Cuộc đời
và tên tuổi Mâu Tử
Trong phần mở đầu Lý hoặc luân, Mâu Tử có nói
ít nhiều về quá trình học tập và chuyển hướng theo Phật giáo của
mình, đồng thời trình bày lý do tại sao mình lại viết Lý hoặc
luận. Phần này các nhà nghiên cứu thường gọi là phần tự
truyện.
Phân tích phần này sẽ cho chúng ta những cột mốc
niên đại khá chính xác về cuộc đời của Mâu Tử, và từo đó
của Lý hoặc luận. Bắt đầu giới thiệu, Mâu Tử viết:
"Mâu Tử đã đọc kinh truyện Chư Tử, sách không
kể lớn nhỏ, không sách gì là không thích. Tuy không ưa binh pháp,
mà vẫn đọc nó. Tuy đọc sách thần tiên bất tử, ông dẹp đi
không tin, cho là dối trá.
Thời ấy, sau khi Linh đế băng hà, thiên hạ nhiễu
loạn, chỉ có Giao Châu tạm yên. Người lạ phương Bắc đều đến
để ở, phần lớn luyện phép tích cốc trường sinh cuả thần tiên.
Người bấy giờ phần nhiều là kẻ có học. Mâu Tử thường đem
năm kinh vặn hỏi. Đạo gia thuật sĩ không ai dám đáp, ví ông với
Mạnh Kha cự Dương Chu Mặc Địch.
Trước thời ấy, Mâu Tử đem mẹ tránh nạn ở Giao
Chỉ. Năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ. Thái thú nghe tiếng học
giỏi, đến thăm và mời làm quan. Bấy giờ tuổi mới lớn, chỉ ham
việc học, lại thấy đời loạn, không có ý làm quan, nên rốt cuộc
không đến. Lúc ấy, các châu quận nghi nhau, cách trở không thông,
thái thú cho ông học rộng biết nhiều, sai đi Kinh Châu dâng lễ. Mâu
Tử cho vinh trước dễ nhượng, nhưng sứ mệnh khó từ. Bèn chuẩn
bị lên đường, thì gặp lúc Châu mục ưu văn đãi sỹ, bổ làm
quan. Ông lại cáo bệnh, không đến.
Ngưòi em Châu mục làm thái thú Dự Chương bị trung
lang tướng Trước Dung giết. Bấy giờ Châu Mục sai kỵ đô úy Lưu
Ngan đem binh đến đó, nhưng sợ cõi ngoài nghi ngờ, quân không tiến
được. Châu mục mới mời Mâu Tử, nói: "Em tôi bị nghịch tặc
ám hại, nỗi đau cốt nhục uất phát tim gan, phải sai kỵ đô uý Lưu
đi, sợ cõi ngoài nghi nan, người đi không thông. Ngài văn võ gồm
đủ, có tài chuyên đối. Nay muốn dẹp bỏ, mượn đường Linh Lăng
Quế Dương để cho thông lộ, thì thế nào?". Mâu Tử nói:
"Chịu nghĩa, thụ ân đãi ngộ lâu ngày, liệt sĩ quên mình, hứa
chắc đi được" Bèn chuẩn bị ra đi, thì gặp mẹ mất bất ngờ,
nên không đi được.
Lâu rồi, rút lui nghĩ: "Mình vì giỏi biết mà
được giao sứ mạng. Đời nay nhiễu nhương, chẳng phải lúc làm rõ
mình". Rồi than: "Lão Tử dứt thánh bỏ trí, tu thân giữ
chân, vạn vậwt không ngăn chí ông, thiên hạ không đổi niềm vui
ở ông, thiên tử không được bề tôi, chư hầu không được
người bạn. Nên gọi là quí".
Do thế ông dốc chí vào đạo Phật gồm ngâm Lão Tử
năm ngàn chữ, ngậm huyền diệu làm rượu ngon, chơi năm kinh làm
đàn sáo. Bọn thế tục phần nhiều cho là không phải, bảo là bỏ
năm kinh mà theo đạo khác. Muốn không phải đạo, mà muốn im thì
không thể, nên đã lấy bút mực, gọn dẫn lời thánh hiền để
chứng giải, đề tên Mâu Tử Lý hoặc luận"
Qua những lời tự sự vừa dịch ta thấy trong số các
nhân vật liên hệ với cuộc đời cuả ông, Mâu Tử nêu rõ tên
hai người; đó là trung lang tướng Trức Dung_1, và kỵ đô úy Lưu
Ngạn. Về trung lang Trức Dung, đây là một nhân vật lịch sử có
tiếng tăm thời Hán mạt. Tiểu sử của Trức Dung hiện được ghi
kèm trong truyện Đào Khiêm của Ngô chí 4 tờ 2a10-b8. Hai bản tiểu
sử này chủ yếu thống nhất với nhau, nhưng so ra bản của Ngô Chí
đầy đủ chi tiết hơn, nên chúng tôi cho dịch lại ở đây để tìm
hiểu về Trức Dung.
"Trức Dung người Đan Dương, ban đầu họp chúng
được mấy trăm người, đến dựa vào Châu Mục Từ Châu Đào
Khiêm. Khiêm sai coi vận tào Quảng lăng Bành Thành, bèn phóng túng
tự do giết hại, ngồi quyết đoán việc bỏ hay thu thuế ba quận, để
tự đem vào cho mình. Rồi dựng lớn chùa Phật, lấy đông đúc làm
người, vàng ròng thếp mình, mặc dùng gấm màu, treo mâm đồng chín
từng, dưới làm lầu đôi có bao lơon, có thể chứa tới hơn ba
nghìn nguời. Tất cả từng buổi đọc kinh Phật, khiến người trong
quận mình và các quận bên có ai thích Phật giáo, cho phép đến theo
đạo, tha hết các phu dịch khác để lôi kéo họ. Nhờ vậy, xa gần,
trước sau, người đến hơn năm nghìn hộ người. Mỗi lễ tắm Phật,
thì phần nhiều dọn cơm rượu, trải chiếu giữa đường, dài mấy
chục dặm. Người dân đến xem và tới ăn cả vạn người, phí tổn
kể cả ức. Tào công đánh Đào Khiêm, đất từ dạo động. Dung
đem trai gái một vạn khẩu, ngựa ba nghìn con, chạy đến Quảng Lăng.
Thái thú Quảng Lăng là Triệu Dục lấy khách lễ đối đãi. Trước
đó, tướng Bành Thành là Tiết Lễ bị Đào Khiêm ép qua đóng Mạt
Lăng. Dung lợi dụng dân chúng Quảng Lăng nhân say rượu giết Dục,
thả lính cướp sạch, nhân đó chở đi, qua giết Lễ, rồi sau giết
Hạc.
Sau câu cuối "giết Hạo" này, Hậu Hán thơ
thêm: "Vào chiếm thành của Hạo, sau bị thứ sử Dương Châu Lưu
Do đánh phát, chạy vào trong núi, bị người ta giết" Chi tiết
này Ngô chí 4 tờ 2a3-10 truyện Lưu Do nói rõ hơn: "Tôn Sách
vượt sông về đông, đánh Trương Anh và Phàn Năng v.v... Lưu Do
chạy tới Đan Đồ, rồi qua sông về nam giữ Dự Chương, đóng ở
Bành Trạch, Trức Dung đến trước, giết thái thú Chu Hạo, vào ở
trong quận. Do tiến quân đánh Dung, bị Dung đánh bại, lại tập hợp
các huyện minh đánh Dug, Dung bại, chạy vào núi, bị dân giết".
Việc Lưu Do chạy về giữ Dự Chương, Hán ký của
Viên Hoằng do Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 4 tờ 2a3-6 nói: "Lưu
Do sắp chạy qua Cối Kê. Hứa Tử Tương nói: "Cối Kê giàu có,
là chỗ Sách tham. Hơn nữa, nó nằm kẹt ở góc biển, không thể
đến được. Không chỉ bằng Dự Chương, bắc giáp đất Dự, tây
tiếp Kinh Châu, nếu thu được quan dân, sai sứ cống hiến thì có
thể liên lạc vào Tào Duyên châu. Tuy có Viên Công Lộ nằm cách
ở giữa, nhưng người này sài lang, không thể tồn tại lâu. Túc
hạ lại nhận lệnh vua, Mạnh Đức và Cảnh Thăg tất phải đến
cứu" Do làm theo".
Khi đến Dự Chương, đóng tại Bành Trạch, theo Hiến
đế xuân thu, của Viên Việp, mà Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 4
2a7-8 thì "nằm đó Do đồn Bành Trạch, lại sai Dung giúp Hạo đánh
Gia Cát Huyền do Lưu Biểu dùng, Hứa Tử tương bảo Do: "Trức Dung
ra quân, không quan tâm đến chính nghĩa, Chu Văn Minh khéo suỵ sự
thành thật để tin người. Nên sai lén đề phòng". Dung đến,
quả giết Hạo, thay nắm việc quận".
Giang biểu truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong truyện Tôn
Sách cuả Ngô chí 4 8a4-10 kể rõ hơn quan hệ Tôn Sách, Lưu Do, Trức
Dung, và Tiết Lễ như sau: "Sách vượt sông đánh doanh Ngưu Chữ
của Do, lấy sạch kho lương gạo chiến cụ. Năm ấy là năm Hưng Bình
thứ 1 (195). Bấy giờ tướng Bành Thành là Tiết Lễ, tướng Hạ Bì
là Trức Dung, dựa Do làm minh chúa. Lễ cứu thành Mạt Lăng, Dung
đồn huyện nam. Sách trước đến đánh Dung. Dung ra quân giao chiến.
Sách chém được 500 thủ cấp. Dung bèn đóng cửa không dám hành
động. Sách nhân đó vượt sông đánh Lễ. Lễ bỗng bỏ chạy. Nhưng
Phàn Năng, Vu Mỹ v.v... lại tập hợp lính, tập kích, đoạt lại đồn
Ngưu chữ, Sách nghe trở về, đánh phá được Năng v.v.. Bắt
được trai gái hơn vạn người, lại trở xuống đánh Dung, bị tên
bắn trúng thương bắp vế, không thể cỡi ngựa, nhân đó tự trở
về doanh Ngưu Chữ. Hoặc có kẻ phản báo Dung: "Chàng Tôn bị tên
đã chết". Dung rất mừng, liền sai tướng đi nghe ngóng Sách.
Sách sai bộ kỵ mấy trăm khiêu chiến, đặt mai phục ở sau. Giặc ra
đánh, gươm dao chưa chạm nhau thì giả bỏ chạy. Giặc đuổi theo vào
trong chỗ mai phục, bèn đánh lớn, chém hơn một ngàn thủ cấp. Sách
nhân đó đi đến dưới doanh của Dung, ra lệnh cho tả hữu hô lớn:
"Chàng Tôn cuối cùng thế nào rồi?". Giặc do thế kinh sợ,
ban đêm trốn đi. Dung nghe Sách vẫn còn, càng xây dựng hào sâu,
luỹ cao, sửa soạn đê giữ. Sách cho thế chỗ đất chỗ Dung đồn
hiểm trở, vững chắc, bèn bỏ đi đánh một tướng khác của Do ở
Hải Lăng, rồi chuyển qua đánh Hồ Thục, Giang Thừa đều hạ
cả".
Qua những tư liệu vừa dẫn, ta thấy trự truyện của
Mâu Tử nói tới "người em cuả Châu Mục làm thái thú Dự
Chương, bị trung lang tướng Trức Dung giết", thì người em này
không ai khác hơn là Chu Hạo. Truyện Chu Tuấn trong Hậu Hán thơ 101
tờ 11a10-11 xác nhận Hạo là con của Tuấn "cũng có tài hạnh
là quan tới thái thú Dự Chương" Hiến đế Xuân thu ghi thêm
tên Chu Văn Minh. Văn Minh như vậy là tự của Hạo. Tạ thị Hậu Hán
thơ bổ đi 5 nhận xét: "(Hạo) đức hạnh thuần tốt, văn học
xuất sắc".
Thế thì Trúc Dung giết Chu Hạo vào thời điểm nào?
Truyện Gia Cát Lượng trong Thục chí 5 tờ 1a 6-12 viết: "Lượng
sớm mồ côi, tùng phụ Huyền được Viên Thuật bổ làm thái thú
Dự Chương. Huyền đem Lưọng và em Lượng là Quân đến chỗ làm
quan. Gặp lúc triều Hán lại chọn Chu Hạo thay Huyền, Huyền vốn có
quen biết cũ với Kinh Châu mục Lưu Biểu, đến dựa vào Biểu".
Ở đây, Bùi Tùng Chi dẫn Hiến đế xuân thu nói: "Trước đó
thái thú Dự Chương là Châu Thuật bệnh chết. Lưu Biểu dâng sớ
cử Gia Cát Huyền làm thái thú Dự Chương đóng ở Nam Xương.
Triều Hán nghe Châu Thuật chết, sai Chu Hạo thay Huyền. Hạo theo thái
thú Dương Châu Lưu Do xin lính đánh Huyền. Huyền rút về đóng Tây
thành. Hạo vào Nam Xương. Tháng giêng năm Kiến An thứ 2 (197) dân
Tây Thành phản, giết Huyền, đưa đầu đến Do".
Vậy, theo Giang biểu truyện, Tôn Sách vượt sôgn đánh
Lưu Do vào năm Hưng Bình thứ 2 (195), Lưu Do mới chạy đến Dự
Chương, vì ngoài lời khuyên của Hứa Tử Tương còn có liên hệ
với Chu Hạo, khi Hạo xin Do quân để đánh Gia Cát Huyền. Việc xin
quân này chắc chắn phải xảy ra trước khi Tôn Sách vượt sông
vào năm Sách vượt sông đánh Do, cho nên Do không thể đưa quân chi
viện cho Hạo, vậy Hạo phải xin Do vào khoảng năm 193-194, nhân đó, Do
sai Trức Dung đem quân đến giúp Chu Hạo. Nhưng khi tới, Dung đã giết
Hạo và nắm lấy quân Dự Chương. Chính vì thế mà Ngô chi viết khi
Lưu Do "qua sông về nam giữ Dự Chương đóng Bành trạch, Trức
Dung đã đến trước, giết thái thú Chu Hạo vào ở trong quận".
Việc Trúc Dung giết Chu Hạo chắc phải xảy ra trước
năm 195. Nhưng Trức Dung xuất thân là cấp dưói của Đào Khiêm.
Truyện của Dung dẫn trên nói khi Tào Tháo đến đánh Khiêm, Dung đã
"đem trai gái một vạn khẩu, ngựa chín con, chạy đến Quảng
Lăng". Bản kỷ của Tào Tháo trong Ngụy chí 1 tờ 7a3 và 7a12 ghi
Tào Tháo đem quân đánh Khiêm 2 lần. Một lần vào mùa thu năm Sơ
Bình thứ 4 (193) và một vào mùa hè năm Hưng Bình thứ 1 (194).
Truyện Đào Khiêm cũng trong Ngụy chí 8 tờ 7a 10-9a9 nói "Năm đó
Khiêm bệnh chết, thọ 63 tuổi". Thế thì, Trức Dung có đến thờ
Lưu Do làm minh chúa cùng với Tiết Lễ, như Giang biểu truyện đã ghi,
việc này ít lắm cũng phải xảy ra vào mùa thu năm 193 và mùa hè
năm 194, khi Tào Tháo bắt đầu đánh Từ châu và Đào Khiêm chết,
nếu không phải từ mùa hè năm 194 trở đi_1.
Hơn nữa, khi Lưu Do được bổ làm thứ sử Dương
Châu, thì châu lỵ ở Thọ Xuân đã bị Viên Thuật chiếm. Cho nên,
theo truyện Tôn Sách trong Ngô chí 1 tờ 7b5-11, Do đã vượt sông qua
đóng ở Khúc A. Truyện Lưu Do ở Ngô chí 4 tờ 1b11-12 nói cậu của
Sách là Ngô Cảnh và anh chú bác Tôn Bí đã đón Bí là người
của Viên Thuật bèn đuổi đi. Cảnh, Bí rút về Lịch Dương. Do sai
Phàn Năng, Vu My, Trần Hoành đóng ở Giang Tân (Hay Giang Biên), Trương
Anh đóng ở Dương Lợi khẩu. Cảnh và Bí đánh Phàn Năng, Trương
Anh cả năm hơn vẫng không thắng. Cho đến năm 195, Tôn Sách vượt
sông đánh dẹp Năng và Anh, Lưu Do mới qua Dự Chương. Vậy Chu Hạo
nếu đến xin quân của Do, cũng phải đến lúc Do đang đóng ở Khúc
A, tức trước năm 195. Có thể việc xin quân đã xảy ra năm 193 và
chắc chắn năm 194 Trức Dung đã được Lưu Do gởi qua giúp cho Hạo.
Và Dung đã giết Hạo vào năm 194 này, để đến năm 195 khi Lưu Do
chạy đến Dự Chương, thì Hạo đã chết, và Do phải đem quân trừng
phạt Dung.
Khi nghe tin Trức Dung giết Chu Hạo ở Dự Chương châu
mục Giao Châu vì "nỗi đau cốt nhục" đã "sai kỵ đô uý
Lưu Ngạn đem binh đến đó. Nhưng sợ cõi ngoài nghi ngờ, quân không
đến được, nên châu mục mới mời Mâu Tử, nói: "Em tôi bị
bọn nghịch tặc giết, nỗi đau cốt nhục dằn vặt tâm can, nay sắp sai
Lưu Kỵ đô úy đi, lại sợ cõi ngoài nghi nan, người đi không
thông. Ngài văn võ gồm đủ, có tài đối đáp, nay muốn dẹp bỏ
nghi ngờ, để mượn đường thông lộ qua Linh Lăng, Quế Dương ngài
nghĩ thế nào?" Mâu Tử đã hứa đi
Nhân vật kỵ đô uý Lưu Ngạn là người thứ hai, mà
Lý hoặc Luận nêu rõ tên. Truyện Tiết Tôn trong Ngô chí 8 tờ
7b7-10, khi ghi lại lá sớ của Tôn viết cho Tôn Quyền về việc chọn
người gởi qua cai trị Giao Châu, có đoạn: "Lại cố thứ sử Chu
Phù đất Cối Kê phần lớn dùng ngưòi cùng quê là bọn Ngu Bào,
Lưu Ngạn, phân làm trưởng lại, xâm lược bá tánh, ép thuế lên
dân. Một con cá vàng, thâu thuế gạo một hộc. Bá tánh oán phản,
giặc núi cùng nổi lên, đánh châu phá quận. Phù chạy vào biển,
lưu lạc chết mất".
Như thế, kỵ đô uý Lưu Ngạn là một thuộc hạ cuả
thứ sử Giao Châu Chu Phù. Chu Phù do vậy là anh cùng cha của Chu Hạo
và là con của Chu Tuấn. Truyện Tuấn trong Hậu hán thơ 101 tờ 7b1-9
nói năm Quang Hòa thứ 1 (178) Tuấn được bổ làm thứ sử Giao
Châu, và ghi Hạo là con cuả Tuấn, nhưng không ghi Phù.
Truyện Tôn giả trong Hậu Hán thơ 6/1 tờ 14a1-b1 nói:
"Năm Trung Bình thứ nhất (184) đồn binh Giao Chỉ nhân bắt thứ
sử và thái thú Hiệp Phố, tự xưng Thiên Trụ tướng quân, Linh
đế ra lệnh đặc biệt cho ba phủ tỉnh tuyển quan có năng lực. Hữu
ty đề cử Tôn làm thứ sử Giao Chỉ".
Truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô chí 4 tờ 7a5-11 chép: "Em
(Nhiếp) là Nhất trước làm đốc bưu của quận. Thứ sử Đinh Cung
được gọi về kinh đô, Nhất hầu hạ đưa tiễn ân cần. Cung cảm
động. Đến khi chia tay, gọi bảo: "Thứ sử nếu được đãi làm
tam công, thì sẽ bổ niệm cho". Sau Cung làm tư đồ, bèn bổ nhiệm
Nhất. Nhất vừa đến, Cung đã miễn quan. Hoàng Uyển thấy Cung làm tư
đồ, đãi ngộ Nhất rất có lễ. Đổng Trác làm loạn, Nhất trốn
về quê. Thứ sử Giao Châu Chu Phù bị giặc mọi giết. Châu quận
nhiễu loạn, Nhiếp dâng biểu xin cho Nhất giữ thái thú Hiệp phố, em
kế Từ văn lịnh Vỹ giữ thái thú Cửu Chân, và em Vỹ là Vũ
giữ thái thú Hải Nam.
Vậy, Chu Tuấn được bổ làm thứ sử Giao Châu năm
178, thì người kế nhiệm là Giả Tôn rồi Đinh Cung. Và Đinh Cung làm
thứ sử cho khoảng tới năm 187, thì ông trở về Lạc Dương làm tư
đồ. Sau Cung chắc hẳn phải là Chu Phù. Dẫu sao đi nữa, cho đến năm
193-194, Chu Phù đang làm châu mục Giao Châu. Nên khi được tin Chu Hạo
bị Trức Dung giết, Chu Phù vì lý do cốt nhục đã cử Lưu Ngạn đem
quân đi trả thù. Nhưng do đường sá cách trở, Chu Phù đã nhờ
đến Mâu Tử, một con người "văn võ kiêm bị, là có tài ăn
nói".
Mâu Tử đồng ý giúp Chu Phù và chuẩn bị ra đi, thì
gặp lúc mẹ mất nên chuyến đi không thành. Việc Chu Phù nhờ Mâu
Tử như vậy phải xảy ra trong khoảng những năm 194-195. Năm 195 này
cũng chắc chắn là năm mất của mẹ Mâu Tử. Sau biến cố mẹ mất
này, Mâu Tử lâu rồi rút lui nghĩ: "Mình vì giỏi giang, hiểu
biết, mà bị sai khiến. Nay đời nhiễu nhương, chẳng phải lúc làm
rõ mình". Rồi than: "Lão Tử dứt thánh bỏ trí, tu thân giữ
chân, vạn vật không ngăn chi mình, thiên hạ không đổi niềm vui
mình, thiên tử không có được bề tôi, chư hầu không có được
người bạn, nên mới gọi là quí". Từ đó, ông dốc chí học
Phật, nghiền ngẫm thêm Lão Tử và ngũ kinh. Khi ông dốc trí như
thế, "bọn thế tục phần lớn cho ông bỏ năm kinh, mà theo đạo
khác". Cho nên, ông đã viết Lý hoặc luận để trả lời.
Rõ ràng, việc viết Lý hoặc luận xảy ra không lâu
sau đám tang của mẹ Mâu Tử, có thể vào khoảng năm 198, vì Mâu
Tử với tư cách một người con có hiếu chắc chắn phải dành 3
năm cư tang cho mẹ mình. Cho nên, khi tự truyện viết: "Lâu rồi
rút nghĩ (cửu chi thối niệm), chữ "lâu" trong câu ấy hẳn
để chỉ thời gian cư tang vừa nói. Sự thực, đúng theo tập tục
thời đó, mà ta thấy qua trường hợp của Ngu Phiên ở Ngô chí 12
tờ 1a8-9, Mâu Tử phải dành một thời gian mặc áo tang cho mẹ mình.
Vì thế, hẳn không có việc viết sách tranh luận với người khác,
trong lúc cư tang. Do vậy, Lý hoặc luận khó mà ra đời trước năm
198 vừa nói được.
Tất nhiên, không phải đến khi mẹ mất, Mâu Tử mới
biết Phật giáo. Ông đã biết Phật giáo từ trước, và biến cố
ấy tạo cơ hội cho ông "dốc chí vào đạo Phật", sau khi đã
quyết định là thời buổi nhiễu nhương không ra làm quan nữa. Cứ
vào tự truyện, Mâu Tử là người hiếu học, "sách không kể
lớn nhỏ, không gì là không đọc", đọc cả sách quân sự và
thuật thần tiên trường sinh bất tử. Đối với thuật thần tiên
này, điều 31 của chính Lý hoặc luận ghi lại lời tự thuật của
Mâu Tử nói: "Tôi lúc chưa hiếu đạo lớn, cũng thường học
phép tịch cốc có mấy ngàn trăm thuật, thực hành thì không hiệu
nghiệm làm theo thì không kết quả, nên tôi bỏ. Xem ba ông thầy tôi
theo học, mỗi ông hoặc tự xưng 700, 500, 300 tuổi. Nhưng tôi theo họ
học chưa đầy 3 năm, thì mỗi một ông đã tự chết. Sở dĩ như
vậy là do tuyệt cốc không ăn, mà lại đi ăn trăm thứ trái cây,
nhậu thịt nướng thì nhiều mâm, uống rượu thì nhiều vò. Tinh thần
hỗn loạn, cốc khí không đủ, mắt tai lầm lạc, dâm bậy không cấm.
Tôi hỏi lý do vì sao, thì được đáp: "Lão Tử bảo bớt đi
lại bớt, cho đến vô vi, trò phải ngày một bớt". Nhưng tôi
thấy ngày chỉ một thêm chứ không bớt. Vì thế, họ mỗi người
không đến tuổi tri thiên mạng (50 tuổi) mà đã chết. Vả lại,
Nghiêu Thuấn Châu Khổng không một ai có thể sống đến trăm tuổi.
Thế mà, đời sau ngu hoặc lại muốn ăn uống tịch cốc để tìm tuổi
thọ vô cùng. Thương thay!".
Thế thì, trước khi "hiểu" Phật giáo, Mâu Tử
đã từng học sách thần tiên, tịch cốc thần tiên bất tử 3 năm.
Thời điểm xảy ra việc học này chắc chắn phải trước năm 26
tuổi, khi Mâu Tử trở về Thương Ngô lấy vợ. Phần tự truyện
viết: "Thời ấy sau khi Linh đế băng hà, thiên hạ nhiễu loạn,
chỉ Giao Châu tạm yên. Người tài phương bắc đều đến để ở,
phần lớn học phép tịch cốc trường sinh cuả thần tiên. Người
bấy giờ phần đông là có học. Mâu Tử thường đem năm kinh lại
hỏi. Đạo gia thuật sĩ không ai dám trả lời, sánh ông với Mạnh
Kha cự Dương Chu Mặc Địch. Trước thời ấy, Mâu Tử đem mẹ qua
lánh nạn ở Giao Chỉ. Năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ".
Hán Linh đế băng hà vào năm Trung Bình thứ 6 (189).
Vào năm này xảy ra một loạt các biến cố, đó là loạn Thập
thường thị, dẫn đến cái chết của Hà Tiến, rồi Đổng Trác vào
kinh đô, sau đó tư đồ Vưong Doãn nhờ Điêu Thuyền giết Đổng
Trác năm 192, và sự xuất hiện trên vũ đài chính trị Trung Quốc 3
nhân vật sau này thành lập 3 triều đại kinh chống nhau, đó là Tào
tháo, Lưu Bị và Tôn Quyền. Đây là thời mà Mâu Tử gọi là
"thiên hạ nhiễu loạn" Thời này, những người tài (dị
nhân) phương bắc đổ dồn về sống ở Giao Chỉ. Tiểu sử của Sỹ
Nhiếp trong Ngô chí 4 tờ 7a12-13 viết: "Nhiếp tính khí khoan hậu,
khiêm hư hạ sĩ, sĩ nhân Trung Quốc đến dựa tị nạn kể cả số
trăm". Trong số này có những người đã làm nên sự nghiệp
lớn ở Trung Quốc như Tiết Tôn, Hứa Tinh, Hứa Từ v.v... Điểm
đặc biệt họ là những ngưòi có học và qua nước ta lại
"học thuật thần tiên trường sinh bất tử".
Bản thân Mâu Tử "khi chưa hiểu đạo lớn"
(Phật giáo) cũng từng bỏ ba năm học phép tịch cốc. Và Thần tiên
truyện của Cát Hồng, mà Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 4 tờ 7b11-12
truyện Sĩ Nhiếp kể: "Nhiếp thường bệnh, chết đã 3 ngày. Tiên
nhân Đổng Phụng đem co một viên thuốc, lấy nưóc ngậm uống, dở
cổ lên lắc lắc. Uống một lúc, thì mở mắt động tay, nhan sắc dần
dần phục hồi. Nửa ngày thì có thể đứng lên ngồi xuống. Bốn
ngày thì nói năng lại được, rồi trở nên bình thuờng. Phụng,
tự là Quân Dị, người Hầu Quan".
Thần Tiên truyện 6 hiện còn rõ thêm: "Sĩ Nhiếp
được sống, nhân đó đứng dậy tạ ơn nói: "Rất đội ơn
lớn, biết lấy gì đền đáp". Bèn dựng cho Phụng một tòa lầu
trong sân. Như vậy hơn 1 năm, Phụng từ biệt Nhiếp mà đi. Nhiếp
khóc lóc giữ lại không được... Phụng chết Nhiếp lấy hòm tẩn
liệm đem chôn. Bảy ngày sau, phá quách mở hòm xem, chỉ còn một
giải lụa, một mặt vẽ hình người, một mặt viết chữ đỏ làm
bùa".
Đổng Phụng, ngưòi Hầu Quan, tức huyện Mân Hầu, tỉnh
Phúc Kiến bây giờ, đã sang sống ở nước ta, để chữa bệnh cho
Sĩ Nhiếp và sau đó được Sĩ Nhiếp chôn cất lúc chết. Trong khi
còn ở Trung Quốc, Phụng đã từng dạy dỗ cho Bạch Hòa, như truyện
Bạch Hòa trong Thần tiên truyện 7 chép. Tam động châu nang 1 nói rõ
thêm: "Can quan người Bắc Hải mắc ung thư mấy chục năm, ông
bán thuốc không thể chữa lành, thấy trong chợ một ông bán thuốc,
họ Bạch, tên Hòa. Can quân đến hỏi; Ông nói: "Bệnh anh có
thể chữa. Anh nếu muốn được lành, ngày mai lúc gà gáy, đến
gặp dưới cây lan lớn phía bắc cầu lớn, ta sẽ dạy anh". Ngày
mai gà gáy, Can quân đến chỗ hẹn, thì ông Bạch đã ở đó
trước, giận nói: "Không muốn lành bệnh ư, sao lại đến
sau?". Lại hẹn nửa đêm ngày mai. Do thế, Can quân lúc mặt trời
lặn đến chỗ hẹn. Chốc lát ông đến, đem Tố thư 2 quyển trao cho Can
quân.. Can quân vái hai vái nhận sách. Ông Bạch lại nói: "Anh
trở về chép sách này thành 150 quyển". Can quân nghĩ được ý
ông Bạch, trong để trị thân dưỡng tánh, ngoài để tiêu tai cứu
bệnh, không ai là không chữa lành..."
Tiên uyển biên châu quyển trung do Vương Tùng Niên
đời Hậu đường (thế kỷ thứ X) dưới mục thiên sư chánh nhất
Can Cát Thái bình cũng kể lại truyện Can Cát được Thái bình kinh.
Nhưng câu "Về chép sách này thành 150 quyển", thì nó sửa
thành "Về chép sách này thành 170 quyển". Và thêm câu:
"Đến nay có núi Thái Bình và khe Can ở đó".
Chí lâm của Ngu Hỷ do Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 1
tờ 12a12 nói: "Xưa thời Thuận đế, Cung Sùng đất Lang nha đến
kinh đô dâng Thần thơ do thầy mình là Vu Cát được ở Tuyền thủy
của Khúc Dương, giấy trắng bìa soon, gọi là Thái Bình thanh lĩnh đạo
phàm trăm Hác Vương, Thiên Thất vì tật bệnh, cảm tới Lão quân
dạy 180 giới cùng Thái bình kinh một trăm bảy mươi thiên".Thiên
Thất đây là viết lầm cuả Can Thất, mà Hỗn nguyên thánh kỷ 7 của
Tạ Thủ Hạo đời Nam Tống nói: "Can Thát, sau đổi tên là
Cát_1. Truyện Cùng Sùng cuả Thần tiên truyện 10 chép: "Thiên
tiên trao cho Cát Thái bình kinh 10 bộ lụa xanh chữ đỏ". Vân kíp
thất thiêm 1 dưới điều Tam động kinh giáo bộ tứ phụ viết về
Thái bình kinh chính kinh ghi: "Quyển sổ nó hoặc có chỗ không
giống nhau. Nay giáp ất 10 bộ, hợp làm 170 quyển, nay thì còn lưu
hành. Theo Chính nhất kinh, nói: "Có Thái Bình động cực một
trăm bốn mươi quyển. Nay kinh này đã trôi mất đến gần hết".
Mạnh An Bài đời Lương viết Đạo giáo nghĩa xu 2, sau câu vừa dẫn,
nói thêm: "Đến thời Hán Thuận đế, Cung Sùng đến kinh đô
dâng thần thơ một trăm mười quyển do thầy ông là Can Cát tìm
được gọi là Thái bình kinh. Vua không tin, kinh ấy bèn ẩn".
Vậy, tiên nhân Đổng Phụng sống và chết ở nước
ta đã có một liên hệ mật thiết với Bạch Hòa, thầy của Can Cát.
Và Can Cát là ngưòi truyền bá thần thơ Thái Bình kinh 170 quyển.
Giang biểu truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong truyện Tôn Sách của Ngô
chí 1 tờ 12a5-11 kể chuyện Sách giết Can Cát. Sứu thần ký cũng do
Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 1 tờ 13b10-12 lại viết: "Sách đã
giết Vu Cát. Mỗi khi ngồi một mình thì phảng phất thấy Cát ở bên
phải bên trái mình, lòng rất ghét... Sau trị vết thương mới lành,
đem gương soi mình, thấy Cát trong gương, nhìn kỹ thì không thấy. Như
thế ba làn. Nhân đó vứt gương, kêu lớn. Vết thương lại vỡ ra,
chốc lát thì chết".
Tôn Sách chết tháng tư năm Kiến An thứ 5 (200) Vậy
Can Cát chắc cũng bị Sách giết vào năm này. Cả Chí lâm lẫn Đạo
giáo nghĩa xu 2 đều nói học trò của Can Cát là Cung Sùng đem thần
thơ Thái Bình kinh của Cát hơn một trăm quyển dâng cho vua Thuận đế
nhà Hán trong khoảng những năm 130. Điều 29 của Lý hoặc luận cũng
nhắc tới "Thần thơ một trăm bảy chục quyển" Việc này
chứng tỏ một trong những văn kiện chính yếu của đạo giáo là
Thái bình kinh đã lưu hành rộng rãi ở nước ta, khi Mâu Tử viết
Lý hoặc Luận. Có thể chính Thái bình kinh là một trong các
"Sách thần tiên bất tử" mà Mâu Tử đọc và "dẹp đi
mà không tin, cho là dối trá".
Như thế, "Khi chưa hiểu đạo lớn", Mâu Tử
đã từng đọc sách vở đạo giáo và bỏ ra ba năm luyện phép tịch
cốc. Nhưng do không có hiệu quả, Mâu Tử sau đó đi đến kết luận
các sách vở ấy là "dối trá". Tuy nhiên, phần lớn
"Ngưòi tài" Trung Quốc sang tị nạn tại nước ta lại theo học
đạo đó. Cho nên Mâu Tử đã đem "năm kinh" Nho giáo ra vặn
hỏi. Đám "Đạo gia thuật sỹ" không ai dám trả lời. Dầu
vậy, cần chú ý là dù họ không trả lời, không có nghĩa là họ
khuất phục. Do đó, đến khi đã theo Phật giáo và viết Lý và
luận, Mâu Tử phải dành 9 trong 37 điều của tác phẩm ấy để kích
bác đám "đạo gia thuật sỹ" và những thuật "tịch cốc
trường sinh bất tử" cuả họ, biểu thị một mối quan tâm đặc
biệt đối với học thuyết và phương thức tu hành cuả đám ấy.
Sự kiện Mâu Tử đem "năm kinh" ra vặn hỏi
đám này chứng tỏ họ không những "người có học" như
Lý hoặc luận ghi, mà còn là những kẻ theo Nho giáo, những sỹ
nhân, như truyện Sĩ Nhiếp của Ngô chí đã chép. Thời điểm xảy ra
sự kiện ấy Mâu Tử nói là sau khi Hán Linh để băng hà, tức sau
năm 189, một thời điểm hoàn toàn phù hợp với những tư liệu
hiện có. Ngụy chí 1 tờ 36b9-11 dưới mục bản kỷ của Tào Tháo
viết: "Trước đó Viên Trung làm tướng đất hải thưòng muốn
dùng luật trị Thái Tổ. Hoàn Thiện nưóc Bái cũng khinh. Đến khi ở
Duyện Châu, Biên Nhượng đất Trần Lưu ăn nói nhiều lần rất
đụng chạm Thái Tổ. Bèn giết nhượng, tru di cả gia đình. Trung và
Thiện đều tị nạn ở Giao Châu. Thái Tổ sai sứ đến thái thú Sỹ
Nhiếp đều giết hết. Hoàn Thiện được đầu thú, ra vái tạ trong
sân, Thái Tổ bảo: "Quỳ mà được thoát chết sao?". Bèn
giết đi, Tào Tháo được bổ làm thứ sử Duyện Châu năm Sơ Bình
thứ nhất (190), Viên Trung và Hoàn Thiện phải chạy đến nước ta
năm đó.
Truyện Viên Trung trong Hậu Hán thơ 75 tờ 7a10-b4 chỉ
nói: "Sau Tôn Sách phá Cối Kê, Trung v.v... vượt biển về nam
đến Giao Chỉ. Hiến đế đóng đô ở Hứa, trưng làm vệ úy, chưa
đến thì mất". Vậy, chưa hẳn Trung đã đến khoảng năm 190 và bị
Sĩ Nhiếp giết. Viên Trung do thế đã sống ở nước ta một thời
gian.
Nếu Hoàn Thiện không may mắn thì Hoàn Việp may mắn
hơn. Việp là chắt của Hoàn Vinh, thầy học của Minh đế. Hậu Hán
thơ 67 tờ 7b1-12 ghi truyện Việp: "Việp từ là Văn Lâm, một tên
là Nghiêm, rất giữ ý chí. Cô ta là phu nhân của tư không Dương
Tứ. Khi Loan (cha của Việp) chết, cô đi điếu. Sắp đến (nhà) thì
nghỉ ở quán trọ, chỉnh đốn lại nhưĩng người đi theo, rồi sau mới
vào. Lòng Việp cho là không phải, đến cô hỏi thăm Việp rốt cuộc
không nói một lời, chỉ khóc lóc mà thôi. Tứ Sai quân lính dâng
đồ cúng, nhân ra huyện lấy chén dĩa. Việp cự không nhận. Sau mỗi
khi đến kinh, chưa từng đến ở nhà họ Dương. Kiên trinh là thế.
Khách khứa di theo đều khâm phục chí hạnh của ông. Một bữa ăn
không nhận ở ngưòi khác. Làm quan đến quận công tào. Sau cử
hiếu liên hữu đạo phương chính mậu tài. Tam Công bổ ra làm quan,
đều không nhận. Trong khoảng Sơ Bình (190-193) thiên hạ loạn lạc,
lánh nạn Cối Kê, rồi vượt biển đến khách Giao Chỉ. Ngưòi Việt
thay đổi khí tiết ông, đến xóm làng không hay tranh cãi. Ông bị
ngưòi tù vu cáo, bèn chết ở ngục Hợp phố".
Hoàn Việp tuy mắn đến được nước ta, nhưng cuối
cùng cũng chết trong ngục Hợp phố. Chỉ có Hứa Tinh là may mắn
hơon. Truyện Hứa Tỉnh trong Thục chí 8 tờ 195-b9 nói: "Linh đế
băng hà, Đổng Trác nắm quyền", Hứa Tỉnh cùng Châu Bí đề
cử Hoàn Phúc làm châu mục Ký Châu, Lưu Đại làm thứ sử Duyện
Châu v.v... Khi đến nhậm chức rồi, Phức cùng những người khác
đem quân về đánh Trác. Trác giận chém Bí. Hứa Tịnh cùng tùng
huynh Hứa Dương chạy đến thứ sử Dự Châu là Khổng Do. Do chết,
lại qua nhờ thứ sử Dương Châu Trần Vĩ. Vĩ chết, Hứa Tĩnh lại
đến chỗ quen biết trước là đô uý Ngô quận Hứa Công và thái
thú Cối Kê Vương Lãng. Tôn Sách vượt sông về đông, họ đều
chạy đến Giao Châu để tỵ nạn. Tỉnh ngồi trên bờ, trước cho chở
bà con thân sơ theo đi hết, rồi sau mới theo đi. Đương thời ai thấy
không ai là không khen ngợi. Khi đến Giao Chỉ, thái thú Sĩ Nhiếp kính
đãi nồng hậu. Viên Huy đất Trần Quốc đã ngụ cư Giao Châu. Huy
viết thư cho thượng thơ lệnh Tuân Hoắc nói: "Hứa Văn Hưu anh
tài vĩ sĩ, trí lược đủ để gánh vác công việc, từ ngày lưu
lạc đến nay đã cùng đám sỹ phu theo nhau. Mỗi có hoạn nạn
thường trước giúp người, sau mới lo mình, cùng chín họ trong
ngoài chịu đói, rét, kỷ cương với đồng loại, nhân thứ trắc
ẩn, đều có kết quả, không thể đem một hai việc nói hết
được".
Tôn Sách vượt sông về đông năm Hưng Bình thứ 2
(195) nên Hứa Tỉnh cũng phải chạy qua nước ta năm ấy. Và chạy qua
năm ấy không phải một mình Hứa Tỉnh mà còn có Viên Bái, Đặng
Tử Hiếu, Từ Nguyên Hiền v.v... ngoài bà con thân thuộc của Tinh,
như lá thư cuả Tinh viết cho Tào Tháo năm 205 trong Thục chí 8 tờ
2a3-3b8 đã nói. Điểm đáng ghi nhận là khi Tỉnh đến nước ta năm
195, thì Viên Huy đã có mặt. Truyện Viên Hoán trong Ngụy chí 11 tờ
3b6-10, chỉ nói Huy gặp thiên hạ loạn, tỵ nạn Giao Châu nhưng không
nói năm nào. Bây giờ ta biết là phải trước năm 195. Hẳn Huy qua
một đợt với Hoàn Việp vào năm 190.
Ngoài Hứa Tỉnh, Viên Huy, Viên Bái... Thục chí 12 tờ
4a5-b4 còn ghi: "Hứa Từ tự Nhân Đốc, người Nam Dương, thờ
Lưu Hy làm thầy, giỏi môn học họ Trịnh, trị Dịch, Thượng thơ, Tam
lễ, Mao thi, Luận ngữ. Trong khoảng Kiến An (196-220) cùng Hứa Tỉnh v.v..
đều từ Giao Châu vào Thục". Ngô Chí 8 tờ 4b8-10 lại chép:
"Trình Bỉnh, từ Đức Xu, người Nam Đốn, Nhử Nam, vốn thờ
Trịnh Huyền, sau tỵ nạn Giao Châu, cùng Lưu Hy khảo luận đại
nghĩa,nên bác thông năm kinh. Sĩ Nhiếp bổ làm trường sử. Tôn
Quyền nghe tiếng danh nho, dùng lễ trưng Bình, Binh đến, phái làm thái
tử thái phó" Cũng Ngô chí 8 tờ 6a7-4 chép thêm: "Tiết
tôn, tự Kinh Văn, người Trúc Ấp, Bái quận, nhỏ theo ngưòi bà
con, ty địa Giao Châu, theo Lưu Hy học, Sĩ Nhiếp đã theo Tôn Quyền,
mời Tôn làm ngũ quan trung lang, rồi thái thú Hợp Phố, Giao
Chỉ".
Thế thì, ngoài những người kể trên, ta còn có ba
người học trò cuả Lưu Hy là Hứa Từ, Trình Bình và Tiết Tôn,
và bản thân ngưòi thầy là Lưu Hy. Trình Bình trở về Trung Quốc,
chắc chắn trước năm Hoàng Vũ thứ 4 (225) khi Tôn Quyền gả con gái
của Chu Du cho Tôn Đăng làm vợ, và Bỉnh với tư cách thái tử
thái phó đã răn dạy Đăng. Còn Tiết Tôn được triệu về Trung
Quốc, khi Sĩ Nhiếp về theo phe Tôn Quyền và năm Kiến An thứ 1 (21),
như truyện Sĩ Nhiếp cuả Ngô Chí 4 tờ 8a8 đã ghi. Về Hứa Từ, vì
theo Hứa Tinh lên Thục, mà Hứa Tinh năm Kiến An 16 (211) từ thái
thú Ba quận chuyển làm thái thú Thục quận, và năm Kiến An thứ 10
(205) đang còn ở Giao Châu viết thư cho Tào Tháo cho nên, Hứa Từ
phải rời Giao Chỉ vào khoảng giữa những năm 205-210.
Do vậy, tuy ngày nay ta không biết chính xác Lưu Hy qua tỵ
nạn nước ta vào năom nào điều chắc chắn là phải trước những
năm 200 sdl. Nghiêm Khả Quân trong Toà Hậu Hán văn 86 và Diệp Đức
Huy sau đó trong Chấp Mạnh Tử Lưu Hy chú đã nghiên cứu sự tích
và công trình trước tác của Hy khá tường tận. Đặc biệt là
Diệp Đức Huy đã viết Lưu Hy sự tích khảo và chép vào trong tác
phẩm vừa kể. Kết quả là Lưu Hy "trong khoảng Trung Bình Trưng làm
bác sĩ, đồng bổ làm An Nam thái thú, sau tránh giặc ở Giao Châu,
nên Trình Bình, Tiết Tôn, Hứa Từ cùng theo để học. Hy chết vào
năm Xích ô của nhà Ngô".
Niên hiệu Trung Bình của Hán Linh để bắt đầu vào
năm 184 đến 189. Nếu trong khoảng những năm này Lưu Hy được trưng
làm bác sĩ, thì việc tránh nạn sang nước ta cũng có thể xảy ra
să năm 189, tức như Mâu Tử nói: "Sau khi Linh đế băng hà,
thiên hạ nhiễu loạn, chỉ Giao Châu tạm yên, người tài phương Bắc
đều đến để ở" Sự thật, ngay từ khi Linh đế đang sống,
tức trước năm 189, một số người Trung Quốc đã muốn đến tỵ
nạn Giao Châu. Truyện Lưu Yên trong Thục chí 1 tờ 1a9-12 đ4 chép:
"Yên thấy chính trị Linh đế suy khuyết, nhà vua nhiều nạn, bèn
kiến nghị nói thứ sử thái thú dùng tiền của hối lộ để làm
quan, nên cắt lột bá tánh, làm cho họ ly phản, vậy nên chọn trọng
thần tiếng tốt để làm mục bá, trấn an đất nước. Yên bên trong
xin làm châu mục Giao Chỉ, muốn trán nạn đời". Rõ ràng, không
chỉ sau năm 189, mà trước đó những "dị nhân" phương Bắc
đã tìm về nước ta. Và sau năm ấy, dòng chảy "dị nhân"
về phương nam càng dồn dập hơn. Số "dị nhân" này đến
nước ta, theo Mâu Tử, "phần lớn thực hành thuật thần tiên
tịch cốc trường sinh" Mâu Tử đã dùng "Ngũ kinh" để
vặn hỏi và họ đã "không dám trả lời".
Trước năm 189, Mâu Tử nói ông đem mẹ qua tỵ nạn
ở Giao Chỉ, năm 26 tuổi về Thương Ngô cưới vợ. Việc đem mẹ qua
nước ta và việc trở về Thương Ngô lấy vợ như thế chắc chắn
xảy ra trước năm 189. Gỉả như năm 189, ông về cưới vợ, thì Mâu
Tử phải sinh vào khoảng năm 165, tức năm Diên Hy thứ 7 đời Hán
Hoàn Đế. Tuy nhiên, vì Mâu Tử nói "trước thời đó",
tức trước thời Linh đế băng hà năm 189, nên có khả năng Mâu
Tử phải sinh vào khoảng những năm 160, tức Diên Hy thứ 2, và
trở về Thương Ngô cưới vợ khoảng năm 186. Lý do cho giả thiết
thời điểm này sẽ nói sau.
Khi về Thương Ngô cưới vợ, Mâu Tử kể tiếp là
ông được "thái thú (Thương Ngô) nghe tiếng ông học giỏi,
mời đến thăm và bổ làm quan. Nhưng "lúc ấy tuổi đang cường
tráng, chí lãm việc học, lại thấy đời loạn, Mâu Tử không có
ý làm quan", nên Mâu Tử từ chối không nhận. Tuy không nhận
quan tước với thái thú Thương Ngô, song khi ông này nhờ ông đi
Kinh Châu "trí kỉnh", Mâu Tử đã nhận lời. Truyện Sĩ Nhiếp
trong Ngô Chí 4 tờ 7a13-8a10 ghi nhận quan hệ giữa Thương Ngô và Kinh
Châu như sau:
"Chu Phù chết, Hậu Hán sai Trương Tân làm thứ
sử Giao Châu. Tan sau đó lại bị tướng của mình là Khu Cảnh giết;
châu mục Kinh Châu Lưu Biểu sai Lại Cung đất Linh Lăng thay Tân. Lúc
ấy, thái thú Thương Ngô Sứ Hoàng chết, Biểu lại sai Ngô Cự thay
Hoàng, cùng Cung đi đến. Nhà Hán nghe Trương Tân chết, ban tí thơ cho
Nhiếp nói: "Giao Châu đất xa, nam tiếp sông biển, ăn trên không
tuyên, nghĩa dưới ùn tắc, biết nghịch tặc Lưu Biểu lại sai Lại Cung
dòm ngó đất Nam. Nay cho Nhiếp làm Tuy nam trung lang tướng, tổng đốc
bảy quận, giữ thái thú Giao Chỉ như cũ". Sau Nhiếp lại sai
Trương Văn dâng cống đến kinh đô. Lúc ấy thiên hạ tán loạn,
đường sá cắt đứt, mà Nhiếp không bỏ chức cống, nên đặc
biệt lại hạ chiếu phái làm An viễn tướng quân, phong Long độ đình
hầu. Sau Cự với Cung mất lòng nhau. Cự đem quân đuổi Cung. Cung
chạy về Linh lăng. Năm Kiến An 15 (210) Tôn Quyền sai Bộ Chất làm
thứ sử Giao Châu. Chất đến, Nhiếp đem anh em vâng nhận sự điều
khiển, nhưng Ngô Cự có dị tâm, Chất chém Cự".
Qua lời sớ của Tiết Tôn và truyện Sĩ Nhiếp dẫn
trước, ta biết Chu Phù đã sử dụng đám "hương nhân" của
mình là Ngu Bảo và Lưu Ngạn di "Xâm ngược bá tánh", nên
bị nhân dân ta, mà Trần Thọ gọi là "giặc mọi" (di tặc)
giết. Giết vào năm nào? Chắc chắn là sau năm 194, năm Chu Hạo bị
Trức Dung giết và Chu Phù nhờ Mâu Tử đi mở đường. Chu Phù cô
thế bị giết khoảng năm 195 trở đi cho đến 197.
Sau khi Phù bị giết, triều Hán cử Trương Tân qua làm
thứ sử. Giang biểu truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô Chí 1 tờ 12a
5-11 nói: "Bấy giờ có đạo sĩ Vu Cát đất Lang Nha, ngụ cư
phương đông, đi lại Ngô Hội, lập tịnh xá, đốt hương, đọc sách
đạo, chế làm nước bùa (phù thủy) để trị bịnh. Người Ngô Hội
phần nhiều thờ ông. Sách thường ở trên lầu cửa thành quận,
tập họp khách khứa các tướng. Cát bèn ăm mặc xum xoe, chống gậy
nhỏ_1 sơn vẽ gọi là gậy người tiên, đi qua dưới cửa. Khách
khứa các tường hai phần ba xuống lầu đón lạy. Quan chướng tân
cấm la, cũng không thể ngăn. Sách liền hạ lệnh bắt Cát. những
người thờ Cát sai vợ và con gái vào gặp mẹ Sách xin cứu Cát.
Bà mẹ gọi Sách nói: "Vu tiên sinh giúp quân làm phước, chữa
giúp tướng sĩ, không nên giết". Sách nói: "Tên này yêu
vọng, có thể huyễn hoặc lòng người, xa khiến các tướng không
còn quan tâm đến lễ nghĩa vua tôi, đều bỏ Sách, xuống lầu lạy
nó, không thể không trừ nó". Các tướng lại liên danh trình
bày sự việc xin tha Sách nói: "Xưa Trương Tân đất Nam Dương
làm thứ sử Giao Châu, vứt điển huấn thánh trước, bỏ pháp
luật nhà Hán, thường mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt
hương, đọc sách đạo tà tục, bảo để giúp giáo hóa, cuối cùng
bị mọi nam giết. Điều đó rất vô ích, các vị chỉ chưa hiểu thôi.
Nay tên này đả ở trong sách cũ, đừng tốn thêm giấy bút với
nó". Liền lôi ra chém, treo đầu ở chợ. Những người thờ
Cát vẫn không nói là chết, mà bảo là thi giải, rồi cúng vái
cầu phước."
Ngu Hỷ viết Chí Lân dẫn trong Ngô chí 1 tờ 12b1-3 đã
nhận xét: "Hỷ khảo cứu Hoàn Vương chết ngày 4 tháng 4 năm
Kiến An thứ năm (200). Lúc ấy Tào, Viên đánh nhau chưa có thắng
bại. Cứ thơ của Hạ Hầu Nguyên Nhượng viết cho Thạch Uy Tắc sau khi
phá Viên Thiệu, thơ nói: "Đem Trường Sa trao cho Tôn Bí, lấy Linh
Quế làm cơ nghiệp cho Trương Tân". Điều này là chỉ Hoàn Vương
mất trước, Trương Tân chết sau, không được nhượng, nói vì ý
Tân chết".
Bùi Tùng Chí trong Ngô Chí 1 tờ 12b3-4 nói rõ ra là
Giang biểu truyện sai, khi bảo Trương Tân chết trước Tôn Sách:
"Theo Giao Quảng nhị châu xuân thu do đại trung chính Quảng Châu
Vương Phạm dâng lên vào năm Thái Khương thứ 8 (287), thì Kiến An
năm thứ 6 (201) Trương Tân còn làm châu mục Giao Châu. Giang biểu
truyện sai, như Chí lâm đã nói".
Fukui_1 bình luận về báo cáo cuả Giang biểu truyện,
dẫn thêm Địa lý chí hạ của Tấn thơ 15 nói Trương Tân làm thứ
sử Giao Châu năm Kiến An thứ 8 (203), mà Hồ Tam Tỉnh đã tán đồng
khi chú thích Tư trị thông giám 66, rồi kết luận: "Trương Tân
làm thứ sử Giao Châu trong khoảng năm Kiến An thứ 6 (201), còn năm
Chu Phù bị giết là trước năm Kiến An thứ 5 (200)". Điểm đáng
ngạc nhiên là trong khi nhận ra nhân vật, mà Tôn Sách dẫn ra trên,
dứt khoát không phải Trương Tân, vì Tân còn làm thứ sử Giao
Châu sau khi Sách chết, thế mà Fukui vẫn bình luận tiếp về lối sống
"vứt điển huấn thánh trưóc, bỏ pháp luật Hán gia, thường
mặc áo đỏ gạch, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương, đọc sách tà
đạo tà tục" là của Trương Tân, mà không tìm thử xem ngưòi
sống lối sống đó là ai.
Theo chúng tôi, thứ nhất, ngoài chứng cứ cuả Chí
lâm, Giao Quảng nhị châu xuân thu và Tấn thơ địa lý chí, xác nhận
Trương Tân còn làm thứ sử Giao Châu sau khi Tôn Sách chết vào
năm 200, ta còn có lá thư của Hứa Tinh viết cho Tào Tháo vào năm
205, mà truyện Hứa Tỉnh trong Thục Chí 8 tờ 203-3b7 đã chép lại,
nói: "Đường đời gai góc, họa loạn cùng hợp, khủng khiếp
lén sống, tự trốn mọi rợ, thanh hết mười năm.. Lại có Trương
Tử Vân xưa ở kinh đô, chí phò vương thất, nay tuy đến cõi hoang,
không được tham dự bản triều, thì cũng là phiên trấn cuả quốc
gia, ngoại viện cuả túc hạ...". Sau câu vừa dẫn, Bùi Tùng Chi
chua: "Tử Vân, tên Tân, ngưòi Nam Dương, làm thứ sử Giao
Châu. Xem Ngô chí".
Vậy, sau khi Hứa Tinh đến Giao Châu năm 195 và ở đó
"thành hết mười năm", mới viết thư cho Tào Tháo, và trong
thư có nhắc đến vai trò của Trương Tân đang còn sống đối với
Tháo, thì rõ ràng đến năm 205, khi lá thơ viết, Trương Tân đang
còn là thứ sử Giao Châu. Như thế, nhân vật mà Tôn Sách nêu ra
trong lời nói của ông trong Giang biểu truyện dứt khoát không phải
là Trương Tân đất Nam Dương. Ấy thì, ngưòi đó là ai?
Đây là điểm thứ hai chúng tôi muốn đề cập tới.
Thật ra, người đó không ai xa lạ hơn là Chu Phù. Đáng lẽ, Giang
biểu truyện phải viết Cối Kê Chu Phù, thay vì Nam Dương Trương Tân,
mới hợp với cái chết của Tôn Sách vào năm 200. Lý do cho chúng
tôi nghĩ nhân vật ấy là Chu Phù gồm hai yếu tố. Một là Hậu Hán
thơ im lặn không nói tới quan hệ của Chu Phù với Chu Tuấn và Chu
Hạo. Đây là một hình thức bào hiếm mà bút pháp viết sử Trung
Quốc thường vận dụng đối với các nhân vật mà người viết
sử có những vấn đề không tán thành. Mà trong trường hợp này
nếu lối sống "vứt điển huấn thánh trước, bỏ pháp luật Hán
gia" quả là của Chu Phù, thì Chu Phù tất nhiên phải chịu một
hình phạt tức cho quên lãng vào lịch sử bằng cách không được
nhắc tới. Hai là quan hệ của Chu Phù với Mâu Tử. VÀo năm 194.
Mâu Tử lúc ấy đã là một Phật tử thành tín. Sau khi Trức Dung
giết Chu Hạo, Chu Phù đã nhờ Mâu Tử, một Phật tử, giúp mình đi
trả thù cái chết của Chu Hạo. Quan hệ này phải nói không những
có tính chính trị, mà còn có tính tôn giáo nữa, vào lúc ấy. Ta
có trường hợp Trức Dung quan hệ với Triệu Dục của Quảng Lăng
và Tiết Lễ cuả Bành Thành. Viết Dụ nghi luận vào cuối thế kỷ
thứ IV, mà Tăng Hựu chép lại trong Xuất tam tạng ký tập 5 ĐTK 2145
tờ 41b-11. Tăng Duệ đã nhắc tới việc "Hán mạt Ngụy sơ, hai
tướng Quảng Lăng và Bành Thành xuất gia".
Bản thân Trức Dung là một Phật tử nhiệt thành.
Trong thời gian làm đốc vận tào ba quận Quảng Lăng, Bành Thành và
Hạ Bì, Trức Dung đã cho xây chùa lớn, đúc tượng cao và gầy
dựng một phong trào Phật giáo mạnh mẽ, không những ở Hạ Bì, mà
các quận ở bên cạnh, như truyện Trức Dung dẫn trênn đã nói. Khi
Tào Tháo đánh Đaò Khiêm vào năm 193, Dung rút quân về Quảng
Lăng. Tướng Quảng Lăng là Triệu Dục đã đón tiếp Dung nồng hậu.
Truyện Trương Chiêu trong Ngô chí 7 tờ 1a6-b8 nói:
"Trương Chiêu, tự Tử Bố, người Bành Thành, nhỏ hiếu học,
giỏi chữ lệ, theo Bạch Hầu Tử Am học Tả thị xuân thu, rộng xem
các sách, cùng Triệu Dục đất Lang Nha, Vương Lãng đất Đông Hải,
đều nổi tiếng bạn tốt... Thứ sử Đaò Khiêm cử mậu tài, Chiêu
không ứng. Khiêm cho là khinh mình, nên Chiêu bị bắt, Dục hết mình
tìm cách cứu, Chiêu mới được miễn".
Triệu Dực cùng các danh nho Trương Chiêu (155-235),
Vương Lăng (?-229) làm bạn, do thế xuất thân cũng là một nhà nho,
và đã có cơ hội cứu Trương Chiêu khỏi hình phạt của Đào
Khiêm. Điều này chứng tỏ Dục ra làm quan với Đào Khiêm tương
đối sớm. Đến năm 193 Tào Tháo tấn công Đào Khiêm, Dục đã
làm thái thú Quảng Lăng, để đón tiếp Trức Dung, lúc Dung rút
quân tới. Tuy cuối cùng Dung đã giết Dục, việc Dung tìm tới Dục
biểu thị một quan hệ mật thiết giữa họ đã được thiết lập từ
trước. Quan hệ này là quan hệ chính trị, nhưng không loại trừ khả
năng tôn giáo. Bản thân Trức Dung, như đã thấy, là một Phật tử
nhiệt thành. Bây giờ qua Dụ nghi luận ta biết Quảng Lăng tướng
Triệu Dục "xuất gia". Quan hệ giữa họ như vậy mang nặng dấu
ấn Phật giáo.
Tất nhiên, Triệu Dục không "xuất gia", theo
kiểu Nghiêm Phật Điều, người Trung Quốc đầu tiên được lịch sử
Phật giáo Trung Quốc xác nhận là "xuất gia". Trái lại, ông
"xuất gia" theo kiểu Giang biểu truyện mô tả về Chu Phù nói
trên theo lời của Tôn Sách, đó là "vứt điển huấn của
thánh trước, bỏ pháp luật của Hán gia, mặc áo đỏ, bịt đầu,
đánh đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục, bao để giúp giáo
hóa". Ý nghĩa chữ "xuất gia" đã được mở rộng và
qui chiếu theo một số tiêu chuẩn mới: Thứ nhất là khước từ
những tư tưởng khuôn phép cũ, biểu thị ở đây bằng việc
"vứt điển huấn cuả thánh trước, bỏ pháp luật cuả Hán
gia". Và thứ hai là chấp nhận những tư tưởng lối sống mới,
thể hiện bằng việc "mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt
hương, đọc sách đạo tà tục".
Sự kiện "mặc áo đỏ, bịt đầu" này đối
với người Trung Quốc là một truyện lạ, như truyện Lưu Bằng của
Thần tiên truyên 5 đã ghi: "Điện hạ có chuyện lạ (quái), rồi
có mấy mươi người áo đỏ bịt tóc". Và chỉ có những ngưòi
"lập dị" mới làm như truyện Hướng Hú cuả Hậu Hán thơ 111
tờ 19a7-8 đã nói: "Lại giống như kẻ cuồng, thích cắt tóc, bịt
đầu" là không đúng với "phép tắc nhà Hán" và chỉ
"cuồng sanh" mới làm. Trong khi đó, ở nước ta điều 11 của
Lý hoặc luận nói: "Nay sa môn cạo tóc đầu, mặc áo đỏ, thấy
người không có lễ nghi qui đứng, không có dung mạo đoan trang, sai
trái với phép mạo phục, sai với cách ăn mặc vậy".
Đó là về hình thức lối sống. Còn về tư tưởng,
thì "đánh đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục". Sách
đạo tà tục (tà tục đạo thơ) nói ở đây không chỉ và không
có nghĩa là kinh sách đạo giáo, mà chỉ kinh sách Phật giáo. Hậu
Hán thơ 118 tờ 18b6-7 trong phần Tây Vực truyện khi bình luận về kinh
Phật đã nói: "(Kinh Phật) làm rõ lời dạy lắng lòng cởi
lụy, làm rõ tôn chỉ về không hữu gồm sai, thuộc dòng sách
đạo" (đạo thơ chi lưu). Vậy "đọc sách tà tục" đây
chính là đọc sách kinh Phật giáo.
Như thế, khi đọc kinh Chu Phù đã "mặc áo đỏ,
bịt đầu, đánh đàn, đốt hương", thì về ngoại hình, thực
không khác gì một nhà sư. Có lẽ, lúc kinh Phật mới truyền vào
Viễn Đông những thế kỷ đầu dương lịch, việc ăn mặc lúc đọc
kinh của những người tại gia cũng như xuất giả không khác nhau
lắm. Chính vì vậy, Dụ nghi luận mới nói tới sự xuất gia cuả
Triệu Dục và Tiết Lễ.
Việc thế Chu Phù vào nhân vật Trương Tân của câu
nói Tôn Sách dẫn trên, như vậy, không những phù hợp với thời
điểm Tôn Sách chết, mà còn hoàn toàn được lý giải qua quan hệ
của Chu Phù với Mâu Tử do Lý hoặc Luận ghi lại. Tôn Sách mất
năm 200, mà Giao Quảng nhị châu xuân thu của Vương Phạm lại nói năm
201 "Trương Tân còn làm thứ sử Giao Châu". Thế thì Trương
Tân đã làm thứ sử Giao Châu trước năm 201, tức ít lắm là
vào năm Tôn Sách mất, nếu không là sớm hơn.
Theo chúng tôi, Trương Tân qua làm thứ sử Giao Châu
sớm hơn nhiều, có thể là vào năm 197, sau khi Chu Phù bị "mọi
man" giết vào khoảng năm ấy, như đã giả thiết ở trên. Giả
thiết này là dựa trên câu nói cuả Tôn Sách trong Giang biểu
truyện dẫn trước. Sách nói: "Xưa Trương Tân đến Nam Dương làm
thứ sử Giao Châu, vứt điển huấn của thánh trước, bỏ pháp
luật của Hán gia..." Bây giờ ta đã biết: "Nam Dương Trương
Tân" là một chép lộn của "Cối Kê Chu Phù", thì việc
Chu Phù chết phải xảy ra trước năm Tôn Sách mất một thời gian
đáng kể, để cho Tôn Sách dùng chữ "xưa" (tích), khi đề
cập đến Chu Phù. Và ta cũng biết Chu Phù không thể mất trước
năm 195, khi Chu Hạo bị Trức Dung giết và Chu Phù đã yêu cầu Mâu
Tử giúp đỡ. Vậy, nếu Tôn Sách mất vào năm 200, thì năm 197 có
khả năng là thời điểm Chu Phù bị giết, để ba năm sau đó, khi kể
lại sự kiện Chu Phù, Tôn Sách đã dùng chữ "xưa" (tích).
Chu Phù mất năm 197, Trương Tân qua làm thứ sử thế,
cho đến ít lắm là năm 205, khi Hứa Tinh viết thư giới thiệu Tân
với Tào Tháo, như đã thấy. Đồng thời, Tân phải mất trước
năm 208, năm Lưu Biểu mất, như truyện Lưu Biểu trong Hậu Hán thơ 104
hạ tờ 10a8-9 và Ngụy chí 6 tờ 12b2 đã ghi, để cho Lưu Biểu cử
Lại Cung làm thứ sử Giao Châu thay Tân và Ngô Cự làm thứ sử
Thương Ngô thay Sử Hoàng. Năm Kiến An thứ 13 (208) Lưu Bị ở với
Lưu Biểu khuyên Biểu đánh Hứa. Biểu không nghe. Tào Tháo lại dẫn
quân nam chinh thì Biểu mất, nhân đó lấy được Kinh Châu.
Giang biểu truyện do Bùi Tùng Chi dẫn trong truyện Lưu Bị
cuả Thục chí 1 tờ 6a12-b4 nói: "(Khi Biểu mất) Tôn Quyền sai Lỗ
Túc đi điếu Lưu Biểu, thăm hai con Biểu, cùng lệnh kết liên với
Lưu Bị. Túc chưa đến, mà Tào Công đã vượt qua Hán Tân. Túc cố
tiến về trước để gặp Bị ở Đương Dương, nhân nói ý của
Quyền, bàn sự thế thiên hạ, tỏ lòng ân cần, đồng thời hỏi
Bị: "Dự châu nay muốn đi đâu?". Bị đáp: "Vì có quen
với thái thú Thương Ngô, Ngô Thần, nên muốn đi đến đó".
Túc nói: "Tôn Thảo lặc thông minh nhân huệ, kính hiền đãi sỹ,
anh hào Giang Biểu đều về qui phục, đã chiếm sáu quận, quân giỏi,
lương nhiều đủ để dựng việc. Nay vì ngài đưa kế thì không còn
gì hơn là sai ngưòi phúc tâm, khiến tự liên kết với phía đông,
tôn trọng sự liên hòa, cùng cứu cơ nghiệp mấy đời. Còn nói
muốn đến Ngô Thần, thì Thần là một người tầm thường làm việc
tại một quận xa, sắp bị người ta thôn tính, há đủ để dựa vào
ư?" Bị rất mừng, tiến đến ở Ngạc huyện, liền sai Gia Cát
Lượng theo Túc đến Tôn Quyền thề kết đồng minh".
Rõ ràng, Ngô Thần mà Lưu Bị muốn đến nương tựa
ở đây, là Ngô Cự của truyện Sĩ Nhiếp của Ngô chí dẫn trước,
như Thục chí quyển nhị khảo chứng tờ 1b2-3 đã nhận ra. Và năm
mất của Lưu Biểu phải là năm Kiến an 13 (208), chứ không phải 12,
như truyện Lưu Bị ở đây đã có. Vậy, Lưu Biểu mất năm 208 và
Trương Tân còn sống tới năm 205, thì việc Trương Tân và Sử
Hoàng mất chắc phải vào năm 206 và Lại Cung cùng Ngô Cự xuống
thế năm 207. Để năm sau khi Lưu Biểu mất, Lưu Bị đã có ý đến
ở nhờ Ngô Cự, lúc ấy đã thay Sử Hoàng làm thái thú Thương
Ngô.
Vậy thì, nếu Mâu Tử về Thương Ngô cưới vợ vào
khoảng những năm 186, thời điểm đó Sử Hoàng đã làm thái thú
thương Ngô chưa? Câu hỏi này ta hiện không thể trả lời dứt
khoát. Tuy nhiên, giống như trường hợp Sĩ Nhiếp làm thái thú Giao
Chỉ hơn 40 năm, tức từ khoảng năm 180 đến năm Hoàng Vũ thứ 5
(226), ta có thể giả thiết Sử Hoàng cũng làm thái thú Thương Ngô
trong khoảng từ 180 đến khi mất khoảng 207. Nếu chấp nhận giả thiết
này, thì vị thái thú muốn mời Mâu Tử làm quan ở Thương Ngô,
không ai khác hơn là Sử Hoàng.
Chúng tôi phải nêu lên giả thiết vì lá thư do Hứa
Tih viết cho Tào Tháo trong truyện Hứa Tịnh cho Thục chí 8 tờ 2a12-b3
nói là năn Hứa Tinh chạy qua nước ta có ghé lại Nam Hải, nghe tin
Tháo phò vua Hán bèn "Vừa buồn vừa vui, liền với Viên Bái,
Từ Nguyên Hiền lại cùng chuẩn bị, tính lên Kinh Châu phía bắc. Gặp
lúc các huyện Thương Ngô, mọi Việt nổi lên như ong, châu phủ đổ
nhào, đường sá cắt đứt, Nguyên Hiền bị hại, già trẻ đều bị
giết. Tinh lần theo bờ mé, 500 dặm hơn, lại gặp đau ốm, bác gái
mất mạng cùng với những người đi theo và vợ con, một lúc chết
sạch. Lại phải bồng bế nhau, đi về phía trước thì đến quận
này" (tức Giao Chỉ). Vậy ngay năm 195, ở Thương Ngô đã xảy ra
cuộc khởi nghĩa của những người Việt, "lật nhào châu
phủ", thì không biết thái thú lúc ấy Sử Hoàng hay một người
khác nữa. Nay cứ tạm cho là Sử Hoàng vẫ làm thái thú_1.
Sau khi Mâu Tử từ chối làm quan, Sử Hoàng lại nhờ
Mâu Tử đi Kinh Châu để "trí kinh". Truyện Lưu Biểu trong Ngụy
chí 6 tờ 12a1-b2 nói Lưu Biểu làm thứ sử Kinh Châu từ năm 190.
Hiến đế kỷ trong Hậu Hán thơ 9 tờ 2b13 đều nói
thái thú Trường Sa Tôn Kiên giết thứ sử Kinh Châu Vương Duệ
vào mùa đông năm Sơ Bình thứ nhất (190), trong khi truyện Lưu Biểu
cũng của Hậu Hán thơ 104 hạ tờ 7a13-8a2 lại nói: "Năm Sơ bình
thứ nhất thái thú Trường Sa Tôn Kiên giết thứ sử Kinh Châu
Vương Duệ, chiếu thư lấy Biểu làm thứ sử Kinh Châu". Truyện
Biểu trong Ngụy chí 12 tờ 12a1 cũng nói thế. Truyện Sĩ Nhiếp trong
Ngô chí 4 tờ 7a13-8a10 lại cho biết thêm Lưu Biểu đã từng có ý
đồ riêng đối với Giao Châu, để sau này khi Trương Tân chết vào
khoảng năm 205, Biểu đã cử Lại Cung đến thế Tân làm thứ sử,
dẫn tới việc Tào Tháo coi Biểu là một tên "nghịch tặc".
Trước đây, vì ý đồ và hành động dòm ngó của
Lưu Biểu, cộng thêm với việc coi câu nói của Tôn Sách trong Giang
biểu truyện về Trương Tân chứ không phải về Chu Phù, Fukui_2 đã
giải thích sự kiện thái thú Thương Ngô nhờ Mâu Tử đi "trí
kinh" Kinh Châu, chính là đi "trí kinh" Lưu Biểu. Giải thích
này không phải là không có những khó khăn của nó. Lý do là vi
phần tự truyện của Lý hoặc luận nói việc Mâu Tử trở về
Thương Ngô lấy vợ và được thái thú nhờ đi "trí kinh"
Kinh Châu là phải xảy ra "trước lúc đó" (tiên thị thời),
tức trước lúc Linh đế băng hà. Linh đế băng hà vào ngày Bính
Thìn tháng tư năm Trung Bình thứ 6 (189). Vậy nếu Mâu Tử có được
nhờ đi trí kinh Kinh Châu, thì cũng phải được nhờ vào khoảng
trước năm 189. Mà năm này Vương Duệ chắc chắn phải còn làm
thứ sử Kinh Châu, vì Duệ đến tháng 10 năm Sơ Bình thứ nhất (190),
tức hơn một năm sau mới bị Tôn Kiên giết. Cho nên, không thể có
chuyện Mâu Tử được nhờ đi Kinh Châu để "trí kinh" Lưu
Biểu. Khi Biểu tới nhận chức, tình hình Kinh Châu cực kỳ rối
loạn, đến nỗi "Biểu không thể đến được, bèn một ngựa
vào Kinh Thành, cho mời Bằng Việt ngưòi Nam Quận, Thái Mạo người
Tương Dương, cùng đến định mưu kế hoạch", như truyện Biểu trong
Hậu Hán thơ 104 hạ tờ 8a3-5 đã ghi. Phải trải qua hơn 8 năm, sau khi
đã dẹp bọn giặc Tôn, giết Tôn Kiên và Trương Sa Trương Tiện đem
ba quận Linh Lăng, Quế Dương phản, Biểu sai lính đánh vây, phá Tiện,
bình định được, do thế mở đất rộng ra, nam tiếp với Ngũ Lĩnh,
bắc cứ Hán Xuyên, đất đai mấy ngàn dặm, quân đội mười vạn
hơn.
Thế có nghĩa phải đến năm 198, tức hơn 8 năm sau khi
nhậm chức, Kinh Châu của Lưu Biểu mới ổn định. Và đặc biệt vào
những năm đầu, nhất là năm 190, khi mới đến, tình hình quá phức
tạp đến nỗi Biểu phải "đơn mã" vào Nghi Thành, thì việc
"Trí kinh Lưu Biểu" do thái thú Thương Ngô nhờ Mâu Tử
không thể nào xảy ra được. Chính vì thế, việc đi "trí kinh"
này, một mặt phải xảy ra trước năm 189, như tự truyện của Lý
hoặc luận đã ghi, và mặt khác nhân vật được "trí kinh"
không phải là Lưu Biểu, mà là Vương Duệ. Dẫu sao đi nữa, Mâu
Tử đã không đi trí kinh Kinh Châu, và sau khi cưới vợ ở Thương
Ngô đã đem vợ trở về Giao Chỉ để ở với mẹ mình.
Việc đem vợ trở về nay hẳn đã diễn ra trước
những năm 189. Đây là thời điển bùng nổ hiện tượng các
"dị nhân phương Bắc" đổ về nước ta để tránh nạn và đua
nhau "thực hành thuật thần tiên tịch cốc trường sinh" đến
nỗi Mâu Tử phải đóng vai Mạnh Kha chống lại phong trào học tập
học thuật ấy như ta sẽ thấy ở dưới đây. Đó đồng thời cũng
là lúc Chu Phù tiếp xúc với Mâu Tử, dẫn tới việc nhờ vả
Mâu Tử sau này trong vụ Chu Hạo bị Trức Dung giết ở Dự Chương.
Thế Chu Phù đến làm thứ sử nước ta lúc nào?
Hậu Hán thơ 63 tờ 1a6-6b5 có chép lại truyện của
một người tên Chu Phù. Nhưng Chu Phù đây là đại tư không Chu Phù
thời Lưu Tú, chứ không phải là Chu Phù làm thứ sử nước ta.
Lá sớ của Tiết Tôn trong Ngô chí 8 tờ 7b7-10 ngược lại có ghi
tên một Chu Phù làm thứ sử Giao Châu, gốc người Cối Kê và có
những "hương nhân" như Ngu Bào, Lưu Ngạn, Lưu Ngạn này, phần
tự truyện của Lý hoặc luận có nhắc tới như kỵ đô uý Lưu Ngan
và được Giao Châu mục giao cho nhiệm vụ mang quân qua Dự Chương
đánh trả trung lang tướng Trức Dung để trả thù cho việc Dung đã
giết "Người em của Châu mục" (Mục đệ) lúc ấy đang làm
thái thú Dự Chương.
Chuyện của Trức Dung trong Hậu Hán thơ 103 tờ 11a3-12
và trong Ngô chí 4 tờ 2a 10-38 có chép việc Dung giết "Quận thú
Dự Chương Chu Hạo" Và việc này phải xaỷ ra giữa những năm
193 và 194. Lý do là vì truyện Đào Khiêm trong Hậu Hán thơ 103 tờ
10b7-11a3 nói: "Năm Sơ Bình thứ 4 (193) Tào Tháo đánh Khiêm, phá
huyện Phó Dương của Bành Thành. Khiêm lui giữ Diệm, Tháo đánh
không thể thắng, bèn trở về đi qua đánh lấy Thủ Lự, Thư Lăng,
Hạ Khưu, đều giết hết, phàm giết trai gái mấy chục vạn người,
gà chó không còn. Sông Tứ vì thế không chảy (...) Hưng Binh năm
thứ nhất (194) Tào Tháo lại đánh Khiêm, lược định Lang Nha, Đông
Hải các huyện, Khiêm sợ không thoát, muốn chạy về Đan Dương (...).
Năm đó Khiêm bệnh chết".
Trong khi đó, truyện Trước Dung lại chépl: "Đến
khi Tào Tháo đánh Khiêm, vùng Từ không yên, Dung bèn đem trai gái
vạn người, ngựa ba nghìn con, chạy đến Quảng Lăng. Thái Thú Quảng
Lăng Triệu Dục dùng tân lễ đãi Dung. Dung ham lợi của cải của
Quảng Lăng, bèn thừa lúc say rượu giết Dục, thả lính cướp hết,
nhân đó qua sông chạy về ở Dự Chương, giết quận thú Chu Hạo,
vào chiếm lấy thành. Sau bị thứ sử Dương Châu Lưu Do đánh bại.
Dung chạy vào trong núi, bi người ta giết".
Truyện Do trong Hậu Hán thơ 106 tờ 14b8-11 nói: "Trong
khoảng Hưng Bình Do làm chấn uy tướng quân Dương Châu Mục. Bấy
giờ Viên Thuật chiếm Hoài Nam Do bèn dời đến ở Khúc A. Gặp lúc
Trung Quốc tán loạn, sĩ phu phần lớn chạy về nam. Do nhận tiếp đãi
nuôi dưỡng, cùng họ lo lắng, rất được tiếng khen. Viên Thuật sai
Tôn Sách đánh thắng Do. Do nhân thế chạy đến Dự chương, bệnh
chết". Truyện Do trong Ngô Chí 4 tờ 2a3-10 nói chi ly hơn: "Tôn
Sách vượt sông về đông, đánh Trương Anh và Phàn Năng v.v... Lưu
Do tới Đan Đồ, rồi qua sôg về nam giữ Dự Chương, đóng ở Bành
Trạch. Trức Dung đến trước, giết thái thú Chu Hạo, vào ở trong
quận. Do tiến quân đánh Dung, bị Dung đánh bại, lại tập hợp các
huyện thuộc quyền mình đánh Dung. Dung bại, chạy vào núi, bị dân
giết"
Còn Hậu Hán thơ 9 tờ 5b10 dưới mục năm Hưng Bình
thứ nhất (194) viết: "Năm đó thứ sử Dương Châu Lưu Do cùng
với tướng Viên Thuật là Tôn Sách đánh ở Khúc A, quân Do Bại
tích, Tôn Sách chiếm cứ Sơn Đông".
Bùi Tùng Chi lại dẫn Giang biểu truyện chú thích
truyện Tôn Sách, nói Sách "Vượt sông" đánh Lưu Do vào
năm Hưng Bình thứ 2 (195). Điều này có nghĩa là Do đến Dự Chương
không thể chậm hơn 195. Chính tại Dự Chương này, Do hẳn đã đánh
Trức Dung. Do thế, Trức Dung có thể bị đánh và sau chết năm 195. Cho
nên, việc Dung đánh Chu Hạo không thể xảy ra chậm hơn năm 195 và
có khả năng xảy ra vào năm 194, vì đó là năm Tào Tháo đánh
Đào Khiêm tại hai quận Bành Thành và Hạ Bì do Dung cai trị. Từ
âý Dung chạy qua Quảng Lăng giết Triệu Dục, rồi đến Dự Chương
giết Chu Hạo. Việc Hạo chết phải xảy ra như thế vào khoảng năm 194
đã gây cho Chu Phù "nỗi đau cốt nhục, uất phát tim gan",
khiến Phù phải sai kỵ đô uý Lưu Ngạn đen quân trả thù và nhờ
Mâu Tử đi mở đường.
Vào khoảng những năm 193-195 Chu Phù đã có mặt tại
nước ta với tư cách châu mục. Thế Phù đến nước ta lúc nào?
Năm 178, cha của Chu Phù là Chu Tuấn đã được cử làm thứ sử
Giao Chỉ để đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Lương Long. Đến năm 184
Giả Tôn lại được cử làm thứ sử để đánh dẹp cuộc khởi
nghĩa cuả Trụ Thiên tướng quân. Đó là theo truyện của Chu Tuấn
và Giả Tôn trong Hậu Hán thơ 101 tờ 7b1-9 và 61 tờ 14a1-b1. Ba năm
sau, Giả Tôn được gọi về, tức năm 186. Cứ truyện Sĩ Nhiếp trong
Ngô Chí 4 tờ 7a5-11 nói thì em Sĩ Nhiếp là Sĩ Nhất đã quen biết
Đình Cung khi Cung làm thứ sử Giao Chỉ. Cứ Linh đế kỷ của Hậu Hán
thơ 8 tờ 11b2 và 12b8, tháng 5 năm Trung Bình thứ 4 (187) Đinh Cung làm
tư không, tháng 8 năm sau (188) cung được cử làm tư đồ. Như thế,
nếu Cung có làm thứ sử Giao Chỉ, thì cũng chỉ làm trong một thời
gian ngắn, tức khoảng giữa năm 186 đến giữa năm 187.
Chính trong thời gian ấy, cũng theo truyện của Giả Tôn
đã xảy ra một cuộc "sa thải thứ sử hai ngàn thạch, lại chọn
các quan lại trong sạch có khả năng". Hẳn qua cuộc thanh lọc này,
Chu Phù như một thành phần quan lại trẻ đã được đề bạt làm
thứ sử Giao chỉ. Hơn nữa, đó cũng là thời điểm cha của Phù
là Chu Tuấn đang có uy tín lớn do những chiến công trong việc đánh
dẹp cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân và các cuộc khởi nghĩa khác như
Trương Phi Yến, Trương Bạch Kỵ v.v... Đến lúc Đổng Trác nắm quyền
vào tháng 8 năm Trung Bình thứ 6 (189), sau cuộc nổi loạn Thập thưòng
thị của Trương Nhượng Đoàn Khuê, Chu Tuấn đã được Trác mời
làm phó tướng quốc cho Trác, nhưng Tuấn từ chối. Đào Khiêm,
Khổng Dung và những người khác đã tôn Tuấn làm thái sư để
đánh Trác. Chưa thực hiện, thì Vương Doãn đã giết Trác vào
tháng tư năm Sơ Bình thứ 3 (192). Tháng 5 sau (193) Chu Tuấn được
trưng bày làm thái uý. Tháng 7 năm Hưng Bình thứ nhất (194) miễn
làm thái uý, trao lại cho Dương Bưu, Tuấn được chiếu cùng Dương
Bưu và 10 người khác đi hòa giải Lý Thôi Quách PHiếm. Năm đó
Tuấn mất.
Vậy Chu Phù hẳn đã đến làm thứ sử nước ta
khoảng năm 187 trở đi, cho Đinh Cung về Lạc Dương làm tư không.
Điểm đáng nói là truyện Chu Tuấn trong Hậu Hán thơ 101 tờ 11a10-11,
sau khi Chu Tuấn mất đã viết: "Con Hạo cũng có tài hạnh, làm
quan đến thái thú Dự chương". Thế phải chăng Chu Phù không
phải là con của Chu Tuấn? Tất nhiên, việc Phạm Việp không kể tên
Chu Phù vào những người con của Tuấn không có nghĩa Phù không
phải là con Tuấn, mà chỉ phản ảnh một quan điểm đánh giá lịch
sử đối với từng nhân vật như chính Việp đã chủ trương trong
lời Tư tự của mình là "dĩ văn truyền ý" Ý của Phạm
Việp thế nào, để dẫn đến việc loại bỏ tên Chu Phù, chúng ta
ngày nay khó có thể biết được.
Nhưng cứ vào câu nói của Tôn Sách dẫn trước về
sự kiện Phù "vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật
của Hán gia, thường mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh đàn, đốt hương,
đọc sách đạo tà tục", ta có thể đoán ra một phần nào. Đó
là việc Phù đã chối bỏ toàn bộ hệ ý thức, mà ông có chức
năng phải đại diện, để đi theo Phật giáo, và quan hệ thân thiết
với những phần tử, mà "đám thế tục" cho là "quay
lưng với năm kinh, mà đi theo đạo khác", như là Phật tử Mâu
Tử. Một khi đã thế, có thể trong quan điểm của Việp, Phù không
còn xứng đáng để ghi vào sử sách Trung Quốc, đặc biệt ghi vào
bản tên những người con của một danh tướng như Chu Tuấn, mà Việp
bình luận là "đem thao lược cuả thượng tướng, nhân đánh
dẹp vào lúc thảng thốt, đến khi công thành quân thắng, tiếng uy
đồn thiên hạ..." (Hậu Hán thơ tờ 11a 12-b1)
Như thế, Chu Phù sang làm thứ tử Giao Châu khoảng
những năm 187-188. Năm sau khi đem vợ từ Thương Ngô về Giao Chỉ,
Mâu Tử đã gặp Chu Phù, một con người "ưu văn xử sĩ"
biết trân trọng chất xám nhân tài và có ý mời Mâu Tử làm
quan. Một lần nữa ông lấy cớ bệnh tật, mà không ra (xưng tật
bất khởi). Tuy nhiên, một quan hệ tốt đẹp đã được duy trì giữa
hai người. Và quan hệ này đã trở nên gắn bó hơn, khi Phù thực
hiện việc "vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của
Hán gia" để đọc sách "đạo tà tục" của Phật giáo,
để đi theo Phật giáo và sống đời sống cuả một Phật tử. Chính
việc ấy của Chu Phù đã tạo môi trường thuận lợi cho mối quan
hệ mật thiết giữa hai ngưòi, mà sau đó Mâu Tử phải thú nhận
là đã diễn ra trong một thời gian dài (bị mạt phục dịch, kiến ngộ
nhật cửu).
Thời gian dài này có thể đôi ba năm hay hơn nữa,
Mâu Tử tuy không ra làm quan, Chu Phù vẫn đãi ngộ một cách trọng
hậu. Điều này có nghĩa dù không công khai cộng tác, Mâu Tử vẫn
có quan hệ với Phù. Quan hệ này do thế phải dựa trên một cơ sở
riêng tư, cơ sở niềm tin Phật giáo, mà cả hai người đều chia sẻ.
Cho nên, khoảng những năm 193, 194, khi em mình là Chu Hạo bị Trức Dung
giết ở Dự Chương, Chu Phù liền sai kỵ đô úy Lưu Ngạn đến đó,
song sợ cõi ngoài nghi nhau, binh không được tiến. Châu mục bèn
mời Mâu Tử nói: "Em ruột bị nghịch tặc giết hại, nỗi đau cốt
nhục, uất phát tim gan, phải sai Lưu Đô úy đi nhưng sợ cõi ngoài
nghi ngờ, người đi không thông. Ngài văn võ gồm đủ, có tài
chuyên đối phó. Nay muốn giúp nhau, mượn đường Linh Lăng Quế
Dương, lộ trình được thông suốt (Ngài nghĩ) thế nào?" Mâu
Tử trả lời: "Chịu nhờ ơn nghĩa, đãi ngộ lâu ngày, liệt sĩ
quên mình, hẹn dứt khoát ra đi". Thế là dù không làm quan với
Chu Phù, khi Phù có việc nhờ vả, Mâu Tử đã nồng nhiệt đáp
ứng. Sự tình này cho phép ta giả thiết Mâu Tử và Chu Phù đã
có những quan hệ thân tình đặc biệt, vượt ra ngoài quan hệ bình
thường cấp trên cấp dưới. Không những thế, Chu Phù đánh giá
cao khả năng của Mâu Tử, một người "văn võ kiêm bị, có
tài chuyên đối". Và thực tế, việc Mâu Tử đem mẹ từ
Thương Ngô xuống ty thế ở nước ta, rồi về Thương Ngô lấy vợ,
chứng tỏ ông là người có khả năng như thế. Cho nên, việc
mượn đường để dẫn quân đi, trong tình hình các địa phương châu
quận nghi ngờ nhau, Chu Phù tất phải chọn một nhân vật tầm cỡ
"văn võ kiêm bị, có tài chuyên đối" mới thực hiện chu
toàn nhiệm vụ, Phù đã chọn Mâu Tử và mời (thỉnh) ông.
Quả vậy, con đường từ nước ta đi lên phía bắc
Trung Quốc, khoan nói tới tình hình chính trị bất ổn "châu quận
nghi nan" thời Chu Phù, đã đưa ra không ít khó khăn cho những ai
không thông thuộc nó. Truyện Trịnh Hoằng trong Hậu Hán thơ 63 tờ
12b11-13a3 nói: "Năm Kiến Sơ thứ 8 (83) Hoằng sai Trịnh Chúng làm
đại tư nông. Ngày trước bảy quận Giao Chỉ cống hiến, chuyển vận
đều do Đông dã vượt biển mà đến, sóng gió gian hiểm, chết chìm
nối nhau. Hoằng tâu mở đường núi Linh Lăng Quế Dương, do thế
suốt thông, đến nay trở thành thường lộ". Con đường Linh
Lăng Quế Dương, mà Chu Phù nhờ Mâu Tử đi mượn, chính là con
đường này. Tuy gọi là "suốt thông" (di thông) và
"thường lộ", nó không phải không đầy hiểm nguy và trắc
trở.
Chỉ cần đọc lại truyện Hứa Tinh trong Thục chí 9 tờ
2a12-b3, chúng ta không cần đợi lâu để thấy thực tế đó xảy ra
ngay vào thời Mâu Tử. Hứa Tinh kể sau khi Vương Lăng thât thủ ở
Cối Kê vào năm 195, Hứa Tinh đã cùng gia đình thân thuộc với
một số bạn bè như Viên Bái, Từ Nguyên Hiền xuống thuyền chạy
về nam. Đến Quảng Châu, được tin Tào Tháo phò Hiến Đế, Tinh bèn
tìm đường trở về bắc. Đến Thương Ngô, gặp "mọi Việt"
(di Việt) khởi nghĩa đánh Thương Ngô. Một số thân thuộc và bạn
bè bị mất mạng. Tinh bấy giờ mới tìm đường xuôi về Nam, đến
nước ta. Rõ ràng con đường lên phía Bắc không phải bình thường
chút nào, vào thời Mâu Tử. Nó không phải là một "thường
lộ" như Phạm Việp đã nhận xét vào thời mình, mà đầy bất
trắc và hiểm nguy chết người.
Ngay hai chục năm sau khi Trịnh Hoằng mở đường, vào
năm Nguyên Hưng thứ 1 (106) trưởng huyện Lâm Vũ là Đường
Khương, nhân việc "lệ cũ Nam Hải dâng long nhãn, lệ chi, 10 dặm
đặt một trí, 5 dặm đặt một hầu, đi lại hiểm trở, người chết
nối nhau dọc đường. Bấy giờ trưởng huyện Lâm Vũ là Đường
Khương, người Nhữ Nam, có huyện mình tiếp giáp với Nam Hải, bèn
dâng thơ bày tỏ tình trạng, vua xuống chiếu, nói: "Vật quí lạ
nước xa vốn để dâng cúng tôn miếu. Nếu có thương hại, há đó
là gốc thương dân. Ra lệnh thái quan không được nhận đồ
dâng". Đó là theo Hậu Hán thơ 4 tờ 15b8-b1 do Phạm Việp ghi lại.
Chú thích đoạn văn vừa dẫn ở tờ 15a1-5, Lý Hiền
đã cho dẫn Hậu Hán thơ của Tạ Thừa nói càng rõ hơn:
"Đường Khương tự là Bá Du, giao việc công, bổ làm trưởng
huyện Lâm Vũ. Huyện tiếp Giao Châu. Xưa dâng long nhãn, lệ chi và
đồ tươi sống. Dâng rồi, ngày đêm chạy ngựa chuyển đưa, đến
nỗi có người gặp cọp sói độc hại gục ngã tử vong không dứt.
Con đường đi qua Lâm Vũ. Khương bèn dâng thơ can vua nói: "Thần
nghe trên không lấy việc nếm mùi ngon làm đức, dưới không đem
việc dâng thức ngon làm công. Nên thiên tử ăn thì thịt bê là cao
nhất, không lấy quả hạt làm quí. Nép thấy bảy quận Giao Chỉ dâng
long nhãn tươi v.v... thì chim sợ, gió nổi. Đất đai nam châu, trùng
độc thú dữ không hết ở dọc đường đến nỗi xúc phạm, gây
hại chết chóc. Người chết rồi thì không thể sống lại, nhưng kẻ
sắp chết thì có thể cứu được. Hai món ấy (tức long nhãn và
lệ chi) dâng lên đền thì vua chưa chắc dài năm thêm thọ" Vua
nghe theo.
Ngay trong giai đoạn đang còn tương đối ổn định như
thế, và chỉ cách thời gian Trịnh Hoằng mở đường mới 20 năm, mà
con đường Quế Dương Linh Lăng đi từ nước ta đã gây ra không
biết bao nhiêu chết chóc kinh hoàng, đến nỗi một ngưòi huyện
trưởng có lương tri như Đường Khương phải viết thư xin bỏ lệ
cống long nhãn lệ chi của Giao Chỉ. Huống nữa là đến giữa những
năm 193-195, khi toàn bộ đất nước Trung Quốc đang kinh qua một loạt
các bạo loạn và khởi nghĩa khắp nơi. Từ Viên Thiệu, Viên Thuật,
Tào Tháo phía Bắc, đến Tôn Sách, Tôn Quyền phía Nam, Trương Hổ,
Hàn Toại, Mã Đằng, Mã Siêu và Lưu Bị phía tây. Trung Quốc đang
sục sôi trong biến động.
Cho nên, để thực hiện việc đưa quân lên Dự
Chương, nhằm trả thù cho Chu Hạo, Chu Phù phải nhờ đến Mâu Tử.
Trong khi Mâu Tử chuẩn bị lên đường, thì mẹ mất. Thế là ông
phải ở nhà chịu tang và cuộc hành trình lên phía Bắc từ đó
không thành. Sự thật, không hẳn chỉ vì tang mẹ, mà Mâu Tử đành
đình chỉ cuộc đi. Thực tế, vào thời ông có những người có
tang cha hay tang mẹ, mà vẫn tiếp tục thi hành nhiệm vụ do tình hình
chính trị hay quân sự cấp bách đòi hỏi, chứ không ở nhà cư
tang. Ta có trường hợp điển hình Ngu Phiên, mà Ngô chí 12 tờ 1a8-9
đã ghi lại.
Ngu Phiên làm công tào cho Vương Lãng ở Cối Kê. Khi
Tôn Sách vựơt sông tiến đánh. Lăng thất thủ xuống thuyền cùng
bạn bè như Hứa Cống định chạy về nam đến nước ta. Ngu Phiên dù
cha vừa mất cũg xuống thuyền đi theo, bàn với Lãng không nên chạy
về Giao Chỉ. Lãng nghe theo, lên phía bắc đầu quân với Tào Tháo.
Còn Ngu Phiên bèn trở về Diêu Du tiếp tục cư tang cha, rồi sau này
ra làm việc với Tôn Sách và Tôn Quyền. Điều này rõ ràng chứng
tỏ dù có tang cha hay mẹ, khi việc nước cấp bách, người ta phải
tạm lo việc nước trước, rồi sau mới tính đến chuyện để tang. Cho
nên, nếu công tác tiến quân đi Dự Chương có tính cấp bách, hẳn
Mâu Tử có thể tạm thời hoãn việc cư tang, để thi hành nhiệm vụ
mà Chu Phù đã nhờ vả ông đã hứa với lời hứa: "Liệt sĩ
quên mình, hẹn dứt khoát ra đi" (Liệt sĩ vong thân, kỳ tất sinh
hiện).
Song, khi xảy ra tang mẹ, tính cấp bách của việc tiến
quân đi Dự Chương có lẽ không còn nữa, nên Mâu Tử quyết định
ở nhà cư tang. Cuộc đi lên phía Bắc do thế không thành. Lý do cho
sự mất tính cấp bách này, ngoài việc cư tang mẹ của Mâu Tử về
mặt khách quan, ta có thể truy ra ít nhất về hai biến cố, tác động
trực tiếp đến quyết định của Mâu Tử và Chu Phù chuẩn bị xong
quân đội và phương tiện, họ chắc đã nhận được tin Trức Dung
đã bị giết, nên không còn lý do chính đáng để ra đi. Thứ hai,
cũng trong khoảng năm 195 người Việt ở Thương Ngô đã khởi nghĩa,
chận đường về bắc của Hứa Tinh. Tình hình Thương Ngô, cửa ngõ
đi lên phía Bắc không an toàn. Do thế, Mâu Tử có thêm lý do để
đình chỉ.
Ngoài ra, về phía chủ quan của bản thân Chu Phù, theo
Tôn Sách ta biết Phù "cuối cùng bị man di giết", như Giang
biểu truyện nói, mà Bùi Tùng Chi dẫn trong Ngô chí 1 tờ 12a5-11 và
Lý Hiền dẫn trong Hậu Hán thơ 60 hạ tờ 19b11-20a3, song không biết
tại sao truyện Sĩ Nhiếp của Ngô chí 4 tờ 7a9 cũng nói Phù bị đánh
"chạy vào biển" nhưng không nói lý do. Lá sớ của Tiết
Tôn trong Ngô chí 8 tờ 7b7-10 mới nói rõ cho biết Chu Phù tin dùng
đám người cùng quê với mình (hương nhân) như Lưu Ngạn sách
nhiễu dân chúng, đánh thuế quá cao. Do thế, dân chúng cuối cùng
đã nổi lên đánh đuổi Chu Phù phải chạy vào biển mà chết:
"Lại cố thứ sử Chu Phù đất Cối Kê phần nhiều dùng người
cùng quê là bọn Ngu Bào, Lưu Ngạn, phân làm trưởng lại, xâm
ngược bá tánh, ép thuế lân dân. Cá vàng một con, thâu thuế gạo
một hộc. Bá tánh oán phản, giặc núi cùng nổi lên đánh phá
châu quận. Phù chạy vào biển lưu lạc chết mất".
Như vậy, bản thân Chu Phù lúc ở nước ta vẫn có
nhiều vấn đề, mà một trong đó là sự tin dùng hương nhân của
Phù và sự sách nhiễu của đám này. Có thể là một trong những
lý do tại sao Mâu Tử đã không chịu ra làm quan với Chu Phù, dù
Phù vẫn đối đãi trọng hậu với Mâu Tử. Dẫu không làm việc
với Phù, ông hẳn đã tham mưu cho Phù nhiều việc, đặc biệt là
việc "vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật của Hán
gia", để đi theo Phật giáo của Phù. Sự việc này cho phép chúng
ta khẳng định chính quyền Chu Phù Sĩ Nhiếp trong khoảng những năm
187-197 là một chính quyền độc lập thực sự Việt Nam mang tính Phật
giáo. Có thể nói đó là chính quyền Phật giáo Việt Nam đầu tiên
được thành lập. Nói là một chính quyền Việt Nam, vì người
đứng đầu chính quyền này, dù thuộc Hán tộc, đã "bỏ pháp
luật cuả Hán gia", do thế phải dùng tới pháp luật của người
Việt hay Việt Luật. Và là một chính quyền mang tính chất Phật giáo,
vì người đứng đầu ấy đã "vứt điển huấn của tiền
thánh" người Hán, do thế tất phải dùng điển huấn của người
Việt. Mà điển huấn của người Việt lúc đó đã được hoá
thân trong điển huấn của Phật giáo. Dù chính quyền Chu Phù là một
chính quyền Việt Nam độc lập và Phật giáo như vậy, Mâu Tử vẫn
không ra phò trì. Lý do bây giờ đã rõ. Đó là sự có mặt của
đám hương nhân cuả Chu Phù, một đám hương nhân chỉ biết đi sách
nhiễu và gây bất mãn trong dân chúng bằng sưu cao thuế nặng. Đám
này vào khoảng năm 195, để có tiền và lương cho việc chuẩn bị
gởi quân đi Dự Chương, hẳn đã đặt ra nhiều loại thuế, cụ thể
là việc một con cá chép lấy một hột gạo, mà Tiết Tôn đã nói
tới, là một thí dụ điển hình. Chính những loại thuế như thế này
đã gây phẩn nộ trong dân, dẫn cuối cùng tới việc đánh đuổi
không chỉ đám hương nhân này, mà cả Chu Phù nữa.
Điểm khá lý thú là trong khi Chu Phù bị đánh đuổi,
Sĩ Nhiếp với tư cách là thái thú của quận Giao Chi vẫn tiếp tục
công việc cai trị của mình, coi như không có một sự biến gì xảy ra.
Truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô chí 4 tờ 8b3-4 nói Nhiếp làm thái thú Giao
Chỉ "hơn bốn mươi năm" tức khoảng giữa những năm 185-226.
Trong hơn bốn mươi năm này, nó cũng nói tiếp "cương trường
vô sự", nghĩa là không có sự việc gì đáng kể đã xảy ra.
Do thế, việc đánh đuổi Chu Phù và đám hương nhân hẳn không phải
là một biến cố gì ghê gớm và chắc chắn có sự tham gia của
Nhiếp. Bởi nếu Nhiếp không tham gia, thì khi Chu Phù bị đánh đuổi,
chính quyền của Nhiếp tất không thể tồn tại.
Sự tình này cho phép ta rút ra một kết luận khá lôi
cuốn về các chính quyền thứ sử và thái thú Trung Quốc ở nước
ta, sau năm 43 sdl khi Hai Bà Trưng bị đánh bại và trước khi Chu Phù
Sĩ Nhiếp dựng nên một chính quyền Việt Nam độc lập. Đó là sự
tồn tại một hệ thống chính quyền hai đâù, một đầu do các quan
lại Trung Quốc bổ nhiệm sang, và một đầu do chính các quan lại
người Việt nắm giữ. Hệ thống chính quyền do các quan lại người
Việt nắm giữ. Hệ thống chính quyền do các quan lại người Việt
nắm giữ đóng vai trò ngưòi đại diện và bảo vệ thực sự
quyền lợi cuả ngưòi Việt, còn hệ thống thứ sử và thái thú
Trung Quô1c chỉ đóng vai trò tượng trưng cho quyền hành Trung Quốc.
Và vai trò này trong thời gian từ năm 43 đến năm 43 đến năm 190,
tức 150 năm, các quan lại Trung Quốc đã không thực hiện một cách
nghiêm túc, như ta sẽ thấy dưới đây, đến nỗi Tiết Tôn phải than
là "trưởng lại đặt ra, tuy có cũng như không".
Tới đây, ta thấy khi mất mẹ vào khoảng năm 195 và
cư tang với một thời gian lâu (cửu chi) cho tới lúc Chu Phù bị
đánh đuổi vào khoảng năm 197 và cũng là lúc Mâu Tử vừa cư
tang mẹ xong. Mâu Tử đi đến một quyết định là không bao giờ ra
làm quan nữa. Quyết định này được đưa ra qua một phân tích tỉ mỉ
tìn hình chính trị thời ông và một sự cân nhắc kỹ càng và
những mặt lợi hại. Mâu Tử viết: "Lâu (sauS) đó rút lui nghĩ
rằng: "Vì lý do thông giỏi, mà được giao sứ mạng, nay đời
nhiễu nhương, chẳng phải là lúc làm rõ mình". Bèn than nói:
"Lão Tử dứt thánh bỏ trí, sửa thân, giữ chân, muôn vật
không ngăn chí ông, thiên hạ không đổi niềm vui của ông, thiên
tử không được bề tôi, chư hầu không được kết bạn, nên mới
có thể quí". Do thế, ông dốc chí vào đạo Phật, gồm nghiền
ngẫm Lão Tử năm ngàn lời, ngậm huyền diệu làm rượu ngon, chơi
năm kinh làm đàn sáo. Bọn thế tục phần nhiều cho không phải, cho
ông quay lưng với năm kinh mà đi theo đạo khác".
Viết như thế, phải chăng Mâu Tử muốn nó sau ba năm
cư tang mẹ xong, nhân lúc Chu Phù bị đánh đuổi phải chạy vào biển,
Mâu Tử mới "đi theo đạo khác", mới đi theo Phật giáo?
Nghĩa là, phải chăng Mâu Tử đi theo Phật giáo vào khoảng năm 197?
Tất nhiên là không phải. Năm 197 đấy là thời điểm ông "dốc
chí vào đạo Phật" (nhuệ chí ư Phật đạo) chứ không phải bắt
đầu tin hiểu và đi theo Phật giáo, như chính ông đã xác nhận.
Vậy, ông bắt đầu theo Phật giáo từ bao giờ và tại sao ông đi
theo Phật giáo? Đây là những câu hỏi khó trả lời nhất, đặc
biệt là trả lời một cách chính xác và có cơ sở, do tình hình tư
liệu hạn chế và thiếu thốn.
Tuy nhiên, nếu phân tích những gì chính Mâu Tử ghi
lại trong Lý hoặc luận, ta có thể biết một phần nào câu trả lời
cho những vấn nạn vừa nêu. Mở đầu phần tự truyện, Mâu Tử
nói:
"Mâu Tử đã học kinh truyện, chư tử, sách không
kể lớn nhỏ, không có gì là không ham. Tuy không thích binh pháp, song
vẫn đọc. Tuy đọc sách thần tiên bất tử, dẹp mà không tin, cho
là dối trá". Thế là khi viết Lý hoặc luận, Mâu Tử đã đọc
kinh truyện, chư tử cùng binh pháp và sách thần tiên bất tử. Vậy,
Mâu Tử bắt đầu học kinh truyện, chư tử từ bao giờ?
Điều 14, 25 và 31 xác nhận là Mâu Tử đã học kinh
truyện, chư tử cũng như binh pháp thần tiên, trướ khi ông biết
đến Phật giáo. Điều 14 Mâu Tử viết: "Chúng ta tuổi trẻ học
đạo Nghiêu Thuấn Châau Khổng, mà nay bỏ nó, lại học thuật mọi
rợ, không lầm lắm sao? Chữ "tuổi trẻ" dùng ở đây để
chỉ dịch chữ "nhược quán" của Mâu Tử. "Nhược
quán" là "mũ yếu" . Theo Lễ ký con trai 20 tuổi làm lễ
đội mũ, và mũ đây là thuộc dạng "mũ yếu". Cho nên, nói
"Nhược quán", học đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng, Mâu Tử
hẳn lúc đó đã 20 tuổi. Do đó, Mâu Tử viết thêm, sau câu vừa
dẫn: "Đó là dư ngữ của tôi lúc chưa hiểu đạo lớn".
Đạo lớn đây là Phật giáo. Vậy khoảng lúc 20 tuổi Mâu Tử biết
đến sự có mặt của Phật giáo, những vẫn chưa chấp nhận đi theo,
thậm chí còn công kích là mọi rợ là đằng khác.
Từ công kích, lại do thói ham đọc sách, "sách
không kể lớn nhỏ, không sách gì là không thích", Mâu Tử
tiến sâu vào việc tìm hiểu và đọc sách vở Phật giáo, mới
phát hiện một sự thật. Đó là Phật giáo không phải là một
đạo mọi rợ, mà còn là một thuật làm cho con người "thấy
rộng" (kiến bác) Điều 25 Mâu Tử viết: "Thấy rộng có
thuật không? Mâu Tử nói: Do kinh Phật.Tôi khi chưa hiểu kinh Phật,
lầm còn hơn ông nhiều. Tuy đọc năm kinh, hợp lấy làm ha mà chưa
nên quả. Đến khi tôi đã xem học thuyết của kinh Phật, ngắm yếu
lý của Lão Tử, giữ tính điềm đạm, xét hạnh vô vi, rồi về
trông sự đời, như đến trời cao mà ngó xuống hang suối, lên Tung
Đại mà thấy gò đống vậy. Tôi từ nghe đạo đến nay, như vén
mây thấy mặt trời tỏ, cầm đuốc vào nhà tôi vậy".
Vậy là từ một quan điểm cho Phật giáo là một
"thuật của mọi rợ" (di dịch chi thuật), Mâu Tử đã tìm
hiểu và cuối cùng thấy còn hơn cả đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng
của Hoa Hạ nhiều. Trong thời gian chưa đi theo Phật giaó này, Mâu
Tử, ngoài việc học đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng, còn tìm nghiên
cứu thuật tịch cốc trường sinh thần tiên. Điều 31 Mâu Tử viết:
"Khi tôi chưa hiểu đạo lớn, cũng thường học phép tịnh cốc.
Phép tịnh cốc kể ra ngàn trăm thuật, thực hành không có hiệu
quả, làm không có chứng nghiệm, nên tôi bỏ. Xem ba người thầy
tôi theo học, hoặc tự xưng bảy trăm, năm trăm, ba trăm tuổi. Nhưng
tôi theo họ học, chưa đầy ba năm, ai nấy đều chết hết. Sở dĩ như
thế là do nhịn gạo không ăn, mà đi ăn trăm quả. Nhậu thịt thì
nhiều mâm, uống rượu thì nghiêng vò, tinh loạn thần mờ, hơi gạo
không đủ, tai mắt lầm lạc, dâm tà không kiêng. Tôi hỏi lý do vì
sao. Đáp rằng: "Lão Tử nói: bớt đi lại bớt, cho đến vô vi.
Trò nên ngày bớt". Nhưng tôi thấy thì ngày chỉ thêm, mà không
bớt. Vì thế, ai nấy đều không biết mệnh, mà đã chết".
Rõ ràng trước khi đến với Phật giáo, Mâu Tử
đã không những học đạo "Nghiêu Thuấn Châu Khổng" mà còn
học cả thuật thần tiên cuả đạo giáo. Ông đọc "Thần thơ"
170 quyển của Can Cát, như điều 29 đã ghi, và bỏ 3 năm thực hành
phép tịch cốc trường sinh bất tử. Như thế, nếu vào tuổi
"nhược quán", tức 20 tuổi, đã học đạo Nghiêu Thuấn Châu
Khổng, và ba năm dành cho phép tịch cốc và đọc "Thần thơ"
170 quyển, thì có khả năng. Đây là thời điểm ông chính thức theo
Phật giáo, chứ không phải thời điểm ông biết Phật giáo, mà
tới thời ông đã phát triển mạnh và bắt đầu thâm nhập vào
cung đình.
Truyện Tương Giai của Hậu Hán thơ 60 hạ tờ 14b8-19a4
chép lại lá sớ do Giai gởi lên cho Hoàng đế vào năm Diên Hy
thứ 9 (167) có đoạn viết: "Lại nghe trong cung dựng miếu thờ
Hoàng Lão Phù Đồ". Đạo đó thanh hư quí chuộng vô vi, hiếu sinh
ghét giết, bớt dục bỏ xa xỉ. Nay bệ hạ ham muốn không bỏ, giết
phạt quá lẽ, đã trái với đạo ấy, há nhận được phước ư?
Lại nói Lão Tử đi vào mọi rợ mà thành Phù Đồ. Phù Đồ
không nghỉ ba đêm dưới cây dâu, vì không muốn lâu sinh ra tình ân
ái. Thiên thần đem gái đẹp gởi đến, Phù Đồ nói:"Đó là
túi da dầy máu". Bèn không thèm nhìn. Phù Đồ thủ nhất như
vậy, mới có thể thành đạo. Nay bệ hạ, gái dâm, bà đẹp, vượt
hết vẻ đẹp của thiên hạ, đồ ngon thức ngọt, chót hết mùi của
thiên hạ, thì làm sao mà muốn như Hoàng Lão ư?
Điểm lôi cuốn của lá sớ không chỉ nằm ở chỗ
xác nhận tình trạng đang phát triển mạnh mẽ của Phật giáo ở Trung
Quốc, đang xâm nhập sâu vào đời sống của cung đình của tầng
lớp thượng lưu, nó còn chứa đựng hai câu trích từ kinh Tử
thập nhị chương, mà chính Mâu Tử có nêu đích danh trong điều 21 Lý
hoặc luận của ông. Đó là "Phù Đồ không nghỉ ba đêm dưới
cây dâu, vì không muốn lâu sinh ra ân ái. Thiên thần đem gái đẹp
gởi đến, Phù Đồ nói: "Đó là túi dơ đầy máu". Bèn
không thèm nhìn. Câu về gái đẹp, ngay từ thời Lý Hiền (657-685)
chú thích Hậu Hán thơ, đã biết là một trích dẫn từ kinh Tứ
thập nhị chương, nên mới chua: "Kinh Tứ thập nhị chương: thiên
thần dâng gái ngọc cho Phật, Phật bảo: "Đó là túi da đầy
mọi thứ dơ".
Nhắc tới kinh Tứ thập nhị chương ở đây gọi cho ta
một nhận định khá thú vị về những kinh sách Phật giáo, mà Mâu
Tử có thể tiếp xúc và tìm hiểu, trước khi trở thành một
người Phật giáo. Tất nhiên, để trở thành một Phật tử, Mâu
Tử phải tìm đọc nhằm biết Phật giáo là gì và tại sao có sự
tồn tại của nó. Thực tế, như đã thấy trên, điều 14 xác nhận
là trong khi theo học đạo Nghiêu Thuấn Châu Khổng, Mâu Tử đã biết
đến Phật giáo. Nhưng do quan điểm Khổng Mạnh hẹp hòi và kỳ thị
về việc "Lấy Hạ để biến Di", chứ chưa bao giờ có việc
"Lấy Di biến Hạ", Mâu Tử đã cho Phật giáo là một thứ
"thuật di địch" nên không đáng học tập.
Như vậy, trong giai đoạn đầu khi mới tiếp xúc với
kinh sách Phật giáo, Mâu Tử còn bị quan điểm di địch lạc hậu của
Khổng Mạnh khống chế. Dần dà về sau, do thính ham đọc sách, ông
đã thoát ly khỏi sự khống chế của quan điểm di dịch sai lầm ấy
và nhận chân được sự đứng đắn cao siêu của giáo lý Phật
giáo, vượt lên trên những quan điểm Khổng Mạnh mang tính dân tộc
hẹp hòi chủ quan. Quá trình vươn lên và vượt qua sự khống chế
của Khổng Mạnh này chỉ có thể xảy ra sau ba năm theo học phép tịch
cốc trường sinh của thuật thần tiên. Mà việc theo học thần tiên
lúc đó đã trở thành một phong trào đang rầm rộ phát triển hẳn
dưới sự lèo lái của Đổng Phụng với sự giúp đỡ ít nhiều
để trả ơn của Sĩ Nhiếp do việc cứu sống Nhiếp tại nước ta.
Điều này có nghĩa, nếu Mâu Tử sinh vào khoảng năm
160, thì khoảng 178 đến 180 ông đã đem mẹ ông qua nước ta lánh
nạn, để vào những năm trước sau 180 ông có dịp thấy được hào
quang của đám thần tiên qua con người của Đổng Phụng lúc ấy đang
sống ở Giao Châu. Từ đó, ông mới sẵn sàng dành ba năm của
tuổi thanh xuân mình cho việc theo đuổi thực hành phép tịch cốc.
Nhưng với cái chết của Phụng và "ba người thầy" của ông.
Mâu Tử nhận ra tính "yêu vọng" của cái "đạo bất
tử", giác ngộ được một sự thực là "con người đều
phải chết, không ai có thể tránh được" (điều 37), do Phật
giáo đem lại. Đây phải chăng là thời điểm Mâu Tử chính thức
theo Phật giáo, sau những năm tháng tiếp xúc và tìm hiểu.
Đó là một có thể, đặc biệt nếu những nhận định
trên của chúng ta về các hoạt động của Đổng Phụng được chấp
nhận và nếu ta nhớ tới một biến cố Phật giáo có ý nghĩa lớn
đang xảy ra ở Trung Quốc. Đó là việc vua Hoàng đế "trong cung
dựng miếu thờ Hoàng Lão Phù Đồ", mà lá sớ viết năm Diên
Hy thứ 9 (159) của Tương Giai nói tới. Phât giáo bây giờ đang trên
đường trở thành một tôn giáo nhà nước qua sự tôn sùng công
khai Phật giáo của người đứng đầu nhà nước ấy là Hoàng đế
nhà Hán. Việc tôn sùng này tất nhiên phải tác động đến các
hoạt động Phật giáo như dịch kinh, làm chùa, tổ chức lễ lược
v.v... Cho nên, nếu những năm 181-183 Mâu Tử trở thành một Phật
Tử ở nước ta, thì không có gì đáng ngạc nhiên lắm.
Thời gian sau khi theo Phật giáo này, Mâu Tử chắc
tiếp tục đọc các kinh sách Phật giáo, mà chính ông ghi nhận là
"quyển sổ kể tới vạn" (điều 5) trong đó "quyển lớn
vạn lời trở xuống, quyển nhỏ ngàn lời trở lên" (điều 1).
Những "cuốn kinh nhỏ" này có thể là kinh A ly niệm di, Sát vi
vương, Kính diện vương v.v.... và cuốn lớn có thể là Lục độ tập
kinh, Tạp thí dụ kinh, Cựu tạp thí dụ kinh, Tứ thập nhị chương kinh
v.v... Đặc biệt là cuốn Phật kinh chi yếu gồm 37 phẩm, mà Mâu Tử
có niềm tôn kính và mến yêu lạ thường, để sau này khi viết Lý
hoặc luận, ông đã lấy nó làm mẫu cùng với Đạo đức kinh của
Lão Tử.
Từ sau năm 185 đến khoảng 187, ông trở về Thương
Ngô cưới vợ. Đây phải nói là một "mối tình thế kỷ",
bởi vì chỉ với một mối tình như thế, nó mới đủ sức mạnh
thúc đẩy Mâu Tử vượt qua một khoảng không gian vời vợi từ
nước ta về Thương Ngô, mà 10 năm sau Hứa Tinh trong lá thư viết cho
Tào Tháo bảo là "hơn 5 nghìn dặm" và "đường thủy bộ
không có, trạm ngựa cõi Giao dứt tuyệt", như Thục chí 8 tờ
2b3-5 đã ghi. Do thế, nếu Mâu Tử chỉ lấy vợ để có con, thì đã
không cần phải trở về Thương Ngô làm gì. Nước ta thời ấy chắc
không thiếu con gái cho Mâu Tử lấy. Việc về Thương Ngô vì vậy cho
phép ta giả thiết Mâu Tử đã quen và yêu cô gái Thương Ngô
trước khi đem mẹ đến nước ta. Và hẳn đã cùng cô hẹn ước
thề nguyền.
Giả thiết này đưa ta đến ba nhận định lôi cuốn sau.
Thứ nhất, vì đã yêu thương hẹn ước với một cô gái Thương
Ngô, nên việc Mâu Tử đưa mẹ qua nước ta không thể trước 18
tuổi được. Năm Mâu Tử đưa mẹ xuống Giao Chỉ như thế có nghĩa
là 178. Thứ hai, vì năm 178 này Mâu Tử chỉ đưa một mình mẹ xuống,
điều ấy chứng tỏ cha Mâu Tử mất hay đã ly khai khỏi gia đình Mâu
Tử. Thứ ba, để có thể tiến hanh cưới hỏi vợ mình ở Thương
Ngô, phía nhà Mâu Tử cũng như nhà người vợ tương lai phải tối
thiểu là khá giả về mặt kinh tế, nếu không nói là có tiếng tăm
ở địa phương. Sự thật, khi Mâu Tử mới về Thương Ngô, thái
thú Thương Ngô nghe tiếng sức học của Mâu Tử, đã đến thăm và
mời Mâu Tử ra làm quan. Sự kiện này cho phép giả thiết gia đình
Mâu Tử và có thể gia đình bên vợ là những vọng tộc của đất
Thương Ngô, đến nỗi Mâu Tử chân ướt chân ráo từ Giao Chỉ
tới đã có quan tâm vừa thấy của thái thú.
Chính tại Thương Ngô, sau khi từ chối ra làm quan, Mâu
Tử được nhờ đi "trí kinh" Kinh Châu. Người nhờ đây là
thái thú Thương Ngô, chứ không thể là thái thú Giao Chỉ Sĩ Nhiếp.
Bởi vì thời gian này, tức khoảng năm 184-187 Giả Tôn và Đinh Cung
đang làm thứ sử nước ta và Sỹ Nhiếp đang làm thái thú Giao Chỉ,
thì bản thân Sĩ Nhiếp chưa có yêu cầu khách quan gì để tri "trí
kinh" Kinh Châu cả. Trong khi đó, thái thú Thương Ngô lại có một
yêu cầu như thế, bởi vì Thương Ngô tiếp giáp với đất của Kinh
Châu là quận Quế Dương. Cho nên, để giữ cho quan hệ trị an giữa
hai địa phương được tốt đẹp, thái thú Thương Ngô rõ ràng có
một yêu cầu khách quan để đi "tri kinh" Kinh Châu.
Tất nhiên Mâu Tử lên Thương Ngô để cưới vợ.
Vì thế, khi thái thú Thương Ngô nhờ ông đi "trí kinh" Kinh
Châu và ông đã nhận lời, thì điều này không có nghĩa ông phải
ra đi "trí kinh" từ Thương Ngô. Trái lại, ông phải đem vợ
mình về Giao Chỉ để ra mắt mẹ và bà con ở Giao Chỉ. Chính trong khi
đem vợ về Giao Chỉ ở với mẹ mình, và chuẩn bị lên Thương Ngô
lại để thực hiện việc đi "trí kinh" Kinh Châu, Mâu Tử đã
gặp Chu Phù khoảng những năm 187-189. Một lần nữa, Mâu Tử lại
được Chu Phù mời ra làm quan. Vì từ chối không làm quan với Chu
Phù, lẽ dĩ nhiên Mâu Tử không thể thực hiện việc đi "trí
kinh" Kinh Châu được.
Dù không làm quan với Chu Phù, quan hệ giữa Phù và
Mâu Tử vẫn thắm thiết và diễn ra trong một thời gian dài. Chữ
mà Mâu Tử dùng để mô tả mối quan hệ này là "bị mạt phục
lịch, kiến ngộ nhật cửu". Thế đã rõ, tuy không đáp lại lời
mời làm quan, Mâu Tử vẫn có những ơn nghĩa với Phù. Trong những
ơn nghĩa qua lại này nếu Mâu Tử "bị mạt phục lịch", thì
hẳn Phù cũng nhận được những sự giúp đỡ khác của Mâu Tử,
trong đó có cả việc giúp Phù "vứt điển huấn của tiền
thánh, bỏ pháp luật của Hán gia" và "đọc tà tục đạo
thư". Nói cách khác, Mâu Tử đã lôi kéo Phù vào các sinh
hoạt Phật giáo nước ta, tham gia các buổi thuyết giảng lễ lược
v.v... Thông qua đó thực hiện chức năng "trợ hóa" sẵn có
của Phật giáo, mà Tôn Sách bảo là chủ trương của Chu Phù đưa Chu
Phù đi theo một lối sống mới.
Không chỉ Chu Phù "vứt điển huấn tiền thánh, bỏ
pháp luật Hán gia" để chấp nhận lối sống, mà Sĩ Nhiếp cũng
thế. Truyện Sĩ Nhiếp của Ngô Chí 4 tờ 7a1-8b5 nói "Sỹ Nhiếp
tự Uy Ngạn, người Quảng Tín, Thương Ngô, Tổ tiên vốn người Mẫn
Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng, tỵ nạn Giao Châu, tới Nhiếp
là sáu đời. Cha là Tứ, thời Hoàng đế (147-167) làm thái thú
Nhật Nam. Nhiếp nhỏ du học ở kinh đô, thờ Lưu Tử Kỳ đất thư
lang công sự, từ quan vì tang cha là Tứ. Sau đó cử mậu tài, bổ
Vu Lịnh, đổi làm thái thú Giao Chỉ...".
Bản thân Sĩ Nhiếp như thế ngay từ nhỏ đã du học
tại Lạc Dương được đào luyện trong nền giáo dục Trung Quốc tiêu
chuẩn, chuyên giỏi về Tả thị xuân thu. Viên Huy viết thư cho Tuân
Hoắc, dẫn trong truyện Sỹ Nhiếp của Ngô chí 4 tờ 7b1-7 nói: "Sĩ
phù quân của Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại thành công về chính
trị, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20 năm, cương
trường vô sự, dân không thất nghiệp, những bọn lệ thuộc đều
được nhờ ân. Tuy Đậu Dung giữ chức Hà Tây, há hơn được ư?
Việc quan chút rảnh, liền xem luyện thơ truyện. Xuân thu
Tả thị truyện, lại càng luyện lựa tinh vi. Tôi nhiều lần đem những
chỗ nghi trong Tả truyện ra hỏi, đều được trả lời có cơ sở, ý
tứ rất chắc chắn. Còn Thượng thơ, ông gồm thông cổ và kim văn,
ở Kinh đô cãi nhau phải trái kịch liệt, nay ông muốn liệt kê
trường nghĩa của Tả thị và Thượng thư để dâng lên...".
Thế nhưng, Sĩ Nhiếp với anh em mình có một lối sống
khá xa lạ với tập tục truyền thống Trung Quốc mà cũng truyện Sĩ
Nhiếp của Ngô chí 4 tờ 7b7-10 đã ghi lại như sau: "Anh em Nhiếp
đều là người hùng các quận, làm tướng một châu, riêng ở
vạn lý, uy tôn võ thượng. Ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy
nghi, kèm sáo cổ xuý, xe ngựa đầy đường. Nguời Hồ theo sát xe
đốt hương, thường có mấy mươi. Thê thiếp đi xe màn, tử đệ theo
lính kỵ. Đương thời quí trọng, chấn phục trăm mọi. Uý Đà cũng
không đủ hơn".
Trước đây, việc có "người Hồ đi sát xe đốt
hương" vừa thấy, Hồ Thích nghĩ những người Hồ của Giao Chỉ
phải chăng là thương nhân Ấn Độ, Ba Tư.. tức đó là "những
Sa môn cạo tóc đầu, mặc áo đỏ, ưa thích rượu ngon hoặc nuôi
dưỡng vợ con, mua rẻ bán đắt, chuyên làm dối trá mà Mâu Tử
tôi thấy". Sau đó, Fukui_1 thử so sánh với cách thức đi ra
ngoài của vua chúa Nhật Na, mà Di mạch truyện thượng của Nam sử 78
đã ghi: "Vua có mặc áo pháp, có thêm anh lạc, như phục sức
của tượng Phật đi ra thì cỡi voi, thổi la, đánh trống, che bằng
lọng vỏ sò, lấy vỏ sò làm cờ quan" Fukui thấy phảng phất một
số nét giống việc đi ra của Sỹ Nhiếp với vua Nhật Nam, và khác
với phong tục của vua chúa Trung Quốc.
Tuy nhiên, còn vấn đề "người hồ đi sát xe,
đốt hương" thì thế nào? Để trả lời, Fukui tiến xa thêm một
bước so sánh lễ "hành tượng" do Pháp Hiền ghi lại trong
Phật Quốc ký: "Pháp Hiển mong muốn xem hành tượng, dừng lại
vào ngày tháng 3... Từ ngày mồng một tháng tư trong thành quét
tưới đường sá, trang hoàng các đường xóm... Vua rất kính trọng
nên trước hết để hành tượng thì cách thành ba bốn dặm, làm
một chiếc xe bốn bánh, cao hơn ba trươ5ng, hình thù giống như hành
điện, trang hoàng bảy bâu, treo phan lọng có dệt hình, để tượng
đứng trong xe, hai bồ tát đứng hầu, làm hình chư thiên theo hầu..
Tượng cách cửa thành một trăm bộ, vua cất vương miện, thay mặc
áo mới, đi chân không, cầm hoa hương, có người theo sau, ra thành
đón tượng, đầu mặt lạy xuống, rải hoa, đốt hương. Tượng vào
thành rồi, trên lầu cửa thành, phu nhân thể nữ vung rải các thứ
hoa, lửng lờ bay xuống... Mỗi chùa hành tượng một ngày, bắt đầu
từ ngày mồng một đầu tháng, đến ngày 14 thì hành tượng mới
xong".
Đây là lễ hành tượng Pháp Hiển thấy ở Vu Chân.
Còn ở thành Ba-liên-phất (Pataliputra) của Ấn Độ, Phật quốc ký
tờ 862b ghi: "Hàng năm thường vào ngày mồng 8 tháng 2 thì hành
tượng. Làm xe bốn bánh... hình nó giống như một chiếc tháp.. đều
có Phật ngồi, Bồ Tát đứng hầu. Có thể có đến 20 xe.. Vào ngày
đó, đạo tục trong nước đều tập hợp lại ca hát nhảy múa, cúng
dường hương hoa".
Gần ba thế kỷ sau, Nghĩa Tịnh trong Nam Hải ký qui nội
pháp truyện 1 tờ 210c dưới điều thọ trai phó thỉnh đã mô tả
những lễ ấy với tình tiết sau: "Mười châu Biển nam cúng trai
tăng càng thêm nồng hậu... Ngày thứ nhất... thau vàng đầy nước,
phải trước làm sạch đất, để mời chúng Tăng. Ngày thứ hai,sau
khi qua ngọ, thì đánh nhạc trống, bày hương hoa, thỉnh tượng Phật
quí lên xe kiệu về, cờ phan rạng trời, đạo tục họp lại dẫn
đến gia đình, trưng bày màn lọng, tượng quí vàng đồng, trang trọng
rực rỡ [...] đến ngày thứ ba [...] các Tăng tắm rửa xong, đẫn
đến nhà trai tăng [...] hương hoa trống nhạc gấp bội sáng qua [...]
Ở hai bên tượng, mỗi bên có đồng nữ nghiêm trang đứng [...]
Đó là cách thức nhận trai tăng ở một chỗ của mười châu Biên
nam".
Còn về lễ Tự tứ, Nam hải ký qui nội pháp truyện 1
tờ 217c viết: "Vào giờ đó tục sĩ họp lại, đạo đồ vân
tập, đốt đèn sáng tiếp, cúng dường hương hoa. Sáng hôm sau, tất
cả cùng đi ra, nhiễu quanh phố xóm [...] rước tượng bằng xe, đánh
nhạc dậy trời, phan lọng rợp đất, phất phới che cả ánh mặt
trời, gọi là tam-ma-cận-ly (samagri), dịch là hòa tập. Hễ những
ngày lễ lớn thảy đều làm thế, tức đó là phép hành thành
của Thần Châu".
Dĩ nhiên, sử dụng tư liệu cách một sự việc hằng
trăm năm để giải thích về sự việc đó tất không thể đạt
được độ chính xác đáng muốn. Dẫu vậy, nó cho thấy việc Sỹ
Nhiếp ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, đèn sáo cổ xuý,
xe ngựa đầy đường, người Hồ theo sát xe đốt hương thưòng có
mấy mươi, thê thiếp đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ có những quan
hệ với các lễ nghi Phật giáo, đặc biệt khi có "người Hồ
theo sát xe đốt hương thường có mấy mươi". Đấy có thể là
một lễ rước Phật (hành tượng) theo kiểu Pháp Hiển đã thấy, mà
cũng có thể là lễ Tự tứ hay đi trai tăng do Nghĩa Tịnh ghi lại.
Dù với trường hợp nào đi nữa, điểm đáng nói
với chúng ta là Sỹ Nhiếp dẫu được đào luyện trong khuôn mẫu
văn hóa Trung Quốc, đã có những hành xứ và lối sống xa lạ
với phong tục tập quán Trung Quốc. Ông do thế cùng với Chu Phù,
đã ít nhiều "vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ pháp luật
của Hán gia" Nói rõ ra, ông đã được Phật giáo hóa và Việt
hóa. Như vậy, vào giữa những năm 180-190 ở nước ta, cụ thể là
ở Giao Chỉ đã hình thành hoàn tất một nền văn hóa mới, nền
văn hóa Phật giáo Việt Nam, kết hợp thành công nền văn hóa Lạc
Việt với nền văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ đưa vào . Đủ sức
không những đánh trả lại bằng những đòn sấm sét, những đợt
tấn công của nền văn hóa Trung Quốc đang dồn dập dội vào nước
ta qua những tay như Lưu Hy, mà còn lôi cuốn và đồng hóa một bộ
phận lớn ngưòi Trung Quốc đang sống và làm việc tại nước ta, mà
cụ thể là Chu Phù.
Việc Chu Phù "vứt điển huấn cuả tiền thánh, bỏ
pháp luật của Hán gia", rồi "mặc áo đỏ, bịt đầu, đánh
đàn, đốt hương, đọc sách đạo tà tục" rõ ràng khẳng định
quá trình đồng hóa đã thành công mỹ mãn. Và làm việc đó, Chu
Phù không nghĩ là để thỏa mãn những nhu cầu tôn giáo trí thức
cá nhân, mà thực tế là để nhằm "trợ hóa". "Trợ
hóa" đây thực chất là để "giúp đỡ cho nền cai trị".
Mà nền cai trị này không còn dựa vào "điển huấn của tiền
thánh", "Pháp luật của Hán gia" nữa, trái lại đã dựa
vào những điển huấn mới, pháp luật mới. Đó là điển huấn và
pháp luật của nền văn hóa mới vừa Việt Nam đồng thời vừa
Phật giáo.
Cũng chính vì xuất phát từ nền điển huấn và pháp
luật mới này, Sĩ Nhiếp mới có các cuộc "rước tượng"
"hành thành" khá xa lạ với phong tục Trung Quốc, có cả
"ngưòi Hồ đi sát xe đốt hương". Và uy tín của Nhiếp đủ
để "chấn phục trăm mọi", đến nỗi "Uý Đà không đủ
để vượt qua Nhiếp". Việc Ngô Chí so sánh Sĩ Nhiếp với Triệu
Đà cho thấy nền cai trị nước ta thời bấy giờ đã độc lập tới
mức nào. Thực tế, có thể nói chính quyền độc lập đầu tiên sau
chính quyền Hai Bà Trưng là chính quyền của Chu Phù - Sĩ Nhiếp trong
khoảng những năm 187-197 và trở về sau, khi Phù chết và Trương Tân
đến thay. Ngay vào thời này, không chỉ nước ta, mà các địa phương
khác của Trung Quốc cũng rơi vào tình trạng cát cứ, như Trần Thọ
(233-297) trong Ích Châu kỳ cựu truyện dẫn trong Thục chí 8 tờ 3b12-13
đã nhận xét: "Lúc ấy, đưòng vua cách tuyệt, mục bá các
châu giống như chư hầu bảy nước".
Sự thực, ngay tới năm 195, khi đến nước ta, Hứa
Tinh phải thừa nhận : "Tình bèn với Viên Bái, Đặng Tư Hiệu
v.v.. vượt biển xanh về nam đến Giao Châu, trải qua nước Đông Âu,
Mâu Việt, đi qua muôn dặm, không thấy đất Hán, phiêu bạt sóng
gió, hết lương ăn cỏ, đói kém tràn lan chết hơn phân nửa".
Hứa Tinh qua muôn dặm "Không thấy đất Hán". Điều này phải
chăng muốn nói Tỉnh không thấy chính quyền Hán tồn tại ở những
vùng đất ấy. Hay muốn nói nơi vùng đất ấy nền văn hóa người
Hán vắng bóng? Có thể cả hai trường hợp đều đúng.
Đối với nước ta, khi một người đại diện cho chính
quyền nhà Hán như Chu Phù đã "vứt điển huấn cuả tiền thánh,
bỏ pháp luật của Hán gia", lại đi "mặc áo đỏ, bịt đầu,
đánh đàn, đốt hương, đọc sách tà tục, bảo để trợ hóa",
thì dứt khoát chính quyền ấy do Chu Phù đứng đầu không còn là
chính quyền cuả nhà Hán nữa. Làm đầu không còn là chính quyền
của nhà Hán, khi người đứng đầu nó lại "vứt bỏ pháp
luật nhà Hán"? Chính quyền ấy phải nói là một chính quyền
Việt Nam độc lập dựa trên những điển huấn và pháp luật mới,
dựa trên một nền tảng lý luận chính trị mới phù hợp với yêu
cầu và nguyện vọng của thời bấy giờ.
Có thể vì muốn xây dựng một chính quyền kiểu mới
ấy, Chu Phù ngay từ đầu muốn mời Mâu Tử ra làm quan với mình,
như tự truyện cuả Mâu Tử trong Lý hoặc luận đã ghi. Nhưng Mâu
Tử đã từ chối. Lý do là đau yếu.Sự thực, khi được nhờ đi
Linh Lăng vì vụ Chu Hạo, Mâu Tử lại nhận lời. Như thế, đau yếu
chỉ là một cái cớ để từ chối. Còn lý do thật phải nói là
Mâu Tử xưa đã chứng kiến cách dùng người cuả Chu Phù, mà sau
đó không lâu Tiết Tôn đã nhận xét là "phần lớn dùng
người cùng làng (hương nhân) là bọn Ngu Bào, Lưu Ngạn, phân làm
trưởng lại, xem ngược bá tánh, ép thuế lên dân. Cá vàng một
con, thâu thuế gạo một hộc", như đã nói trên.
Thấy cảnh dùng người này, Mâu Tử tất nhiên không
thể đồng tình, lại càng không thể tham gia vào bộ máy chính quyền
do Chu Phù dựng nên với những con người như bọn Ngu Bao, Lưu Ngạn.
Tuy vậy Mâu Tử sẵn sàng giúp Chu Phù trong các công tác có chính
nghĩa, như cảm tình đặc biệt với Chu Phù. Và cơ sở cho mối cảm
tình đấy hẳn là nổ lực "vứt điển huấn của tiền thánh, bỏ
pháp luật của Hán gia", sống và suy nghĩ theo lối sống và suy
nghĩ mới của đất Giao Châu, mà Mâu Tử khởi xướng và tha thiết
bảo vệ.
Rốt cuộc, việc đi Linh Lăng Quế Dương vẫn không
thành, vì gặp lúc mẹ Mâu tử mất. Và sau đó không lâu trong năm
197, Chu Phù bị giết. Sau tang mẹ và cái chết của Chu Phù, "Mâu
Tử càng dốc chí vào đạo Phật" và dứt khoát với tư tưởng
ra làm quan, vị "nay đời nhiễu nhương, chẳng phải thời hiển
kỷ". Trong khi ông lam thế, "bọn thế tục" cho ông bỏ năm
kinh, mà theo đạo khác. Để trả lời cho họ, ông đã viết Lý hoặc
luận.
Kết thúc Lý hoặc luận, người đối thoại Mâu Tử
đã thú nhận:
- Bỉ nhân lòa mù
- Sinh nơi tăm tối
- Dám thốt lời ngu
- Không lo họa phúc
- Nay được nghe dạy
- Chợt như tuyết sạch
- Xin được đổi tình
- Rửa lòng tự nhắc.
- Và đặc biệt xin:
- Nguyện nhận năm giới
- Làm Ưu-bà-tắc.
Thế phải chăng khi viết Lý hoặc luận, Mâu Tử đã
xuất gia, để cho người đối thoại mình "xin nhận năm giới, làm
Ưu-bà-tắc"? Đây là câu hỏi khó trả lời nhất. Có thể Mâu
Tử xuất gia. Nếu vậy, việc ông quyết định không ra làm quan và
"dốc chí vào đạo Phật" chắc là một cách nói bóng bẩy
để diễn tả sự kiện ông xuất gia. Để trả lời, ta không thể
khẳng định, nhưng vẫn có thể giả thiết. Dẫu sao, ông cũng vẫn
phải cư tang mẹ xong, rồi sau đó đã viết Lý hoặc luận.
Vậy, Lý hoặc luận viết sau khi mẹ Mâu Tử mất vào
năm 195, có thể vào năm 198 lúc thời gian cư tang xong. Bấy giờ,
Mâu Tử khoảng 37, 38 tuổi. Ông sinh vào khoảng những năm 160-164. Có
thể tại Quảng Tín, thủ phủ của quận Thương Ngô lúc bấy giờ trong
một gia đình khá giả, nếu không là vọng tộc của vùng đất ấy.
Cho nên, thưở nhỏ ông nhận được một nền giáo dục chính quy, theo
học thi, thơ, lễ, nhạc ở Thương Ngô cho đến khoảng năm 18 (nhược
quán) tuổi. Trong thời gian này, ông có ít nhiều tiếp xúc với
Phật giáo. Nhưng do quan điểm "dĩ Hạ biến Di" của Khổng Mạnh,
ông cho Phật giáo là một thứ "thuật mọi rợ" (di địch chi
thuật). Đến khoảng năm 178 có lẽ sau khi cư tang cha xong, do tình hình
Thương Ngô quá loạn lạc. Mâu Tử đem mẹ xuống tị nạn tại nước
ta. Bấy giờ Đổng Phụng đang hoạt động mạnh ở Giao Chỉ và gây
nên một phong trào thần tiên rầm rộ.
Mâu Tử hưởng ứng phong trào này. Sau ba năm theo
học, ông nhận ra tính "yêu vọng" của đạo thần tiên bất
tử và chính thức trở về với Phật giáo vào khoảng năm 183.
Đến giữa những năm 185-186 ông trở về Thương Ngô cưới vợ.
Người vợ này, nếu gia đình hai bên không đính ước với nhau
trưóc, thì hẳng đã được Mâu Tử quen biết và thề nguyền từ
lúc ở Thương Ngô. Chỉ một nhận định như thế mới giúp ta hiểu
tại sao Mâu Tử đã phải vượt vạn dặm đường nguy hiểm để về
Thương Ngô cưới vợ. Từ nhận định này ta mới hiểu thêm tại sao
Mâu Tử đem mẹ qua nước ta khoảng năm ông 18 tuổi, lứa tuổi của
tình yêu trong sáng và lý tưởng đang phát triển mạnh mẽ.
Gia đình Mâu Tử và có thể gia đình vợ Mâu Tử,
nếu không là vọng tộc, thì hẳn là những gia đình khá giả đất
Thương Ngô. Cho nên, khi mới chân ướt chân ráo về đến quê cũ,
có thể là Quảng Tín, thái thú Thương Ngô là Sử Hoàng, nghe tiếng
học vấn của ông đã đến thăm, muốn bổ làm quan, nhưng Mâu Tử
từ chối. Sau đó, Sử Hoàng nhờ đi Kinh Châu "trí kinh", Mâu
Tử nhận lời. Bèn đem vợ về nước ta khoảng năm 187 và chuẩn bị
ra đi, thì gặp Chu Phù mời ra làm quan. Ông lại từ chối. Đến năm
194 Chu Hạo bị Trức Dung giết ở Dự Chương, Chu Phù đến nhờ Mâu
Tử đi mượn đường. Một lần nữa, Mâu Tử nhận lời, nhưng lại
gặp tang mẹ mất đột ngột khoảng năm 195. Từ đó ông dốc chí vào
đạo Phật, viết Lý hoặc luận để trả lời cho "bọn thế tục
cho ông bỏ năm kinh mà theo đạo khác" vào khoảng năm 198, sau
thời gian cư tang xong. Sau năm 198 này, có lẽ Mâu Tử tiếp tục việc
nghiên cứu Phật giáo của mình và đóng góp vào việc xây dựng
một nền giáo dục Việt Nam và Phật giáo Việt Nam tạo cơ sở đào
luyện những con người sau này làm rạng rỡ cho lý tưởng, mà
suốt cuộc đời Mâu Tử ôm ấp, như Khương Tăng Hội, Đạo Hinh
v.v... Ông mất khoảng những năm 220-230. Và Khương Tăng Hội có thể
đọc, nếu không là học với ông, qua Lý hoặc luận, mà dấu vết
ảnh hưởng còn lộ rõ trong văn chương và tư tưởng của Hội sau
này.
Thế Mâu Tử tên gì? Bản mục lục xưa nhất ghi lại
Lý hoặc luận là Pháp luận của Lục Trừng trong Xuất tam tạng ký
tập 12 ĐTK 2145 tờ 82c29 và 85a13 chỉ chép tên Mâu Tử, rồi chua
thêm: "Một chỗ khác nói: thái thú Thương Ngô Mâu Tử Bác
truyện". Đến Tăng Hựu soạn Hoằng Minh tập I ĐTK 2102 tờ 1a28-29
cũng chỉ ghi: "Mâu Tử lý hoặc luận, một chỗ nói thái thú
Thương Ngô Mâu Tử Bác truyện". Qua đầu thế kỷ thứ VI Lưu
Hiếu Tiêu chú Thế thuyết tân ngữ, Dữu Trọng Dung viết Tử sao và
Đỗ Đài Khanh soạn Ngọc chúc bảo điển cũng chỉ dẫn tên Mâu Tử.
Tới thượng bản thế kỷ thứ VII, khi viết Biện chinh
luận 4 ĐTK 2110, Pháp Lâm dẫn trực tiếp tên Mâu Dung: "Mâu Dung
nói Hán Minh đế mơ thấy người vàng", trong khi Phá tà luận
quyển thượng chỉ viết: "Tứ thơ Mâu Tử 2 quyển, thạnh luận
Phật Pháp". Pháp Lâm mât năm 640. Năm sau Trình Quán thứ 15
(641), Kinh tịch chí của Tùy thư dưới mục Tứ bộ nho gia lại ghi:
"Mâu Tứ 2 quyển, hậu Hán thái úy Mâu Dung soạn". Ghi chú
này Tùy thư đến thế kỷ XVI đã trở thành khởi điểm cho những
bàn luận của Hồ Nguyên Thụy trong Thiếu Thất sơn phòng bút tòng 32,
dẫn tới các thuyết có "hai Mâu Dung", "Ngụy tá thời
đông Tấn Lưu Tống" v.v... như ta đã thấy.
Tuy nhiên, Phá tà luận nói tới Tử thơ Mâu Tử 2
quyển và Biện chính luận lại dẫn Mâu Dung. Cho nên, Tuỳ thơ ghi Mâu
Tử 2 quyển, Hậu Hán thái uý Mâu Dung soạn", thực tế không
phải là không chỉ Mâu Tử và Mâu Dung cuả Pháp Lâm. Điểm gây
hoang mang của Tùy thư là việc nó ghi chức thái uý của Mâu Dung.
Hậu Hán thư 56 tờ 15a5b7 có truyện của Mâu Dung, nói Dung làm tới
chức thái úy dưới thời Hán Minh đế và mất năm 79. Thái uý
Mâu Dung này như vậy chắc chắn không thể viết. Lý hoặc luận
được. Nhận định của Hồ Nguyên Thụy về điểm này do thế là
hoàn toàn xác đáng.
Từ đó, phải có một Mâu Dung viết Lý hoặc luận
như Biện chính luận đã ghi, và sau này Đạo Tuyên trong Quảng hoằng
minh tập 5 ĐTK 2103 tờ dưới mục Biện hoặc mục lục đã lặp lại
"Mâu Dung biện hoặc". Lục Trừng viết Pháp luận, dưới mục
Mâu Tử, đã chua thêm: "Một chỗ khác nói thái thú Thương Ngô
Mâu Tử Bác truyện". Lời chua này sau đó Tăng Hựu đã chép
lại trong Hoằng Minh tập. Vậy, trước thời Pháp Lâm và Tuỳ thư
đã lưu hành một truyền thuyết về chức vụ thái thú cuả Mâu
Tử. Và Tuỳ thư ghi: "Hậu Hán thái uý Mâu Dung soạn", đúng
ra phải ghi "Hậu Hán thái thú Mâu Dung soạn". Việc chép lộn
thái thú thành thái uý đã gây nên hoang mang và bàn cãi của Hồ
Nguyên Thụy. Thực chất không có một tác phẩm Mâu Tử do thái uý
Mâu Dung viết. Ngược lại có Mâu Tử do thái thú Mâu Dung viết.
Song nếu nói Mâu Dung làm thái thú, phần tự truyện Lý hoặc luận
lại bảo Mâu Tử không bao giờ làm quan, càng không bao giờ làm
thái thú Thương Ngô, Mâu Tử có về Thương Ngô cưới vợ, quả
có được thái thú Thương Ngô cưới vợ, quả có được thái
thú Thương Ngô mời ra làm quan, nhưng đã từ chối. Dĩ nhiên, văn
cú của Lý hoặc luận hiện còn đã bị Tăng Hựu cho sao soạn lại,
nên đã bị tước bỏ một phần nào, như phần nghiên cứu về tình
trạng văn bản của nó sẽ cho thấy. Sự tước bỏ đó không chỉ
xảy ra trong phần nội dung, mà ngay cả trong phần tự truyện. Cụ thể
là Hoằng quyết ngoại điển sao 5 dẫn lại Tử sao của Dữu Trọng Dung
về tự truyện của Mâu Tử, tới câu "tu thân giữ chân",
nó có thêm hai câu "thần đạm bạc vi đức, quách nhiên tĩnh
tư", trước khi tiếp câu "vạn vật không ngăn chí ông".
Giả như phần tự truyện có đầy đủ đi nữa và
vẫn không có gì hết về chức thái thú Thương Ngô của Mâu Tử,
thì truyền thuyết về chức ấy qua Mâu Tử vẫn có thể hiểu
được. Ngay vào thời Mâu Tử, Lưu Hy, cứ theo những nghiên cứu
cuả Diệp Đức Huy dẫn trước, lại có chức thái thú An Nam, mà
về mặt chính sử không bao giờ thấy có ghi tất nhiên, Hán Ngụy
bác sỹ khảo của Vương Quốc Dung_1 đã vạch ra là vào thời Hán
Ngụy, nếu ai được trưng làm bác sĩ, thì khi bổ nhiệm ra ngoài,
thưòng làm thú tươóng các quận quốc hoặc làm thái phó cho các
vua chư hầu, rồi sau đó đổi làm thứ sử hay châu mục. Lưu Hy trong
khoảng Trung bình được trưng làm bác sĩ, do thế được truyền tụng
làm thái thú An Nam là một điều có thể tin được. Vì vậy, dù
không có ghi nhận nào về việc Mâu Tử được trưng làm bác sĩ,
nhưng với sở học cuả ông, mà cả thái thú Thương Ngô lẫn thứ
sử Chu Phù đều cảm phục, thì việc đồn đại về chức thái thú
Thương Ngô, là một chuyện bình thường. Cũng có thể, dù Mâu Tử
không nhận, Chu Phù đã đề nghị Mâu Tử làm thái thú Thương Ngô
khi nổ ra việc khởi nghĩa của những người Việt ở Thương Ngô
"lật nhào châu Phủ" vào năm 195, mà lá thư Hứa Tinh viết
cho Tào Tháo dẫn trên đã nói tới.
Dẫu với trường hợp nào đi nữa, bây giờ ta biết
Mâu Tử tên Dung. Đạo Tuyên viết Quảng Hoằng minh tập 5, dưới mục
Biện hoặc thiên mục lục, đã ghi: "Mâu Dung biện hoặc". Đến
Kinh khê đại sư Trạm Nhiên trong Chỉ quán phụ hành truyền hoằng
quyết 5/1 ĐTK 1912 tờ 279a14-16 nói: "Sau khi Linh đế nhà Hậu Hán
băng hà, vào thời Hiến đế có Mâu Tử, thâm tín đạo Phật, chê
bai Trang Lão, viết luận 3 quyển 37 thiên". Kinh tịch chí của Cựu
Đường thư và Nghệ văn chí của Tân Đường thư đều xếp Mâu
Tử vào mục đạo gia, cả hai đều không ghi ai soạn. Lời chua của
Tuỳ thư đã bị tước bỏ, có lẽ do các tác giả hai bộ sử ấy
thấy được sự bất ổn của hai chữ "thái uý", nên mặc
nhiên không ghi. Tới Chí Ban viết Phật tổ thống ký 35 ĐTK 2035 lại
chép "Thương Ngô nho sanh Mâu Tử", mà không nói tên gì. Chỉ
Hoằng quyết ngoại điển sao thấy ghi tên Mâu Quảng. Fukui_1 gợi ý
đó có thể là một "viết lộn" (tả ngộ) của Mâu Dung, dù
nó rất thích hợp với tự của Dung là Tử Bác.
Danh xưng Mâu Tử Bác, như đã thấy, xuất hiện khá
sớm trong Pháp Luận của Lục Trừng và Hoằng minh tập của Tăng
Hựu. Nếu Mâu Tử có tên là Dung, như Pháp Lâm, Đạo Tuyên và
Tùy thư đã ghi, thì Tử Bác trong Mâu Tử bác là tự của Mâu
Tử. Việc sử dụng tên chữ để viết thư cho nhau, thậm chí ghi vào
sử sách là khá phổ biến vào thời Hậu Hán. Ta có trường hợp
Viên Huy viết thư cho Tuân Hoắc, gọi Hứa Tỉnh là Hứa Văn Hưu .
Hoặc truyện Sĩ Nhiếp ghi Nhiếp đã học với Lưu Tử Kỳ là tự
của Lưu Đào.
Cuối cùng cần nói đôi lời về tên gọi Lý hoặc
luận. Tên chính thức hiện nay trong bản in Đại Chính tân tụ Đại
tạng kinh của Hoằng Minh tập là Mâu Tử lý hoặc luận. Đây cũng
là tên Mâu Tử ghi lại trong phần tự truyện. Tuy nhiên, Pháp luận
của Lục Trừng chỉ ghi tên Mâu Tử, rồi chua thêm: "Một chỗ
nói Thương Ngô thái thú Mâu Tử bác truyện". Lời chua này,
hiện nay bản Hoằng Minh tập cũng có. Vậy, ngoài tên Mâu Tử, Mâu
Tử lý hoặc cũng có tên Thương Ngô thái thú Mâu Tử Bác
truyện. Tên này, Dư Gia Tích trong Mâu Tử lý hoặc luận kiểm thảo
dẫn trước đã ghi thêm một cách đứng đắn, đó là một tên
gọi khác của Mâu Tử, rồi dẫn lời chú thích của Lưu Hiếu trong
Thế thuyết tân ngữ về Mâu Tử truyện ký và Mâu truyện để làm
chứng. Đến Quảng hoằng minh tập 5, Đạo Tuyên để làm chứng. Đến
Quảng hoằng minh tập 5, Đạo Tuyên gọi Mâu Dung biện hoặc. Tử sao
mục lục do Cao Tợ Tôn ghi lại mục lục Tử sao của Dưũ Trọng Dung
lại ghi Mâu Tử trị hoặc luận. Một lần nữa Dư Gia Tích cho đó
mới đúng là tên nguyên thủy của MâuTử, vì chữ "trị"
đến đời Đường Cao Tôn, để tránh húy của Lý Trị, đã bị đổi
thành "lý". Tới đời Tống, ngưòi ta "hối cải" lý
thành trị, nhưng không hối cải hết nên bây giờ vẫn còn chữ lý
của Lý hoặc luận và một số điều như 26, 37 v.v...
Nội dung Lý hoặc luận
Lý hoặc luận bao gồm những câu hỏi và trả lời,
mà căn cứ vào chính qui định của Mâu Tử ở điều cuối cùng,
là có cả thảy 37 điều. Phân tích 37 điều này, ta có thể chia
thành 3 nhóm chính. Nhóm 1 gồm từ điều 1 đến 3 trình bày vài nét
tổng quát về Phật giáo từ sự tích đức Phật (điều 1) đến
Phật là gì (điều 2) và đạo thế nào (điều 3). Trong đó điều 1
không chỉ đơn thuần mô tả cuộc đời đức Phật, mà còn ghi nhận
kinh điển do Ngài trước tác, "gồm 12 bộ, tập hợp tám ức
bốn ngàn muôn quyển, quyển lớn vạn lời trở xuống, quyển nhỏ
ngàn lời trở lên", và lối sống do Ngài thiết định cho những
người tin theo. "Ngươi giữ 5 giới, một tháng sáu ngày chay,
ngày chay chuyên tâm nhất ý, hối lỗi tự đổi mới; Sa môn giữ
250 giới, ngaỳ ngày đều chay, giới của họ, người ưu hà tác
không được nghe".
Nhóm thứ 2 gồm điều 2 đến 28, tập trung bàn về quan
hệ giữa Phật giáo và Nho giáo. Nhóm này có thể chia làm 3 phần.
Phần I bắt đầu từ điều 4 đến điều 8 giải tỏa thắc mắc về tư
tưởng chính yếu của Phật giáo và các kinh điển ghi chép nó.
Điều 4 hỏi "con đường" Phật giáo là gì? Mâu Tử trả
lời "con đường đó ở nhà thì có thể thờ cha mẹ, làm chủ
nước thì có thể trị dân, ở một mình thì có thể trị thân".
Điều 5 thắc mắc, nếu vậy sao kinh điển Phật giáo như sông biển,
như "Ngũ nhạc", cao lớn mênh mông. Điều 6 ghi nhận kinh điển
Phật quá nhiều, thế yếu chỉ nó là gì? Mâu Tử nói: "Phật kinh
tuy nhiều, chỉ quy về một, giống bảy kinh tuy khác nhau, việc chúng quý
đạo đức nhân nghĩa cũng là một". Điều 7 hỏi nếu đạo Phật
chí tôn chí đại thì cần gì làm theo Nghiêu Thuấn Châu Khổng và sao
không thấy bảy kinh ghi? Mâu Tử nói có nhiều việc bảy kinh không
ghi, nhưng cũng nên học. Nhân đó nói đến 32 tướng tốt của Phật
trong điều 8.
Phần 2 gồm từ điều 9 đến 19 xử lý nhiều thắc
mắc về lối sống Phật giáo trong liện hệ các tiêu chuẩn lễ nghĩa
Trung Quốc. Điều 9 giải tỏa quan hệ giữa việc cạo bỏ râu tóc cuả
các nhà sư Phật giáo với quan điểm "thân thể tóc da nhận từ
cha mẹ không dám tổn thương" của hiếu kinh. Điều 10 về tình
trạng không vợ con của cả của sa môn với đạo lý vô hậu của
Mạnh Tử. Điều 11 về lối phục sức "áo đỏ" và lễ nghi
đi đứng khác thường của họ với các chế định của Hoàng đế,
Lão Tử và Khổng Tử. Điều 12 về vấn đề "ngưòi chết sẽ
lại sinh lại", vấn đề quỉ thần. Điều 13 dẫn quan điểm "chưa
biết thờ người, làm sao thờ quỉ, chưa biết sự sống, sao biết
sự chết" của Khổng tử và giải thích của Mâu Tử. Điều 14
giải quyết quan hệ Di Địch và Trung hạ của Khổng tử và Mạnh Tử
với Phật giáo. Điều 15 đặt vấn đề bố thí của Tu Đại Noa trên
cơ sở kinh Lễ, nhân đó phên phán lối sống "mua rẻ bán đắt,
nuôi dưỡng vợ con" của các sa môn trái với đạo lý bố thí
ở điều 16, dùng quan điểm Khổng Tử và Thúc Tôn phê phán bố
thí là xa xỉ ở điều 17. Điều 18 chỉ trích lối nói dùng nhiều thí
dụ của Phật giáo là không thành thật, khác với kinh điển Nho
giáo. Điều 19 phê phán lối sống của Sa-môn "mặc áo đỏ, ngày
một bữa ăn, đóng sáu tình, tự cắt đứt với đời".
Phần 3 gồm điều 20 đến 28 nêu vấn đề nếu Phật kinh
hay đẹp, sao không thấy bàn ở triều đình, bằng hữu (kinh 20), nhân
đó kể chuyện Phật giáo du nhập triều đình Trung Quốc do lệnh của
Hán Minh đế (điều 21), và sao không thực hành đi, mà lại tranh
luận (điều 22) do vậy đặt câu hỏi chỉ cần giỏi biện luận thôi ư?
(điều 23). Nếu Phật giáo "chí tôn chí khoái" sao các học sỹ
huỷ báng (điều 24), sao dùng kinh truyện để xử lý lời Phật
(điều 25), dùng Thi Thơ để giải đáp thắc mắc (điều 26), ở kinh
đô không ai nghe "tu đạo Phật là quí, tự tổn dung nhan là cao
thượng", mà chỉ thấy tuấn sĩ nho lâm ở Thái học (điều 27)
và sao dùng lời hoa lệ của kinh truyện để ca ngợi Phật (điều 28).
Nhóm 3 gồm từ điều 29 đến 37 tập trung phê phán
Đạo giáo. Điều 29 đặt vấn đề Thần thơ 170 quyển trong quan hệ
với kinh Phật qua nhận xét là "sách thần tiên nghe thì mênh
mông đầy tai, nhưng tìm hiệu lực tì như nắm bóng bắt gió".
Điều 30 đề cập vấn đề tịch cốc, nhân đó nêu lên câu hỏi có
thể tịch cốc được không (điều 31), có trị được bệnh không
(điều 32). Điều 33 nêu vấn đề tại sao phân biệt được Phật giáo
và Đạo giáo, mà theo người hỏi là thống nhất với nhau. Điều 34
ghi nhận sự đồng ý của ngưòi hỏi với việc phê phán thần tiên
bất tử, nhưng đặt câu hỏi tại sao Mâu Tử chỉ xem kinh sách Phật
giáo mà tin Phật giáo là đúng, trong khi điều 35 nói ông đến Vu
điền thuyết phục các nhà sư nưóc đó bỏ Phật giáo. Điều 36
đắt vấn đề với "thuật thu đông nhập thất không ăn của
thần tiên". Điều 37 phê phán truyền thuyết "Nghiêu Thuấn
Châu Khổng và 72 đệ tử đều bất tử thành tiên" và khẳng
định theo "nhà Phật là người ai cũng sẽ chết, không ai miễn
được". Điều cuối cùng trình bày lý do tại sao Mâu Tử tổ
chức Lý và luận thành 37 phẩm, Đạo Kinh họ Lão cũng 37 thiên nên
ông làm theo", và kết thúc bằng việc hỏi nhận ra sai lầm của
mình, "nguyện thọ năm giới làm ưu bà tắc".
Tóm lại sơ bộ 37 điều cuả Lý hoặc luận vừa thấy
cho ta một số điểm thú vị. Thứ nhất, trong số 37 điều ấy, trừ 3
điều khởi đầu trình bày về Phật giáo, và 9 điều dành cho việc
phê phán Đạo giáo và điều kết thúc cuối cùng, còn lại 25 điều
hoàn toàn dành cho việc xử lý cùng, còn lại 25 điều hoàn toàn
dành cho việc xử lý những thắc mắc về quan hệ giữa Phật giáo
và Nho giáo. Thứ hai, với một số lượng lớn dành cho việc xử
lý quan hệ ấy, ta thấy rõ đối tượng chính của Lý hoặc luận là
Nho giáo, mà trong phần tự truyên Mâu Tử đã gọi là "bọn
thế tục phần lớn chê bai ông, cho ông quay lưng với ngũ kinh để
đi theo đạo khác", và chính vì bọn này ông đã phải viết Lý
hoặc luận. Thứ ba, nếu trong 9 điều dành cho việc phê phán Đạo
giáo, Mâu Tử đã có thái độ dứt khoát, không thừa nhận vị
trí cuả giáo này, như chính ông đã nói trong phần tự truyện là
"dẹp đi mà không tin, cho là dối trá", trong 25 điều xử lý
Nho giáo, Mâu Tử ngược lại cố gắng chỉ vạch ra giới hạn của
những điển huấn Nho giáo, thậm chí chỉ ra những chỗ yếu cũng như
chỗ bất nhất, mâu thuẫn, thiếu sót của chúng, cần phải tăng
cường bổ sung và điều chỉnh.
Để thực hiện công tác ấy, Mâu Tử sử dụng một
số thủ pháp. Thủ pháp thứ nhất là vạch ra một số sự việc, mà
ai cũng biết, nhưng kinh điển Nho giáo không thấy ghi. Thí dụ, điều 7
hỏi tại sao đạo Phật chí tôn chí đại, mà không thấy bảy kinh nói
tới. Mâu Tử trả lời bằng cách dẫn việc "Nghiêu học với
Doãn Thọ, Thuấn học với Vụ Thành, Đán học Lữ Vọng, Khâu học
Lão Đam", mà bảy kinh đều không chép.
Thủ pháp thứ hai là nêu lên tính giới hạn của
các qui định điển huấn. Thí dụ điển huấn 9 nêu vấn đề chữ
hiếu với qui định "thân thể tóc da nhận từ cha mẹ, không dám
tổn thương", mà "nay sa môn cạo đầu, sao trái với lời
thành nhân" Mâu Tử kể câu chuyện "người Tề đi thuyền,
cha rơi xuống sông uống nước. Người con xách cha mình chúc đầu
lộn ngược cho nước từ trong miệng chảy ra". Người cha sống
được. Nhưng "chúc đầu cha lộn ngược thì không gì bất hiếu
lớn hơn". Mà nếu không làm thế thì người cha sẽ chết. Qui
định điển huấn như vậy có những giới hạn, mà nếu tuân thủ
cứng nhắc sẽ dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại.
Thủ pháp thứ ba là khai thác tính mâu thuẫn vốn có
của các điểm huấn. Cụ thể là điều 15 sử dụng qui định của kinh
Lễ về của cải cha mẹ, người con không được lấy cho, để phê
phán việc bố thí của Tu Đại Noa. Mâu Tử nêu lên ba qui định khác
cũng của kinh Lễ để vạch ra rằng có những trường hợp của lịch
sử Trung Quốc không tuân thủ chúng, mà vẫn đưa đến các kết quả
tốt. Qui định thứ nhất là lập đích làm trưởng, nhưng Thái vương
đã bỏ đích lập thứ "mà thành sự nghiệp nhà Châu, đưa
đến Thái bình". Qui định thứ hai là cưới vợ phải thưa với
cha mẹ, nhưng vua Thuấn lấy vợ không thưa vói cha mẹ, mà vẫn
"thành mẫu mực lớn". Qui định thứ ba là trung sỹ hiền
thần phải có mời mới ra làm quan, nhưng Y Doãn thì vác vạc, Ninh
Thích thì gõ sừng mà ca để xin làm quan, mà đã thành được
nghiệp lớn. Qui định thứ tư là "nam nữ thụ thụ bất
thân", nhưng chị dâu chết đuối em chồng phải thò tay cứu".
Thủ pháp thứ tư là nhấn mạnh tính bổ sung điều
chỉnh của kinh điển Phật giáo cho những thiếu sót, giới hạn và
mâu thuẫn vừa nêu của hệ thống điển huấn Trung Quốc. Cụ thể là
điều 25 hỏi vì sao biện luận được lưu loát, Mâu Tử nói mình
nhờ thấy rộng thông qua việc xem kinh Phật.
Bốn thủ pháp trên Mâu Tử sử dụng lập đi lập
lại, xen kẽ lẫn nhau để từng bước đánh vỡ từng mảng cảm
thức tự tôn dân tộc của người Trung Quốc nói chung, và cảm
thức tự tôn hệ tư tưởng Châu Khổng nói riêng. Điều 14 dẫn
lời Khổng tử nói: "Di Địch có vua không bằng các Hạ mất
vua", và lời Mạnh Tử tuyên bố: "Ta nghe dùng hạ biến Di,
chứ chưa nghe dùng Di biến Hạ để đặt vấn đề theo Phật giáo phải
chăng là "học thuật của Di Địch", là một "sai lầm".
Trả lời câu hỏi, Mâu Tử một mặt đem chính một câu khác cũng
của Khổng Tử nói: "Quân tử ở đó có xấu gì?", khi ông
muốn sống với đám Di Địch, rồi mặt khác kể luôn việc vua Vũ
lập nhà Hạ đến từ Tây Khương. Do Dư làm bá nước Tân "sinh
ở nước mọi". Từ đó, dẫn một câu từ Tả truyện nói rằng
: "Sao bắc đẩu ở trung tâm của trời, nhưng lại ở phía bắc
của người", Mâu Tử nhận xét: "Đất Hán chưa chắc là
trung tâm của trời đất".
Nhận xét này của Mâu Tử phải nói là một đòn
đánh chí tử vào cảm thức tự tôn dân tộc của người Hán
thời bấy giờ, đặc biệt lúc mà cụm từ "Trung Quốc",
nước ở giữa, trung tâm không chỉ của con người, mà còn của
"trời đất", được phổ biến và lưu hành rộng rãi để
xác định vị trí của người Hán đối với các dân tộc khác. Ta
đã thấy, để diễn tả việc người Hán đến nước ta tỵ nạn,
truyện Sĩ Nhiếp của Ngô chí 4 đã viết: "Sĩ nhân Trung Quốc đến
dựa tỵ nạn lên đến số trăm". Trong khi đó, cùng mô tả sự
kiện ấy, Mâu Tử xuất phát từ nhận xét trên chỉ đơn giản nói:
"Dị nhân phương Bắc đều đến để ở".
Tất nhiên, một khi đã xác định "đất Hán chưa
chắc là trung tâm của trời (đất)", thì nó hẳn phải ở một
phương nào đó, mà trong trường hợp này đối với Mâu Tử đang
sống tại nước ta, phải là phương Bắc. Và khi đã gọi người Hán
là người phương Bắc, Mâu Tử cũng như những người khac đang
sống tại nước ta, tất phải nhận mình là người phương nam, dù
trong Lý hoặc Luận không một lần đề cập tới. Xác định nam bắc
này về sau đã trở thành một phạm trù chính trị xung yếu trong lịch
sử dân tộc ta, mà đỉnh cao là sự xuất hiện cuả đế hiệu Nam
Đế của Lý Bôn năm 544 và quốc hiệu Nam Quốc của bản tuyên ngôn
độc lập năm 980 của Lê Đại Hành.
- Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
- Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
- Như hà nghịc lỗ lai xâm phạm
- Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Nó đòi hỏi một lối nhận thức mới, một đánh
giá mới về vị trí của một quốc gia ở về phía Bắc nước ta,
cũng như vị trí của dân tộc ta trong quan hệ với quốc gia đó. Điều
này đánh dấu trình độ nhận thức chính trị cuả người Việt vào
thời Mâu Tử đã đạt tới mức cao để vượt lên và định ra
được vị trí của mình cũng như của kẻ thù mình và quan hệ tương
tác của chúng. Nó thể hiện nổ lực kiên trì xây dựng một nền
văn hóa mới, kết hợp nền văn hóa Hùng Vương với nền văn hóa
Phật giáo mới đưa vào đã hoàn toàn thành công. Chính xuất phát
từ nền văn hóa ấy, một hệ thống lý luận mới ra đời, tạo cơ
sở cho một lối nhận thức chính trị mới, trong đó xác định Bắc
Nam trở nên một phạm trù chính trị xung yếu.
Mâu Tử lý hoặc luận xuất hiện muộn tại Trung Quốc
chứng tỏ đây là một tác phẩm Việt Nam cho nên Đạo An không biết
đến để ghi vào trong Tổng lý chúng kinh mục lục của ông. Trong lúc
có thể có những tác phẩm ca tụng Trung Quốc làm xong đưa lên
phương bắc đẻ được khen thưởng, thì Lý hoặc luận của Mâu Tử
lại cố ý xúc phạm đến văn hóa Trung Quốc, bài bác Nho Lão, cho
Phật là hay hơn, ở vào buổi giao thời đó, cho nên trong một thời
gian dài nói chỉ lưu hành tại đất nước ta. Phong trào lúc đó là
phong trào Di Hạ, xem Phật giáo là mọi rợ không đáng để cho
người theo, thế nên sự xuất hiện của một tác phẩm thuộc Phật
giáo Việt Nam như Lý hoặc luận tất sẽ kéo theo nhiều phiền phức
nên không ai dám dâng lên phương bắc. Cũng vì vậy mà những học
giả nghiên cứu về Mâu Tử cứ thắc mắc mãi về lý do sự không
có mặt của Lý hoặc luận trong Tổng lý chúng kinh mục lục của
Đạo An để đi đến giả thiết là Lý hoặc luận được viết sau
thời An.
Mâu Tử là người Việt. Cho nên khi đám "thế
tục" phê phán Mâu Tử bỏ đạo năm kinh mà đi theo đạo khác,
thì Mâu Tử đã thẳng thừng tuyên bố nơi điều 7: "Năm kinh
chưa hẳn là lời thành hiền"! Khi người Hán có mặt trên đất
Việt thì nhất định có một số người Hán đã Việt hóa, cũng như
có một số người Việt đã Hán hóa như Lý Tiến, Lý Cầm đã
cầu cạnh xin làm quan với nhà Hán. May mắn là đất nước ta chỉ
có một số rất ít nhưng tên như bọn chúng,nếu trọn cả một dân
tộc đều như thế thì có phải chúng ta đã mất nước từ lâu rồi
không? Sử ta lại ghi những tên trí thức bán nước cầu vinh này
là những người Việt ưu tú vì được Trung Quốc trọng dụng, trong
khi đángl ý nếu chúng có một chút quan tâm cho quê hương thì phải
biết đứng lên tranh đấu khi đất nước đang bị khổ đau dưới ách
thống trị của phương bắc. Sao lại có chuyện cúi đầu xin vua Tàu
để làm quan, tự đồng hóa mình thành ngưòi Tàu như bọn chúng?
Cho nên chuyện người Việt, đại biểu là Mâu Tử,
kiên quyết chống lại chánh sách "đức giáo" nô dịch của
người Tàu để đồng hóa dân tộc ta, bằng cách thẳng thừng vạch
ra những thiếu sót trong năm kinh, là một cuộc chống đối quyết
liệt, trực diện, để tổng kết một giai đoạn Phật giáo Việt Nam
đấu tranh giành độc lập cho đất nước. Người Trung Quốc vì muốn
áp đảo nước ta mà đem kinh Thi, kinh Thư ra dạy, chỉ với mục đích
nô dịch văn hóa dân tộc ta. Tuy nhiên người Việt nói chung qua
điển hình con người tri thức của Mâu Tử lại có lập trường
khẳng định rằng chúng ta sẵn sàng kiên quyết và thẳng thắng chống
lại chánh sách văn hóa nô dịch nhưng không bao giờ chống lại văn
hóa tự nó. Người Việt bao giờ cũng cởi mở để đón nhận và
tiếp thụ tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác. Trong lịch sử, bất
cứ giai đoạn nào mà dân tộc ta rộng rãi mở cửa tiếp nhận văn
hóa của những dân tộc khác thì trong giai đoạn đó dân tộc ta
thường phát triển mạnh mẽ. Thỉnh thoảng trong giai đoạn mà nhà cầm
quyền có chánh sách bài ngoại cực đoan thì thường dẫn đến
những giờ phút lâm nguy cho đất nước và phải trả bằng máu
bằng xương của dân tộc.
Cho nên khi có người nạn rằng tại sao Lý hoặc luận
không nói gì đến Phật giáo cả, ta có thể khẳng định rằng mục
đích của Lý hoặc luận là để "trị hoặc", để giải thích
những sai lầm của Đạo giáo và Nho giáo. Trong 37 điều, trừ 5 điều
đầu nói về Phật giáo và 7 điều nói về Lão giáo, còn lại 25
điều hoàn toàn nói về Nho Giáo, rằng Đạo giáo hay Nho giáo đều
không quan hệ với Phật giáo và văn hóa Việt Nam. Trong bối cảnh
văn hóa Việt Nam thời Mâu Tử, Lý hoặc luận không phải viết để
xiển dương Phật giáo, mà là một cuộc tổng kết cuộc đấu tranh về
văn hóa, giữa văn hóa Việt Nam đối với văn hóa phương bắc, mà
chủ yếu là Phật giáo đối với Nho giáo. Khi nói lên những câu
bài bác Nho giáo, không phải là Mâu Tử không có tư tưởng chỉ
đạo, xuyên suốt Phật giáo.
Điểm thứ nhất, Mâu Tử hiểu rất rõ về Phật
giáo. Cụ thể là Mâu Tử đã tổ chức Lý hoặc luận thành 37
điều, không phải vì Trung Quốc có Lão Tử Đạo đức kinh có 37
điều, mà vì trong Phật giáo có "tam thập thất kinh chi yếu",
37 điểm trọng yếu của giáo lý đạo Phật. Quan điểm rằng toàn bộ
kinh điển của Phật giáo tập trung trong 37 điều là quan điểm hết
sức cơ bản cuả văn học A-tỳ-đám. A-tỳ-đạt-ma đại-tỳ bà-sa
luận, quyể 183, ĐTK 1545 tờ 917b7-918a17 viết rất rõ: "Chánh pháp
là gì? Đáp: là căn, lực, giác chi, đạo chi vô lậu [...]. Hỏi:
Niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, cũng là chánh pháp không? [...]
Đáp: Kia cũng là chánh pháp [...]".
Quan điểm này sau đó ta sẽ thấy Mâu Tử đã truyền
lại cho Khương Tăng Hội khi viết An ban thủ ý kinh chú giải. ĐTK 602
tờ 172c4-5: "Mười hai bộ kinh hảy đều nằm trong ba mươi bảy
phẩm kinh, ví nhưi muôn suối bốn sông đều chảy về biển lớn".
Viết thế, rõ ràng Khương Tăng Hội đã ghi nhận rằng kinh điển
Phật giáo giống như biển, nhưng tập trung lại gồm 37 điều, đó là:
bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực,
bảy phần trợ Bồ Đề và tám thánh đạo. Tóm lại, Phật giáo tuy
có rất nhiều lý thuyết, nhưng giáo lý cơ bản vẫn là 37 điều kể
trên đây. Dự như tứ niệm xứ, 4 chủ đích mà người Phật tử
phải nhớ nghĩ, là thân thể không trong sạch (quán thân bất tịnh),
cảm thọ mình thường không vui (quán thọ thị khổ), lòng mình không
bao giờ nằm một chỗ cả (quán tâm vô ngã) và mọi vật đều
không có gì vững chãi (quán pháp vô thường), là căn bản cuả
tất cả phương pháp thiền Phật giáo thuộc mọi trường phái cuả Nam
lẫn Bắc tông.
Điểm thứ hai sau khi xác định cốt lõi của tư tưởng
Phật giáo là gì rổi thì Mâu Tử xác định ngay lý tưởng mà Phật
giáo phải đạt đến, đó là sự giác ngộ, tức là Phật. Bởi vì
Phật là gì? Mâu Tử định nghĩa, theo điều 2: "Phật là nguyên
tố của đạo đức, đầu mối của thần minh. Nói Phật nghĩa là
giác, biến hóa nhanh chóng phân thân tán thể, hoặc còn hoặc mất,
có thể lớn, có thể nhỏ, ẩn được hiện được, đạp lửa
không bỏng, đi dao không đau...". Đây là một đức Phật có tất
cả mọi quyền năng, không phải là Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu
Ni. Quan niệm về Phật của Mâu Tử do thế hoàn toàn phù hợp với
cuộc tổng kết quá trình bản địa hóa giáo lý và bản địa hóa tư
tưởng từ thời Chữ Đồng Tử thông qua Bát Nàn, cho đến Khâu
Đà La với quá trình bản địa hóa Phật giáo tại Việt Nam. Cuộc
tổng kết này thành hình trong bối cảnh giao lưu với những nền văn
hóa khác.
Điểm thứ ba trong Mâu Tử là bình đẳng, "tất
cả mọi loài hàm huyết đều thuộc về Phật cả, đều có Phật tánh
cả" (điều 14). Dân tộc ta không sợ bất cứ nền văn hóa nào
muốn áp đặt lên đất nước chúng ta, cũng không đi đến chỗ
cực đoan là tự tiện kỳ thị những dân tộc khác, chính là vì quan
niệm ai cũng có Phật tánh, ai đều thuộc về Phật này. Để trả
lời câu của Lưu Hy, nói là dân tộc ta không có lễ nghĩa, vượt
quá lễ nghĩa. Mâu Tử khẳng định tính bình đẳng của con người.
Và dân tộc ta đã giữ vững quan điểm đó và chống lại bất kỳ
một áp đảo nào.
Từ khái niệm bình đẳng đó phát sinh một khái niệm
mới, là khái niệm bao dung. Vì tất cả mọi người đều có Phật cho
nên ta phải bao dung, phải tôn trọng tánh Phật nơi người khác và
chấp nhận họ một cách dễ dàng dừ hình thù, quan điểm, giới
tính, ngôn ngữ, chủng tộc, văn hóa, tôn giáo v.v..., họ có khác
ta. Trong lịch sử Việt Nam, dân tộc ta chưa bao giờ đi đến cực đoan
về mọi phương diện; về phía Phật giáo lại càng không bao giờ có
chủ trương cực đoan, loại bỏ những gì bất đồng chính kiến với
đạo Phật. Dân tộc ta lớn mạnh cũng nhờ vào sự sẵn sàng chấp
nhận và bao dung những người khác, những văn hóa khác. Đây có
thể nói là ba đóng góp lớn cuả Mâu Tử đối với dân tộc ta.
Ngoài ra, từ quan điểm bao dung về Phật tính, xuất
phát một quan điểm mới đối với phương bắc, là "Hán địa vị
tất là trung tâm của trời (đất)". Mọi người đều bình đẳng
như nhau thì không có lý do gì mà có một người ngồi chính giữa
(trung tâm) để khinh rẽ những người chung quanh là man di mọi rợ;
không thể có một nước xưng là trung tâm cuả trời đất để gọi
nước ta là Nam Dao hay Nam Hoang, như Tiết Oánh, con Tiết Tôn, từng có
thái đô, để phải bị Mâu Tử bài bác. Phải nhìn cái không khí
dân tộc, đầy hận thù dân tộc, đầy kỳ thị văn minh như thế, ta
mới thấy chuyện đề ra một khái niệm là "đất Hán không phải
là trung tâm cuả trời đất" là một đóng góp to lớn đối
với dân tộc ta. Không những đối với dân tộc ta vào thời đó
mà ngay cả đến bây giờ và đối với các dân tộc khác. Tình
hình học thuật thời Mâu Tử là như thế.
Tóm lại phải đặt những quan điểm của Mâu Tử qua
Lý hoặc luận trong không khí học thuật thời đó mới thấy được
giá trị của nó. Tách rời nó ra ngoài cái không khí học thuật và
hoàn cảnh mà nó ra đời thì ta không hiểu gì được. Những sai
lầm cuả các học giả trước đây là đã quên mất lợi điểm
này, chỉ biết nhìn Lý hoặc luận từ góc độ cuả ngưòi Trung Quốc.
Tuy có người như Fukui Kojun đã đề cập tới cái hoàn cảnh chính
trị của Giao Châu thời đó, nhưng cũng chỉ qua loa mà không phân tích
sâu, nên cũng không nhận định rõ giá trị đóng góp của Mâu Tử
vào nền văn hóa của đất nước Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.
Những người khác đều không ai thấy được điểm này.
Chỉ khi đặt Mâu Tử vào trong không khí học thuật và
hoàn cảnh thời đó, ta mới thấy rõ và mới có thể phục chế
phần nào cái bối cảnh lịch sử và tình hình nước ta vào lúc
đó. Phục chế tình hình chính trị, tình hình tư tưởng, tình hình học
thuật, tình hình kinh tế, tình hình văn hóa, bên ngoài những sử
liệu giới hạn hiện có. Một bên thì sách vở thời bấy giờ hết
sức cực đoan. Thì Thư được dạy như là những lời dạy bất di
bất dịch của thánh hiền, cộng thêm những người diễn giảng như
Lưu Hy và Tiết Tôn bảo phải sùng bái Thi Thư như chân lý, và tôn
kính "đất Hán là trung tâm của trời đất", ngoài đất Hán
ra không còn đất nào khác. Một bên là Mâu Tử thẳng thừng
tuyên bố: "Thi Thư chưa hẳn là lời thánh hiền" và
"Đất Hán chưa hẳn là trung tâm cuả trời đất", làm nên
những cú đánh sấm sét đả phá ngay quan niệm hẹp hòi, độc tôn
đó.
Chỉ từ một quan điểm như thế, mới hiểu tại sao một
dân tộc bé nhỏ như chúng ta có thể thành công trong công cuộc
đối thảo với một dân tộc to nhiều như dân nhà Hán. Mâu Tử
đã đạt được thành công, đến thời Khương Tăng Hội rồi sau
này đến Đạo Thanh cũng đã thàn công qua việc đưa địa bàn văn
chiến lên phương bắc. Khương Tăng Hội chống gậy bắc du giảng đạo,
cùng đem sách vở dịch phẩm lên Trung Quốc; sau đó mấy mươi năm,
Đạo Thanh lại tiếp nối cuộc văn chiến đó bằng cách đưa bản dịch
Pháp Hoa tam muội kinh lên. Cả một cao trào khẳng định vị trí văn
hóa cuả dân tộc ta, chống lại nền văn hóa nô dịch cuả phương
Bắc, là như thế. Không thấy được điều này, không đặt Mâu Tử
vào trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ thì ta không thể nào
hiểu được Mâu Tử Lý hoặc luận và cứ cho đấy là tác phẩm
của người Trung Hoa. Vì thế và những quan điểm lớn của Mâu Tử
là thế. ( Trang 297)