại Việt sử ký toàn thư cùng những hậu duệ của nó và lại
tìm thấy một số những bức thư do người Trung Quốc bảo tồn của một
trao đổi giữa Trần Giao Châu Cảnh với Phù Vân pháp sư hay giữa Trần
Giao Châu Khâm với Tuệ Trung thượng sĩ và phải dựa vào những sử liệu
Trung Quốc cho việc nghiên cứu chúng, thì hẳn nhiên chúng ta đã phải nói
là, không thể tìm thấy một người nào tên Trần Cảnh hay Trần Khâm giữa
những sử liệu Trung Quốc ở giai đoạn liên hệ.
Chúng tôi đã có dịp vạch ra tính
không thể tin được một cách hoàn toàn của những sử liệu Trung Quốc,
mặc dù những tên nghiên cứu tay sai xâm lược trước đây như Maspero cùng
những tên học thuộc chúng như Sugimoto hay Yamamoto cứ lấy làm hãnh diện
trong việc tôn thờ những thứ sử liệu ấy. Vạch ra điểm này là nhằm
cho thấy, nếu ngày nay chúng ta không thể truy dạng được cái tên Lý Miễu
là thuộc về ai, thì ấy không phải vì một người như thế đã không hiện
hữu, ngược lại vì đã hiện hữu một cách độc lập nên sử liệu
Trung Quốc không nói tới, còn sách vở ta thì vì ký ức phai mờ, cũng im lặng
theo.
Hai điểm trên như vậy đã bổ
túc cho nhau một cách bất ngờ. Vì Miễu xưng thiên tử, nên tráo trở tên
mình. Vì sử gia Trung Quốc giận ghét kẻ xưng thiên tử, nên không chịu
tra vấn thêm. Tình trạng nước ta như một nước độc lập và lãnh tụ
ta như một lãnh tụ độc lập vào thế kỷ thứ năm này còn có thể làm
vững thêm, khi chúng ta phân tích chính cái nhìn của chính quyền Trung Quốc
về tình trạng ấy.
Thứ nhất, chúng ta có cái chiếu của
Tiêu Đạo Thành viết năm 479 phong chức thứ sử cho Lý Thúc Hiến, mà
chúng tôi đã cho dẫn ở trên, theo đó liên lạc giữa nước ta và Trung Quốc
trước thời nhà Tề không gì hơn là một liên lạc "thơ sóc". Thơ
sóc theo chú thích của Hồ Tam Tỉnh trong Tự trị thông giám quyển 135 tờ
4230 1 có nghĩa "Cổ giả Thiên tử thường dĩ quí đông ban lai tuế thập
nhị nguyệt thơ sóc vu chư hầu; chư hầu thọ nhi tạng chi tổ miếu chí
nguyệt sóc tắc dĩ đắc dương cáo miếu, thỉnh nhi hành chi". Liên lạc
thơ sóc như vậy không gì hơn là một liên lạc chư hầu.
Và liên lạc này chỉ có thể thiết
lập, khi chính quyền trung ương quá yếu và chính quyền địa phương quá
mạnh. Chính quyền trung ương có thể ra bất cứ lệnh gì và gởi ra bốn
phương bất cứ sử giả và thứ sử nào, nhưng quyền quyết định tối hậu
vẫn là chính quyền tự trị địa phương. Điều này giải thích tại sao
Lý Trường Nhân, Lý Thúc Hiến và Phục Đăng Chi đã hành động, như họ
hành động. Vì là chư hầu, nhiệm vụ của họ không gì hơn là gởi cho
chính quyền trung ương một số nguồn lợi và hàng năm một số những
trao đổi cần thiết cho việc chứng tỏ thần phục và chấp nhận. Nhiệm
vụ này có thể thấy một cách rõ ràng trong khía cạnh thứ hai của tình
trạng trên, đấy là khía cạnh kinh tế.
Ở trên, chúng tôi đã cho dẫn cái
tóm tắt lịch sử tài chính Trung Quốc từ thời Tấn Nguyên đế cho đến
thời Tùy của Tùy thơ. Theo đó thì trong khoảng thời gian từ năm 317 đến
602 cái chế độ, ở đó "kẻ hào hùng giữa hương khúc, triều đình
phần nhiều nhơn đấy mà giao chúng cho họ, nhằm thu lấy một phần lợi",
đã trở thành phổ biến. Và ngay cả việc "thu lấy một phần lợi
này" cũng không bao giờ được thực hiện một cách đáng muốn, bởi
vì "không một định lệnh lệ phép thường" đã đặt ra. Cho nên,
xứ nào muốn nạp gì thì nạp, dẫn đến sự ra đời của tiền tệ và
tình trạng lạm phát do nó đề cương, tạo nên những bất ổn chính trị
với sự thay ngôi đổi họ liên tiếp nhau từ năm 420 đến năm 618 ở
Trung Quốc và những vận động độc lập liên tiếp nhau từ năm 380 cho đến
năm 602 tại nước ta.
Chính dưới ánh sáng của trạng huống
kinh tế và chính trị này, ta mới có thể hiểu, tại sao Tề Vũ đế tố
cáo Lý Thúc Hiến không những không chịu nạp thổ sản, mà còn ăn gian và
ăn bớt của cống của những nước khác gởi cho triều đình qua trung gian
Giao Châu, và tại sao Lý Thúc Hiến, khi nghe tin Vũ đế cử Lưu Giai đem
binh từ những địa điểm Nam Khương, Lô Lăng và Thỉ Hưng tới đánh, liền
gởi sứ "xin nạp thay những đồ cống những năm qua, dâng hai mươi dãy
mũ đâu mâu bằng bạc ròng và lông chim sẻ". Khi sứ không thành và
Giai vẫn tiến quân, Hiến tự thân về chầu, nhưng cũng không thành. Năm
485 Giai trở thành thứ sử Giao Châu. Chúng ta phải đợi thêm ba năm nữa,
lúc Phòng Pháp Thừa tới thế Giai, chính quyền tự trị nước ta mới thành
công thực hiện nhiệm vụ của nó trong con người của Phục Đăng Chi.
Bằng những phân tích ấy, điều
trở thành rõ ràng là một chế độ chính trị nhị nguyên đã hiện diện
ở nước ta vào thế kỷ thứ năm, một bên gồm chính quyền người nước
ta, mà người lãnh tụ được dân ta gọi là "Cư đại bảo chi địa",
và bên kia gồm chính quyền của tên thứ sử cùng những "bắc lai bộ
khúc" của nó. Chế độ thứ sử trong khoảng thời gian ấy không gì hơn
là một chế độ hữu danh vô thực 1.
Tình trạng này để lộ ra rất rõ
trong trường hợp Lưu Giai Nam Tề thư 58 tờ 7a10-13 nói Giai được cử làm
thứ sử vào năm 483 nhưng đến năm 486 Tiêu Tử Lương còn viết sớ tâu
xin đừng đi đánh Giao Châu vì sợ "sự toàn thắng khó mà tất yếu",
như Nam Tề thư 40 tờ 3a13-b4 đã chép. Do thế, nếu Giai có tiến đánh
Thúc Hiến cũng không thể sớm hơn năm 486. Năm 485 Huệ Thắng bị ép mời
về Trung Quốc có lẽ do yêu sách của Lưu Giai.
Cuối cùng, cần nói sơ đến vai trò
Phật giáo trong những cuộc vận động độc lập thế kỷ thứ V. Như những
liên lạc giữa Lý Thúc Hiến và Huệ Đà cho thấy, Phật gia chắc hẳn đã
tham dự một cách tích cự vào những cuộc vận động giải phóng dân tộc
của nhân dân ta vào thế kỷ thứ V. Có lẽ vì sự tham dự ấy, mà những
người như Huệ Thắng đã bị bắt về Trung Quốc, vào khoảng năm 485 khi
Lưu Giai tiến quân đánh Hiến.
Và việc Đạo Thiền đến giảng
ở Nam Kinh vào năm 483, thì như ta sẽ thấy là do chính chính quyền Lý
Thúc Hiến gởi đi để vận động ngoại giao cho mình. Nên khi tiến quân
đe dọa chính quyền Lý Thúc Hiến vào năm 485 Giai đã thành công bắt được
Huệ Thắng về Trung Quốc. Hai năm sau Giai đã lấy được "Một viên
ngọc châu cao hai tấc đủ làm một tượng Phật ngồi" dâng cho vua Tề,
như Lịch đại tam bảo ký quyển 3 ĐTK 2034 tờ 44a3 của Phí Trường Phòng
ghi lại: "Vĩnh minh ngũ niên chính nguyệt, Giao Châu hiến nhất châu cao
nhị thốn, cụ tác Phật tọa hình tượng".
Điểm Huệ Thắng bị ép đây như
vậy giúp ta không ít trong việc hiểu biết, tại sao Thắng, lúc ở Trung Quốc
đã "thao minh che kín, thường tỏ như ngu", lại không ăn cơm chùa,
mà chỉ ăn đồ khất thực được.
Tình trạng người nước ta bị bắt
đưa về làm việc ở Trung Quốc, dù nhiều hay ít, cố nhiên không phải
là một tình trạng mới mẻ chỉ xảy ra với nhà Tề. Nếu Ngô chí có thể
tin được, thì gần hai trăm năm, trước khi Thiền ra đời, hơn một ngàn
công nhân nước ta đã bị bắt gởi về Kiến Nghiệp cho việc xây dựng
cung điện, tạo cơ hội cho cuộc vận động độc lập có qui mô và thành
công đầu tiên của nước ta sau Hai Bà Trưng do Lữ Hưng lãnh đạo.
Không những thế, vào thế kỷ thứ
V, nước ta cũng là nơi trú ẩn cho những phần tử Phật giáo người Trung
Quốc bị bạc đãi hay bất mãn, mà điển hình nhất cố nhiên là trường
hợp Huệ Lâm, ngoài tăng chính Trí Bân. Chúng tôi sẽ phân tích khá kỹ
càng về Lâm dưới đây, do thế không có gì để nhận xét thêm.
Chỉ cần nhấn mạnh là, với sự
đổ nát của một Trung Quốc thống nhất, tinh thần cát cứ trở nên mạnh,
nhất là dưới sự thúc đẩy của quan niệm xã hội Phật giáo, theo đấy
người nước ta không có một lý do gì mà phải trung thành và lệ thuộc
vào Trung Quốc, bởi vì mỗi người phải trách nhiệm trước hành động của
mình và trước tập thể, mà hành động mình ảnh hưởng. Do thế, vào cuối
thế kỷ thứ V, việc tập thể Phật giáo thừa nhận ở nước ta những
người ở vào "đại bảo chi địa" không có chi là lạ hết.
Nói tắt, cơ sở kinh tế, chính trị
và văn hóa tại Việt Nam trong khoảng thời gian ấy quả đã vững chăc cho
những cuộc vận động độc lập bắt đầu với Lý Tốn vào năm 370 cho
đến tối thiểu năm 602, khi Lý Sư Lợi thua hàng. Có thể nói, giai đoạn
ấy là một giai đoạn độc lập của nước ta. Năm chữ "cư đại bảo
chi địa" của Đạo Cao trong lá thư thứ tư do thế thật là quí giá
cho việc nghiên cứu lịch sử chính trị Việt Nam.
6. Về lịch sử tư tưởng
Về khía cạnh tư tưởng, những đóng
góp của sáu lá thư trên càng trở nên khởi sắc, vì chúng là những văn
kiện đầu tiên còn sót lại với những ghi chú đáng chú ý do người nước
ta viết về không những tình trạng suy nghĩ của Phật tử Việt Nam vào thế
kỷ thứ V, mà còn về tình trạng suy nghĩ của những người không Phật
giáo nước ta cùng lúc. Chúng từ đó sẽ giúp đánh tan hết mọi khẳng định
vô bằng về quá trình phát triển của những trào lưu tư tưởng và văn
hoá khác nhau tại Việt Nam kiểu "Nho học chưa đào tạo được một
nhân tài bác học nào" v.v... như người đọc sẽ có dịp thấy.
Về tình trạng suy nghĩ của những
Phật tử, họ đặt ra một số vấn đề, mà cho đến nay vẫn chưa được
giải quyết một cách thỏa đáng. Thứ nhất, đâu là cơ sở cho những thứ
niềm tin như Tây phương cực lạc hay ba hội Long hoa? Thứ hai, đâu là cơ
sở cho những giá trị lịch sử của những khẳng định trong các kin điển
Phật giáo? Thứ ba, Phật giáo có một địa vị tín ngưỡng và tư tưởng
khác? Ba vấn đề này, mặc dù đặt ra hơn một ngàn rưỡi năm trước đây,
vẫn đang có tất cả tính hiện đại của chúng cho những người suy nghĩ
ngày nay, bởi vì nếu hỏi tới, người ta phần lớn tất không thể làm
gì hơn là lập lại những câu trả lời tương tự kiểu của Đạo Cao và
Pháp Minh.
Về câu hỏi thứ nhất, Cao cho rằng,
sự chân thật của những thứ niềm tin như Tây phương cực lạc hay ba hội
Long hoa nằm ở chỗ, nó sẽ hiện thực như những tiên đoán về Phật
Thích Ca đã hiện thực trong cá nhân của Phật Thích Ca. Trả lời thế
này dĩ nhiên không thể hoàn toàn thành công; bởi vì giả như chúng đã hiện
thực với Phật Thích Ca, thì ta có bảo đảm gì là chúng sẽ hiện thực
ở những trường hợp khác. Để đánh tan nghi ngờ ấy, Đạo Cao lập ra
thuyết cảm ứng của Khương Tăng Hội và Pháp Minh quảng diễn nó vào một
trường hợp cụ thể để nói rằng sự không thấy hiện thực trong những
trường hợp khác vì người ta đã "phó thác cho đồng bóng, đầu thành
với phù chú, ôm lấy điều bậy để hy vọng chuyện phải, giữ chặt việc
giả để chờ đợi sự chân, chần chờ hai lòng, trù trừ đôi ngã".
Nói như vậy, Minh thật sự không khác gì mấy với một số người nước
ta hiện nay chủ trương cái thuyết "lãnh noãn tự tri", theo đấy
muốn hiểu Phật giáo thì phải sống như lời Phật dạy.
Nhưng khẳng định thế, người ta
phải biết lời Phật dạy gồm những gì. Và đấy chính là chủ đề câu
hỏi thứ hai: đâu là cơ sở cho giá trị lịch sử của những khẳng định
trong các kinh điển Phật giáo? Trả lời câu hỏi này, một ngàn rưỡi
năm trước đây Đạo Cao đã có một ý thức lịch sử và một quan niệm
lịch sử cao và đáng ca ngợi.
Nói ý thức và quan niệm lịch sử
của Cao là cao và đáng ca ngợi, bởi vì đứng trước câu hỏi về giá trị
lịch sử của những kinh sách Phật giáo, Cao nêu lên một câu hỏi tổng
quát hơn, đấy là, những dữ kiện của quá khứ có thể tin được tới
mức nào, một câu hỏi, mà hai trường pháii lịch sử quan đã không ngừng
bàn cãi, trường phái chủ lịch sử tương đối và trường phái chủ lịch
sử tuyệt đối. Cố nhiên, nêu lên câu hỏi tổng quát ấy, Cao muốn cho
thấy rằng người ta không cần phải tra hỏi về giá trị lịch sử Phật
giáo, nếu họ đồng thời không tra hỏi về giá trị lịch sử của những
thứ sách vở khác, như sử sách Trung Quốc hay Chu Khổng chẳng hạn.
Song, làm vậy tuy Cao tránh được câu
hỏi của Lý Miễu đã không đối diện với trực tiếp vấn đề. Lỗi lầm
này của Cao đương nhiên không đáng trách cho lắm. Vì không đối diện trực
tiếp và chỉ dùng những bằng cớ ngoại tại, người ta tất phải hỏi
Phật giáo và những thứ bằng cớ ngoại tại ấy có những liên lạc gì?
Lý Miễu vạch ra một cách linh động, khi ông hỏi: "Nếu như dẫn chuyện
tin bên này, nghiệm bên kia, như đấng chí thánh không ra đời, Khổng Thích
hai đường khác nhau, tức sự mà bàn không phải là không mâu thuẫn, thì
chúng có cái gì có thể chứng nghiệm cho nhau ư?
Quả thật, giá trị lịch sử của
những khẳng định trong các kinh điển Phật giáo có thể coi như có cùng
một cơ sở như những thứ khẳng định của những văn kiện lịch sử khác
hay không? Chẳng hạn, người ta phải xác định giá trị lịch sử của những
mô tả về cuộc "leo thang chín tầng trời" của đức Phật trước
lúc nhập diệt trong kinh Đại bát niết bàn thế nào? Cuối cùng, người
ta hình như bắt buộc trở lại thuyết "lãnh noãn tự tri" của
Pháp Minh. Những vấn đề liên quan đến Phật giáo do sáu lá thư nêu ra do
thế có tất cả tính hiện đại và tất cả sự khó khăn của chúng, mà
những người nghiên cứu Phật giáo có ý thức hiện nay đáng nên suy ngẫm.
Về những vấn đề ngoài Phật
giáo, chúng ta có một báo cáo tương đối khá tường tận, dù rất tổng
quát, trong lá thư thứ 3 của Lý Miễu. Theo Miễu vào thế kỷ thứ năm
"đại nghĩa đã bị khó khăn, Nho Mặc đang giành nhau nổi lên, thì há
lại để cho chính tín bị lu mờ làm cho sự hủy báng hiểu lầm càng tăng
hấn sao?".
Câu hỏi này của Miễu cho ta biết
hai điểm. Điểm thứ nhất, các học thuyết Nho và Mặc đang nổi lên ở
nước ta. Điểm thứ hai, chúng đang tấn công hủy báng Phật giáo. Hai điểm
này vạch ra một cách không chối cãi không những Phật giáo đã phát triển
trong những tình cảnh và nghịch cảnh nào, mà còn Nho giáo và Mặc giáo đã
có những vận mệnh gì trong những thế kỷ trước thế kỷ thứ mười.
Nho và Mặc không những đã trưởng thành cho việc "đào tạo được một
nhân tài bác học", ngược lại, đã thành công làm cho một số
"nhân tài" ấy phê bình và theo Miễu "hủy báng" Phật
giáo.
Vấn đề tại sao Nho giáo và Nho sỹ
đã không đóng một vai trò đáng chú ý nào trong những cuộc vận động
độc lập của nước ta cũng như trong thời kỳ dân tộc ta lập quốc, như
vậy có thể giải thích bằng việc Nho giáo thiếu nhân tài hay tương tự.
Ngoài khẳng định của Miễu và Đạo Cao, bằng chứng rõ rệt nhất dĩ
nhiên là sự thành công của anh em Khương Công Phụ ở tại sân vua Đường.
Lý do cho sự vắng mặt của Nho giáo do thế phải bắt nguồn từ một cơ
sở sâu xa hơn. Và nó theo chỗ chúng tôi nghĩ không gì hơn là sự liên hệ
giữa Nho giáo và Nho sĩ với người nước ta.
Chính dưới thời Sĩ Nhiếp với sự
phá sản của quyền hành nhà Hán và sự xuất hiện của những chính quyền
phân tranh, mà Nho giáo và nho sỹ đã du nhập vào nước ta một cách đáng
chú ý. Một số tác phẩm do nho sĩ viết vào thời này tại nước ta ngày
nay đang còn được bảo tồn, nhờ đấy ta có thể thấy một phần nào
quan niệm của họ về người nước ta và giúp so sánh nó với quan niệm
trong một số sách vở Phật giáo viết cùng thời cùng chỗ.
Về phía nho sĩ, tác phẩm đại biểu
nhất cố nhiên là bộ Thích danh do Lưu Hy viết khoảng những năm 196-2191.
Ở đoạn Thích châu quốc, nó giải thích chữ "việt" bằng những
chữ sau: "Di man chi quốc, độ Việt lễ nghĩa, vô sở câu giả".
Thế có nghĩa, trong thời kỳ tự trị dân chủ từ năm 43-939 quan niệm chính
thống trong những sách vở Nho giáo về nước Việt, mà người nước ta
sau này đã đồng nhất vào, không gì hơn là, nó là một "nước mọi
rợ, vượt khỏi lễ nghĩa không có câu thực"2.
Bây giờ, nếu đem so sánh với quan
niệm trong các sách vở Phật giáo như Mâu Tử lý hoặc luận chẳng hạn,
thì ta có một tình trạng trái ngược.
Lý hoặc luận không những dám cả
gan vào cuối thế kỷ thứ hai khẳng định Trung Quốc chưa chắc đã là
trung tâm của trời đất - Hán địa vị tất vi thiên trung - ngược lại còn
dùng ngay cả những "Ngô Việt chi tục" nhằm biện minh cho lối sống
của những tu sĩ Phật giáo. Nói cách khác, về một mặt nó vạch trần
tính địa phương của tôn giáo và học thuyết Trung Quốc, và về mặt
khác ca ngợi những tục lệ địa phương của người nước ta. Phật giáo
như vậy ngày từ đầu những thế kỷ có mặt của nó đã tự chọn đứng
vào hàng ngũ dân tộc và xuất hiện như một chất xúc tác cho dân tộc ta
trong việc thâu nhập văn hóa ngoại lai, đồng thời giữ lại bản chất của
mình. Thêm vào đó, nó dùng như một khí cụ nhằm khẳng định chính bản
chất ấy.
Nếu truyền thống thần phổ có thể
tin được về chuyện Bát Nàn phu nhân sau cuộc thất bại của Hai Bà Trưng,
đã đi tu vào năm 43, và như vậy là một cô ni Phật giáo đầu tiên của
nước ta, thì điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên hết, cứ theo
những phân tích vừa thấy.
Chính hai quan niệm khác nhau về người
nước ta này của Nho giáo và Phật giáo, mà Nho giáo đã bị người nước
ta nhìn đến với một cặp mắt đầy nghi ngờ và thiếu tin tưởng trong
thế kỷ đầu của thời lập quốc, mặc dầu họ không ngừng dùng chính
lý thuyết chính trị Nho giáo cho việc biện minh những hành động chính trị
thông thường của mình. Và ấy là chưa kể đến việc Nho sĩ thường có
nhiều cơ hội để hợp tác và đồng lõa vói bọn xâm lược cùng quan
liêu và chính quyền do Trung Quốc dựng nên hơn là những tu sĩ Phật giáo.
Có lẽ vì cả sự tình lý thuyết lẫn thực tiễn ấy, mà qua lịch sử Phật
giáo chùa chiền và hội hè Phật giáo cứ tiếp tục mọc lên như nấm và
diễn ra như hoa, không kể luật lệ cấm đoán gì hết.
Điều đáng chú ý hơn nữa là
thái độ của tập thể Phật giáo trước những phê bình và hủy báng của
các học phái Nho Mặc. Cứ vào giọng điệu của Lý Miễu thì một mặt Miễu
muốn dẹp bỏ nạn Nho Mặc đi một cách miên viễn. Mặt khác, Miễu lại
muốn dựa vào Nho Mặc để tìm hiểu Phật giáo, để làm cơ sở cho niềm
tin đó. Giọng điệu của Đạo Cao, ngược lại muốn kết chặt Nho Mặc với
Phật giáo, mặc dù ông cảnh cáo Miễu đừng có "hấp tấp trong sự
đồng qui". Tại sao lại có một úp mở ấm ớ thế này? Tại sao bảo
một đàng là, "đường không khác lối, họ chỉ thuật lại mà không
làm ra", rồi đàng kia thì nói đừng vội "đặt giáo pháp Phật xuống
ngang hàng với Chu Khổng". Câu hỏi này, chúng tôi chưa có dịp trả lời
trong đoạn bàn về Huệ Lâm ở trên, nên đáng bàn rộng ra ở đây.
Lý do cho sự úp mở đó, chúng ta
có lẽ không phải tìm đâu cho xa. Nó nằm ngay trong cuốn Quân thiện luận
của Huệ Lâm. Lâm nói chuyện Nho giáo và Phật giáo "thù đồ nhi đồng
qui". Nhưng trong khi xác nhận vậy, ông không quên vạch ra nhược điểm
của cả hai, đấy là về chuyện u minh thì "Chu Khổng nghi nhi bất biện",
còn "Thích Ca biện nhi bất thật". Có lẽ vì muốn cảnh cáo Miễu
và những Phật tử nước ta về những thứ ăn nói kiểu đó, nên Cao đã
phải bảo là đừng "hấp tấp trong sự đồng qui", nhất là thứ
đồng qui kiểu của Lâm, dẫu ông thừa nhận "đường không khác lối".
Đây có thể nói là một nỗ lực tiếp thu có ý thức có phê phán, đầu
tiên được ghi lại trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đặt vào những học
thuyết đương thời.
Bằng nỗ lực tiếp thu có ý thức
có phê phán này, mà khi người nước ta bắt đầu hùng cứ đế vương, tập
thể Phật giáo đã có thể đóng góp một cách tích cực vào việc giải
phóng và bảo vệ đất nước trước những tham vọng thôn tính của tập
đoàn thống trị phong kiến Trung Quốc. Cũng nhờ nỗ lực ấy, mà nó đã
thẩm thấu đời sống thường ngày của mọi người dân Việt Nam. Trong
liên hệ này, cần nói thêm là, sự tiếp thu đó không chỉ xảy ra ở một
lãnh vực. Ngược lại, cứ vào những lá thư trên, thì nó đã thể hiện
dưới nhiều bộ dáng khác nhau, mà một trong đó là âm nhạc, ở đây
không chỉ tán tụng ngâm vịnh là Phật giáo mà ngay cả ca hát cũng được
Phật giáo hóa và trở thành một bộ môn của lễ nhạc Phật giáo, như đã
vạch ra trên. Đạo Cao cũng như Pháp Minh nhấn mạnh thêm là, nếu sự tiếp
thu đã xảy ra, thì đây chính là khả năng tiếp thu vì những áp bức. Đối
với họ, Phật giáo là "mặt trời mặt trăng", còn những thứ
khác thì như những "bóng đèn leo lét" hay những "ngọn đuốc
leo lét". Đây phải kể là một thái độ đáng chú ý nhất là trong
giai đoạn, ở đấy "đại giáo đã bị khó khăn" và "sự hiểu
lầm và hủy báng tăng hấn". Nó có thể là một thái độ tự tín của
một tình trạng Phật giáo đang lên và của một dân tộc đang tỉnh giấc.
Nhưng đồng thời với nỗ lực đồng
hóa ấy, họ phê bình một cách gay gắt về chuyện "phó thác cho đồng
bóng, đầu thành với phù chú". Vào thời họ, hẳn nhiên Phật giáo
không thiếu những pha trộn của nó, mà sự thần dị của Huệ Dao là một
thí dụ. Điều đáng tiếc là, trong tình trạng nghiên cứu hiện tại
chúng ta đang thiếu tư liệu cho việc kiểm tra những phê bình ấy. Điểm
lôi cuốn nằm ở chỗ, ngay vào thế kỷ thứ V, những phê bình loại ấy
về đồng bóng và phù chú lại đã có thể đề lên. Đây có lẽ là một
xác định giới hạn và mức độ có thể đồng hóa củapg và phải đồng
hóa theo chiều hướng nào. Ngoài ra, cùng với những thí dụ lẻ tẻ như
trường hợp Huệ Đào và Lý Thúc Hiến hay cái báo cáo của Lưu Hân Kỳ,
nó cho thấy một phần nào sự phổ biến của đồng bóng và phù chú, một
tình trạng không có gì đáng ngạc nhiên, và cái kuynh hướng muốn chấp
nhận một cách dễ dàng chung của những Phật tử. Thái độ tư tưởng của
tập thể Phật giáo do thế phải nói là đáng kể.
Chính nhờ vào tình trạng tín ngưỡng
chung này, mà những nỗ lực cuối cùng của nền Phật giáo quyền năng của
Mâu Tử và Khương Tăng Hội đã thể hiện qua những con người như Đàm
Hoằng, Huệ Thắng và Đạo Thiền. Đàm Hoằng đã tự thiêu, để chứng
min cái quyền năng cảm ứng là một sự thực. Đạo Thiền vẫn tiếp tục
cố gắng đi theo con đường tu thiền do Khương Tăng Hội mở ra. Nhưng họ
là những ánh lửa cuối cùng leo lét trước cơn gió đang lên của thời đại
Phật giáo mới. Chúng tôi sẽ nghiên cứu họ ở những phần tiếp theo. Nhưng
trước khi nghiên cứu về họ, chúng ta phải biết Huệ Lâm và Quân thiện
luận, cỗi nguồn trực tiếp cho cuộc khủng hoảng Phật giáo báo hiệu sự
cáo chung của nền Phật giáo quyền năng.
| Mục lục | I | II | III | IV | IVb | V | VI | VII | VIII | VIIIb | IX | IXb | X | XI | XII |