- Lịch sử Phật giáo Việt
Nam
- Từ khởi nguyên đến thời
Lý Nam Đế
- Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
- Chương VIII
- Sáu lá thư và cuộc khủng
hoảng
- của nền Phật gia'o thế kỷ thứ V
Sáu lá thư
Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố lịch sử
Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố thư tịch
Về tác giả và soạn niên của Sáu lá thư
Về Đạo Cao
Về Pháp Minh
Về Lý Miễu
Nền Phật giáo do Mâu tử và Khương
Tăng Hội gầy dựng đến thế kỷ thứ IV vẫn đang còn có những ảnh hưởng
mạnh mẽ. Chí Hàm viết Triệt tâm ký mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu
ở trên đã nhắc đến Khương Tăng Hội với lòng ngưỡng mộ đặc biệt.
Tuy nhiên, bước sang thế kỷ thứ V thì một số phạm trù cơ bản của nền
Phật giáo Mâu Tử, Khương Tăng Hội đã biến thành đề tài tranh cãi,
trong đó vấn đề then chốt nhất đối với những người Phật giáo là tại
sao thực hành theo Phật giáo mà lại không thấy chân hình của Đức Phật
ở đời. Đây là đề tài bàn cãi của Sáu lá thư trao đổi giữa hai pháp
sư tên Đạo Cao, Pháp Minh và một "Sứ quân" tên Lý Miễu. Mấy
lá thư này là những áng văn xưa nhất của lịch sử văn học Phật giáo,
mà còn đối với lịch sử chính trị và văn hóa Việt Nam một cách tổng
quát.
Sáu lá thư này bày tỏ cho thấy Phật
giáo đã được dân ta tiếp thu như thế nào, những vấn đề gì mà họ
quan tâm nhiều nhất, từ đó, giúp ta xác định được sinh hoạt trí thức
và văn hóa chung của thời đại, Thực sự mà nói, chúng đã phơi trần một
cuộc khủng hoảng có tính chất căn để đối với toàn bộ tư tưởng và
tín ngưỡng Phật giáo vào thời ấy, ví chúng chỉa mũi dùi tra hỏi đến
vấn đề người theo Phật giáo thực sự có thể thấy Phật được không?
Đặt vấn đề như thế là nhắm đến trọng tâm của toàn bộ sinh hoạt
Phật giáo, vì sinh hoạt Phật giáo đâu có ý nghĩa gì khác ngoài mục đích
làm cho những người thực hành nó giác ngộ, nghĩa là tìm lại bản thân
đức Phật của mình, tìm lại bản chất Phật của mình. Do vậy, hỏi sao
không thấy chân hình của Phật đối với người Phật giáo là nêu lên những
nghi vấn về chính cái mục đích mình đang theo đuổi, là tự hỏi về sự
hiện hữu của chính mục đích đó. Có thể nào ta thấy đức Phật
chăng? Có thể nào ta giác ngộ chăng?
Nghi vấn và tự hỏi về mục đích
như vậy bao gồm luôn một nghi vấn và tự hỏi về giá trị phương pháp
nhằm đạt đến mục đích đó. Một mặt, ta hỏi mục đích có hiện hữu
không. Mặt khác giá như mục đích đó hiện hữu mà ta không đạt đến
được, phải chăng vì phương pháp của ta đã sai lầm? Sáu lá thư này sẽ
giúp cho thấy những câu hỏi như thế cần phải giải quyết ra sao trong bối
cảnh lịch sử Việt Nam thời đó, Chúng sẽ phơi bày không những nghi vấn
về giá trị của những phương pháp thực hành Phật giáo đang lưu hành
vào giai đoạn ấy mà còn biểu lộ cho thấy cái quan niệm về Phật do nền
Phật giáo Mâu Tử và Khương Tăng Hội thiết định đang mang trong mình một
số những mâu thuẫn cần giải quyết.
Sáu lá thư ấy ngày nay xuất hiện
trong Hoằng minh tập 11 ĐTK 2145 bản in Đại chính 11 dưới nhan đề
"Cao minh nhị pháp sư đáp Lý Giao Châu Miễu nan Phật bất kiến hình sự".
Việc này có thể làm cho ta nghĩ rằng, chúng đã được Hựu sưu tập sau
năm 513, nếu không là sau năm 495 - 498, bởi vì Hựu đã cho trích lời tựa
của Hoằng minh tập trong Xuất tam tạng kỷ tập quyển 12 ĐTK 2145 tờ
93b12-94a23 viết xong khoảng những năm ấy và bảo là Hoằng minh tập chỉ
có 10 quyển chứ không phải có 11 quyển như bản in Đại chính ngày nay
điểm chỉ.
Tuy nhiên, nếu ta đọc hết lời tựa
cùng bản liệt kê nội dung của nó, thì Sáu lá thư ấy lại được xếp
vào quyển thứ bảy cùng với những đối đáp giữa Hà Thượng Chi và Tống
Văn đế và một số văn bản khác của Tiêu Tử Lang..v.v. Trong đó, Hựu
cho ta biết tại sao và bằng cách nào cuốn Hoằng minh tập ra đời. Ông viết
ở tờ 93b26-c3: "hựu dĩ mạt học, chí thâm hoằng hộ, tĩnh ngôn phù
tục, phấn khái vu tâm, toại dĩ dược tật vi gian, sơn thê dư hà, soạn cổ
kim chi minh thiên, sao đạo tục chi nhã luận, kỳ hữu khắc ý tiển tà vệ
pháp, chế vô đại tiểu, mạc bất tất thám, hựu tiền đại thắng sỹ
thơ ký văn thuật, hữu ích tam bảo giả, diệc giai biên lục, loại tụ
khu quân, liệt vi thập quyển; phù đạo dĩ nhân hoằng, giáo dĩ văn minh,
hoằng đạo minh giáo, cố vị chi Hoằng minh tập". Sáu lá thư do
"Cao Minh nhị pháp sư đáp Lý Giao Châu Miễu nạn Phật bất kiến hình
sự" như vậy chắc chắn phải thuộc loại "tiền đại thăng sỹ
thơ ký văn thuật", và chắc chắn là được sưu tập nếu không trước
những năm 495-498 thì trước năm 513, năm Hựu hoàn thành bộ Xuất tam tạng
ký tập.
Tăng Hựu sinh năm 445 và mất lúc
ông 74 tuổi vào năm 519. Hai vị pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh cũng như người
đệ tử của họ tên Lý Miễu, ngày nay chúng ta không biết một tí gì hết.
Những tư liệu lịch sử Trung Quốc và Phật giáo Trung Quốc từ Cao Tăng
truyện đến Tống thư đã không có một người nào với những tên ấy.
Những tư liệu lịch sử nước ta và Phật giáo nước ta cũng không có. Dẫu
thế, vì Tăng Hựu sinh và mất giữa những năm 445 - 519, niên đại của những
vị "tiền đại thắng sỹ" này phải rơi vào khoảng thế kỷ thứ
V. Điều này bản in đời Minh đã xác nhận với những tiêu đề cho những
lá thư ấy như "Đáp Lý Giao Châu thơ Tống Thích Đạo Cao" hay
"Dự Đạo Cao pháp sư thơ Lý Miễu".v.v., định tự một cách rõ
ràng, những người liên hệ quả đã sống vào thời Lưu Tống, tức giữa
những năm 420 - 478. Nghiêm Khả Quân (1762 - 1843) trng Toàn thượng cổ Tam đại
Tấn Hán Tam quốc Lục triều văn cũng đã xếp họ vào trong tập Toàn Tống
văn dành cho văn chương nhà Lưu Tống. Và những niên đại đây có thể đẩy
về một vài chục năm sớm hơn, như chúng tôi sẽ có dịp chứng tỏ dưới
đây, trong đoạn thử truy nhận căn cước những pháp sư và người đệ tử
của họ cùng trạng thái có thể của những người này trong lịch sử nước
ta. Ở giai đoạn này, chúng tôi cần cho người đọc thấy những lá thư
ấy.
Sáu lá thư [^]
Những lá thư này viết bằng Hán văn
và xuất hiện trong Hoằng minh tập ĐTK 2102 quyển 11 tờ 70a26-72a19 của bản
in Đại chính. Vì chúng tương đối khá dài, chúng tôi do thế chỉ cho xuất
bản dịch tiếng ta và xin người đọc tham khảo bản chữ Hán ở bản in
vừa nói. Một số điển cố trong chúng, chúng tôi xin để nguyên trong khi
dịch và sẽ bàn tới trong những chương tiếp theo.
Những lá thư ấy, theo chúng tôi biết,
thì chưa một cuốn văn học sử nào của ta, ngay cả những cuốn mệnh
danh viết về "Việt Nam cổ văn học sử" hay "Lịch sử văn học
Việt Nam thời Bắc thuộc" kể tới. Chính vì vậy được công bố
toàn vẹn ở đây để làm tư liệu cho việc viết một cuốn sách Văn học
sử Việt Nam đầy đủ hơn và giúp sửa soạn việc nghiên cứu lịch sử
tư tưởng Việt Nam một cách nghiêm chỉnh hơn sau này.
- Lá thư thứ nhất:
- Lý Miễu của Giao Châu viết cho
Cao pháp sư
Rằng, chỗ đạo trong vắng, bốn
đại lẽ thường, nhưng giáo pháp nhiệm mầu lan khắp mọi cõi. Nếu bảo
lời dạy ấy khéo hay lợi vật, độ thoát nhiều người thì sao chân hình
nó lại không hiện ở đời? Ấy phải chăng chẳng qua là nói suông không
thật? Nay chính là lúc phải nên tìm nguồn gốc phương tây của nó. Nguyện
xin đại Hòa thượng dũ lòng thương xót, nhận lấy lòng con, mà không tiếc
lời dạy thần tình.
Đệ tử Lý Miễu cúi đầu đảnh
lễ.
- Lá thư thứ hai:
- Đáp lại thư của Lý Giao Châu
Thích Đạo Cao thưa rằng:
Nhận được câu hỏi về dấu
tích ẩn hiện của đấng Chí Thánh, lý vị đã sâu rộng, mà từ nghĩa lại
rõ ràng, trân trọng lại xem qua đọc lại, thì lời hay càng thêm. Sư quân,
thành quách cao sâu, nhận được giáo pháp mà tự hỏi, thì đem hết ống
ngu của mình, để làm chuyện võng tượng đi tìm huyền châu.
Rằng, đức Như Lai ứng vật, phàm
có ba cách, một là hiện ra xác thân, phóng quang động địa; hai là để lại
Chính pháp, như khi Phật còn tại thế; ba là để lại tượng giáo từa tựa,
Pháp tắc từa tựa, Pháp tắc ngày nay đang đáp lại nhân tình, nhân tình
đang cảm lấy tượng giáo thì ai làm cho Phật hiện ra ư? Cho nên kinh Tịnh
Danh nói rằng: "Khéo hiểu được pháp tướng thì biết được căn cơ
của chúng sinh". Đến khi có ba hội Long Hoa ở thành Sí-đầu-mạt, nhân
tình cảm lấy sự hiện thân thì ai làm cho Phật ẩn đi ư? Cho nên kinh
Pháp Hoa nói rằng: "Lúc bấy giờ đức Phật cùng chúng Tăng đều ra
khỏi núi Linh Thứu". Cung vua Nhượng Khư đương nhiên có thể định kỳ
như thế, thì nguồn gốc phương Tây sao lại không thấy? Nhưng kẻ nghi ở
đời phần nhiều nói lời kinh không hợp, nên mắc phải sự ám muội thiếu
tình, ấy là vì lấy chuyện không thấy mà sinh trệ.
Rằng, Tam hoàng Ngũ đế, Tam đại
Ngũ bá, Cơ Đán Khổng Khưu san kinh Thi chế sách Lễ, đều chỉ nghe ở sử
sách, có ai thấy đâu? Họ Thích gióng trống Pháp tại vườn Nai, đức Phu
Tử dương lời đức ở Châu Lỗ, ấy đều là những việc tai mắt không
biết được và đều phải tin vào sách vở. Nếu không tin việc sau, thì
chẳng nhọc lòng nghi chuyện trước. Nhưng nếu đã hay rõ được việc sau
thì sao lại chỉ trệ ở chuyện trước?
Sứ quân nghĩ suy sâu rộng, xem suốt
ba đời, thì xin hãy tìm xem lời dạy của Thọ Lượng chưa dứt, gần theo
dấu Định Quang Nho Đồng, giữa suy tập Đại Thông Trí Thắng, để cởi
mở chỗ trệ mọi người. Như đem mây đùn che lấy thái dương, lời cạn
văn quê của bần đạo nói không hết lòng. Mong đến ngày gặp nhau, thì sẽ
nói rõ ràng hơn về vấn đề trên.
Kính bạch.
- Lá thư thứ ba:
- Thư của Lý Miễu viết cho Pháp
sư Đạo Cao
Lý con xin cúi đầu đảnh lễ,
Con xem đi xem lại lời bàn thanh
nhã của thầy vị thứ đã khu biệt, mà lời lẽ lại sâu đẹp. Con mong
đến ngày gặp rất nhiều. Cái gọi là "cảm hóa có lúc khác nhau,
Chánh pháp và tượng pháp lời lẽ hơi khác", thầy đã viện việc
ngoài để rõ nghĩa trong, trưng lấy văn để nghiệm sự thật, cẩn thận
theo lối mà dẫn tới đích, tất cả chúng không có chỗ nào hở hang hết.
Song rằng, căn do của sự giác ngộ
tất phải nhờ nhìn thấy, khi đã mắc vào ám muội thì phải sinh nghi.
Nghi ngờ không phải là cội nguồn của sự giác ngộ. Nếu sách vở đang
còn, thì những đời khác đều có thể hiểu được, và vạn thế về sau
có thể không đợi một bậc thánh để làm thầy. Nếu nay đã nhờ đến
cả tiếng tăm lẫn dấu tích, thì lời nói và hiện thân phải giúp đỡ
cho nhau. Đạo nghĩa đã bị khó khăn, bọn Nho Mặc đang tranh nhau nổi lên,
thì há để cho chính tín lu mờ, làm cho sự hủy báng hiểu lầm càng tăng
hấn sao? Có thể nào không thấy sự thị hiện và ấn ký để làm chứng
nhằm giữ lấy mình sao? Đấng Đại Thánh ban ra cái trí vô ngại, duỗi
lòng thương không cầu, thì sao lại tiếc cái ánh sáng rực rỡ của mình,
để làm tăm tối hơn những tài năng đi tìm hiểu, dứt hết cả hy vọng
của mọi người sau khi nhập diệt, và gia thêm tội lỗi trước lúc có ba
hội Long Hoa? Chó rơm suông đặt, thì ai mà có thể giác ngộ được? Nghi
tượng giả bày, thì ai mà có thể tin được?
Đến cái chuyện đế vương Cơ Khổng,
thì lời dạy của họ đều dừng lại ở đời này. Việc lai sanh, họ để
ra mà không bàn tới. Cho nên, sự ẩn hiện phế hưng quyền thật của họ
không cần phải nói. Nay đức Như Lai đạo nghiệp bao gồm cả ba đời, lòng
thương thấm nhuần khắp cả, thì không được lấy đời hiện tại mà
làm giới hạn. Mọi người mê muội đang tìm xin hiểu biết, thì không
được lấy việc nhập diệt mà cho là chỗ cùng. Vì thế, mà việc hóa độ
không thể hạn cục vào sách vở, và việc Phật la liệt bày ra hàng vạn.
Xin hỏi rằng, cái gọi là việc Phật ấy ngày nay nằm ở đâu ư? Nếu
như dẫn chuyệntin bên này, nghiệm bên kia, nhưng đấng Chí Thánh không ra
đời, Khổng và Thích hai đường khác nhau, tức sự mà bàn không phải là
không mâu thuẫn, thì chúng có cái gì có thể chứng nghiệm cho nhau ư?
Vì chưa thể im lặng bỏ đi, nên
con lại phải mượn lời, xin thầy giải rõ thêm một lần nữa, trong khi
chờ đợi gặp nhau cho việc trình bày rõ ràng hơn.
- Lá thư thứ tư:
- Lại đáp thư của Lý Giao Châu
Thích Đạo Cao thưa rằng:
Lại nhận được lời dạy sâu sắc.
Ý nghĩa đã đẹp đẽ, mà tôn chỉ lại cao xa, ba đọc chín suy mới nắm
hết chỗ uyên áo. Cho nên biết rằng, điều chí lý thì không phải người
tầm thường thiển cận có thể lường đo, lẽ vi tế ẩn khúc thì không
phải kẻ cạn cợt dốt nát có thể tham hiểu. Nay xin đem sự thường thiển
mà trình bày sơ cái sở hoài của mình.
Rằng, lấy muôn điều lành làm lời
dạy thì đường đi không phải là một. Có kẻ ngồi thiền trong rừng
rú, có người tu đức ở bên cạnh thành, hoặc cung kính chấp tay, hoặc
ca hát tán tụng ngâm vịnh, đều là những việc tai mắt cùng biết, và người
thực hành chúng cũng rất nhiều. Đó là bến bờ của sự thọ ngộ. Gọi
việc mắc sự ám muội, sao lại là nguồn gốc của sự thọ ngộ, ấy là
vì nếu đã nhìn thấy thì hà tất lại có sự mắc phải ám muội. Có mắc
ám muội thì mới sinh nghi. Nghi ngờ do thế cũng là cỗi gốc của sự
giác ngộ. Xin đáng bàn rõ điều này. Có nghi ngờ thì người ta đi tìm sự
hiểu biết. Có hiểu biết thì người ta có thể giác ngộ. Đã giác ngộ
thì vào đạo. Nếu không phải gốc thì nó là gì?
Tuy Nho Mặc đang tranh nhau nổi lên,
các học phái cãi cọ phải trái, ấy là vì ngọn đuốc cháy mãi không dứt,
chứ đâu phải trời trăng không sáng chiếu, thì sao lại phải gấp gáp
trong việc thị hiện và hấp tấp trong việc đồng qui? Nay không phải là
giống lúc đời mạt không chứng. Chứng nghiệm là để bày tỏ sự chân
thành, đồng thời cũng để tỏ ra nó không phải là lỗi của đấng Chí
Thánh đầy dẫy ánh sáng rực rỡ. Nhưng kẻ nghi cứ lấy việc không thấy
bản thân Ngài, rồi dài mê trong đại mộng, ngang ngạnh chìm trôi, để mà
chết đắm trong sanh tử. Tiên Nho vãng triết đều có nói sơ điều này từ
lâu. Đường không khác lối. Họ chỉ thuật lại mà không làm.
Rằng, quên mình mà đem hết lòng
thành thì tất có cảm. Có cảm tất phải có thấy. Không có cảm thì
không thấy. Người có thấy đem nói với kẻ không thấy cuối cùng cũng
không tin sự thấy. Thánh nhân không phải là không thường ở với quần
sanh, đâu phải là không thường thấy ư? Nghe Pháp âm mà bảo là hay, thì
chó rơm không thể nói là đặt suông, thấy hình tượng mà cung kính thì
linh nghi há là bày giả.
Cơ Khổng cứu đời đọa lạc không
nổi, thì rảnh đâu mà bày tỏ sự việc của lai sinh? Nếu Khâu và Đán
sinh gặp thời kết nối, họ đã nói rõ chuyện ba đời chẳng thôi. Ngài
hỏi, nay việc Phật nằm ở đâu ư, thì cúi đầu chắp tay, không gì là
không phải việc Phật. Chúng chỉ nhằm khiến người ta thâm ngộ một
cách có phương pháp. Chúng thù đồ mà đồng qui. Thư trước đã dẫn bên
này bên kia, kẻ nghi người tin, ấy chính vì người đời hễ không thấy
thì cho là không có thật. Cho nên phải nói chuyện không thấy của Chu và
Khổng để làm mực thước vậy. Đấy là để dắt dìu mà cùng theo nhau,
há có thể gọi là mâu thuẫn sao?
Sứ quân sinh ra đã biết sự không
giả dối. Với tài năng phú bẩm, ở vào địa vị của một đấng thiên
tử, dùng lấy sự nghĩ suy dĩnh thoát, bơi lội trong rừng nghĩa, đi lại tại
vườn sách, thì ngài có thể nghỉ ăn búi tóc tiếp khách, có rỗi bàn hay
suốt ngày. Lời hay đã nói thì không thể không lắng nghe. Bần đạo học
nghiệp thô thiển, rất thẹn lá thư. Trả lời xằng gọn, sợ làm bẩn vẻ
đẹp của văn đầy. Nghĩ lại càng thêm thẹn thùng, mồ hôi lấm tấm.
Kính bạch.
- Lá thư thứ năm:
- Thư của Lý Miễu viết cho Pháp
sư Đạo Cao
Lý con xin cúi đầu đảnh lễ
Lời bàn thanh nhã của thầy đã
làm rõ bến bờ của sự thọ ngộ, ấy là sự tự nghi. Được mắc ám muội
có thừa, chứ không cần phải nhìn thấy, có cung kính tán tụng thì đều
đủ để dẫn vào đạo vậy. Xem đi học lại, con càng thấy sự sâu sắc
của nó.
Song, cái gọi là tượng pháp và
chính pháp trái nhau, nên đi tìm sự giác ngộ, vì lý thô, phải mượn nơm
để chỉ bày tôn chỉ mà không cần phải nhờ đến sự thị hiện, điều
này vẫn giống như lý do Cơ và Khổng đã ban ra lời dạy của họ và ánh
sáng đã tỏ ra sự chiếu minh của nó. Một khi đã bày tỏ thì ai cũng nhận
được. Điểm này, sách vở đời ghi chú cũng đã nhiều đủ. Thế thì
phóng quang động địa mà làm chi ư?
Nếu chính tín không dừng lại ở
sự lạy lục, và việc Phật gồm đủ cả sự thực hành lẫn giáo hóa,
thì nguyên do của sự đại giác phải làm thần diệu cái nét đẹp của nó,
để cho việc đi tìm có thể định được sự bắt nguồn. Cho nên, biết
rằng, người tin thì tất phải dùng đến Nho Mặc để giải quyết những
nghi ngờ, và kẻ học thì sẽ do dự không chứng mà tự hối hận. Tam
hoàng Ngũ đế, dù có bỏn sẻn sự minh triết, cũng không phải là lỗi của
họ. Mười hiệu của đức Phật, tuy thầm lặng chiếu sáng, đã diễn hết
mọi đạo đức. Chúng há lại không biết sao?
Còn về chuyện Cơ và Khổng chỉ
trọng đến cứu đời tọa lạc, mà không rảnh để đề cập tới lai
sinh, và chuyện giả như họ sống vào thời kết nối thì đã tự nói rõ
cả việc ba đời, những chuyện này lại cũng không phải thế. Bảy kinh
trình bày, ý nghĩa gồm cả tới những gì chưa đến. Sách Phật phu diễn
sự việc thì dừng lại ở duyên báo. Cho nên kinh Dịch nói rằng: "Chứa
lành thừa vui, chứa dữ thừa khổ", và kinh Phật dạy: "Không có
chủ thể làm, không có đối tượng làm, không có kẻ bị làm, hành động
lành và dữ cũng không mất". Điều này chứng tỏ lời dạy về duyên
báo là một lẽ thường mà giáo huấn cả hai bên đều đã truyền rộng,
há có thể bên này vụ điểm này, bên kia chú trọng điểm kia ư?
Bàn lại những điểm ấy lại càng
hay, nên con xin nói lại chúng vậy. Hy vọng thầy lại đem điều mới trình
bày những chỗ khác để gột rửa cái trệ của xưa nay, khiến cho đường
cong thành thẳng, chướng ngại lại thông. Thầm nguyện Đại hòa thượng
duỗi lòng thương rộng nhận chút lòng con.
Đệ tử Lý Miễu kính trình.
- Lá thư thứ sáu:
- Đáp lại thư của Lý ở Giao
Châu
Thích Pháp Minh thưa rằng:
Lá thư dài vừa mới tới, trân trọng
xem nó suốt ngày. Nó thơm tựa lan rừng, thanh như gió huệ. Bần đạo tài
năng không phải là của Sương Dĩnh, thời vận không phải là của Bào
Sinh, việc làm thì sai trái, lý luận thì hở hang, chỉ vấp phải nghi ngờ
từng đống, ấy đều vì lời dốt ý trệ. Song đã gắt hỏi thì xin
trình tỉ mỉ vụn vằn như sau:
Kẻ ngu này cho rằng, nghi ngờ điều
mờ ám, ghi nhớ sự lạ lùng, nhìn thấy việc thị hiện, cung kính tán tụng,
cảm động linh biến, đều là bến bờ dẫn về chỗ đạo, là cơ hội đẹp
đẽ cho sự thăng hoa. Cho nên thắc mắc và nhìn thấy đáng được nêu đều,
nghi ngờ và chứng nghiệm đáng phải đi đôi, thì há có thể quăng phăng
sự thị hiện, mau tiết lộ vỏ thần thái, để đặt đức Phật ngang hàng
với Cơ và Khổng, xếp giáo pháp cùng với lời dạy của đời được
sao? Phong quang động địa đều là lời suông.
Rằng, pháp thân ngưng tịch, sắc màu
sáng trong, cho nên có thể ẩn hiện theo thời, hành tàng chẳng biết. Hiển
thì dựa theo sự thật mà ra. Ẩn thì khéo trôi mà đi. Thế, đã nói đi tìm
tôn chỉ, sao lại phải dòng dài về mười hiệu? Tia lóe của một ánh thừa
cũng đủ làm sáng rạng cả cái đời đồi trụy này thì người tin há
đi lấy một đốm lửa leo lét để làm tăng thêm nỗi nghi ngờ của mình
sao? Chỉ cần hướng đến mặt trời mới rạng thì trắng đen sẽ sánh
vai nhau. Tháp tượng kinh sách đầy khắp cả thế giới, kẻ học há lại
đi lấy điều không chứng để tự hối hận sao?
Ngài lại dẫn đến bảy kinh, ý
nghĩa gồm cả những gì thuộc vị lai như "chứa lành thừa vui, chứa
dữ thừa khổ", thì tuy nói thế, chúng đã không nói đến việc sinh
diệt đổi mới, đổi vai gánh thay, hành động lành dữ không thể không
chịu báo được. Điều này quả đã rõ cả đời, càng rộng rãi sâu sắc
hơn cả bảy kinh. Dù vậy, trưng văn để nghiệm lấy sự thật, điểm ấy
vẫn được lắm. Thư trước ngài nói rằng "Đế vương Cơ Khổng lời
dạy dừng lại ở đời này, viện lai sinh họ để riêng ra mà không bàn tới,
cho nên sự ẩn hiện phế hưng quyền thật của họ không cần phải
rõ", thì tựa hồ như có vẻ mâu thuẫn. Song, ý nghĩa nó bây giờ đã
ổn ký thì đáng lòng thương không nên trách. Chỉ xin nghe rõ hơn nữa điều
sâu sắc.
Thơ đáp trước có nói sơ đến đấng
Chí Thánh và sự chìm nổi của chúng sinh, nhưng nghĩa cứ chưa rõ ràng, lời
lẽ chưa thông suốt, nên nay xin bàn rõ lại, để cùng nhau rộng truyền đạo
lớn.
Rằng, quần sinh dài mê trong ba
cõi, chúng thức tối mờ trước sáu trần, trôi chìm với sinh tử là ông
chúa của sự cấu xé ăn nuốt, tương tục ở tâm thức là bánh xe của sự
lăn lóc luân hồi, xác thân thì đầy dẫy quán trọ của nghịch lữ, tâm
hồn thì chỉ đáng cho khách khứa nghỉ chân, lui tới trong ba ác mà khổ sở,
qua lại trong tám nạn mà chua cay, hân lạc thì tạm vui mà lo sợ suốt kiếp;
một thân chết đi lại chịu một thân khác. Dẫu thế trí biện thông,
sách vở đầy bụng, trăm nhà thấu suốt, chín phái rõ qua, biết sống chết
có mạng, giàu sang tại trời, quỉ thần không thế đòi hỏi, thánh hiền
không thể dự tri, ấy cũng chưa thoát khỏi sự sai lầm để che lấp tâm
tình hay sự nghi ngờ từa tựa để lo nghĩ lông bông. Rồi phó thác cho đồng
bóng, đầu thành với phù chú, ôm lấy chuyện bậy để hy vọng điều phải,
giữ chặt việc giả để chờ đợi sự chân, chần chờ hai lòng, trù trừ
đôi ngã, thì Phật dù có phóng quang động địa, ai mà có thể thấy cho
ư? Sở dĩ sách Phật lưu bố, ấy là giống như bày nơm mà chờ cơ. Căn
cơ động thì tất có cảm. Có cảm thì sau đó tất có lứng vậy.
Tự khi đặt chí vào nhà huyền, dốc
hết lòng vào chỗ uyên áo, rõ được mạng người như giọt sương mai, hiểu
được ba đời là không giả, thì phải tung mở cái thuật thanh chân, kiểm
chận lấy con đường trược giả, gầy đức nhổ tà mà tà vẫn um tùm,
trồng phước vun chính mà chính vẫn thưa thớt, khổ tiết giành lấy thời
gian với tấc bông, sạch mình tranh lại phút giây với già nua, ôm ấp
lòng thành, bảo hoài chí hướng, cho đến khi có cảm thì mọi việc liền
thông. Há lại không tự mình đem lấy ánh sáng quang minh mà thấy được sự
linh biến của nó đó hay sao? Hoặc qua sự chứng kiến rõ ràng của tai mắt
hoặc qua sự mơ thấy trong giấc mộng như Hán Minh đế nhơn mộng mà thấy
được đấng Chí Thánh, đại pháp do thế mà đã du nhập Trung Quốc, vua
chúa đem hết lòng thành để trở về với bậc đức, anh hào vén áo để
được giáo hóa, Sa-môn sánh vai với vương công, tăng ni trực cung trước
thiên tử. Đối với 96 thứ ngoại đạo thì ai là cao hơn?
Tống Vũ Hoàng đế, khi mới lên
ngôi, nằm mộng thấy một thầy tu mang bát đến xin, nhân thế mà nói rằng:
"Ông đời trước vì bố thí cho Phật Di Vệ một bát cơm, nên nay mới
được ở ngôi này", bèn sai đến hỏi Nghiêm công giải bày thực giả.
Nghiêm công liền đưa kinh Bảy Phật cho xem. Chúa Ngô là Tôn Quyền ban đầu
nghi Phật pháp không nghiệm, đáng nên đình chỉ bãi bỏ, thì liền nhận
được ngọc xá lỵ, chiếu sáng rực rỡ, vàng sắt không thể dập nát,
lò nung không thể thiêu cháy, nay đang còn thấy ở chùa Kiến sơ tại kinh
đô. Ngô quận có một tượng Phật đá, nổi trên nước biển, đạo sỹ
đồng cốt, người theo hàng trăm, ra vẻ phù đọc chú, đánh trống nhảy
múa, không một tên có thể làm nhúc nhích. Năm sáu thầy tu cung Chu Trương
và khoảng bốn người đã nhẹ nhàng nâng lên và cùng nhau bưng đi một cách
dễ dàng, tức nay thấy tại chùa Ngô quận Bắc. Thuần thành chí đáo,
thì không gì là không có cảm ứng. Nhà Chu Trương suốt đời thờ Phật,
do thế mà thấy được sự ứng nghiệm. Quách Văn Cử sùng phụng Tam bảo,
chính tín kiên minh, tay rờ họng cọp, rất biết sự an nguy. Lan công phủi
tuyết buốt cho thú dữ, hộ công cảm suối khô thành dòng nước lũ, họ
đều là những bậc cao hạnh siêu quần, thanh trần thoát tục mà hành
tích khác thường đều có ghi lại ở đời vậy. Ngoài họ ra còn không biết
bao nhiêu nữa.
Bần đạo lúc nhỏ học hành nhác
nhớm, nên đến khi bạc đầu trở thành quê mùa cạn cợt; tỏ rõ lòng
thành của mình, thì lời chẳng văn vụn, vị tất có thể hoa mỹ nên sợ
không duẫn đáng. Suy đi nghĩ lại càng thêm thẹn thùng.
Kính bạch.
Hật bút:
Tống cư sĩ ở Kinh Châu làm ra quyển
Minh Phật luận, bảo rằng, theo lời thuật của Bác Ích trong Sơn hải kinh
thì nước Thân Độc gần người mà thương người. Quách Phác chú thích
là, Thân Độc tức là Thiên Trúc, nơi Phù đồ đang nổi lên - Phù đồ tức
Phật đó vậy. Liệt tiên truyện của Lưu Hướng kể lại 47 người tiên
trong kinh Phật. Đó phải là do cái nhìn hẹp hòi về vấn đề ấy của những
học giả, chứ không phải là Phật giáo bắt đầu với Hán Minh đế. Nhờ
sự nhân tử thánh thiện tên Trừng vào thời Thạch Lặc và Thạch Hổ đã
gọi Hổ bảo rằng: "Tại chỗ chùa vua A Dư xưa trong thành Lâm Truy
còn có cái tháp hứng sương có một bức tượng ở dưới một gốc cây lớn
tại rừng sâu cách đất khoảng hơn 20 trượng". Hổ sai sứ giả y
theo bản đồ đào tìm thì được đúng như lời nói - Vua A Dư tức là vua
A Dục vậy. Chú của Diêu Lược là Tấn vương ở Phố Pha Hà Đông. Ở chỗ
mà những người già gọi là chùa vua A Dục, ông thấy có ánh sáng lóe ra,
bèn dục tìm được xương Phật trong một hộp bạc tại một tráp đá
sáng tỏa lạ thường, theo đường nghênh về kinh đô ở Nghiệp, dâng lên
cho các Tỷ-kheo, nay thấy tại chùa Tấn. Do đó, thấy rằng, Phật sự có
khắp đất Tấn đã lâu vậy. Sở dĩ nó không được nói đến ở thời
Tam đại, ấy cũng giống như các cuốn sử của Can Bảo và Tôn Thạnh đã
không nói đến sự diệu hóa thật rõ của đức Phật đã có tiến bộ
và thạnh hành ở Giang tả vậy.
Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố lịch sử [^]
Đây là Sáu lá thư được bảo là
những thành quả sống sót của những trao đổi giữa Lý Miễu của Giao
Châu và hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh. Sau lá thư thứ sáu, có một đoạn
văn mà chúng tôi gọi là "Hậu bút", và nói không gì hơn là một
trích dẫn từ Minh Phật luận của Tôn Bính (374-443) do Tăng Hựu sưu tập
lại trong Hoằng minh tập ĐTK 2102 tờ 12c12-18. Bính viết Minh Phật luận nhằm
trả lời những vấn đề do Quân thiện luận của Huệ Lâm nêu lên. Trong
đoạn trích trên, chủ ý của Bính là nhằm chứng minh rằng, Phật giáo đã
được biết tới và xuất hiện rất lâu trong lịch sử Trung Quốc ngay cả
vào thời Tam hoàng Ngũ đế. Bính chẳng hạn kể đến cái câu "đông
hải chi nội, bắc hải chi ngung, hữu quốc viết Triều tiên Thiên độc, kỳ
nhân thủy cư, ôi nhân ái nhân" của Sơn hải kinh trong Sơn hải kinh tiển
sớ quyển 18 tờ 1a, mà ta được bảo là do Bá Ích, người con thứ hai của
vua Thuấn, viết có lẽ vào thế kỷ thứ XXII tdl. (!), tuy rằng, Sơn hải
kinh, cứ vào những bằng cớ nội tại của nó, thì phải viết vào khoảng
thế kỷ thứ I tdl hay sdl., mà Quách Phác (276-324 tdl) hơn ba trăm năm sau đã
viết một chú thích.
Về quyển Liệt tiên truyện của Lưu
Hướng, Chí Bân cho biết trong Phật tổ thống ký viết năm 1269 quyển 35
ĐTK 2035 tờ 329a 17-21 là: "Hồng hy năm thứ hai Quang lục đại phu Lưu
Hướng kiểm sách ở các Thiên bộc, thỉnh thoảng có thấy kinh Phật. Hướng
viết Liệt tiên truyện, nói rằng: "Tôi tìm xem trong thư viện, lục
truy Liệt đồ do Thái sử soạn thì thấy, từ Hoàng Đế trở xuống cho đến
nay 700 người đã đắc đạo tiên. Xét sự thật giả của số đấy thì
còn lại được 148 người, trong đấy 74 người đã tìm thấy trong kinh Phật".
Hồng Hy năm thứ hai nhà Tây Hán tức là năm 19 tdl.
Về chuyện Thạch Hổ và người chú
của Diêu Lược, thì tuy chuyện chú Diêu Lược ngày nay ta không biết một
tí gì rõ ràng, chuyện Thạch Hổ ta có thể tìm thấy trong bản tiểu sử
của Phật Đồ Trừng ở Cao Tăng truyện quyển 9 ĐTK 2060 tờ 38b13-387a29.
Thạch Lặc và Thạch Hổ lập nên nhà Hậu Triệu và trị vì giữa những
năm 329-350, trong khi Phật Đồ Trừng mất vào năm 348 lúc ông 117 tuổi.
Viện dẫn những chứng cớ vừa
nói ra, Tôn Bính nhằm trả lời câu hỏi, nếu Phật giáo có mặt ở Trung
Quốc từ xưa thì tại sao lại không thấy nói đến ở thời Tam đại tức
thời nhà Hạ, Thương và Chu? Bính bảo là, ngay cả những cuốn sử của
Can Bảo và Tôn Thạnh, mà tiểu sử ta tìm thấy trong Tấn thư quyển 82 tờ
8al-9a3 và 6b10-7b7 kiểu Tấn ký hay Ngụy thế xuân thu cũng không nói gì hết
đến chuyện "Phật diệu hóa thật chương hữu tiên nhi thạnh ư Giang
tả", nghĩa là, những cuốn sử viết cách Bính và những người thời
ông không bao xa. Tôn Thạnh sinh năm 302 và mất vào năm 373, một năm trước
khi Tôn Bính ra đời. Vạch ra những điểm này, chúng tôi có ý nhằm cho thấy
những truyền thống lịch sử Phật giáo và văn hóa khác nhau giữa những
người viết Sáu lá thư và tác giả Minh Phật luận. Để rõ hơn, chúng ta
phải phân tích những chứng cớ, mà Pháp Minh đã dẫn ra trong lá thư thứ
sáu, cho việc chứng minh sự cảm ứng linh biến của đức Phật "hoặc
qua sự chứng kiến rõ ràng của tai mắt, hoặc qua sự mơ thấy trong một
giấc mộng", và chúng gồm 7 thứ sau:
Thứ nhất là chuyện Hán Minh đế
mộng thấy Người Vàng và Phật giáo đến Trung Quốc. Từ ngày Tôkiwa đã
vội vàng giả thiết Mâu Tử lý hoặc luận là một ngụy tạo của Huệ
Thông và từ đó kết luận chuyện "Hán Minh đế mộng thấy Người Vàng"
cũng thế, hầu hết những người nghiên cứu, dù có bất đồng ý kiến
và chỉ trích Tôkiwa đi nữa, ít khi thử vạch ra sự sai lầm dữ kiện của
người này.
Theo Cao Tăng truyện quyển 7 ĐTK
2059 tờ 374c28-375a6 thì Huệ Thông "đến dừng lại ở chùa Trị
Thành.. Từ Trạm Chi từ Đông Hải, Viên Sán từ Trần quận kính trọng,
dùng lễ thầy bạn. Hoàng đế Kiến Vũ gia hậu sủng ái, sai làm bạn với
hai vương Hải Lăng và Tiểu Kiến Bình. Viên Sán viết Cừ Nhan luận đem
đưa cho Thông coi.. Thông viết nghĩa sớ cho những kinh Đại phẩm và Thắng
man, những luận Tạp tâm và Tỳ đàm, cùng Bác Di hạ luận, Hiển chứng
luận v.v.. đều có truyền ở đời, đến Tống Thăng Minh ông mất, thọ
63 tuổi".
Thăng Minh là niên hiệu của Tống
Thuận đế kéo dài từ năm 477 đến 478. Nếu Thông mất khoảng Thăng Minh,
thế có nghĩa, niên đại của Thông phải rơi vào khoảng 415 - 478. Xác định
kiểu này thì ngay cả khi Mâu Tử lý hoặc luận là một ngụy tạo của
Thông, một luận đề hoàn toàn sai lầm, mà chúng tôi có dịp chứng tỏ,
ta cũng không thể khẳng định là, thuyết "Minh đế mộng kim nhân",
đã ra đời với Huệ Thông, bởi vì pháp sư Pháp Minh đã kể đến nó và
pháp sư này phải sống vào khoảng những năm 370 - 456.
Nói thế, chúng ta dĩ nhiên chưa kể
đến cái chú thích của Lục Trừng về Mâu Tử lý hoặc luận trong cuốn
Pháp luận của ông, mà Tăng Hựu đã cho thu thập lại trong Xuất tam tạng
ký tập quyển 12 ĐTK 2145 tờ 82c29-83al, theo đấy "Mâu Tử bất nhập
giáo môn, nhi nhập duyên tự, dĩ đặc tãi Hán Minh chi tượng pháp sơ truyền
cổ giả - Mâu Tử không xếp vào loại sách dạy, mà vào loại sách nhập
đề, bởi vì nó đã đặc biệt ghi lại lúc tượng pháp mới truyền vào
thời Hán Minh đế - Những dòng này, Trừng phải viết trước năm 470, bởi
vì khi Tống Minh đế ra lệnh soạn cuốn Pháp luận ấy thì ông đang còn
ở tại chức Trung thơ thị lang, như Tăng Hựu đã ghi, trong khi vào năm 470
ông đã bị đổi qua chức Ngự sử trung thừa vì mắc tội.
Và đó cũng chưa kể đến thuyết
của Viên Hoằng (328 - 376) trong Hậu Hán ký. Dẫu sao đi nữa, với những củ
soát vừa thấy, ta có ít nhất là hai truyền thuyết khác về giấc mộng
Người Vàng của Hán Minh đế, ngoài truyền thuyết của Huệ Thông, vào thế
kỷ thứ năm. Những truyền thuyết này, tất cả chúng đều phải rút ra từ
Mâu Tử lý hoặc luận, và giữa chúng thì thuyết của Hán Minh có lẽ là
xưa nhất, một điều không có gì là đáng ngạc nhiên cho lắm nhưng rất
lôi cuốn bởi Lý hoặc luận đã viết tại nước ta và là một sản phẩm
văn hiến đầu tiên của Phật giáo Việt Nam. Ý nghĩa của nó sẽ trở
nên rõ ràng hơn với những bàn cãi về những chứng cớ tiếp theo.
Chứng cớ thứ hai Pháp Minh dùng
là chuyện Tôn Quyền tin Phật vì viên ngọc Xá-lị. Như Zurcher đã nhận
thấy, lá thư của Pháp Minh là văn kiện đầu tiên kể đến chuyện thần
dị này, mà sau đó ta thấy xuất hiện trong hầu hết những bản tiểu sử
của Khương Tăng Hội. Bắt đầu với Xuất tam tạng ký tập quyển 13 ĐTK
2145 tờ 97 98b2 của Tăng Hựu và Cao Tăng truyện quyển 1 ĐTK 2060 tờ 325a
13-326b13 của Huệ Đạo.
Khương Tăng Hội từ thời Đàm
Thiên và Thông Biện trở đi thường được coi như một người truyền đạo
đầu tiên ở nước ta cùng với Mâu Bác, Chi Cương Lương và Ma Ha Kỳ Vực.
Quan niệm lịch sử này về vai trò của Hội ngày nay đã chứng tỏ là
không chính đáng, nếu không là hoàn toàn sai, như chúng tôi đã vạch ra
ở chương trước.
Trong An ban thủ ý kinh tự mà Tăng
Hựu sưu tập lại trong Xuất tam tạng ký tập tờ 43b24-c1 và Thang Dụng Đồng
coi như viết vào khoảng năm 229, Hội đã cho ta biết thế này về tình trạng
Phật giáo nước ta qua lời tự thú sau: "Tôi sinh muộn màng, nên tuổi
mới vào thời vác củi thì hai thân đều mất, ba thầy đã táng, ngước
trông mây trời, buồn rầu không biết hỏi han ai, nín lời nhìn lấy (cuốn
sách), tự nhiên ứa lệ. Song phúc xưa chưa hết, nên gặp được bạn Hàn
Lâm từ Nam Dương"..
Rồi, trong Pháp Kính kinh sự ở Xuất
tam tạng ký tập tờ 46C2-11 Hội cũng lập lại những cảm hoài đầy nước
mắt về những vị thầy của ông tại nước ta: "Kỵ đô úy An Huyền
và Nghiêm Phù Điều từ Lâm An, hai vị hiền đây.. đã đem hết trí óc
mình, dịch lấy cuốn kinh này.. lời nói đã đúng theo văn xưa, mà ý lại
vi diệu.. nhưng nghĩa nó đã bị chận đứng không thông, nên tôi mạo muội
đem hết chỗ ngu của mình làm lấy chủ nghĩa này. Tang thầy đã nhiều năm,
nên không do đâu mà hỏi lại được. Lòng rười rượi, miệng tấm tức,
dừng bút xót thương những ai theo dõi dấu xưa, quyến luyến thánh giáo, nước
mắt bỗng tự nhiên chảy ròng ròng. Nay xin ghi lại những điều mình biết,
giúp giải quyết những nghi ngờ, đợi chờ những bậc cao minh về sau. Giả
như có sự xướng thành, ấy là nhằm làm rõ Tam bảo vậy".
Chứng cớ thứ ba của Pháp Minh là
cái tượng thờ ở chùa Ngô quận Bắc. Một lần nữa, Pháp Minh là người
đầu tiên ghi lại sự thần dị của tượng Phật này cũng như sự thành
công của Chu Trương trong việc vớt nó lên, trong khi những bọn đồng cốt
thầy pháp đều thất bại, và sau đó Huệ Hạo đã ghi lại trong Cao Tăng
truyện quyển 13 ĐTK 2060 tờ 409b6-410a7 tại bản tiểu sử của Thích Huệ
Đạt, tuy đã đổi tên Chu Trương thành Chu Ứng.
Hạo kể lại chứng cớ này một
cách chi tiết như sau: "Đạt.. lại đông du tới Ngô huyện bái thạch
tượng, vì bức tượng ấy vào năm Quý Dần niên hiệu Kiến Hưng thứ nhất
(313) thời cuối nhà Tây Tấn nổi lên tại cửa Hồ Thục của sông Ngô
Tùng. Những người đánh cá cho đó là vị thần biển, tìm đến để nghênh
thì sóng gió nổi lớn; họ khiếp sợ trở về. Lúc ấy có những kẻ thờ
phụng Hoàng Lão cho đó là hiển thần của vị Thiên sư của họ, lại cùng
nhau đến nghênh, sóng gió vẫn như xưa. Sau đấy có một cư sĩ thờ Phật
là dân Ngô huyện tên Chu Ứng nghe, bèn than rằng: "Ấy nếu không phải
là đấng Đại Giác thì ai mà ứng hiện ra đó?" Rồi trai giới cùng với
Bạch Ni chùa Đồng Vân và vài tín giả đến cửa Hồ thục, cúi đầu chí
thành, ca tụng lời nguyện rất khẩn, thì sóng gió đều dứt, xa thấy hai
người nổi trên sông mà đi, ấy là những tượng đá, sau lưng một có
tên Ca Diếp, một có tên Duy Vệ; họ liền nghênh về an trí ở chùa Huyền
Thê".
Trước khi kể câu chuyện này, Hạo
cũng cho biết thêm là, Đạt đã xuống miền Nam Trung Quốc, đặc biệt là
Hợp Phố, để chiêm bái một tượng Phật bằng châu do một người tìm
châu ở Hợp Phố tìm thấy và trao lại cho thứ sử Giao Châu lúc bấy giờ
là Đào Khản vào năm 318. Cuối đời Đạt, Hạo bảo là, ông không biết
Đạt đi đâu và mất vào năm nào hay thọ bao nhiêu tuổi, dù vào khoảng
niên hiệu Ninh Khương, nghĩa là khoảng giữa năm 373-375, Đạt đã tới Kiến
Nghiệp trên đường xuống chiêm bái ở Hợp Phố và Ngô quận. Huệ Đạt
do thế rất có thể đến nước ta, nhất là vào khoảng thế kỷ thứ IV
và V, Giao Chỉ đã là một nơi nổi tiếng với những danh địa của nó,
như ta sẽ có dịp thấy khi bàn với Quách Văn Cử.
Chứng cớ thứ tư là chuyện Quách
Văn Cử thò tay vào họng cọp mà không sợ. Văn Cử là tự của một dật
dân tên Quách Văn, và tiểu sử đã được ghi lại trong Tấn thư quyển 94
tờ 9a 5 - 10a 8, do Đường Thái Tôn (597 - 649) viết. Cứ vào tiểu sử ấy,
thì Văn là một người tu tiên làm nhà trong núi không dính líu gì đến Phật
giáo hết tuy Cao Tăng truyện quyển 7 ĐTK 2059 tờ 369c26 có dẫn tên ông. Về
chuyện thò tay vào họng cọp, thì truyện thuật rằng, một hôm Văn đang
ở trong rừng, gặp một con cọp há miệng ra, ông liền thò tay vào và lấy
một thanh xương đang chận họng ra cho cọp. Cọp biết ơn, nên thường bắt
nai đem đến trả ơn. Người ta hỏi, ông không sợ cọp sao, ông đáp
"nếu mình không có lòng sát hại nó thì nó không làm gì mình".
Khi ông mất, có lẽ vào khoảng năm 320-330, Cát Hồng và Dữu Xiển đã viết
tiểu sử lưu lại, ca ngợi sự đẹp đẽ của cuộc đời ông.
Hoạt động của Văn Cử như vậy,
hầu như hoàn toàn giới hạn ở rừng núi Trung Quốc. Việc tiếng ông vang
đến cả nước ta chắc chắn phải qua trung gian của Cát Hồng. Tiểu sử
của Hồng nằm ở Tấn thư quyển 72 tờ 7b11-9a9, theo đó thì Hồng, khi về
già muốn luyện đơn để cầu sống lâu, đã xin Tấn Thành đế vào khoảng
những năm 326-336 ra làm quan lịch tại huyện Cú Lậu của quận Giao Chỉ nước
ta. Thành đế không cho, vì nghĩ rằng Hồng là một bậc đại thần của
Triều đình thì sao lại nhận một chức nhỏ bé như quan lịnh. Hồng trả
lời là, vì ông nghe Giao Chỉ sản xuất linh đơn, nên muốn ra đó mà luyện
đơn. Vua bằng lòng. Nhưng khi tới Quảng Châu, viên thứ sử ở đó tên Đặng
Nhạc không cho phép ông đi, nên ông phải dừng lại và luyện đơn tại núi
La Phù.
Một lần nữa, bản tiểu sử của
Hồng ở Tấn thư không nói gì hết về những liên lạc của ông đối với
Phật giáo. Tuy nhiên, cứ vào Phật tổ thống ký quyển 36 ĐTK 2035 tờ
339c5-8, thì Cát Hồng đã viết một tấm biển cho chùa Linh Ấn do một nhà
sư Ấn Độ dựng ở núi Vũ Lâm tại Tiền đường vào năm 326. Và cái
chú thích ở quyển 37 tờ 348a7-15 cũng ghi lại chuyện Hồng muốn làm quan
lịnh tại huyện Cú Lậu ở nước ta, để luyện đơn. Hồng để lại nhiều
sách và mất vào lúc 81 tuổi, khoảng năm 363.
Chứng cứ thứ năm là chuyện Lan
công phủi tuyết buốt cho thú dữ. Lan công đây dĩ nhiên là Vu Pháp Lan, vị
sư đã đến nước ta khoảng những năm 320 trên đường đi tham bái Phật
tích ở Ấn Độ, nhưng không may đã mắc bệnh và mất tại vùng Trị
Thiên ngày nay, mà ta đã có dịp nhắc tới ở trên. Việc phủi tuyết buốt
cho thú dữ Cao Tăng truyện quyển 4 tờ 349c29-350a 3 viết: "Tính Lan ưa
núi sông hang động. Thường vào những mùa đông tuyết lạnh buốt xương,
có cọp vào phòng mình. Thần sắc Lan không đe dọa, nên cọp cũng rất thuần,
đến sáng hôm sau tuyết hết rơi, cọp ra đi". Nó như vậy không nói
rõ Lan trực tiếp phủi tuyết cho cọp. Dẫu vậy, vào cuối thế kỷ thứ
IV người ta đang còn truyền tụng về khả năng "lành nhiếp cọp dữ"
của Lan, từ đó giả thiết Lan đã có những giao tiếp như thế nào đấy
với cọp. Chi Tuần (314-366) đã vẽ tượng Lan để thờ, viết bài tán để
ca ngợi cuộc đời Lan thế này:
- "Họ Vu vượt đơn
- Nắm cả huyền chỉ
- Ưa lánh rừng núi
- Lành nhiếp cọp dữ".
Việc Lan phủi tuyết cho cọp do thế
đang còn phổ cập nhiều trong nhân gian.
Chứng cứ thứ sáu là chuyện Trúc
Pháp Hộ làm cho suối khô trở thành có nước. Cứ Cao Tăng truyện quyển
1 ĐTK 2059 tờ 326c2-327a12 và Xuất tam tạng ký tập quyển 13 ĐTK 2146 tờ
97c19-98b2 thì câu chuyện này được mô tả như sau:
"Đến cuối đời Tấn Vũ đế,
Hộ vào ở ẩn rừng sâu, rừng có một suối nước trong, mà ông thường
đến tắm giặt. Sau có một người hái củi tới phóng uế bên bờ, nó bỗng
nhiên khô cạn đi. Hộ bèn ngồi than: "Người chi mà thất đức, đến
nỗi khiến cho giòng nước hết chảy, nước nếu khô mãi, thì mình thực
không tự cung cấp được, chính là lúc nên dời đi". Than xong, thì suối
bỗng trở thành một dòng nước chảy mạnh. Ấy chính là lòng thành của
Hộ đã làm cho có sự cảm như vậy. Cho nên, khi Chi Tuần làm tượng ông,
đã ca ngợi rằng:
- "Hộ công trong vắng
- Đạo đức đẹp sâu
- Hang cùng nhẹ vãn
- Tuôn nước suối khô
- Cao thay ông Hộ
- Tư chất tuyệt luân
- Chân ruổi cát dồn
- Học lấy huyền đạo".
Hộ, tuy có chữ Trúc như họ của
ông, thực sự là người sinh ở Đôn Hoàng, và cha mẹ gốc người Nguyệt
Chi. Như đã nói trên, ông mất lúc 78 tuổi khoảng năm 308 và đã quen thân
với Vu Đạo Thúy. Thúy cũng là người Đôn Hoàng giống Hộ. Vì vậy, mặc
dù Hộ không bao giờ xuống miền Nam Trung Quốc và nước ta, tiếng tăm và
dự nghiệp dịch thuật vĩ đại của ông chắc chắn đã được người
nước ta biết một cách khá tường tận qua những trung gian đắc lực như
Đạo Thúy.
Hơn thế nữa, như Huệ Hạo đã
ghi ở trên, thì Biệt truyện về Vu Pháp Lan cũng đã kể ra chuyện "cảm
cô tuyền nhi hồng lưu" cho Lan, dẫu có lẽ không chính đáng cho mấy,
bởi vì không những lời ngợi ca Lan của Chi Tuần chỉ nói đến chuyện
phủi tuyết cho cọp và không nói chi hết tới chuyện "cảm cô tuyền",
trong khi lời tán Hộ lại nói đến sự cảm ấy, mà còn vì Pháp Minh đã
xác định một cách rõ ràng là "Hộ công cảm cô tuyền nhi hồng lưu".
Như vậy theo tài liệu xưa nhất của Chi Tuần và Pháp Minh thì chuyện
"cảm suối khô" phải là của Hộ, và nó được người nước ta
biết đến chắc chắn phải qua trung gian Vu Đạo Thúy, mà họ đã đặt
nhiều tin tưởng, khi Thúy đến nước ta.
Chứng cứ thứ bảy là chuyện nằm
mộng thấy một nhà sư của Tống Vũ đế hỏi Huệ Nghiêm. Chuyện này ghi
lại trong bản tiểu sử của Huệ Nghiêm ở Cao Tăng truyện quyển 7 ĐTK
2059 tờ 367b18-368b7. Huệ Nghiêm mất vào năm Nguyên Gia thứ 20, tức năm
443, lúc ông 81 tuổi. Niên đại của ông do thế rơi vào khoảng 362 - 443. Năm
420, Lưu Dụ lật đổ vị vua cuối cùng của nhà Đông Tấn và lên ngôi lấy
hiệu là Tống Vũ đế. Dù có sự huyền khải của nhà sư về việc bố
thí một bát cơm cho Phật Di Vệ nên mới có được ngôi thiên tử, Tống
Vũ đế trị vì không quá hơn hai năm. Đến năm 423 thì Vinh Dương vương lên
thay để rồi năm sau bị Tống Văn đế lật đổ.
Cái chứng cớ cuối cùng này, về
phương diện lịch sử Phật giáo Việt Nam, không có gì đáng lôi cuốn sự
chú ý của chúng ta hết. Tuy nhiên, trên khía cạnh xác định niên đại có
thể của những bức thư cùng những tác giả của chúng ở đây, nó tỏ
ra có một giá trị vô cùng quí báu bởi vì ít nhất là với tính khởi sự
của nó, cho biết những lá thư ấy phải viết sau khoảng Lưu Dụ lên
ngôi, nghĩa là sau năm 420, nếu không là sau khi Huệ Nghiêm chết vào năm
433. Niên đại sớm nhất của chúng do đó phải là khoảng những năm
420-443. Về niên đại chậm nhất, chúng ta sẽ có dịp bàn tới dưới đây,
khi nói về lai lịch của những bức thư cũng như niên đại có thể của
những tác giả chúng.
Đấy là bảy chứng cớ do Pháp
Minh dẫn trong lá thư trả lời Lý Miễu. Chúng tôi đã dài dòng truy nhận
căn cước và bàn cãi giá trị của từng chứng cớ một với mục đích
trước hết là trả lời câu hỏi, phải chăng đoạn văn, mà chúng tôi gọi
là Hậu bút, là một thêm thắt của những người sau, đặc biệt là của
người Trung Quốc, và tiếp đến nhằm cho thấy, những chứng cứ ấy thuộc
về một truyền thống lịch sử và văn hóa khác với những chứng cớ của
Hậu bút.
Về mục đích đầu, câu trả lời
là một khẳng định. Hậu bút là một thêm thắt của những người sau. Nói
là khẳng định, bởi vì, như đã vạch ra, những chứng cớ cua Tôn Bính
là nhằm chứng minh Phật giáo đã được người Trung Quốc biết từ thời
Tam đại, tức thời những nhà Hạ, Thương và Chu, với quyển Sơn hải
kinh của Bá Ích, người con thứ hai của vua Thuấn. Những chứng cứ về
Phật Đồ Trừng và ông chú của Diêu Hưng do Bính dẫn ra là để chứng
minh rằng, thậm chí những người này sống vào thời Tấn cách Can Bảo
và Tôn Thạnh không bao nhiêu năm, mà cũng không bao giờ được họ nói tới
trong những cuốn sách họ viết như Tấn ký của Can Bảo hay Ngụy thế
xuân thu của Tôn Thạnh. Do thế, tuy Bá Ích đã biết đến nước "Thân
độc ở đó đạo Phù đồ đang nổi lên", nhưng Phật giáo đã không
được nói tới qua những đời nhà Hạ, Thương và Chu, ấy là lỗi
"nhỏ nhen thiếu sót của các học giả" sử gia, chứ đâu phải
"Phật giáo chỉ bắt đầu với Hán Minh đế".
Chứng minh như thế, những bằng cớ
của Tôn Bính đi ngược lại ngay cả một chứng cớ của Pháp Minh ấy là
chuyện Phật giáo đến Trung Quốc với giấc mộng Người Vàng của Hán
Minh đế. Từ đó tạo nên một mâu thuẫn nội tại trong chính ngay bức thư,
một điều không thể xảy ra được, nếu cứ vào sự sáng sủa mạch lạc
của sự hành văn cũng như cách lý luận, chúng ta phải loại đoạn Hậu bút
ra và coi nó không gì hơn là một thêm thắt của những người sau.
Những người sau này là ai? Chúng
tôi nghĩ, họ là người Trung Quốc, tại vì, nếu ta so sánh những bằng cớ
của đoạn Hậu bút với bảy chứng cớ của Pháp Minh, thì điểm nổi bật
nhất sau đây đã lộ ra. Đấy là, trong số bảy chứng cớ ấy, trừ chứng
cớ cuối cùng có tính chất thời sự về Tống Vũ đế, sáu chứng cớ
kia dưới dạng một hình này hay một dạng hình khác liên lạc với lịch
sử nước ta và Phật giáo nước ta. Từ thuyết "mộng kim nhân" của
Mâu Tử cho đến chuyện "cảm cô tuyền", của Trúc Pháp Hộ qua
Chu Trương, Quách Văn Cử, Vu Pháp Lan, Vu Đạo Thúy và Khương Tăng Hội, mỗi
một chứng cớ đã có những dấu tích đặc biệt đối với người Phật
tử Việt Nam. Trái với đặc tính này, những bằng cớ của Tôn Bính như
Phật Đồ Trừng và người chú của Diêu Hưng hầu như không có một liên
lạc nào hết. Do thế, khi người Trung Quốc đọc thấy những lá thư trao
đổi trên chắc phải thấy điểm nổi bật vừa nói và phải ngạc nhiên
là, chúng không nói gì hết đến những thần dị ngoài những thần dị
liên lạc với Giao Châu. Lúc đã nhận thấy điều đó, họ chắc không ngần
ngại cho trích một số văn cú từ Minh Phật luận của Tôn Bính và làm
thành đoạn Hậu bút và chỉ giữ lại sáu lá thư mà thôi.
Dĩ nhiên, kết luận này không có
gì mới mẻ cho lắm, bởi vì trước đây Nghiêm Khả Quân khi cho trích Sáu
lá thư trong Toàn Tống văn đã loại bỏ phần mà chúng tôi gọi là Hậu
bút trên. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cho dịch và bàn cãi vì đoạn "Hậu
bút" ấy, một mặt chứng thực nguồn gốc Việt Nam của Sáu lá thư.
Mặt khác, vì "Hậu bút" là một trích dẫn từ Minh Phật luận do
Tôn Bính viết để trả lời lại Quân thiện luận, nó giúp ta kết nối sự
ra đời của Sáu lá thư với những vấn đề do Quân thiện luận đề ra.
Do thế, dù loại bỏ, chúng tôi vẫn cho dịch kèm theo với Sáu lá thư.
Về mục đích thứ hai, qua những
phân tích sáu chứng cớ của Pháp Minh ta thấy chúng vẽ nên không ít một
bức tranh khá linh động về lịch sử Phật giáo Việt Nam trước thế kỷ
thứ năm. Chúng ta có Mâu Tử vào thế kỷ thứ II, Khương Tăng Hội thế kỷ
thứ III và Vu Pháp Lan, Vu Đạo Thúy, Quách Văn Cử, Chu Trương và Cát Hồng
của thế kỷ thứ IV. Bức tranh ấy càng linh động hơn, khi chúng ta phân
tích hết toàn bộ Sáu lá thư với những dẫn chứng và điển cố của chúng.
Ngay lúc này, ta chỉ cần nhận xét
là, nếu đem những chứng cớ của Pháp Minh so sánh với những chứng cớ
của Tôn Bính trong Minh Phật luận cũng như của Tôn Xước trong Dụ hiền
luận, thì chúng ta phải giả thiết sự hiện diện của những truyền thống
văn hóa và lịch sử khác nhau giữa Pháp Minh và hai người ấy. Chính vì sự
khác nhau đây mà khi những lá thư ấy mang lên Trung Quốc, có lẽ qua những
trung gian như Huệ Thắng và Đạo Thiền vào cuối thế kỷ V, những người
Trung Quốc đã phải thêm vào đoạn Hậu bút, để gia thêm một sắc mầu
Trung Quốc cho cái bối cảnh Việt Nam của chúng.
Sự khác biệt truyền thống này,
không chỉ giới hạn vào lãnh vực tôn giáo. Nó còn lan ra nhiều lãnh vực
khác, mà quan trọng nhất là lãnh vực chính trị và độc lập chính trị.
Chẳng hạn trong đoạn kết luận lá thư thứ tư, Đạo Cao đã không ngần
ngại bảo người đệ tử Lý Miễu của mình là "đang ở vào địa vị
thiên tử" (cư đại bảo chi địa) Dĩ nhiên, người ta có thể hỏi, nếu
Lý Miễu "cư đại bảo chi địa" thi sao Đạo Cao lại cứ xưng Miễu
bằng "sứ quân", chứ không bằng những mỹ hiệu như "bệ hạ".v.v..
? Chữ "sứ quân" dùng để gọi những người ở vào địa vị thứ
sử hay chư hầu, kiểu hai câu nói sau đây do Tiêu Tử Hiến ghi lại trong
Nam Tề thư quyển 58 tờ 16a-9-b2, khi thứ sử Giao Châu Phòng Pháp Thừa xin
sách xem từ trường sứ Phục Đăng Chi: "Sứ quân ký bị tật, bất
nghi lao" và "sứ quân tỉnh xứ, do khủng động tật, khỉ khả khán
thư?" mà Đại Việt sử lược quyển 1 tờ 8b3 đổi thành "sứ
quân an cư, do khủng động tật, khỉ khả khán thư".
Vấn đề "sứ quân" và
"cư đại bảo chi địa" này, chúng tôi sẽ có dịp bàn rõ hơn dưới
đây. Ở đây ta chỉ cần vạch sơ ra như thế, để cho thấy rằng, sự khác
biệt truyền thống giữa những lá thư và các tác giả Trung Quốc là một
sự thực và là một điểm nổi bật cần chú ý. Nó sẽ hướng dẫn ta khá
nhiều trong việc nghiên cứu những lá thư ấy.
Nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố thư tịch [^]
Nếu những phân tích về bảy chứng
cớ của Pháp Minh đã điểm chỉ cho ta một cách lôi cuốn nguồn gốc Việt
Nam của những người viết thư, thì những phân tích tiếp theo về thư tịch
và điển cố do họ dẫn sẽ soi sáng không ít cái nguồn gốc ấy, nhất
là những loại thuộc Phật giáo.
Về những loại thư tịch điển cố
"Sương Dĩnh" và "Bào Sinh" trong câu "Bần đạo, khí
phi Sương Dĩnh, vận phi Bào Sinh" của đoạn mở đầu lá thư thứ sáu.
Sương Dĩnh và Bào Sinh là ai? Không một cuốn tự điển nào đã ghi lại.
Phải chăng chỉ là những từ chung? Chúng tôi ban đầu nghĩ vậy, nhất là
khi những bộ tự điển lớn tiếng Trung Quốc có từ ngữ "bào sương"
mà chúng cắt nghĩa như "đao nhà bếp" - bào đao, và cho dẫn hai
thí dụ chứng minh. Một từ bài ngụ ngôn của Hoàng Đình Kiên, theo đó:
- Bào sương đao lạc quải
- Chấp ngọc tử minh thuyền
- và một bài từ Đường luật của Chu Tùng:
- Áp tào ngọc diện thiên nhai kiến
- Trác tuyết bào sương chiếu nhãn minh
Chúng tôi ban đầu nghĩ "sương
dĩnh" và "bào sinh" có thể là một diễn ngữ "của bào sương".
Do thế câu "khí phi sương dĩnh, vận phi bào sinh" có thể cắt nghĩa
như "bần đạo không có tài năng sắc bén". Nhưng vì chưa thể tìm
ra một dụng ngữ nào thuộc loại sương dĩnh vào bào sinh, nên chúng tôi,
vì cẩn thận phải giả thiết chúng như hai điển cố cần khảo tra thêm.
Dĩ nhiên, người ta cũng có thể dịch theo chữ câu ấy thành "bần đạo,
tài năng không phải là bút sương, vận mệnh thì không phải là sinh vật
dùng cho nhà bếp", rồi để nguyên như vậy cho ai muốn hiểu sao thì
hiểu.
Ngoài ra, Tiền Hán thư quyển 39 tờ
2b9-12 cũng có nói tới Bào Sinh; dù chữ Bào ở đây viết bằng bộ
"ngư", như một cố vấn của Tiên Hà. Nó viết: "Vua nhiều lần
sai sứ đến vấn lao thừa tướng. Bào Sinh gọi Hà nói: "Nay vua áo chiều
sương phủ, đã nhiều lần đến vấn lao ông, ấy vì người có ý nghi ngờ
lòng ông. Kế cho ông bây giờ không gì hơn là ông hãy sai con cháu em út
ông, đứa nào giỏi về việc binh đều đến ở trong quận sở của vua thì
vua càng tin ông". Từ đó, Hà làm theo kế của Bào. Hán Vương rất vui
lòng". Bào Sinh của Tiên Hà này là ai? Câu hỏi này cho đến thời Nhan
Sư Cổ (581-645) thì đã hoàn toàn không thể trả lời được. Trong các
chú thích về chữ đấy, Cổ chỉ biết viết: "Sư Cổ nói: Bào Sinh
là một bậc hữu thức thời bấy giờ, họ Bào, là người học trò vậy".
Do thế, ngày nay dù ta có đồng nhất Bào Sinh ở đây với Bào Sinh trong những
lá thư của chúng ta, một điều rất có thể, chúng ta cũng không thể biết
gì thêm hơn về ý nghĩa câu "Vận phi Bào Sinh", ngoài cái suy đoán
rằng, Pháp Minh có thể ví mình không có cái may mắn kiểu của Bào Sinh
được phục vụ Tiêu Hà.
Dù với trường hợp nào đi nữa,
chúng tôi cũng không loại bỏ cái khả hữu Sương Dĩnh và Bào Sinh rất
có thể là tên của hai người nổi tiếng nước ta vào một thời gian nào
đấy trước khi những lá thư trên xuất hiện; vì họ là người nước
ta, nên đã không bao giờ được ghi lại trong sách vở Trung Quốc và trở
thành mai một với thời gian. Cho đến khi một trong những trường hợp
trước được xác nhận, khả hữu này đáng nên chú ý.
Về các thư tịch điển cố ngoài
Phật giáo có thể truy về sách vở Trung Quốc, gồm có bốn nhóm chính
sau: Nhóm thứ nhất là chữ "võng tượng huyền châu" trong câu
"chiếp khách ngu quản, võng tượng huyền châu", mà chúng tôi dịch
thành "thì xin đem hết ống ngu của mình để làm chuyện võng tượng
đi tìm huyền châu", ở đoạn mở đầu của lá thư thứ hai.
Bốn chữ này dĩ nhiên là một mượn
ý từ câu chuyện Hoàng đế sai Võng Tượng đi tìm huyền châu trong Nam hoa
kinh thiên Thiên địa XII tờ 29 của Trang Tử: "Hoàng đế du hồ Xích
thủy chi bắc, đăng hồ Côn lôn chi khưu, nhi nam vọng, hoàn qui, di kỳ huyền
châu, sử tri sách chi nhi bất đắc, sử ly châu sách chi nhi bất đắc, sử
kiết cấu sách chi nhi bất đắc dã; nãi sử tượng võng, tượng võng (bk.
Võng tượng) đắc chi. Hoàng đế viết: "Di tai, tượng võng nãi khả dĩ
đắc chi hồ". Câu chuyện đây, người ta thường cắt nghĩa và dịch
thành "Hoàng đế, trong khi đi chơi ở miền Bắc sông Hồng, đã lên đồi
Côn Lôn, mà ngó về miền Nam, rồi trở về, đến viên huyền châu lại.
Ông sai hiểu biết đi tìm, nó tìm không được. Sai cái có hình dáng đi tìm,
nó tìm không được. Sai ngôn từ đi tìm, nó tìm không được. Bèn sai cái
không dáng hình đi tìm, không dáng hình tìm được. Hoàng đế nói: "Lạ
thay, không hình dáng mà có thể tìm được huyền châu ư?".
Quách Tượng đời Tấn chẳng hạn
đã giải nghĩa chữ "ly châu" như "sắc hình". Hay Thành Huyền
Anh đời Đường đã chú thích chữ võng tượng thành "ly thanh sắc tư
lự", như Lý Thiện đã làm, khi ông bàn tới câu "bạc sách hiệp
đạp, võng tượng tương cầu" trong bài phú Động tiêu của Vương Bào
ở Văn Tuyển: "Thiện nói: Hư vô là võng tượng ấy vậy". Điều
đáng chú ý là, chữ võng tượng hay tượng võng ấy lại có dịp xuất hiện
ở thiên Đạt sinh, tức thiên XIX tờ 49, theo đó Hoàn công đi chơi gặp quỉ,
về quá sợ nên phát bệnh, bèn hỏi Cáo Ngao có quỉ hay không, Ngao trả lời
là có như "đầm có con Lý, bếp có con Kết, rác rưởi bên trong cửa
là chỗ ở của Lôi đình, phía dưới phương đông bắc con Bội a và con
Khúc long nhảy lượn, phía dưới phương tây bắc là chỗ của con Dật dương,
sông có con võng tượng, đồi có con Sân, đồng bằng có con Bàng hoàng,
núi có con Quỉ, vũng có con Rắn ủy".
Cố nhiên, việc kết nối Hoàn
công với võng tượng của Trang tử đây điểm chỉ cho ta không ít cái kết
nối giữa võng tượng, Khổng Tử và Hoàn công, mà Tư Mã Thiên đã ghi lại
trong Khổng Tử thế gia của Sử ký quyển 47 tờ 6a 6 - 10. Một hôm, Hoàn Tử
đào giếng gặp được một vật trông giống con dê trong một bình đất.
Để thử Khổng Tử, Hoàn bảo mình gặp được con chó. Khổng trả lời:
"Theo chỗ Khưu biết thì nó là con dê vậy, vì Khưu nghe rằng, quái vật
của núi là con quì và con võng lạng, quái vật của con sông là con ám và
con võng tượng, quái vật của đất là con dê chôn".
Võng tượng do thế tự nguyên uỷ
rất có thể không chỉ gì hơn là tên một con vật, ngay cả trong trường
hợp câu "võng tượng đi tìm huyền châu". Những chữ
"tri", "ly châu" và "kiết cấu", ở đoạn ấy của
Thiên địa cũng phải coi như tên những con vật, rất có thể là ngoại
lai, mà Trang Tử đã phiên âm ra tiếng Trung Quốc. Dù với trường hợp nào
đi nữa, điển cố "võng tượng huyền châu" của Đạo Cao nhằm nói
rằng, nếu Đạo Cao đem hết chỗ ngu của ông trình bày và người đọc nắm
được ý tưởng, thì điều ấy thật là không ngờ được, thật hy hữu
như chuyện con võng tượng đã tìm được huyền châu, mà người ta, ngay cả
Hoàng đế, đã không ngờ là nó có thể làm được.
Nhóm thứ hai gồm bốn chữ "thổ
ác dư hà" - nhả thức ăn, búi lấy tóc, mà vẫn còn rối - ở đoạn
cuối cùng của lá thư thứ tư. Điển "nhả miếng ăn, búi lấy
tóc" này, Đạo Cao phải lấy từ Chu công thế gia của Sử ký quyển
33 tờ 3a9-b2, theo đấy khi Chu công nghe Bá Cầm được phong đất Lỗ, ông
liền dặn Bá Cầm thế này: "Ta là con của Văn vương, em của Vũ
vương và chú của Thành vương; đối với thiên hạ, ta do thế cũng không
hèn hạ gì. Thế mà, ta một lần tắm thì ba lần búi tóc, một bữa ăn thì
ba lần nhả miếng, đứng dậy, để đợi kẻ sỹ, vậy mà ta còn sợ mất
kẻ hiền trong thiên hạ; con khi đến Lỗ, nên cẩn thận, đừng đem thế
nước ta ra mà kiêu ngạo với người".
Sự rút gọn điển này thành hai chữ
thổ ác ít nhất đã bắt đầu với Ban Cố trong tiểu sử của Tiêu Vọng
ở Tiền Hán thư quyển 78 tờ 1b5-9; khi Vọng trách Hoắc Quang là "khủng
phi Chu công tướng Thành vương cũng thổ ác chi lễ, trí bạch ốc chi
ý", và dùng trong Hậu Hán thư quyển 66 tờ 18b3-5 ở tiểu sử của Trần
Nguyên: "Cố nhân quân hoạn tại tự kiêu, bất hoạn kiêu thần, ưng tại
tự nhiệm, bất tại nhiệm chân, thị dĩ Văn vương hữu nhật ngô chi lao,
Chu công chấp thổ ác chi thuật".
Nhóm thứ ba là những dẫn chứng từ
kinh Dịch và Luận ngữ. Trong lá thư thứ năm, Lý Miễu cho dẫn câu
"Tích thiện dư khương, tích ác dư ương", và bảo là từ kinh Dịch.
Câu ấy quả đến từ phần văn ngôn của quẻ khôn, mà theo bản in Chu Dịch
của cụ Phan Bội Châu đọc như "Tích thiện chi gia tất hữu dư
khương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương, thần thí kỳ quân, tử
thí kỳ phụ, phi nhất triệu nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai tiệm hỷ".
Trong lá thư thứ sáu, Pháp Minh nói
đến "sống chết có mạng, giài sang tại trời" và "quỉ thần
không thể cản ngăn, thánh nhân không thể tiên đoán". Câu "tử
sinh hữu mạng, phú quí tại thiên" đây đương nhiên là một trích dẫn
từ câu trả lời của Tử Hạ cho Tư Mã Ngưu Ưu ở thiên Nhan Uyên của Luận
ngữ, khi Ưu phàn nàn là "nhân giai hữu huynh đệ, ngã độc vong",
theo đấy "thương giai chi hỷ, sinh tử hữu mạng, phú quý tại thiên,
quân tử cẩu cập nhi vô thát, dự nhân hào nhi lễ, tứ hải chi nội giai
huynh đệ dã, quân tử hà hoạn hồ vô huynh đệ dã".
Còn câu "quỉ thần không thể
can ngăn, thánh nhân không thể tiên đoán" được Pháp Minh lấy từ
Chinh tây phú của Phan Nhạc (?-300), mà Văn tuyển quyển 10 tờ 1b10-2a3 đã
ghi: "Thử tam tài giả, thiên địa nhân, đạo duy sinh dự vị, vị chí
đại bảo, sinh hữu tu đoản chi mạng, vị hữu thông tác chi ngẫu, quỉ
thần mạc năng yêu, thánh trí mạc năng dự..".
Nhóm cuối cùng gồm những tên Cơ,
Khổng, Đán, Khưu, và từ "Thất kinh". Cơ Đán là tên của Chu
Công, còn Khổng Khưu là tên của Khổng Tử. Thất kinh là bảy bộ điển
tịch tiêu chuẩn của lịch sử Trung Quốc cổ đại, gồm bốn kinh thường
xuyên là Dịch, Thi, Thơ và Lễ, và ba kinh có thể thay đổi giữa Nhạc, Tả
truyện Xuân thu.
Luận ngữ, Mạnh tử, Hiếu kinh.
Đấy là sơ lược về những thư tịch
điển cố ngoài Phật giáo dùng trong Sáu lá thư. Về thư tịch điển cố
Phật giáo, một số chúng tôi đã phân tích ở trên. Số còn lại có thể
chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm những tên họ sách vở do Đạo
Cao, Pháp Minh và Lý Miễu dẫn, và là nhóm quan trọng nhất. Hầu hết là
những tên Sí-đầu-mạt, Nhượng Khư và Long Hoa. Một củ soát những kinh
điển Phật giáo cho thấy những tên vừa nói đã xuất hiện trong các bản
văn liên quan tới sự ra đời của đức Phật Di Lặc trong tương lai.
Những bản văn ấy là
Maitreyàvadàna cùng năm bản dịch Hán văn của nó, đó là Phật thuyết Di
Lặc hạ sinh kinh do Trúc Pháp Hộ thực hiện vào năm 303, Phật thuyết Di Lặc
hạ sanh thành Phật kinh và Phật thuyết Di Lặc đại thành Phật kinh do Cưu
Ma La Thập dịch giữa những năm 402-412, kinh Di Lặc hạ sinh của Tăng nhất
A hàm kinh ĐTK 125 do Cồ Đàm Tăng Già Đề Bà dịch vào năm 397, và Phật
thuyết Di Lặc hạ sinh kinh ĐTK 457 do Nghĩa Tịnh dịch vào năm 703.
Trong số những bản dịch ấy, chúng
ta có thể loại bỏ bản của nghĩa Tịnh, bởi vì chúng không liên can gì
hết với những bức thư của ta. Nguyên bản Phạn văn, tuy không hoàn toàn
đồng nhất với những bản dịch Hán văn, có thể giúp ta nhận ra những
danh từ Phạn văn, mà người Trung Quốc đã cho phiên âm và đã xuất hiện
trong những lá thư. Bốn bản dịch còn lại, tất cả chúng đều dịch
trước năm 412 và hầu như hoàn toàn đồng nhất với nhau, mặc dù ngắn
dài hơi khác.
Thế thì, Đạo Cao có dùng những bản
văn dịch này không? Hay ông dùng một nguyên bản Phạn văn nào đó do người
Ấn Độ mang tới nước ta cho việc nói về thành Sí-đầu-mạt và vua Nhượng
Khư trên? Chúng tôi không thể trả lời câu hỏi sau được, vì không một
dữ kiện nào hiện còn cho phép ta giả thiết. Về câu hỏi trước, chúng
tôi nghĩ, chúng ta phải trả lời khẳng định, vì tối thiểu một bằng cớ
trong lá thư của Đạo Cao đã xác nhận như vậy.
Bằng cớ đó là chữ Sí-đầu-mạt.
Trong bản dịch của Trúc Pháp Hộ, cái thành mà Phật Di Lặc sẽ sinh vào,
được gọi là thành Kê Đầu. Bản dịch của Tăng Già Đề Bà ở quyển
thứ 44 của Tăng nhất a hàm kinh ĐTK 125 tờ 787c2-789c28 cũng gọi nó là
thành Kê Đầu. Hai bản dịch của La Thập, ngược lại, gọi nó là thành
Sí-đầu-mạt, cái tên đã xuất hiện trong lá thư của Đạo Cao. Vậy thì,
với bằng cớ này, chúng ta có thể giả thiết là Đạo Cao đã biết một
trong hai bản dịch của La Thập, đặc biệt là bản dịch đầu. La Thập,
dẫu thực hiện công tác dịch thuật ở miền Bắc, đã có những liên lạc
mật thiết với những người Phật giáo miền Nam, mà thí dụ điển hình
nhất là những trao đổi thư từ giữa ông và Huệ Viễn của Lô sơn, tạo
nên tập Đại thừa nghĩa chương sau này. Về phía nước ta, vào khoảng năm
425, Đàm Hoằng từ miền Bắc xuống ở tại chùa Tiên Sơn ở Bắc Ninh, nên
một số bản dịch của La Thập chắc hẳn đã tìm đường tới Việt Nam
không lâu sau khi chúng được dịch.
Sí-đầu-mạt với những biến thái
của nó như Kê Đầu, Kê-đầu-mạt, Kê Viên, Kê Lân.v.v.. cố nhiên vừa
là một phiên dịch vừa là một phiên âm Trung Quốc của chữ kurkutàràma
hay kukkutàràma tiếng Phạn. Kurkutàràma đã là tên của cái tu viện nổi
tiếng do vua A Dục dựng tại thành Pataliputra, mà Huyền Tráng, hơn tám trăm
năm sau khi Pusyamitra phá hủy trong cuộc đàn áp Phật giáo khoảng năm 187
tdl, vẫn còn nhận ra cái nền, như Đại Đường tây vức ký quyển 8 ĐTK
2087 tờ 912b14-17 ghi lại.
Điểm đáng ngạc nhiên, nguyên bản
Phạn văn chuyện thần thoại Maitreya, như nó đã xuất hiện ngày nay trong
bản in của Viện Phạn ngữ học Mithila, đã không có cái tên Xí-đầu-mạt
này. Cái tên Nhượng Khư, ngược lại, với những biến thái nhượng già,
hướng khư .v.v.. đã có mặt trong nó và không gì hơn là một phiên âm
Trung Quốc của chữ Sankha tiếng Phạn và Sankha tiếng Paris. Tất cả những
bản Hán văn đều đồng ý Nhượng Khư là vị vua ở thành Xí- đầu-mạt
và là người sẽ nhường ngôi cho Di Lặc nhằm thực hiện giấc mộng một
thế giới, ở đó mọi người đều sống lâu và giác ngộ qua ba hội thuyết
pháp dưới gốc cây Long Hoa.
Việc Đạo Cao đem vua Nhượng Khư,
thành Xí-đầu-mạt và ba hội Long Hoa để chứng minh tính có thể thấy
được của "Tây phương căn nguyên", phải kể là khá lôi cuốn cả
về phương diện tín ngưỡng lẫn cắt nghĩa. Về khía cạnh tín ngưỡng,
nó cho thấy những người thời âm đã có một tin tưởng sâu sắc vào sự
xuất hiện sắp đến của Phật Di Lặc. Về phương diện cắt nghĩa, nó vạch
ra sự hàm hồ không rõ ràng của câu hỏi do Lý Miễu nêu lên. Trong lá thư
thứ nhất Miễu nói: "Đây chính là lúc phải tìm nguồn gốc phương Tây
của giáo pháp". Ở lá thư trả lời, Đạo Cao chia câu đáp của mình
thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất, ông dùng chứng cớ Phật Di Lặc. Do thế,
ta có thể giả thiết là nguồn gốc phương Tây của Miễu đây muốn nói
đến nguồn gốc Tây phương tịnh độ, nhưng người dịch bản tiếng Nhật
trong "Quốc dịch nhất thiết kinh" đã hiểu. Nhưng đến đoạn thứ
hai, Cao dẫn tới chuyện "Họ thích giống trống Pháp ở vườn Nai, đức
Phu Tử dương lời đức tại Châu lễ". Điều này có nghĩa nguồn gốc
phương Tây ấy không chỉ muốn nói Tây phương cực lạc mà còn muốn nói
đến nguồn gốc Ấn Độ của Phật giáo như một thực tại lịch sử,
như thực tại lịch sử của Tam hoàng Ngũ đế và Chu Khổng.
Tiếp đến là những dẫn chứng
và điển cố liên hệ với kinh Pháp Hoa. Trong lá thư thứ hai, Đạo Cao cho
dẫn câu "Thời ngã gặp chúng tâm, câu xuất linh thứu sơn" và bảo
là từ kinh Pháp Hoa. Khi củ soát những bản dịch hiện còn, đấy là
chính Pháp Hoa kinh của Túc Pháp Hộ, Diệu pháp Liên Hoa kinh của Cưu Ma La
Thập và Thiện phẩm diệu pháp Liên Hoa kinh của Xà Na Khuất Đa, chúng ta
đã gặp câu ấy trong bản của La Thập quyển 5 ĐTK 262 tờ 43b24 và của
Xà Na Khuất Đa quyển 5 ĐTK Q64 tờ 177c13 ở phẩm thứ 16 của bản trước
và 15 của bản sau, mà chúng đều gọi là "Như Lai thọ lượng phẩm".
Câu tương đương trong bản dịch của Trúc Pháp Hộ quyển 7 ĐTK 263 tờ
114c17-18 phẩm thứ 15 "Như Lai hiện thọ". Đọc như: "Nhiên hậu
Như Lai hiệp tập chúng âm, năng tự thị hiện, hiển đại Phật đại".
Nguyên bản Phạn văn hiện nay do
Woghihara và Tsuchida xuất bản trong Saddhadma-Pundadikà-Sùtram ở Đông Kinh năm
1934-1936 trang 276 đã chứng tỏ La Thập và Sà Na Khuất Đa dịch sát với
nguyên văn hơn; Câu trên theo Phạn văn là: Aham Sràvaka - Sangha Krtvà Àtmàna
darseny ahu Grdhrakaùte.
Vậy thì, trong bản dịch hiện
còn, Đạo Cao phải dẫn bản của La Thập và Xà Na Khuất Đa. Nhưng vì Xà
Na Khuất Đa thực hiện bản dịch của mình vào năm 601, bản của ông ta
do thế không thể là tài liệu cho việc dẫn chứng của Cao. Còn lại như
vậy là bản do La Thập dịch vào năm 406. Câu ấy La Thập xếp dưới phẩm
"Như Lai thọ lượng" như đã nói. Điều này giúp ta thấy cái tên
"Thọ Lượng vị tận" trong khúc "Nguyện tin lời của Thọ Lượng
vị tận" phải đến từ phẩm ấy. Và chúng ta không sai cho mấy, bởi
vì dẫu phẩm danh gọi là Như Lai thọ lượng, nội dung nó nói tới chuyện
Như Lai thọ lượng chưa hết. Chúng tôi nghĩ, cái tên Thọ Lượng vị tận
đây do đó đáng nên dịch ra Thọ Lượng chưa hết, và coi Đạo Cao muốn
đề cập tới phẩm Như Lai thọ lượng của bản dịch La Thập.
Dù có sự giống nhau về văn cú giữa
câu dẫn của Đạo Cao và bản dịch của La Thập, chúng ta có nên loại hẳn
cái khả hữu về việc Cao dùng một bản dịch khác không, nhất là khi ta
có cái tên Thọ Lượng vị tận không hoàn toàn đồng nhất với phẩm
danh của La Thập và vào thời Cao đang có những dịch phẩm khác lưu hành
như của Pháp Hộ và Chi Cương Lương? Chúng tôi nghĩ là nên, vì Đạo Cao
hình như có một đánh giá cao về dịch phẩm của La Thập và rất ưa dùng
chúng, mà điển hình là bản dịch Kinh Duy Ma Cật dưới đây hay chuyện thần
thoại Maitreya trên.
Ngoài cái tên "Thọ Lượng vị
tận" và câu "Thời nhả gặp chúng tâm cu xuất Linh Thứu sơn",
Cao cũng nói đến chuyện "Trung suy Đại Thống Trí Thắng chi tập".
Đại Thống Trí Thắng là tên một vị Phật trong kinh Pháp Hoa ở phẩm
"Hóa thạch" của bản dịch La Thập quyển 5 tờ 22a18-27b8 và bản
dịch của Xà Na Khuất Đa quyển 5 tờ 87b22-94b20. Cái tên "Vãng cổ"
của Hộ tỏ ra khá gần với phẩm danh Pùrva-Yoga của nguyên bản Phạn văn
kinh Pháp Hoa hiện nay do Wogihara và Tsuchida xuất bản trang 141-175.
Nội dung của phẩm này, như nhan đề
của nó điểm chỉ là nhằm cho thấy tính chất hóa thạch của mọi lý
thuyết Phật giáo và có thể tóm tắt thế này. Đại Thông Trí Thắng là
một vị vua, có 16 người con. Sau ông bỏ ngôi đi tu và thành Phật hiệu
là Đại Thông Trí Thắng. 16 người con dần dà được hóa độ và người
con thứ 15 sau naỳ trở thành Phật dưới tên Thích Ca Mâu Ni. Sự giác ngộ
của những người con này đều được thực hiện bằng những phương tiện
diễn giảng thí dụ của Đại Thông Trí Thắng. Dẫn truyện này ra, Đạo
Cao chắc muốn cho Lý Miễu hiểu một sự định kỳ của sự xuất hiện
những đức Phật và nhắc nhở Miễu về việc không nên đặt quá nặng
tin tưởng chuyện thị hiện và nhìn thấy.
Một lần nữa, với những dẫn chứng
ấy từ kinh Pháp Hoa, Đạo Cao đã cho thấy một phần nào tình trạng tín
ngưỡng nhiệt thành và sâu sắc về kinh Pháp Hoa của những người thời
ông, bởi vì để có thể chấp nhận giá trị bằng cớ của chúng, nó giả
thiết cả người đọc lẫn người viết, phải có một niềm tin nào đó
vào sự chân thật của cuốn kinh cùng những câu chuyện thần thoại nó kể.
Sự thật, ta có Huệ Thắng (440-510) đã "Tụng kinh Pháp Hoa ngày kể một
biến" như tục Cao tăng truyện quyển 16 ĐTK 2060 tờ 550c9 đã ghi. Hoằng
Pháp Hoa truyện quyển 5 ĐTK 2067 tờ 24c10-13 cũng chép lại chuyện một tín
sĩ của huyện Bình Lục thuộc Giao Châu đời Lương đã nhân tụng kinh
Pháp Hoa, hăm mộ sự tích Dược Vương. Sau khi thiêu mình, nơi thiêu bỗng
nổi gò cao, dáng giống hình người. Người cha đến Lào thì được tượng
vàng một pho lớn bằng người thật, ôm vào, trước muốn cất lên, bỗng
nhiên không thấy.
Cuối cùng là những dẫn chứng Tịnh
Danh và điển cố "Định Quang Nho Đồng". Trong lá thư thứ hai Đạo
Cao cho dẫn câu "Hiện giải pháp tứ, Tri chúng sanh căn" và bảo
là trích từ kinh Tịnh Danh. Một kiểm soát những bản dịch tiếng Trung Quốc
của cuốn kinh này cho thấy câu đó chỉ xuất hiện trong Duy Ma Cật sở viết
kinh ĐTK 475 tờ 537a14 phẩm "Phật quốc" do Cưu Ma La Thập dịch
năm 406, bởi vì bản Duy Ma Cật kinh do Chi Khiêm dịch khoảng năm 222-229 quyển
thượng phẩm "Phật quốc" ĐTK 474 tờ 519a 15 - 16 có "Tùy trung
vi hiện huệ đức, tại chư chúng vi chính đạo, còn bản Thuyết vô cấu
xứng kinh ĐTK 476 tờ 557c17-18 do Huyền Tráng dịch năm 650 đổi thành
"Thiện tri hữu tình chư căn thánh liệt, nhất thiết đại sở bất
năng phục". Cứ vào sự đồng nhất văn cú, chúng ta phải kết luận
là, Đạo Cao đã dẫn câu chứng của mình từ bản dịch của La Thập.
Tuy nhiên, vì Cao đã dẫn nó dưới
tên kinh Tịnh Danh, chúng ta cần phải kiểm thêm xem có bản dịch nào mang
cái tên ấy không? Dựa vào những thư tịch Phật giáo Trung Quốc từ Tăng
Hựu cho đến Viên Chiếu, cái thường biết như kinh Tịnh Danh được dịch
cả thảy 7 lần đấy là lần dịch năm 188 dưới tên Cổ Duy Ma Cật kinh của
Nghiêm Phật Điều, năm 291-296 dưới tên Di Duy Ma Cật kinh của Trúc Thúc
Lan, năm 280-300 dưới tên Duy Ma Cật kinh của Kỳ Đa Mật và năm 303 dưới
tên Duy Ma Cật kinh của Trúc Pháp Hộ, cộng thêm với ba bản dịch hiện
còn vừa kể. Bốn lần dịch này cùng với San Duy Ma Cật kinh của Trúc
Pháp Hộ và Hiệp Duy Ma Cật kinh của Chi Mẫn Độ ngày nay đã tán thất.
Dù còn hay mất, tất cả chúng không một bản nào đã mang cái tên Tịnh
Danh kinh. Chúng ta do thế phải kết luận cái tên ấy là một sáng tạo của
Đạo Cao.
Cố nhiên, đây là một điều
tương đối dễ hiểu, bởi vì nó không gì hơn là một dịch ngữ của
cái đầu đề Vimalakìrti-sùtra tiếng Phạn. Thế thì, cứ vào sự đồng
nhất văn cú, câu dẫn trên của Đạo Cao phải đến từ bản dịch của
La Thập. Khẳng định này về việc dùng bản dịch của La Thập của những
người viết Sáu lá thư còn có thể làm vững với một bằng cớ sau.
Trong lá thư thứ năm, để chứng
minh Phật giáo cũng chỉ nói đến duyên báo như Nho giáo, Lý Miễu cho dẫn
câu "vô ngã vô tạo vô thọ giả, thiện ác chi nghiệp diệc bất
vong" và bảo là "kinh nói", chứ không nói rõ "kinh
nói" ấy là kinh nào. Người dịch tiếng Nhật cuốn Hoằng minh tập là
ông Thái điền Thế Tạng trong Quốc dịch nhất thiết kinh hộ pháp bộ
quyển 1 tờ 260 cũng bảo, ông không biết "kinh nói" ấy là kinh
nào, và cho chú là "vị tường".
Điều đáng ngạc nhiên là, dịch
giả này đã thành công trong việc nhận ra câu "thiện giải pháp tướng",
tri chúng sanh căn" nói trên là xuất pháp từ phẩm Phật quốc của
kinh Tịnh Danh. Nói là ngạc nhiên, bởi vì nếu đã thành công trong việc
truy nhận câu ấy, thì làm sao ông Thái Điền lại có thể chú là "vị
tường" cho câu dẫn "vô ngã vô tạo vộ thọ giả, thiện ác chi
nghiệp diệc bất vong". Nếu đọc hết phẩm "Phật quốc" của
bản dịch La Thập hay Huyền Tráng, người ta không đợi lâu để gặp nó.
Nó nằm ở tờ 537c16 của bản La Thập và tờ 558c4 của bản Huyền Tráng.
Chỉ bản dịch của Chi Khiêm là dịch khác đi một chút là làm cho nó trở
thành khó hiểu như "phi ngã bất tạo dĩ bất tri, như Phật thanh tịnh
vô ác hạnh" ở tờ 519c19.
Vậy thì, trừ khi đọc bản dịch
của Chi Khiêm, ông Thái Điền mới có thể chú là "vị tường"
cho câu dẫn của Lý Miễu. Chứ nếu xem hoặc bản dịch của La Thập hoặc
bản của Huyền Tráng thì khó mà có thể không nhận được. Không những
thế, nếu đã nhận ra được câu "thiện giải pháp tướng, tri chúng
sanh căn", điều này tỏ ra rằng, ông Thái Điền đã dùng bản dịch của
La Thập, bởi vì như đã thấy, câu đó chỉ xuất hiện trong bản dịch đấy
mà thôi. Việc xuất hiện của cái chú thích "vị tường" của
ông Thái Điền do thế quả là đáng ngạc nhiên.
Dù với trường hợp nào đi nữa,
câu dẫn chứng của Lý Miễu, vì sự đồng nhất văn của của nó, phải
đến từ bản dịch của La Thập. Chúng ta không kể tới bản dịch của
Huyền Tráng, vì Tráng chỉ chép lại của La Thập và đã ra đời quá chậm.
Về điển "Định Quang Nho Đồng",
chúng không gì hơn là dịch ngữ của hai cái tên Phạn văn dipamkara và
mànava. Như những dịch ngữ độc lập, chúng đã xuất hiện khá sớm
trong nhiều bản dịch khác nhau, nhất là những bản dịch phát nguyên từ
nước ta và miền Nam Trung Quốc như Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội
chẳng hạn.
Song, như hai dịch ngữ kết nối với
nhau trong một trình tự kể chuyện, chúng chỉ xuất hiện một cách đáng
chú ý trong bản Phật thuyết thái tử thụy ứng bản khởi kinh ĐTK 185 tờ
472c1-483á9 do Chi Khiêm dịch vào khoảng những năm 222-229. Nội dung cuốn
kinh này có thể nói không gì hơn là một mô tả khá chi tiết và hoa mỹ
cuộc đời đức Phật từ sơ sinh cho đến nhập diệt, bắt đầu với một
câu chuyện nhập đề cuộc gặp gỡ giữa đức Phật Định Quang và vị
Sa-môn Nho Đồng. Câu chuyện này thực thi vị. Sa-môn Nho Đồng, vì muốn
cúng hoa cho đức Phật Định Quang, đã phải mua hoa từ cô hái hoa với một
giá rất đắt. Cô hái hoa ngạc nhiên, bèn hỏi lý do rồi cúng không lấy
tiền hai cành hoa với lời nguyện xin là, nàng và vị Sa-môn luôn luôn kết
nghĩa vợ chồng trong mọi kiếp sau. Phật Định Quang không ai khác hơn là
Phật Nhiên Đăng, và Sa-môn Nho Đồng không ai khác hơn là Phật Thích Ca với
cô hái hoa là công chúa Da Du Đà La.
Việc Đạo Cao cho dẫn điển cố
"Định Quang Nho Đồng" ở đây có cùng một mục đích như những
dẫn chứng về Nhượng Khư và Đại Thông Trí Thắng, đó là nhằm cho thấy
sự xuất hiện của đức Phật là một chắc chắn, dù năm tháng có xa
xôi tới đâu đi chăng nữa. Câu chuyện ấy ngày nay năm trong bản dịch
kinh Phật thuyết thái tử thụy ứng bản khởi của Chi Khiêm. Bản này là
bản dịch duy nhất tại Trung Quốc. Do thế, ta phải kết luận, Đạo Cao dùng
nó cho việc nói tới điển Định Quang Nho Đồng của ông.
Điều này càng rõ hơn với một
vay mượn sau trong lá thư thứ sáu của Pháp Minh. Trong đoạn thứ ba của lá
thư ấy, khi bàn về sự chìm nổi của chúng sinh, Minh đã nói tới chuyện
"nhất thân tử hoại, phục thọ nhất thân" - một thân chết đi,
lại nhận một thân khác - Nếu đọc qua bản dịch của Khiêm, ta thấy
Minh dẫn trực tiếp không thay đổi câu ấy từ tờ 472c5-6. Điểm này chứng
tỏ bản dịch của Khiêm đã được cả Minh và Đạo Cao, nếu không là
toàn thể những người học Phật thời họ, biết đến. Và sự tình ấy
không có gì là lạ cho lắm, bởi vì nó có thể nói là một cuốn sách
trình bày cuộc đời đức Phật với tất cả những đẹp đẽ và thi vị,
mà những Phật tử Ấn Độ trước thời Chi Khiêm đã có thể vận dụng
và thực hiện.
Rồi trong lá thư thứ tư, Đạo Cao
lại so sánh Phật giáo với "mặt trời mặt trăng" và các luồng tư
tưởng khác với ngọn lửa leo lét - Cửu lưu chỉ thị phi, nãi yêu hỏa
chi bất tức, phi nhật nguyệt chi bất huy - Hình ảnh này Cao rút ra từ
Mâu Tử lý hoặc luận trong Hoằng minh tập quyển 1 tờ 6b23: "Nhật
nguyệt phi bất minh, chúng ám tệ kỳ quang, Phật đạo phi bất chính,
chúng tư yếm kỳ công" - trời trăng không phải không sáng, bóng tối
nhiều che mất sáng, đạo Phật không phải không chính, ý riêng nhiều ám
mất ý công - Cũng trong lá thư ấy, Cao lại nói đến việc "người có
thấy đem nói với kẻ không thấy thì kẻ không thấy cuối cùng cũng không
tin sự thấy". Ý kiến này cũng đạo xuất từ câu: "sự thường
cộng kiến giả, khả thuyết dĩ thật, nhất nhân kiến nhất nhất nhân bất
kiến giả, nan dữ thành ngôn dã" - Việc thường cùng thấy thì có thể
nói cho là thật, một người thấy một người không thấy thì khó mà nói
với nhau - trong Mâu Tử lý hoặc luận quyển 1 tờ 4b18-19.
Trên đây là những thư tịch điển
cố của nhóm thứ nhất. Nhóm thứ hai gồm những kẻ khai danh số, mà phần
lớn đã xảy ra trong lá thư thứ sáu của Pháp Minh. Ở đoạn thứ ba của
nó, Minh nói tới ba cõi, sáu trần, ba ác, tám nạn và chín mươi sáu thứ
ngoại đạo.
Ba cõi hay tam hữu là ba thứ thế
giới, đấy là thứ thế giới xây dựng trên cơ sở tình yêu (dục giới),
thứ thế giới trên cơ sở hình tướng và thứ thế giới trên cơ sở phi
hình tướng.
Sáu trần hay lục trần là sáu thứ
đối tượng của sáu giác quan, đấy là đối tượng của thị giác, của
thính giác, của khứu giác, của vị giác, của xúc giác và của não giác.
Ba ác hay tam ác là ba con đường sống
khổ sở, đấy là con đường sống địa ngục, con đường sống quỉ đói
và con đường sống súc vật.
Tám nạn tức tám khó khăn ngăn cản
sự tiến triển trên đường về giác ngộ, đấy là sinh vào địa ngục,
vào quỉ đói, vào thú vật, vào cõi trời sống lâu, vào nơi biên địa hạ
tiện, vào tình trạng đui mù câm điếc, vào những kiến giải sai lầm và
vào thời trước hay sau Phật.
Chín mươi sáu thứ ngoại đạo tức
96 thứ học thuyết sai lầm vào thời đức Phật, mà người ta thường cắt
nghĩa như gồm 90 trường phái do 6 vị thành lập sáu học phái của triết
học Ấn Độ chủ trương, theo đấy mỗi một vị có 15 thứ lý thuyết
khác nhau (15x6: 90) cộng thêm với 6 học phái do 6 người đệ tử của 6 vị
ấy xướng xuất: (15x6)+6=96. Tuy một số kinh điển Phật giáo khác lại chỉ
nói có 95 thứ, và thứ học thuyết 96 chính không ai khác hơn là Phật
giáo, những bộ sách như Phân biệt công đức luận quyển 2 ĐTK 1507 tờ
34c 22-23 hay Tăng nhất A hàm kinh quyển 20 ĐTK 125 tờ 651c29 khẳng định là
96 thứ, không kể Phậg giáo.
Con số 96 thứ ngoại đạo ấy
cũng xuất hiện trong Đại trí độ luận do La Thập dịch năm 406 quyển 22
ĐTK 1509 tờ 228b25, quyển 27 tờ 261a 15-16, quyển 34 tờ 309b, quyển 36 tờ
325c11, quyển 40 tờ 349b22, quyển 49 tờ 412b5, quyển 74 tờ 581b18, v.v.. Và
tác giả những lá thư của ta chắc hẳn đã biết tới bản dịch đó và
đã dẫn số 96 thứ ngoại đạo từ nó, cứ vào việc họ thường dẫn
văn cú từ những bản dịch của La Thập nói trên. Nhưng điều đáng chú
ý là Mâu Tử lý hoặc luận trong Hoằng minh tập 1 tờ 6a 8-15 đã hai lần
nhắc đến con số 96 ấy, và theo nó 96 thứ "đạo" này không thứ
nào "chí tôn chí đại", không thứ nào "đạm bạc vô vị"
bằng đạo Phật. Do đó, việc nói tới 96 thứ ngoại đạo trong lá thư Pháp
Minh có thể đã rút ra từ Mâu Tử lý hoặc luậnl hay từ truyền thống học
tập Phật giáo danh số tại Việt Nam.
Cố nhiên, việc kể đến những
danh số loại này không có gì lôi cuốn lắm. Điểm lôi cuốn nằm ở chỗ,
nó cho thấy những người viết thư đã bằng lòng chịu khó đi sâu tới mức
nào vào việc học tập và nghiên cứu lý thuyết Phật giáo, nhất là Phật
giáo danh số. Thứ Phật giáo ấy không những vừa khô khan vừa kỹ thuật
và đôi khi vừa phi lý và phiền nhiễu, mà còn đòi hỏi những người học
tập một thời gian hơi dài cho trí nhớ ghi lại những phạm trù và danh số
của nó. Pháp Minh, Đạo Cao chắc có đủ thời gian và chịu khó. Điều đáng
nói là, hình như Lý Miễu cũng có đủ chúng, để có thể hiểu được lá
thư một cách hoàn toàn. Và nó cho thấy một phần nào tình trạng giáo dục
Phật giáo nước ta vào thời những vị này đã phát triển đến một trình
độ tương đối cao.
Với những phân tích thư tịch điển
cố và danh số Phật giáo này, một nét nổi bật đáng được nêu lên, đấy
là trong thời kỳ Nam Bắc phân tranh của Trung Quốc, nước ta hình như đã
có một liên lạc hầu như thường xuyên với miền Bắc, mặc dù tình
hình chính trị đã đôi lần hệ lụy quyền hành chính trị của người
nước ta với miền Nam. Bằng cớ cho khẳng định này dĩ nhiên là việc Đạo
Cao và Lý Miễu cũng như Pháp Minh đã dẫn những văn cú phần lớn từ những
bản dịch của La Thập, như đã thấy. Hệ luận tất nhiên là, vào khoảng
thế kỷ thứ IV - V quyền hành chính trị nước ta đã đạt đến một mức
độ tự trị khá cao, cuối cùng dẫn đến sự xưng đế của Lý Bôn vào
năm 544.
Sau thất bại của cuộc khởi
nghĩa do Lữ Hưng lãnh đạo vào năm 280, Đào Hoàng đã phải viết trong
cái báo cáo cùng năm về người nước ta như "thử châu chi nhân, thức
nghĩa giả quả, yếm kỳ an lạc, hảo vi họa loạn" - người châu
này, biết nghĩa thì ít, chán ghét yên sướng, ưa làm họa loạn. Và tổ
tiên ta không đợi lâu để làm thực lời báo cáo này. Đến cháu của
Hoàng thì quyền hành đã hoàn toàn thuộc nhà khởi nghĩa Lương Thạc, tuy
Thạc không bao giờ giữ chức thứ sử. Năm 322 Tấn Nguyên đế cử Vương
Lượng sang làm thứ sử, Thạc không ưa, nên giết Lượng. Năm sau, Cao Bảo
tiến quân đánh Thạc.
Từ năm 323 cho đến khi Lý Tốn chống
lại sự đáo nhiệm của Bằng Độn Chi vào năm 380, sử Trung Quốc không
ghi rõ tên những người được mệnh danh làm thứ sử Giao Châu. Các cuốn
sử ta như cuốn Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông
giám cương mục thì chỉ ghi có hai người, đấy là Nguyễn Phóng và Nguyễn
Phu. Song, Đại Việt sử lược quyển 1 tờ 6b11 liệt thêm một người thứ
ba, đấy là Chu Phụ, và chú là "làm thứ sử thời Tần Phù
Kiên". Tần Phù Kiên lập nên nhà Diêu Tần ở miền Bắc và trị vì
giữa những năm 357-386.
Chu Phụ là ai? không một cuốn sử
nào, trừ chi tiết vừa kể của Đại Việt sử lược đã nói đến. Tấn
thư quyển 97 tờ 9a 7-10a 9 có ghi lại tên một Chu Phiên, theo đấy
"Vĩnh Hòa năm thứ ba Văn đem bè lũ hắn hãm Nhật Nam, hại thái thú Hạ
Hầu Lãm, giết năm sáu ngàn người, số còn lại chạy trốn đến Cửu Chân;
Văn lấy thây Lãm đến tế trời, cắt bình huyện Tây Quyện, rồi chiếm
Nhật Nam, nói với thứ sử Giao Châu là Chu Phiên xin lấy Hoành Sơn phiá Bắc
Nhật Nam làm biên giới". Vĩnh Hoà thứ 3 tức năm 348 Chu Phiên, cứ
vào niên đại này, tất không thể là Chu Phụ được, bởi vì Phụ làm thứ
sử đời Tần Phù Kiên, tức giữa những năm 357-386, và sau năm 348 ta có Dương
Bình giữ chức ấy vào năm 352, Nguyễn Phu vào năm 355 và Nguyễn Phóng hay
theo Tấn thư Ôn Phóng Chi vào năm 359.
Điều chắc chắn là Tần Phù Kiên
quả đã mở rộng ảnh hưởng quyền hành của ông xuống cho tới Ích
Châu, khi ông cử Đặng Khương xuống dẹp loạn bọn "mọi Ba Thục",
mà Thập lục quốc xuân thu quyển 36 tờ 962-4 đã ghi lại như "ba di hiểm
nghịch, khấu loạn Ích Châu, chiêu dân Ngô quân vi thần xử xỉ chi thế,
đặc tiến chấn Nam quân tướng quân lệ phong hiệu úy Đặng Khương khả
soái giáp sĩ ngũ vạn, tinh dạ phó thảo", cứ theo trích dẫn của
Nghiêm Khả Quân trong Toàn Tấn văn quyển 151 tờ 4a 10-11.
Một trích dẫn ở tờ 2b7-9 liên
quan đến việc thăng chức cho Khương viết: "Khương hữu liêm lý chi
tài, trẫm phương dĩ chi phạt chi sự, bắc bình Hung nô, nam đảng Dương
Việt, Khương chi nhiệm dã", xác nhận như vậy nỗ lực thấm nhập vào
miền Nam của Tân Phù Kiên đặc biệt là miền Dương Việt.
Chu Phụ hẳn đã thiết lập những
liên lạc ngoại giao với Kiên có lẽ vào sau khoảng năm 360 qua những cuộc
hành quân vừa kể của Khương. Chúng ta không biết Phụ giữ chức thứ sử
bao lâu, nhưng chắc phải chết trước năm 380, khi nhà Tấn cử Đằng Độn
Chi qua làm thứ sử và Lý Tốn đã cắt binh chống lại. Năm sau, thái thú
Giao Chỉ Đỗ Viện giết Tốn và đón Chi tới. Hai người con của lãnh tụ
Tốn là Lý Dịch và Lý Thoát trốn vào núi tiếp tục kháng chiến, cho đến
năm 412 khi họ liên lạc được với Lư Tuần ở Hợp Phố và tiến đánh
Đỗ Huệ Độ, con của Viện và thay thế Viện vào năm 411, lúc Viện chết
81 tuổi. Họ bị Độ giết trong trận đánh tại bến Nam thành, Long Biên.
Trong khoảng thời gian kháng chiến
giữa năm 380 - 412 tại nước ta thì ở miến Bắc, Diêu Hưng đã làm cho
Phù Kiên tự thắt cổ ở chùa Tân Bình và lập nên nhà hậu Tấn vào năm
386, mở đầu cho việc đón tiếp và giúp đở Cư Ma La Thập thực hiện sự
nghiệp dịch thuật vĩ đại của ông sau này vào những năm 402 - 412.
Từ năm 412 trở đi cho đến khoảng
năm 450, về phương diện chính trị mặc dù nhà Tấn và Tống tiếp tục cử
hay phong thứ sử cho nước ta, một mức độ tự trị nào đấy đã đạt
được, dẫn đến cuối cùng sự kháng chiến công khai và thành công sau
này của Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến vào năm 468 cho đến năm 485
cũng như Phục Đăng Chi hai năm tiếp đấy.
Về phương diện văn hóa và tôn
giáo, chúng ta có Đàm Hoằng từ miền Bắc xuống tu họp tại chùa Tiên Sơn
khoảng năm 425. Vị Tăng chính nhà Tống và đồng thời vị lương y Trí
Bân đã đến nước ta khoảng 466 - 468, cứ theo một ghi chú của Cao Tăng
truyện quyển 7 ĐTK 2059 tờ 373c11-15. Và trước Bân ta có Huệ Lâm, người
viết luận văn nổi tiếng khiêu khích nhan đề Quân thiện luận đã là động
cơ cho sự ra đời Sáu lá thư trên của ta. Huệ Lâm đã đến Bắc bộ có
lẽ vào khoảng những năm 412 cho đến 450 không có gì đáng phải ngạc
nhiên hết, nếu chỉ dựa vào những liên lạc chính trị và văn hóa vừa
nói giữa hai miền Trung Quốc với người nước ta.
Đến đây, người đọc chắc cũng
tự hỏi, tại sao chúng tôi phải dài dòng truy nguyên từng điển có thư tịch
trên một cách tỉ mỉ chi tiết như vậy. Một trong những mục đích đã
nêu ra, đó là nhằm chứng minh nguồn gốc Việt Nam của những lá thư. Việc
ấy, chúng tôi tin tưởng bây giờ đã đạt được. Ngoài điển cố
Sương Dĩnh và Bào Sinh, mà ngày nay hiện chưa truy ra, những phân tích về
thư tịch điển cố Phật giáo cho thấy những tác giả của Sáu lá thư tỏ
ra rất quen thộc với điển tịch Phật giáo nước ta và miền nam Trung Quốc
mà trường hợp điển hình là việc Đạo Cao ba lần đã dẫn Mâu Tử lý
hoặc luận, việc Pháp Minh dẫn từ bản dịch Phật thuyết thái tử thụy
ứng bản khởi kinh của Chi Khiêm, hay cái tên "Thọ lượng vị tận"
rất có thể đến từ bản dịch của Cương Lương Tiếp và Đạo Thanh
v.v... Việc họ sử dụng những bản dịch La Thập, cứ vào tình trạng
chính trị và văn hóa vừa mô tả, thực là một sự tình khá tự nhiên. Nếu
so sánh cách dùng điển cố thư tịch trong Sáu lá thư với cách dùng trong
những tác phẩm đồng thời với chúng như Minh Phât luận của Tôn Bính,
Quân thiện luận của Huệ Lâm, và nhất là những lá thư trao đổi giữa
Tôn Bính và Hà Thừa Thiên, thì nguồn gốc Việt Nam của những lá thư chúng
ta càng trở nên minh nhiên.
Tuy vậy, làm rõ nguồn gốc Việt
Nam của những lá thư không phải là mục đích duy nhất. Không phải vì chỉ
muốn làm rõ nó mà chúng tôi đã dài dòng phân tích những chứng cớ thư
tịch điển cố chứa đựng trong sáu lá thư ấy, dù rằng đó là một ý
muốn cần thiết cho việc giải quyết quê quán của những tác giả của
chúng, như người đọc sẽ thấy dưới đây. Chúng tôi còn muốn bằng những
phân tích trên đạt đến hai mục đích quan trọng và lôi cuốn hơn, ấy là
thử xác định niên đại ra đời của những lá thư cũng như vấn đề chúng
ta có thể biết gì về những tác giả của chúng hay không. Chúng tôi đề
nghị theo đuổi hai mục đích này trong những bàn cãi tiếp theo.
Ve͊ tác giả và soạn niên của Sáu lá thư [^]
Như đã nói ngay từ đầu, tung tích
của những người mang tên Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miểu ngày nay chúng ta
không biết một tí gì hết. Kiểm soát toàn bộ những tư liệu lịch sử
Trung Quốc và Phật giáo Trung Quốc cũng như tư liệu lịch sử Việt Nam và
Phật giáo Việt Nam, chúng ta không tìm thấy một mẫu tin nào về những người
có các tên ấy. Kiểm soát Tấn thư, Tống thư, Nam tề thư, Lương thư, Ngụy
thư, Bắc sử và Tư trị thông giám, cũng như Đại Việt sử lược, Đại
Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu tán, và Khâm định Việt sử thông
giám cương mục, chúng ta đã không gặp một "sứ quân" nào với
cái tên Lý Miễu. Kiểm soát Cao Tăng truyện và Tục Cao Tăng truyện cũng
như Thiền uyển tập anh. chúng ta cũng không tìm thấy một pháp sư nào có
tên Đạo Cao hay Pháp Minh.
Veࠦ#272;ạo Cao [^]
Trong Toàn Tấn văn quyển 157 tờ
15a12-12, Nghiêm Khả Quân có liệt ra tên một Thích Đạo Cao. Nhưng kiểm
tra bản mục lục của Toàn Tấn văn quyển 157 tờ 17a5 cùng như nơi xuất
xứ của tên ấy, tức Cao Tăng truyện quyển 5 tờ 355b15-17, thì chúng ta
có Thích Đạo Tung chứ không phải là Thích Đạo Cao. Cố nhiên, chữ ? mà
cách phát âm tiêu chuẩn luôn luôn là tung đôi khi có thể đọc thành cao,
như trường hợp chữ cao trong cái tên Trần Cao ? của lịch sử nước ta
chẳng hạn. Như thế, chữ cao? ở quyển 157 tờ 15a12, cứ vào kiểm tra vừa
thấy, chắc chắc là một khắc lầm.
Ngoài ra, Toàn Tống văn quyển 63 tờ
11a3-13a1 có đoạn nói về tung tích Thích Đạo Cao, tác giả những lá thư
của chúng ta. Nghiêm Khả Quân đã chú thích là "Đạo Cao Giao Châu
pháp sư", trong khi Thích Đạo Tung, mà người khắc bản Toàn tấn văn
đã đổi thành Thích Đạo Cao, được Quân cũng như Cao Tăng truyện bảo là
"ở chùa Ngõa Quan". Điều này chính tỏ, theo Quân, Thích Đạo Tung
của Toàn Tấn văn không thể là Thích Đạo Cao của Toàn Tống văn.
Cần thêm rằng Cao Tăng truyện quyển
12 tờ 408b5-12 có ghi lại tiểu sử của một vị sư tên Thích Đạo Tung khác.
Vị sư này chắc chắn không thể là Thích Đạo Tung, mà Toàn Tấn văn đã
dẫn ra, cũng như Cao Tăng truyện quyển 5 tờ 355b 15-17 nói tới. Bởi vì Đại
Tung sau nàu là người đồng đại với Thích Đạo An ( 320 - 388 ) và sống
tại chùa Ngõa Quan trong khi Đạo Tung trước đã đến kinh sư vào năn 473 -
476 và mất lúc ông 49 tuổi tại chùa Định Lâm núi Chung. Cái tên Đạo
Cao của chúng ta do thế không thể tìm thấy trong các sách sử hiện còn của
Trung Quốc hay nước ta.
Việc bản in Quảng nhã thư cục của
Toàn Tấn văn có Thích Đạo Cao, từ đó không thay đổi hình trạng sử liệu
về vấn đề Đạo Cao. Chúng ta phải tìm cách mở rộng giới hạn truy tầm
tư liệu mới hy vọng giải quyết một phần nào những bí ẩn vây quanh
Sáu bức thư ấy.
Trong khi điều tra những tư liệu
Nhật Bản viết giữa những thế kỷ thứ 8 và thứ 10 cho việc nghiên cứu
của Định pháp sư và Duy Giám pháp sư, chúng tôi đọc lại Nhật Bản quốc
kiến tại thư mục lục do chính ngũ vị hành lục Việt thủ kiêm Thượng
dã quyền giới Đằng Nguyên Tá Thế soạn và đã tìm thấy những dự kiện
rất lôi cuốn sau về một người mang tên Đạo Cao pháp sư hay Thích Đạo
Cao. Trước hết dưới mục thứ mười mang tên Tiểu học gia, liệt ra ở
tờ 34b4-5 một bộ sách nhan đề "Tá âm, một quyển, Thích Đạo Cao soạn"
- Tá âm nhất quyển, Thích Đạo Cao sọan - Rồi dưới mục Biệt tập ở
tờ 48a14 lại ghi :"Đạo Cao pháp sư tập, một quyển" - Đạo Cao
pháp sư tập nhất quyển - Như vậy, cứ Nhật BẢn kiến quốc tại thứ mục
lục, một tăng sỉ biết dưới tên Thích Đạo Cao hay Đạo Cao pháp sư đã
là tác giả hai tác phẩm nhan đề Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập. Câu hỏi
bây giờ đương nhiên là Thích đạo cao đây có phải là pháp sư Đạo Cao
của Sáu lá thư chúng ta không ?
Trả lời câu hỏi này, chúng ta biết,
Nhật Bản kiến quốc tại thư mục lục đã được Vũ Điền thiên hoàng
sắc cho Đằng Nguyên Tá Thế viết năm 889 - 890, nhằm ghi lại hết những
bộ sách Trung Quốc còn sót trong thư viện hoàng gia, sau vụ cháy năm 887. Kể
từ ngày Địch Cốc Dịch Trai lần đầu tiên chú giải nó cho tới những
nghiên cứu gần đây nhất của Tiểu Trường Cốc Huệ Cát và Trỉ Đảo
Huyền Lượng thì giữa 1586 bộ 17.106 quyển sách của nó quả thực nó là
một bản thư tịch những tác phẩm do người Nhật mang từ Trung Quốc về
Nhật Bản. Chỉ trừ bảy bộ sách sau, do người Nhật sáng tác và Đằng
Nguyên ghi nhầm vào,đấy là: 1. Hoàng đế phạm 3 quyển, 2. Nhiếp dưỡng
yếu quyết 22 quyển, 3. Tần tu nhạn kinh 3 quyển, 4. Luật phụ thích 10 quyển,
5. Đại luật 6 quyển, 6. Tân luât 10 quyển và Tân lịnh 10 quyển và 7.
Biên sắc lập thành 1 quyển. Hai tác phẩm Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập
do đó chắc chắn không phải do người Nhật soạn thảo và phải được họ
mang về Nhật Bản từ Trung Quốc, sau khi đã xin, thỉnh, sao hay mua được
chúng tại Trung Quốc. Thật vậy, một kiểm thể tài liệu Phật giáo Nhật
Bản, không một tăng sĩ Nhật Bản nào có tên Đạo Cao. Nếu vậy thì Tá
âm và Đạo Cao pháp sư tập được mang về Nhật Bản lúc nào ?
Một kiểm soát toàn bộ những thư
tịch Nhật BẢn viết trước và sau Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục
không lâu đã không cho biết một tí gì cả, và chúng gồm những bản sau
:
Tên sách Tác giả Năm viết
1. Tối Trừng mục lục
a. Truyền Giáo đại sư tương Tối
Trừng 805 lai Việt châu lục ĐTK 2159
b. Truyền Giáo đại sư tương lai (
767 - 822 ) Việt châu lục ĐTK 2160
2. Ngự thỉnh lai mục lục Không Hải
806 ĐTK 2162 ( 774 - 835 )
3. a .Huệ Vận thiền sư tương Huệ
Vận 847 lai giáo pháp mục lục ĐTK 2168a ( 789 - 869 )
b. Huệ Vận luật sư thứ mục lục
ĐTK 2168b
4. Nhật Bản quốc thừa hòa ngũ Viên
Nhân 838 niên nhập Đường cầu pháp (794 - 864) mục lục ĐTK 2165
5. Nhập Đường tan cầu kinh giaó
Viên Nhân 847 mục lục ĐTK 2167
6. Từ Giác đại sư tại Đường
Viên Nhân Tống Tấn lục ĐTK 2166
7. Linh Nham tự hòa thượng Viên
Hành thỉnh lai pháp môn đạo cụ (799 - 852) đăng mục lục ĐTK 2164
8. Thường Hiểu hoà thượng Thường
Hiểu thỉnh lai mục lục ĐTK 2163 (? - 865)
9. a. Tân thơ tả thỉnh lai Tôn Duệ
pháp môn đẳng mục lục (809 - 884) ĐTK 2174ab. Thiền Lâm tự Tôn Duệ tăng
chính mục lục ĐTK 2174b
10. Trí Chứng đại sư thỉnh lai Viên
Trân mục lục ĐTK 2173 (814 - 891)
11. Phúc châu Ôn Thai châu cầu Viên
Trân 891 cầu đắc kinh luận luận sớ ký ngoại thư đẳng mục ĐTK 2170
12. Nhật Bản Tỷ - kheo Viên Viên
Trân Trân nhập Đường cầu pháp mục lục ĐTK 2172.
13. Thanh Long tự cầu pháp mục
Viên Trân lục ĐTK 2171
14. Khai Nguyên tự cầu đắc kinh Viên
Trân sơ ký đẳng mục lục ĐTK 2169
15. Căn Bản đại hòa thượng chân
tích sách tử đẳng mục lục ĐTK 2162
16. Thông Hiền nhập đạo tạng
thư mục lục
Trong số 16 bản mục lục vừa liệt,
chỉ trừ bản của Hoà thượng Căn BẢn và một số bản của Viên Trân,
tất cả chúng đều viết và xuất hiện trước thời của Đằng Nguyên
Tá Thế và Nhật Bản kiến quốc tại thư mục lục, như người đọc có
thể thấy và ghi lại những sách vở Trung Quốc do người Nhật mang về Nhật
Bản. Dẫu vậy, chúng đã không ghi một tác phẩm nào mang tên Tá âm hay Đạo
Cao pháp sư tập, cũng như không một tác giả nào mang tên Thích Đạo Cao
hay Đạo Cao pháp sư . Do thế câu hỏi nêu trên , ta không thể nào trả lời
được. Nói cách khác , ta không biết Tá âm hay Đạo Cao pháp sư tập đã
tới Nhật Bản hồi nào . Điều chắc chắn là , chúng phải tới trước
năm 889 , để cho Đăng Nguyên ghi vào trong bản thư mục của ông.
Về phía cạnh Trung Quốc, như đã
nói không một tư liệu Phật giáo cũng như không Phật giáo, dĩ nhiên trừ
bộ Hoằng minh tập và những tài liệu lấy từ nó ra như Toàn thượng cổ
Tam đại Tần Hán Tam quốc Lục triều văn của Nghiêm Khả Quân, đã đề
cập hay kể ra cái tên Thích Đạo Cao. Chúng tôi đã kiểm soát lại bản
tin những Cao Tăng trong Danh Tăng truyện do Bảo xướng viết năm 515, mà bản
mục lục mệnh danh Danh Tăng truyện mục lục đã được Tôn Tánh sao y
nguyên lại vào năm 2135 trong Danh Tăng truyện sao TcT 134 ờ 5al-6a2 của ông
nhưng đã thất vọng như trong những lần kiểm soát Cao Tăng truyện của
Huệ Hạo (? - 549) và những kinh lục khác. Chúng tôi cũng đã kiểm soát lại
những bản thư tịch liệt kê những tư liệu tìm được tại Đôn Hoàng
hiện tàng trữ ở các nước Anh, Pháp, Liên xô, Trung Quốc và Nhật BẢn
và đã không tìm thấy một tư liệu nào mang tên Đạo Cao cả . Dẫu việc
điều tra tỉ mỉ ấy đã đưa tới cho ta những thất vọng vừa thấy, hai
tác phẩm Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập , tuy sẽ không được xác định
với một mức độ chính xác nào, cũng gợi lên nhiều bàn cải chú ý.
Trước hết, về Tá âm,, Đằng
Nguyên liệt nó vào loại Tiểu học gia. Nó như vậy, cứ định nghiã của
Tùy thư kinh tịch chí quyển 32 tờ 18b1-20b4, tất phải là một tác phẩm về
ngôn ngữ. Trong bản chú giải đầu tiên về Nhật bản kiến quốc tại thư
mục lục nhan đề Nhật Bản kiến tại thư mục chứng chú cảo, Địch Quốc
Dịch Trai, dưới mục "Tá âm nhất quyển, Thích Đạo Cao soạn",
đã ghi thêm: "Tùy chí Tá âm tự nhất quyển, bất trước tánh
danh" - Kinh tịch chí của Tùy thư có ghi Tá âm tự một quyển, nhưng
không ghi họ tên người viết. Sau Địch Cốc, những nhà chú giải nghiên
cứu khác của Nhật Bản như Tiểu Trường Cốc và TRí Đảo cũng thêm
được một chú thích nào hết dưới mục Tá âm của Thích Đạo Cao, còn
Trí Đảo thì đem ngay cả cái ghi chú vừa dẫn trên của Địch Cốc, để
chú thích mục Tá âm ba quyển và hoàn tòan để trống mục Tá âm một quyển
của Thích Đạo Cao.
Về mặt những người chú thích
Trung Quốc, thì như cái ghi chú trên của Địch Cốc cho thấy, Kinh tịch chí
của Tùy thư quyển 32 tờ 19a4 là quyển sách đầu tiên ghi lại một tác
phẩm nhan đề Tá âm tự nhất quyển, nhưng không cho biết tên họ người
soạn. Những bản thư tịch tiếp theo Tùy thư như Cựu Đường thư và Tân
Đường thư không còn nói đến tác phẩm ấy nữa. Nó cũng không được
những cuốn tự điển bách khoa kiểu Bắc đường thư sao của Ngô Thế
Nam (558 - 638), Nghệ văn loại tụ của Âu Dương Tuân (557 - 641), Sơ học ký
của Từ Kiện (659 - 729), Thái bình ngự lãm của Lý Phưởng (925 - 996)
v.v... đề cập tới. Rồi, những cuốn tự điển nổi danh như NGọc Thiên
của Cố Dã Vương (519 - 581), Nhất thiêt kinh âm nghiã do Huyền Ứng viết
năm 664 v.v... lại không dẫn ra một tác phẩm nào mang tên Tá âm hay Tá âm
tự hết. Cho nên, với một bộ sách gần tới 50 quyển chuyên khảo về những
loại sách được các bản thư tịch liệt vào loại Tiểu học gia mang tên
Tiểu học khảo. Tạ Khải Côn (1737 - 1802) chỉ biết viết ở quyển 29 tờ
8a5-7 về cuốn Tá âm tự sau: "Vô danh thị Tá âm tự, Tùy chí, nhất
quyển, dật" - Không tên họ Tá âm tự, Kinh tịch chí của Tùy thư ghi
1 quyển, (nay) đã mất.
Mãi đến Diêu Chấn Tôn (1842 -
1906), nó mới được bàn cải rộng ra một chút. Trong Tùy thư kich dịch chí
khảo chứng quyển II tờ 5216b27-c4, lợi dụng được những tư liệu Nhật
Bản, đặc biệt là cuốn Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục, Tôn đã
viết như sau về Tá âm tự: "Tá âm tự, 1 quyển, không ghi tên người
soạn. Tiểu học khảo nói: không tên họ Tá âm tự, Tùy chí ghi 1 quyển,
mất. NAy xét Nhật Bản thư mục nói Tá âm 3 quyển, không người ghi soạn;
lại nói Tá âm một quyển Thích Đạo Cao soạn. MỘt quyển (Tá âm tự) đây
hoặc tức cũng là sách của Đạo Cao. Nhưng Đạo Cao lại không biết người
thời nào" - Tá âm tự nhất quyển bất trước soạn nhân. Tiểu học
khảo viết: Vô danh thị Tá âm tự, Tùy chí nhất quyển, dật. Án Nhật Bản
thư mục, Tá âm tam quyển, bất trước soạn nhân, hựu viết: Tá âm nhất
quyển, Thích Đạo Cao soạn. Thử nhất quyển hoặc tức Đạo Cao chi thơ
diệc bất tri hà thời nhân dã.
Cứ chú thích này, Tôn như vậy muốn
coi Tá âm tự do Tuỳ thư liệt ra là một tác phẩm khác của Thích Đạo
Cao do Nhật Bản kiến quốc tại thư mục lục nói tới, dẫu ông thú nhận
"Không biết Đạo Cao là người thời nào". Chúng ta ngày nay nhờ
khám phá ra được Saú lá thư nói trước, đã biết không những một cách
chắc chắn là, "Đạo Cao người thời đại nào", mà còn biết
thêm một phần nào cuộc đời, tư tưởng và sự nghiệp của ông. Tuy
nhiên, vì đang thiếu những tư liệu cần thiết về Tá âm cũng như Tá âm
tự, chúng ta không thể biết gì hơn về những liên hệ có thể giữa
chúng cũng như giữa Tá âm tự và Thích Đạo Cao. Có thể chúng ta chỉ
nên nói, như Tôn đã làm là, "hoặc giả Tá âm tự cũng là sách của
Đạo Cao" Mà thực vậy, nếu kiểm soát toàn bộ những từ vựng Trung
Quốc, ta tất không thể tìm thấy một danh từ nào mang tên Tá âm hết. Một
danh từ như thế không bao giờ được dùng. Về tác phẩm, thì chỉ độc
một mình Kinh tịch chí của Tùy thư là có nói tới cuốn Tá âm tự như
đã thấy. Danh từ Tá âm và tác phẩm có mang tên Tá âm do thế có thể
nói hầu như không dùng hay không biết tới ở Trung Quốc.
Trong khi đó, cứ Nhật Bản quốc
kiến tại thư mục lục tờ 34b4-5 thì giữa những số sách do người Nhật
Bản mang về từ Trung Quốc, tối thiểu hai tác phẩm nữa đã mang tên Tá
âm của Thích Đạo Cao, đấy là Tá âm ba quyển và Tân sao Tá âm năm quyển.
Điều này chứng tỏ ít nhất là, trước năm 889 tại Trung Quốc đã có những
cuốn sách nhan đề Tá âm hay Tân sao Tá ân, để cho người Nhật có thể
mang về Nhật Bản và được ghi lại trong Nhật Bản kiến quốc tại thư
mục lục, chứ không phải là không có, như sự im lặng về chúng trong
các bản thự tịch Trung Quốc như đã điểm chỉ. Và giả như nếu ta đồng
ý với Trỉ Đảo, để ghi Tân sao Tá âm năm quyển là do "người Nhật
tân sao", thì nó càng tỏ ra rằng, thứ sách mệnh danh Tá âm đâu chắc
hẳn xuất hiện nhiều tại Trung Quốc, để cho người Nhật mang về nước
mình và sao thành những tới năm quyển. Dầu sao chăng nữa, chúng ta hiện
biết mọt cách chắc chắn là, ngoài cuốn Tá âm tự ra, tại Trung Quốc trước
năm 889 tối thiểu đã hiện diện những bộ sách Tá âm sau, đấy là Tá
âm ba quyển, Tá âm một quyển và Tân sao tá năm quyển. Thế thì, tại sao
chúng ta lại không được kể đến trong Kinh tịch chí của Cựu Đường
thư, Nghệ văn chí của Tân Đường thư và các bản thư tịch khác của
Trung Quốc vào thời Đường và đầu thời Tống ?
Dĩ nhiên, không phải là các tác giả
những bản thư tịch Trung quốc không biết đến chúng, bởi vì chúng đã
hiện diện ở TRung Quốc trước năm 889 không phải chỉ một hai bộ mang
tên Tá âm, mà tới những ba bộ hay nhiều hơn nữa cùng tên với một vài
thêm thắt, như Đằng Nguyên đã ghi lại. Và cái tên Tá âm cũng không phải
mới lạ gì, bởi vì nó đã xuất hiện trong Tùy thư kinh tịch chí, như đã
nói. Giả như có ai cải rằng, Kinh tịch chí của Cựu Đường thư và Nghệ
văn chí của Tân Đường thư không liệt ra những bộ sách Tá âm trên, với
lý do là, những bộ sách ấy xuất hiện dù trước năm 889, nhưng lại sau
năm 742. Cho nên, vì xuất hiện sau năm ấy, chúng tất không thể được
ghi lại, do vì cả Cựu Đường thư lẫn Tân Đường thư đều sao lại những
bản thư tịch của mình từ những bản thư tịch viết dưới thời Khai
nguyên thư mục để viết nên phần Nghệ văn chí.
Giả như có ai lý luận như thế,
thì họ chắc chắn có thể dùng cùng một lý luận, để có kết luận rằng,
trước năm 889 những bộ sách Tá âm trên không bao giờ xuất hiện và đem
tới Nhật Bản, bởi vì những bản mục lục viết cho tới lúc đó, đã
không một bản nào ghi lại sự có mặt của chúng. Hơn nữa, nó thật là
một ngẫu nhiên kỳ lạ, nếu từ năm 742 đến năm 889 những ba bộ sách
Tá âm ra đời, trong khi đó từ năm 742 trở lên cho tới tối thiểu năm
622, lúc Đồ thư mục lục của Tùy Thương đế được quân đội của Lý
uyên Tịch thâu làm cơ sở cho việc viết nên Tùy thư kịch tịch chí sau
này và đã nói tới một cuốn sách Tá âm, lại không có một tác phẩm
nào liên quan với Tá âm xuất hiện. Ngoài ra, nếu lý luận kiểu trên, người
ta phải làm sao giải thích sự vắng mặt của những bộ sách Tá âm trong
các bản thư tịch viết sau năm 890 tại Trung Quốc như Thái bình ngự lâm
kinh sử đồ thư cương mục do Lý Phưởng và những người khác thiết lập
năm 977 hay Sùng văn tổng mục do Vương Nghêu Thần (1001 - 1056) và đồng liêu
viết xong giữa những năm 1034 - 1038 v.v... Không lẽ nào lại bảo chúng đã
tán thất, chỉ hơn tám chục hay một trăm bốn mươi năm sau khi chúng ra đời
và được sao đem về Nhật Bản ?
Việc chúng không được các bản
thư tịch của Trung Quốc, ngoài Tùy thư kinh tịch chí với cuốn Tá âm tự,
nói tới, do thế phải đến từ một căn do khác. Và căn do đó theo chỗ
chúng tôi nghĩ, không gì hơn là những loại sách Tá âm trên không phải nhằm
đến ngôn ngữ Trung Quốc như chính nó, trái lại, nhằm đến một ngôn ngữ
khác với ngôn ngữ Trung Quốc, nhưng có một liên lạc nào đấy với ngôn
ngữ đó, như việc dùng những ký hiệu ngôn ngữ của nó chẳng hạn. Thực
vậy, danh từ Tá âm chỉ xuất hiện một lần độc nhất trong các sách vở
Trung Quốc, ấy là tại Tùy thư kinh tịch chí quyển 32 tờ 19a4 trong liên hệ
với bộ sách Tá âm tự như đã nói. Xét lý do, tại sao nó xuất hiện ở
bản kinh tịch chí đó, mà không xuất hiện ở các bản kinh tịch khác, sẽ
chứng thực một phần nào cái ý nghĩ vừa nêu của chúng tôi.
Lấy thí dụ Kinh tịch chí của Cựu
Đường thư và Nghệ văn chí của Tân Đường thư, cả hai bản thư tịch
này dưới mục tiểu học của chúng đã không một lần liệt một cuốn
sách ngôn ngữ nào, mà không liên quan tới tiếng Trung Quốc. Ngược lại,
nếu đọc mục Tiểu học của kinh tịch chí Tùy thư, ta không những gặp
nhan nhản những quyển sách về những ngôn ngữ khác với tiếng Trung Quốc
như tiếng Phạn, tiếng Tiên ty v.v..., mà còn được bảo, tại sao nó lại
có những cuốn sách đó. Nó viết ở tờ 20a9-12: "Từ thời Hậu Hán,
Phật pháp lưu hành ở Trung Quốc, lại có được sách của Tây vức chỉ
dùng mười bốn mẫu âm mà còn gồm hết tất cả mọi âm. văn nó đã gọn,
mà nghiã nó lại rộng, gọi là chữ Bà - la - môn. So với nghiã của tám
thể sáu văn thì nó khác biệt. Nên nay xếp nó vào dưới mục Thể thế.
LẠi lúc nhà Hậu Ngụy mới bình định Trung nguyên, việc quân hiệu lịnh
đều dùng tiếng mọi, sau nhiễm thói Tàu, đa số không thể hiểu được.
Nên bèn chép tiếng mình ra, dạy dỗ cho nhau gọi là quốc ngữ, nay xếp
nó vào cuối mục âm vận".
Đọc lời giải thích ấy ta có thể
thấy, vào những thế kỷ trước thời Tùy nhiều tác phẩm về các ngôn
ngữ khác ngôn ngữ Trung Quốc đã xuất hiện, và Tùy thư không chỉ bằng
lòng ghi lại những cuốn sách thuần túy về tiếng Trung Quốc, như sau nàu
Cựu Đường thư đã làm, mà còn ghi thêm luôn cả những "sách Hồ của
Tây vức và những sách "dùng tiếng mọi" của nhà Hậu Ngụy. Tá
âm tự được Tùy thư liệt ra, do thế, chắc chắn phải thuộc cùng một
thứ với những loại "sách dùng tiếng mọi" và "chữ Bà - La
- Môn" vừa nói. Nói cách khác, Tá âm tự không phải là một cuốn
sách về tiếng Trung Quốc, mà là về một ngôn ngữ dùng tiếng Trung Quốc
như một thứ Tá âm. Chỉ một kết luận như thế mới có thể giúp ta giải
đáp câu hỏi, tại sao Tá âm tự được Tùy thư chép ra và tại sao vào năm
889 Đằng Nguyên còn ghi lại những hơn ba tác phẩm mang tên Tá âm lấy
được từ Trung Quốc về, trong khi đó Cựu Đường thư và Tân đường
thư hoàn toàn im lặng.
Vậy, nếu Tá âm tự là một tác
phẩm về một ngôn ngữ khác với ngôn ngữ Trung Quốc, thì ngôn ngữ đó
là gì? Như đã thấy, Nhật Bản kiến quốc tại thư mục lục hiện ghi ba
tác phẩm mang tên Tá âm, đấy là Tá âm ba quyển, Tá âm một quyển, và
Tân sao Tá âm năm quyển, mà riêng về cuốn Tá âm một quyển thì biết chắc
chắn là Thích Đạo Cao soạn. Bây giờ, ta đồng thời cũng biết, trong lịch
sử Phật giáo Nhật Bản, Triều Tiên cũng như Trung Quốc không có một Tăng
sĩ nào mang tên Đạo Cao hết. Ngược lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam lại
có một người mang tên Đạo Cao sống giữa những năm 370 - 460 và đã viết
hai lá thư trả lời cho những câu hỏi của người nạn vấn Lý Miễu. Thế
thì, với chỉ nhừng ấy sự kiện, ta không có lý do gì mà không đồng nhất
vị pháp sư Đạo Cao của Sáu lá thư chúng ta với Thích Đạo Cao soạn giả
của Tá âm một quyển trong Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục. Với
một đồng nhất như vậy, nó trở thành rõ ràng là, Tá âm một quyển chắc
phải là một quyển sách về cách muợn âm Tàu để viết tiếng nuớc ta,
Còn Tá âm tự là một cuốn sách về những chữ mượn âm Tàu để viết
tiếng nước ta. Nói thẳng ra., Tá âm là một cuốn ngữ học về tiếng quốc
âm, và Tá âm tự là một cuốn tự điển về thứ tiếng quốc âm đó. Cả
hai chúng đều do pháp Sư Đạo Cao soạn.
Vào thời Đạo Cao, tiếng quốc âm
tương đối đã có một lịch sử lâu dài và đã có một tính phổ quát
đáng muốn. Ngày nay, mỗi khi nói đến nguồn gốc và lịch sử tiếng quốc
âm, người ta không bao giờ đẩy nó qua thời Sĩ Nhiếp (137 - 226) được.
Và giả như có đẩy tới được thời Sĩ Nhiếp kiểu của Nguyễn văn San
và Lê Dư, thì đó cũng là phỏng đoán vô bằng, chứ không có những chứng
cớ gì chính xác rõ ràng khách quan. Cho nên nhiều người chỉ coi tiếng quốc
âm như bắt đầu với cái danh hiệu "Bố cái đại vương" của Phùng
Hưng, hay gần hơn, với bài thư đuổi cá sấu của Hàn Thuyên. Họ đâu biết
rằng, nguồn gốc và lịch sử tiếng quốc âm có thể truy về một cách
chính xác tời năm 17 tdl., ki Lưu Hướng soạn xong bộ Tuyết uyển, nếu không
là sớm hơn tới những thế kỷ thứ VI - V tdl., với bài thơ tiếng quốc
âm nằm trong đấy. Rồi đến thời Sĩ Nhiếp, ta biết Sĩ Nhiếp đã mượn
tá âm chữ "da" của tiếng Trung Quốc để ghi lại tên một món đồ
giữa những cống vật Nhiếp gởi cho Tôn Quyền những năm 210 - 226, mà sau
này các nhà chú giải Trung Quốc đã không ngần ngãi đồng nhất với chữ
"da" là "dừa". Nhiếp như vậy có thể nói là người tá
âm đầu tiên được biết một cách minh bạch không thế chối cãi trong lịch
sử văm học quốc âm. Đầu kết luận này của chúng tôi không phải mới.
khi ta nhớ rằng cách đây hơn 400 năm Pháp Tính (1470 - 1550) cũng đã ghi nhận
như thế trong bài tựa viết cho chỉ nam ngọc âm giải nghiã mà còn nói
thêm Nhiếp viết Chỉ nam phẩm vựng 2 quyển. Cũng vào thời Nhiếp hay trước
đó không lâu, một quật liệu tìm thấy tại Bắc Ninh, đã mang một dòng
chữ gồm cả chữ Hán và viết theo lối chữ Hán, nhưng người Tàu đọc
không ra. Từ khi Sĩ Nhiếp chết đi cho tới khoảng lúc pháp sư Đạo Cao sắp
mất, chúng tôi hiện chưa tìm thấy những dấu tích chữ quốc âm điển hình
nào . Nhưng với sự ra đời Bản thảo tập chú của Đào Hoằng Cảnh (452
- 538), chúng ta lại có những chữ tá âm mới của tiếng quốc âm.
Giữa những năm 901 - 922 lúc còn
đang giữ chức đại thần bác sĩ, Thân Căn Phụ Nhân đã viết khoảng năm
918 một bộ sách thường được biết như Bản thảo hoà danh hay Phụ Nhân
bản thảo trong đó ở quyển thượng tờ 381a9-12 dưới mục về Ý dĩ tử,
Phụ Nhân đã viết: "Ý dĩ tử, một tên là giải lãi ... một tên là
ốc thảm ... một tên là cống. Nhân nói: "âm là cống, một tên là cống
châu. Tên người Giao Chỉ gọi nó, cứ bản chú của Đào Hoằng Cảnh, một
tên là yết Châu, một tên can châu cứ Khiêm danh uyển, một tên là cảm
châu cứ Thiên kim phương". Nay xét Chính hòa kinh sử chứng loại bị dụng
bản thảo quyển 6 tờ 42a2-43a7 do Tào Hiếu Trung thực hiện năm 1116, Trường
Tồn Huệ , trùng tu năm 1249, dưới mục Ý dĩ nhân, ta đọc: "Đào ẩn
cư nói rằng: "Huyện Chân định thuộc quận Thường Sơn, đường gần
quận, chỗ chỗ đều có chúng, phần nhiều sinh tại vườn nhà người. Trái
của thứ cây Giao Chỉ là lớn nhất. Xứ đó gọi là Cán Châu. Mã Viện lấy
nhiều đem về, người ta nói dèm đó là chân châu. Hột nó nặng để lâu
ngày càng tốt, dùng thì nhắm trúng người. Nay trẻ con có bệnh sán, lấy
gốc nó nấu với nước cơm, rồi ăn thì rất thơm, mà lại trừ được bệnh
sán hiệu nghiệm".
Ý dĩ tử hay y dĩ nhân dĩ nhiên là
một cái cây, mà ngày nay ta thường gọi là cây bo bo (?) Cios adrestis. Nếu
cứ lời dẫn trên của Phụ Nhân bản thảo và Trùng tu Chính hòa kinh sử
chứng loại bị dụng bản thảo, ta biết vào thời Đào Hoằng Cảnh, tức
hậu bán thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, nó còn được người nước
ta gọi là cán châu. Cán châu, chỉ cần ngó vô mặt chữ, chúng ta cũng có
thể thấy chúng là một phiên âm của chữ cơn châu - ở miền Trung thay
vì gọi cây mít cây xoài, người ta nói cơn mít cơn xoài. Và phiên âm cán
châu đây rõ ràng là một tá âm. một mượn âm hai chữ Trung Quốc để
ghi lại một danh từ Việt Nam. Danh từ ấy, do đó phải đến tay Đào Hoằng
Cảnh qua trung gian những cuốn sách kiểu tá âm hay tá âm tự . Mà thực vậy,
chỉ khi nào một ngôn ngữ phải ở vào một cái thế tá âm đối với một
ngôn ngữ Trung Quốc, bấy giờ những cuốn sách tá âm mới trở thành một
cần thiết. Điều này một lần nữa sẽ giải thích thêm cho rõ hơn cái sự
tình, tại sao các bản thư tịch Trung Quốc không chú trọng gì hết tới
những cuốn sách tá âm, trong khi đó Nhật Bản kiến quốc tại thư mục lục
lại liệt ra đến những ba cuốn khác nhau, như đã thấy. Cũng nên nhớ,
vào thời Đằng Nguyên Tá Thế, phong trào tá âm của Nhật Bản đối với
Trung Quốc đang phát triển mạnh, mà điển hình nhất không gì hơn là bộ
Vạn diệp tập viết trước đó không lâu, hay bộ Bản thảo hòa danh của
Thân Canh Phụ Nhân dẫn trên.
Cuốn Tá âm của Thích Đạo Cao do
vậy có thể coi như một tác phẩm viết về cách thế mượn âm, còn Tá
âm tự là một cuốn tự điển những chữ có mượn âm. Nói cách khác,
Tá âm là một cuốn văn phạm, trong khi cuốn Tá âm tự là một cuốn tự
điển. Việc Diêu Chấn Tôn giả thiết Thích Đạo Cao cũng là tác giả của
Tá âm tự, do thế không phải là hoàn tòan bất khả chứng. Ngày nay tại
Nhật Bản cũng như các nơi khác không một di liệu mang tên Tá âm hay Tá
âm tự đã được tìm thấy. Song giữa những thủ bản Đôn Hoàng trong Sưu
tập Stein tàng trữ tại Bảo tàng viện Anh có một thủ bản mang ký hiệu
S. 5731 nhan đề Thời yếu tự dạng, mà Giles đã mổ tả như: "Một bản
những chữ. trong đó nhiều chữ khác lạ, được xếp ít nhiều theo vận
hay âm của chúng. Mỗi một chữ lại có một hay nhiều chữ đi theo sau nhằm
giải thích sơ ý nghiã của nó ; trong nhiều trường hợp, những giải thích
đó lại có những con số (Thay đổi từ số 1 đến số 6, với một trường
hợp số 8) với những ý nghiã mơ hồ đi theo sau. Nó bị rách nát rất nhiều,
hầu hết phần dưới của nó bị xé đi. Thủ bản tình thường. Mặt trái:
có ngày (ngày 10 tháng 12 năm Càn Phù thứ sáu tức ngày 25 tháng 1 năm 880)
và một vài ghi chú đoạn phiến khác. Giấy vàng xám, dài ba bộ". Cứ
mô tả đây, Thời yếu tự dạng với "nhiều chữ khá lạ, được xếp
ít nhiều theo vận hay âm của chúng, mỗi một chữ lại có một hay nhiều
chữ đi theo sau nhằm giải thích sơ ý nghiã của nó", phải chăng là một
tác phẩm chữ nôm hiện còn ? Phải chăng nó là môt tên gọi khác của Tá
âm hay Tá âm tự của Thích Đạo Cao ? Chúng tôi hiện chưa có trong tay thủ
bản Stein số S. 5731 nên chưa thể trả lời được về những câu hỏi vừa
nêu. Chúng tôi chỉ xin nêu lên, để khơi sự chú ý của những người
nghiên cứu khác .
Về những cuốn Tá âm còn lại
trong Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục, đấy là Tá âm ba quyển và
Tân sao tá âm năm quyển, chúng ta hiện chưa có những bàn cãi rõ ràng gì
về chúng cả. Trí Đảo trước đây đã nuốn kết nối Tá âm ba quyển với
cuốn Tá âm tự của Tùy thư kinh tịch chí trong Nhật Bản quốc kiến tại
thư mục lục của ông, như đã thấy, nhưng ông đã không có những ghi nhận
gì đáng chú ý, nên ta cũng không cần phải dài dòng bàn cãi. Dĩ nhiên, nếu
Tá âm tự ba quyển và Tân sao Tá âm tự năm quyển tất phải có một
liên lạc nào đó với Đạo Cao, nếu không phải do chính Dạo Cao soạn, bởi
vì cho đến lúc này ta biết Đạo Cao cùng cuốn Tá âm một cuốn là người
đầu tiên đã thực sự viết và nghĩ về Tá âm. Nói trắng ra, Tá âm ba
quyển và Tân sao Tá âm năm quyển chắc chắn phải soạn ra trong truyền thống
và tinh thần ngữ học của Tá âm của Đạo Cao, nếu chúng đã không phải
do Cao soạn.
Tác phẩm Tá âm của Thích Đạo
Cao là như thế. Bây giờ về Đạo Cao pháp sư tập , nó tất nhiên là một
tác phẩm của pháp sư Thích Đạo Cao, như chính đề danh điểm chỉ. Và
chúng ta hẳn phải đồng nhất pháp sư Đạo Cao này với Thích Đạo Cao của
Tá âm cũng như pháp sư Đạo Cao của Sáu lá thư chúng ta. Tập ấy được
Đằng Nguyên xếp vào loại Biệt tập. Cứ Kinh tịch chí của Tùy thư quyển
35 tờ 111b6-9 thì "cái tên Biệt tập, ấy bởi do thời Hán Đông kinh tạo
ra. Từ Linh Quân trở xuống , người viết văn nhiều. nhưng chí thượng họ
không giống , phong độ họ khác biệt. Những quân tử về sau, vì muốn
xem cái thể thế để lấy cái tâm linh họ, nên riêng nhóm lại văn họ,
đặt tên là tập. Nhà văn rất ưa lối ấy , tự họ chép lấy để thành
một bộ sách . Năm tháng đổi đời, chúng cũng đã tán thất đi nhiều,
song loại cao xướng tuyệt tục, nói tắt, thì đang đủ cả".
Linh Quân là một biệt hiệu của
Khuất Nguyên (340 - 377 tdl). Biệt tập ra đời là bởi từ thời Hậu Hán,
nhiều nhà văn xuất hiện, nên muốn biết mỗi nhà văn nghĩ và viết gì ,
người ta sưu tập lại hết những gì mà họ viết và đặt cho nó vào loại
biệt tập. Rồi sau đó mỗi nhà văn chính tự mình tạo nên biệt tập của
mình. Đạo Cao pháp sư tập là một biệt tập, như đã thấy. Cho đến lúc
này, Biệt tập ấy hiện đang tán thất. Do thế, ta không thể bàn cãi nói
năng về nó được. Dẫu vậy, với hai lá thư Đạo Cao viết cho Lý Miễu,
chúng ta có thể cảm thấy một phần nào an ủi, để biết sơ cái
"chí thượng" cũng như "phong độ" của Cao, để thấy cái
"tâm linh" của Cao qua việc xem thể thế do chính lá thư ấy phát
biểu. Như cuốn Quan âm linh nghiệm ký của Phó Lượng (374 - 426), mà từ
lâu người ta nghĩ là đã hoàn toàn tán thất nhưng đã được Tsukamoto tìm
thấy và xuất bản, chúng ta hy vọng một ngày kia Đạo Cao pháp sư tập
cũng như Tá âm sẽ có cùng một số phận may mắn. Cần nói thêm là, sau mọi
tra cứu những bản thư tịch Trung Quốc, Nhật Bản cũng như Triều Tiên nước
ta, không có một bản nào kê ra một tác phẩm mang tên Đạo Cao pháp sư tập
hết, dĩ nhiên trừ Nhật BẢn quốc kiến tại thư mục lục.
Pháp sư Đạo Cao như vậy ngoài hai
lá thư viết cho người đệ tử là Lý MIễu, còn tác giả hai tác phẩm
khác, mà ngày nay ta biết được tên, đấy lá Tá âm và Đạo Cao pháp sư
tập. Thế thì Cao viết chúng vaò lúc nào? Câu hỏi này tất nhiên không phải
là dễ giải quyết , nhất là khi những tác phẩm ấy hiện đã tán thất
chưa tìm thấy. Tuy nhiên, vì Tá âm là một tác phẩm ngôn ngữ học, nó hẳn
phải được viết, lúc Cao đang còn trẻ khoảng trên dưới ba mươi tuổi.
Nêú ta coi TÁ âm tự cũng là một tác phẩm của Cao, như Diêu Chấn Tôn đã
giả thiết, thì nó chắc cũng được soạn vào khoảng đó. Còn về Đạo
Cao pháp sư tập với danh nghiã một biệt tập tất phải nói lên một cái
"chí thượng", cái "phong độ" của người viết nó. Hơn nữa,
là một biệt tập, nó dĩ nhiên bao gồm phần lớn những gì Đạo Cao viết
nhằm cho người xem "nhìn cái thể thế để thấy cái tâm linh của
Cao". Nó do đó có thể coi như một tuyển tập những tác phẩn của
pháp sư Đạo Cao, nếu không là một toàn tập, nó thường thường phải
xuất hiện vào cuối đời của tác giả. Đạo Cao pháp sư tập do đấy tất
phải ra đời vào khoảng những năm cuối cùng của cuộc đời Đạo Cao,
nghiã là khoảng những năm 450 - 460, và có thể gồm cả hai lá thư viết
cho Lý Miễu.
Veࠐháp Minh [^]
Về cái tên Pháp Minh, một kiểm
soát Cao Tăng truyện và Tục Cao Tăng truyện đã cung hiến hai mẫu tin sau :
Cao Tăng truyện quyển 12 tờ
408b13-24, sau khi đã kể xong tiểu sử của Thích Siêu Biện, viết tiếp:
"Thời hữu Linh căn Thích Pháp Minh, Kỳ Hoàn Thích Tăng Chí, Ích châu
Thích Pháp Định, tịnh tụng kinh thập dư vạn ngôn, hoang khổ hữu chí đức".
Thế cũng có nghiã, Pháp Minh, Tăng Chí v.v... là những người đồng thời
trẻ tuổi của Siêu Biện. Biện mất lúc ông 73 tuổi vào năm 492, Đây là
mẫu tin thứ nhất .
Mẫu tin thứ hai năm trong Tục Cao
Tăng truyện quyển 1 DTK 2060 tờ 431a7-432a8 ở bản tiểu sử của Thích
Pháp Thái. Sau khi cho biết Thái mất vào năm 567 thọ 51 tuổi, nó nói:
"Bấy giờ có Sa - môn Trí phu chùa Bình Đẳng Tuần Châu, tuổi nhỏ đến
chùa Diên Tộ học Thành thật luận với hai thầy Đạo và Duyên, rồi lạy
tạ, mà đến Bắc thổ học Kim Cang, Bát nhã luận với Sa - môn Pháp Minh,
lại đến hai thầy Hy và Kiên nghe giảng luận Tì - bà - sa và Trung luận
v.v... Trí Phu theo đó thì mất vào năm 601, không biết thọ bao nhiêu tuổi.
Giả như ông ta sống tới 80 năm , thì năm sinh của ông phải là 521. Sa -
môn Pháp Minh mà ông đến học luận KIm Cang Bát Nhã, tất phải sống vào
khoảng năm 500, nếu không là sớm hơn khoảng năm 480 - 490.
Dù với năm sinh nào đi nữa, ông
đã ra đời quá chậm, để có thể viết lá thư thứ sáu trên cho Tăng Hựu
sưu tập vào Hoằng minh tập, mà ta biết Hựu phải khởi thảo khoảng năm
494 trở đi, nếu không là sớm hơn, và để có thể được Tăng Hựu coi
như "tiền đại thắng sĩ". Xin nhắc lại là, Hựu sinh năm 445 và
bắt đầu thảo xong Xuất tam tạng ký tập giữa những năm 494 - 498. Chúng
ta do thế không cần phải đi sâu vao việc bàn cãi về tung tích của vị
Sa - môn từ Bắc thổ tên Pháp Minh này.
Về vị Sa - môn Pháp Minh trong bản
tiểu sử của Siêu Biện nói trên, một khối những mập mờ đang vây phủ
ông. Trước hết, ta biết ông ở tại Linh Căn. Linh Căn dĩ nhiên là tên một
ngôi chùa nổi tiếng ở Dương Đô, Trung Quốc. Thứ hai, ông nổi tiếng
vì "đã tụng hơn mười vạn lời kinh". Cuối cùng, ông là một người
đồng đại trẻ tuổi của Siêu Biện. Chúng tôi nói "đồng đại trẻ
tuổi", bởi vì những người được Cao Tăng truyện cũng như Tục Cao
Tăng truyện giới thiệu bằng hai chữ "thời hữu" trong bản tiểu
sử của một người khác thì những người ấy thường sống sau kẻ được
nói tới trong bản tiểu sử . Trường hợp Pháp Thái và Trí Phu là một
thí dụ điển hình của Tục Cao Tăng truyện. Trường hợp Vu Pháp Lan và
Vu PHáp Đạo là một thí dụ điển hình của Cao Tăng truyện. Siêu Biện mất
năm 493 và thọ 73 tuổi như đã nói. Năm sinh của ông như thế rơi vào khoảng
420. Pháp Minh, Tăng Chí v.v... do vậy phải ra đời sau năm đó, có lẽ khoảng
những năm 425 - 450.
Một lần nữa, nếu chấp nhận
năm 450 như sinh niên cho Pháp Minh đây, thì ông ta khó có thể được coi
như đồng nhất với Pháp Minh của lá thư thứ sáu, vì Pháp Minh của lá
thư ấy đã thú nhận là ông đã bạc đầu, khi viết nó, và để bạc đầu,
ông ít nhất cũng phải là trên dưới 60 tuổi, tức khoảng năm 510, một
năm quá gần Tăng Hựu, để có thể cho phép Hựu gọi là "tiền đại
thắng sĩ". Ngược lại, nếu chấp nhận năm 534, thì hai Pháp Minh ấy
có thể đồng nhất, nhưng ta lại gặp phải vấn đề gần gũi thời gian
của Pháp Minh và Siêu Biện, hai người chỉ cách xa nhau khoảng 5 năm, một
điều thường không thấy trong những trường hợp bắt đầu với chữ
"thời hữu".
Dù bằng khả hữu thế nào đi nữa,
sự đồng nhất ấy cũng không đem lại một kết quả đáng chú ý, bởi
vì ta sẽ không biết rõ ông sinh năm nào, đến từ đâu, làm những gì và
mất lúc nào. Ngay cả việc ông ở chùa Linh Căn tại Dương Đô cũng không
nhất thiết làm ông là người Trung Quốc, Vì Huệ Thắng chẳng hạn, tuy
là người nước ta, đã được Tục Cao Tăng truyện kê ra như "Chung
sơn Duyên hiền tự Thích Huệ Thắng". Nó tương tự việc Cao Tăng truyện
quyển 11 tờ 399c19-400a4, khi đã miêu tả xong tiểu sử của Thích Tăng Phú
và cho biết Phú mất năm 487 thọ 75 tuổi, nói tiếp theo, "thời hữu Tăng
Khiêm, Diêu Chí, Pháp Đạt, Huệ Thắng, tịnh nghiệp thiền, diệc các hữu
dị tích", theo đấy Huệ Thắng chắc phải là Huệ Thắng của chùa
Tiên (châu) Sơn.
Không những thế, nếu Huệ Hạo
và Đạo Tuyên đã liệt ra hai vị Pháp Sư khác nhau có cùng tên Pháp Minh,
thì ta không có lý do gì, mà không giả thiết sự hiện diện của một người
thứ ba cũng có tên Pháp Minh, nhất là khi sự trùng tên loại này đã xảy
ra một cách khá thường xuyên. Kiểm điểm chỉ Cao Tăng truyện thôi,
chúng ta đã có những cùng tên khác người như Thích Pháp Độ ở quyển 1
tờ 320 - 16-28 và quyển 8 tờ 380b15-22, Thích Huệ Thông quyển 7 tờ
374c28-375a6 và quyển 10 tờ 393c21-39a14 chứ khoan nói chi tới chuyện kiểm
điểm thêm Tục Cao Tăng truyện mà kết quả cũng sẽ tương tợ, như trường
hợp một người tên Pháp Độ ở quyển 5 DTK 2060 tờ 461a10-11 chẳng hạn.
Thực vậy, bản danh sách các Danh Tăng
trong Danh Tăng truyện của Bảo Xướng do Tôn Tánh sao vào trong Danh Tăng
truyện sao cũng có một nhà sư tên Pháp Minh ở chùa Linh Căn tại Dương Đô.
Nhưng chúng ta vẫn không thể quyết chắc gì được hết về nhà sư Pháp
Minh ấy.
Còn những thủ bản tìm thấy tại
Đôn Hoàng, chỉ trong sưu tập Stein thôi cũng đã có tới ba người tên
Pháp Minh. Tập 1 ký hiệu S. 523 đã ghi Pháp Minh tham dự vào việc dịch
kinh Kim quang minh tối thắng vương kinh của Đạt Ma Lưu Chi vào năm 695. Tập
3 ký hiệu S. 890 là bản chép một chương của luận Đại thừa khởi tín
và cuối chương có ghi tên Tỳ - kheo Pháp MInh. Trong ba Pháp Minh này, thì
hai Pháp Minh đầu có lẽ chỉ một người vì cùng ở Trường An tham dự vào
việc dịch kinh và có niên đại suýt soát nhau, với những năm 695 và 703.
Còn Tỳ - kheo Pháp Minh thì không rõ niên đại tung tích.
Ngoài sưu tập Stein, sưu tập của
thư viện Leningrad cũng có một thủ bãn mang tên Pháp Minh tham dự vào việc
dịch của Nghiã Tịnh. Chúng tôi đón Pháp Minh này cũng là Pháp Minh 703.
Còn những sưu tập khác như sưu tập Pelliot của thư viện quốc gia Pháp,
sưu tập của Trung ương đồ thư quán Trung Hoa và sưu tập Nhật Bản không
có những đóng góp gì đang chú ý.
Bằng những dữ kiện và lý luận
vừa thấy, chúng ta có lẽ tốt hơn hết là đồng ý ở giai đoạn này với
cái chú thích nghèo nàn trong Toàn Tống văn quyển 63 tờ 13a3 của Nghiêm Khả
Quân về vị pháp sư của lá thư thứ sáu trên như "Pháp Minh, Giao
Châu pháp sư" - Pháp Minh, pháp sư của Giao Châu.
Veࠌý Miễu [^]
Cuối cùng về nhân vật sứ quân
Lý Miễu, như đã nói, ngày nay chúng ta không có một người nào mang tên
ấy ghi lại trong các sử sách Trung Quốc và nước ta.
Cái chữ "Sứ Quân" có hai
nghiã. Nó chỉ sứ giả do thiên tử gởi ra bốn phương, như sự xuất hiện
của nó trong cuộc đối thoại giữa Khấu Tuân và sứ giả của Hoài Dương
vương nhà Tây Hán trong Hậu Hán thư quyển 46 tờ 24a6-8: "Tuần lặc
binh, nhập kiến sứ giả, tựu thỉnh chi, sứ giả bất dự. Viết, Thiên vương
sứ giả, công tào dục hiếp chi gia ? Tuân viết, phi cảm hiếp, sứ quân,
thiết thương kế chí bất tương giã". Nó cũng chỉ những quan lại đứng
đầu các châu quân, đặc biệt là chức thứ sử, như cái thí dụ chúng
tôi cho dẫn ở trên về Phòng Pháp Thừa hay trong truyện Viên Áng ở Tiền
Hán thư quuyển 49 tờ 3b8-4a7 "Áng ... tỉ vi Ngô tướng ... Áng tháo
qui, đạo phụng thừa tướng Thân Đồ Gia ... nhân quì viết, nguyện thỉnh
nhàn; thừa tướng viết, sứ quân sở ngôn công sự chi tào dự trường sứ
nghị chi".
Cái chữ "sứ quân" trong
lá thư của chúng ta có thể nói là chứa đựng cả hai nghiã vừa kê, bởi
vì trong giai đoạn giữa những năm 43-939 những thứ sử thường là kẻ đại
diện chính quyền Trung Quốc đến đứng đầu nước ta, dù rằng phần lớn
cái việc đứng đầu này chỉ có danh hơn là thực và đôi khi kẻ đứng
đầu ấy là người Việt. Thế thì, ở thời kỳ ra đời của Sáu lá thư,
ai là những sứ quân ? Như những phân tích chứng cớ và thư tịch điển
cố trên cho thấy, những lá thư ấy phải viết sau năm 420, nếu không là
năm 443, lúc Huệ Nghiêm mất. Giai đoạn giữa năm 420 cho đến khi Phục
Đăng Chi thay thế Phòng Pháp Thừa vào năm 488, cứ vào những báo cáo của
Tống thư cũng như Nam Tề thư và Nam sử tham khảo thêm các sử ta như Đại
Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sư ký, Việt sử
tiêu án và Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì có cả thảy 26
người làm thứ sử như sau:
Năm Thứ sử Bị chú
- 411-423 Đỗ Huệ Độ Cuộc khởi nghiã năm 412 của
Lý Dịch Độ chết, Văn thay
- 423 Đỗ Hoàng Văn
- 428 Vương Huy Chi
- 432 Nguyễn Di Chi
- 433 Lý Tú Chi
- 435 Lý Đam Chi
- 436 Cẩu Đạo Phúc
- 438 Từ Sâm Chi
- 444 Đàm Hòa Chi
- 446 Tiêu Cảnh Hiến
- 456 Viên Hoằng Tháng 5 Hoằng thay Hiến
- 456 Tiêu Cảnh Hiến Tháng 12, Hiến thay
- 457 Phi Yêm458 Viên Hoằng
- 462 Đàn Dực Chi
- 464 Trương mục Khoảng tháng 2 Mục chết, Lý Trường
- 468 Tôn Phụng BÁ Nhân giết bộ khúc trung quốc của
- 468 Lưu Bột Mục và tự xưng là thứ xử. Tháng
3
- 469 Trần Bá Thiệu được cử, nhưng nghe Nhân cự,
không
- 477 Trần Cảnh Đức dám qua, tháng 8 Bột được
cử, cũng không dám qua
- 478 Triệu Siêu Dân
- 478 Trần Hoán
- 479 Lý Thúc Hiến
- 485 Lưu Giai
- 488 Phòng Pháp Thừa Thừa thấy chi chuyên quyền,
bắt bỏ tù Chi. Chi hối lộ người em rể
488 Phục Đăng Chi của Thừa, được
thả ra. Chi liền bắt Thừa bỏ tù, rồi gửi thư xin chức thứ sử với
nhà Tề. Mãi đến tháng 12 năm Vĩnh minh thứ 8 (492) Chi mới được trao chức
thứ sử. Cứ theo Nam Tề thư, quyền hành từ năm 488 trở đi đã thuộc về
Chi
Với bảng liệt kê trên, chúng ta
thấy không có một sứ quân nào tên Lý Miễu hết. Trong khoảng thời gian
gần một thế kỷ giữa những năm 420 - 520, ta có thể nói hơn nữa thế kỷ
nước ta là một nước độc lập và có những triều đại xưng đế xưng
vương, như trường hợp hoàng đế Lý Miễu của chúng ta, dù các chính sử
của nước ta và TRung Quốc đã không ghi lại một thông tin nào. Đặc biệt
trường hợp giết "bắc lai bộ khúc" của Mục do Lý Trường Nhân
thực hiện năm 468. Để có thể làm thế, trước năm 468 này thanh thế và
quyền hành của Nhân chắc đã mở rộng rất nhiều , nếu không là mở rộng
toàn diện.
Việc vua chúa nhà Tống tiếp tục
cử những quan lại qua làm thứ sử Giao Châu từ năm 468 cho đến năm 479,
nghiã là, trong giai đoạn nước ta hoàn toàn độc lập, đưa ra khá nhiều
tiền lệ về giá trị thực sự của những bổ cử trước năm 468 đó.
Chúng chắc hẳn chỉ có danh, mà không có thực . Tình trạng này không có
gì khó hiểu hết. Tùy thư quyển 24 tờ 3b3-10 về Thực hóa chí cho biết:
"Nhà tấn tự khi Trung Nguyên tán loạn, Nguyên đế dời xuống Giang tả
... Những bọn mọi rợ núi động đã thấm nhuần vương hóa, thì mỗi một
chúng tự tùy năng nhẹ, thu lấy vật thuế, để giúp bổ quốc dụng .
Thêm vào đó, các cừ soái ngoài Ngũ lĩnh, nhân vì sự phong phú của nhân
khẩu, phỉ thúy, minh châu, voi tê, thì kẻ nào hùng giữa những hương khúc,
triều đình phần nhiều nhơn đấy mà giao chức cho họ, nhằm thu lấy một
phần lợi. Những đời Tống, Tề, Lương và Trần đều nhân theo, mà
không đổi. Quân đội và nhà nước cần tạp vật, thì tùy thổ sản của
từng nơi, đến lúc chia khóa ra mà lấy, nên không có định lệnh phép thường.
Các châu, quận và huyện nhất loạt tự định lấy mức sản xuất của
những nhiệm thổ của mình, để làm chuyện đóng thuế".
Nguyên đế đời nhà Tấn xuống miền
nam Trung Quốc năm 317 và biến nó thành nhà Đông Tấn. Nhà Trần bị Tùy Văn
đế diệt năm 590. Như vậy, cứ vào báo cáo vừa dẫn của Tùy thư, thì
trong khỏang hai thế kỷ từ năm 317 đến tối thiểu năm 590, nếu không
là năm 602, khi Lưu Phương dụ hàng Lý Phật Tử, quan chức ở các châu, quận
và huyện nước ta đều là "hùng cư hương khúc giả triều đình đa
nhân nhi tự chi", và mục đích là để chia xẻ một phần nào những
thổ sản và lợi lộc của chúng. Nói cách khác, ngay cả trước lúc Lý
Bôn xưng đế, nước ta đã là một nước tự trị tới một mức độ nào
đó.
Sự tình ấy, Tiểu Tử Hiển (489 -
537) có thể chứng thực cho ta trong Nam tề thư. Như đã thấy, năm 468 Lý
Trường Nhân giết "bắc lai bộ khúc" của Mục, rồi tự xưng làm
thứ sử. Nhà Tống tiếp tục cử thứ sử của mình, nhưng không một tên
nào dám qua. Vào khoảng trước hay sau năm 470, Nhân mất, tùng tử Lý Thúc
Hiến lên thay. Hiến gửi thư xin chức thứ sử. Nhà Tống chỉ bằng lòng
phong cho Hiến làm thái thú quận Vũ Bình và Tân Xương và chức Ninh viên Tư
Mã tướng quân, đồng thời cử Trần Hoán làm thứ sử. Hiến nhận được
chỉ của Tống, liền cự Hoán, Hoán sợ không dám tới.
Năm 479, Tiêu Đạo Thành diệt nhà
Tống, lập nên nhà Tề. Thành đòi đánh Hiến. Lưu Thiện Minh can Thành.
Trong số 11 lý do Minh đề ra, lý do cuối cùng theo Nam Tề thư quuyển 28 tờ
12b2-6 đọc như thế này: "Vì Giao Châu hiểm trở xa xôi ở ngoài miền
hoang yếu, cuối đời Tống chính trị hà khắc, bèn nổi giận làm phản,
nay đại nghiệp mở ra thì nên lấy ân đức mà làm cho nó mong nhớ, chưa
nên xa nhọc tướng sĩ, làm giao động biên dân; hơn nữa, thổ sản của xứ
ấy chỉ có châu báu, thật không phải là những thứ cần dùng khẩn cấp
của triều đình; việc thảo phạt do đó đáng nên đình chỉ". Thế cũng
có nghiã, lý do cho việc thảo phạt dưới thời Tề phần lớn là nhắm
chiếm đất để thu thổ sản, đặc biệt là những miền đất không chịu
cống hiến như nước ta dưới thời Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến.
Và ngay khi đánh được, việc cai
trị chưa chắc đã thực hiện được, như trường hợp Phòng Pháp Thừa
và PHục Đăng Chi. Năm 485, Tề Vũ lấy cớ Hiến không những không chịu cống
Hiến, mà còn ăn gian của công do những nước miền nam đến cống cho
Trung Quốc như Phù Nam, Chân Lạp v.v..., bèn cử Lưu Giai ra đánh Hiến. Giai
ở chưa tới ba năm thì Phòng Pháp Thừa ra thay.Khi THừa đến, Phục Đăng
Chi đã tự chuyên quyền, nhưng Thừa không biết. Khoảng tháng sau, có người
mách với Thừa, Thừa nổi giận, bắt tù Chi. Chi hối lộ, nên được thả
ra, lại bắt tù Thừa. Nhà Tề cho Chi làm thứ sử.
Quả thật, nước ta vào những năm
ấy thực không khác gì với nhận xét của Dương Hùng, mà Nam Tề thư cho
dẫn ở quyển 14 tờ 24b1-3 "Giao Châu hoang độ, thủy dự thiên tế,
ngoại tiếp man di, bảo hóa sở xuất, sơn hải trận quái, mạc dự vi tỷ,
dân thị hiển viễn, sở hảo phản loạn", một tiếng vang xa xôi của
cái báo cáo năm 280 của Đào Hoàng: "Thử châu chi nhân, thức nghiã gia
quả, yếm kỳ an lạc, hảo vi họa loạn".
Những phân tích ấy như thế cho thấy,
cái chức thứ sử ở nước ta vào thế kỷ thứ V - VI thực sự có danh nhưng
không có thực và chúng ta đã không thể tìm thấy một người nào mang
tên Lý Miễu. Phải chăng đã có một sự viết lầm nào đó ? Chẳng hạn
chữ "Miễu" ? rất có thể là viết lầm của chữ ? "Sâm"
hay chữ Tú ? trường hợp chữ "Sâm" là rất có thể nhưng ta lại
phải giả thiết thêm sự viết lầm chữ "Tú" ? thành chữ
"Lý" ? để có thể cho phép ta đồng nhất Lý Miễu ? với Từ Sâm
Chi ? vị thứ sử năm 438 cho đến năm 444. Đồng nhất này dĩ nhiên đòi hỏi
quá nhiều giả thiết và quá nhiều viết lộn, do đó khó có thể đứng vững
được. Trường hợp chữ "Tú" trong cái tên Lý Tú Chi của vị thứ
sử năm 433, mặc dù nó yêu cầu ít giả thiết và viết lầm hơn, cũng không
thể chấp nhận được một cách dễ dàng, bởi vì chữ "Tú" khó
viết lầm thành chữ "Miễu" được, và ta chưa giải quyết được
sự thiêú mặt của chữ Chi của tên Lý Miễu.
Dù với trường hợp nào đi nữa,
chúng ta tốt hơn hết nên nhận lấy dự kiện, như sử liệu ngày nay cung
hiến, và khẳng định là, không một Lý MIễu nào đã xuất hiện giữa bản
danh sách những thứ sử do vua chúa Trung Quốc cử nhiệm. Từ khẳng định
này, ta có thể hỏi thêm, thế thì phải chăng Lý Miễu là một trong những
trường sứ hay quận sứ hay thái thú, nằm đằng sau cái chính quyền thứ
sử và giật giây nó, như Lương Thạc đã làm vào năm 317 và Lý Trường
Nhân kế tập gần 150 năm sau ?
Trả lời câu hỏi này, chúng ta
ngày nay không có đủ tư liệu một cách đáng muốn. Từ năm 420 cho đến
khoảng năm 469, chúng ta chỉ biết được một số những anh em bà con của
Đỗ Huệ Độ làm thái thú, cộng thêm với Lý Đạm Chi thái thú Giao Chỉ
trước năm 435 cùng cái tên Khương Trọng Cơ của vị thái thú Ái Châu và
Phó Ủy Tổ của vị thái thú Cưủ Chân kể ra trong cuộc hành quân năm
446 của Đàn Hoà Chi, thế thôi. Ngay cả cái tên Lý Trường Nhân cũng không
bao giờ xuất hiện cho tới năm 468. Trước những im lặng và thiếu sót
ấy, việc thiết lập nên một bản những thái thú hay trường sứ do thế
không thể thực hiện được, và chúng ta không bao giờ có thể trả lời
một cách dứt khoát câu hỏi vừa nêu.
Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ, Lý Miễu
rất có thể là cái tên khác của Lý Trường NNhân. Thí dụ Miễu là tên
húy, còn Trường Nhân là tên tự, như trường hợp Văn Cử là tên tự của
Quách Văn mà những sử liệu như Cao Tăng truyện quyển 7 tờ 369c26 hay Bảo
phát tử đẫn trong Thái bình ngự lãm quyển 666 tờ 2a5-6 đều gọi là
Quách Văn Cử, chứ không Quách Văn. Lý do cho một suy nghĩ như thế trước
hết nằm ở sự có thể của một đồng nhất kểu đó, như đã vạch ra
trong trường hợp Quách Văn. Hơn nữa, trong quan hệ lịch sử giữa Việt
Nam và Trung Quốc về sau, thì các hoàng đế Việt Nam thường dùng một
tên khác với tên chính của mình để thư từ với các hoàng đế TRung Quốc.
Thí dụ, vua Trần Thái Tông, tên trong sử là Trần Cảnh, nhưng trong các văn
kiện với Trung Quốc thì ký tên là Trần Quang Bính, như An Nam chí lược tờ
1b3 đã ghi. Tiếp đến, tình hình chính trị nước ta vào thế kỷ V, cứ
những mô tả trên của chúng tôi, cho phép sự hiện diện của những người
mệnh danh "sứ quân" nằm đằng sau giật dây. Và cuối cùng, còn một
lý do quan trọng sau.
Chúng tôi đã nói ở trước là,
trong lá thư thứ tư, Đạo Cao, ngoài chuyện gọi Lý Miễu là sứ quân, đã
cho biết thêm, Miễu "ở vào địa vị của một bậc thiên tử" -
cư, đại bào chi địa - và "thổ ác dư hà". Chữ "đại bảo"
thường có hai nghiã chính, đấy là chỉ địa vị hoàng đế thiên tử hay
chỉ một vật gì quý trọng. Nghiã thứ hai ở đây dĩ nhiên không thích hợp
với ý của câu "cư đại bảo chi địa" của Lý Miễu, do thế có
thể loại ra. Còn lại như vậy là ý thứ nhất.
Nghiã này đạo xuất từ câu
"Thiên địa chi đại đức, viết sinhl thánh nhân chi đại bảo, viết
vị; hiện tài, chính từ, lân dân vô phụ, viết nghiã" của Hệ từ hạ
trong Chu dịch, Thế thì, "cư đại bảo chi địa" phải có nghiã
là "ở vào địa vị của thiên tử". Đây cũng là cách cắt nghiã
của ông Thái Điền Thế Tạng trong bản dịch tiếng Nhật nói trên.
Thêm vào đó, trong lá thư thứ hai,
Đạo Cao khi nhắc đến học thức của Lý Miễu thì dùng bốn chữ
"thánh tư uyên viễn". Chữ "thánh tư" này tất nhiên không
có nghiã thông thường là suy nghĩ của bậc thánh, mà phải hiểu lả suy
nghĩ của một vị hoàng đế. Do thế, ta có đủ chứng cứ để khẳng định
Lý Miễu là một vị hoàng đế của Việt Nam.
Song, nếu Lý Miễu "ở vào địa
vị thiên tử", thì tại sao những lá thư của Đạo Cao và Pháp Minh lại
gọi Miễu là "sứ quân", chứ không bằng một hiệu thích hợp với
thiên tử ? Chữ "sứ quân" như chúng tôi đã có dịp vạch ra, thường
để chỉ sứ giả của thiên tử hay những quan lại đứng đầu các châu
quận. Để giải quyết rắc rối này chúng ta có nhiều cách.
Cách thứ nhất, ta có thể cắt
nghiã câu ấy thành "ở vào đất đai của thiên tử", nghiã là ở
tại cung vua. Nhưng làm thế, chúng ta tất không thể giải thích được cái
đề danh "Lý Giao Châu" của Miễu; và nhất là hai chữ "sứ
quân" vừa nói. Bởi vì, nếu ở tại cung vua thì sao lại gọi là
"sứ quân", và giả như Miễu đã đi sứ rồi trở về, thì sao lại
có cái đề danh "Lý từ Giao Châu" trong bản sao của Tăng Hựu. Nếu
cắt nghiã đất đai của thiên tử có nghiã là vương đế, đất đai của
nhà vua, thì chúng ta lại không thể giải thích được những câu "lưu
lãng nghiã uyển, thiệp sậu thơ viên" tiếp theo cũng như nguyên lai của
Đạo Cao. Bởi vì nếu mọi chỗ "mạc phi vương thổ" thì hà tất
đất vua đâu đâu cũng có vườn sách và Đạo Cao ở đâu ngoài "vương
thổ", để bảo Miễu ở vào "đại bảo chi địa". Cách thứ
nhất như thế là không xong.
Cách thứ hai, ta có thể cắt nghiã
chữ đại bảo bằng một trong những nghiã phụ của nó, mà đáng chú ý
nhất dĩ nhiên là "Bồ tát". Trong Diêu pháp Liên hoa kinh quyển 2 tờ
11b26-27 cũng như Chính Pháp hoa kinh quyển 6 tờ 100c23-24 và Thiện phẩm Diệu
pháp Liên hoa kinh quyển 2 tờ 144b14-15, chúng ta có những câu như "kỳ
quốc trung dĩ Bồ tát vi đại bảo giáo hóa chúng sinh" hay "tự tộc
tánh tử tư tộc tánh nữ sắc vi đại bảo đáng vi tác lễ" v.v...Chữ
đãi bảo trong những câu này đồng nhất với chữ Bồ tát. "Lấy Bồ
tát làm đại bảo" đương nhiên có thể cắt nghiã như "lấy Bồ
tát làm những người cai trị"; như vậy, nghiã "Bồ tát" của
chữ đại bảo chưa hẳn đã thoát ra ngoài cái nghiã "thiên tử"
nói trên.
Cách cuối cùng có lẽ tương đối
thỏa mãn nhất, đấy là giả thiết sự thêm thắt của Tăng Hựu hay một
người có ý thức chính trị Trung Quốc nào đó, và nó có thể xảy ar như
sau. Từ nguyên ủy những lá thư của Đạo Cao và Pháp minh rất có thể chỉ
xưng Lý Miễu như "quân" hay "quân vương". Đến khi chúng lọt
vào tay những người Trung Quốc, họ liền thên vào chữ "sứ" trước
chữ "quân" và lặt chữ "vương" đi, đưa đến sự xuất
hiện cái anh hiệu "sứ quân", trong khi lá thư vẫn tiếp tục nói
đến chuyện "cư đại bảo chi điạ" và "thổ ác dư hà"
của Lý Miễu.
Nói cách thứ ba này là tương đối
thoả mãn nhất, bởi vì nó không cho phép hiểu câu "cư đại bảo chi
địa và tình hình chính trị nước ta ở thế kỷ V một cách dễ dàng,
mà còn để lộ ra một phần nào thái độ chính trị và cảm thức chính
trị của dân ta trong thế kỷ ấy. Đấy là tiếp tục gọi lãnh tụ của
mình là thiên tử, dù ông chỉ là thứ sử hay thái thú trong các sử sách
Trung Quốc, và từ đó để lộ thêm nguồn gốc Việt NAm của những lá thư.
Cố nhiên, ta có thể hỏi, nếu Lý
Miễu đối với Đạo CAo và Pháp Minh là ở địa vị thiên tử, thì sao vị
ấy chỉ gọi Miễu là "quân" ? Trả lời câu hỏi này, chúng ta
không phải tìm đâu cho xa. Vào thế kỷ thứ V, tổ chức Phật giáo Trung
Quốc dưới sự lãnh đạo của Huệ Viễn đã xướng lên thuyết bất kỉnh
vương. Thuyết đó nói rằng, Tăng Ni Phật giáo không cần phải làm lễ
hay xưng mình là thần hay khanh trước vua chúa. Cuối cùng dẫn đến sự ra
đời của Bất kỉnh vương luận của Huệ Viễn và cuộc bàn cãi sôi nổi
về nó, mà Tăng Hựu cho sưu tập lại trong Hoằng minh tập.
Chúng tôi nghĩ, cách cắt nghiã thứ
ba đây đáng nên chấp nhận, và chúng ta có lẽ nên đổi chữ "sứ quân"
trong những lá thư thành những chữ "quân". Trong liên hệ này, cần
thêm là, bản tiếng Nhật của ông Thái Điền Thế Tạng đã dịch một
cách bí hiểm hai chữ "sứ quân" thành một chữ "quân".
Bí hiểm, bởi vì ông không nói lý do tại sao.
Như vậy, cái chi tiết về chuyện
Lý Miễu "cư đại bảo chi điạ" này giả thiết ông là kẻ đứng
đầu chính quyền nước ta, dù chính quyền đó là một chính quyền nhị
nguyên với sự hiện diện đồng thời và song song của những thứ sử
Trung Quốc hữu danh vô thực vào thời những lá thư được viết. Như đã
nói trên, chúng tôi nghĩ, Lý Miễu rất có thể là Lý Trường Nhân, tuy rằng
không một dữ kiện xác đáng nào có thể tìm thấy cho một suy nghĩ như vậy
, ngoài những lý do ngẫu nhiên và ngoại tại vừa kể.
Dĩ nhiên, Lý Miễu cũng có thể là
một người khác Lý Trường Nhân, như Miễu là cha hay chú gì đó của
Nhân chẳng hạn. Trong tình trạng khuyết phạp tư liệu và thiếu thốn dữ
kiện hiện tại, mọi giã thiết đều là có thể và không có thể.
Lý Trường Nhân xuất hiện trong sử
sách Trung Quốc qua việc ông giết những bộ hạ Trung Quốc của Mục, sau
khi Mục chết, vào khoảng tháng 2 năm 468. Sau biến cố này, Tống thư không
nói gì hết về những biến cố tiếp theo và chỉ bằng lòng ghi lại những
bổ nhiệm hữu danh vô thực của những thứ sử Giao Châu, như đã liệt
ở trên. Chúng ta phải đợi đến Nam Tề thư, mới thấy nói tới chuyện
Lý Thúc Hiến cầu phong với nhà Tống và chuyện Hiến chống lại tên thứ
sử do Tống bổ nhiệm làm cho tên này sợ không dám đến, cũng như chuyện
Lý Trường Nhân đau mất khoảng vài năm sau khi giết bộ khúc của Mục.
Ngày nay chúng ta không biết Nhân chết
lúc nào và thọ bao nhiêu tuổi. Cứ vào cái chữ "sổ niên" của
Tiêu Tử Kiển, thì Nhân có lẽ mất khoảng năm 470 hay sau đó không lâu.
Ngay cả khi Nhân thọ không hơn 50 tuổi, chúng ta có thể đặt năm sinh của
ông vào khoảng năm 420. Ông như vậy rất có thể là một bà con gì đấy
với Lý Tốn cũng như Lý Dịch, hai người lãnh đạo cuộc khởi nghiã năm
380 và 412. Nếu chấp nhận năm 420 là sinh niên của ông, sự tham dự chính
trị có lẽ đã xảy ra khoảng từ năm 440 trở đi.
Những lá thư của chúng ta dựa
trên chính những bằng cớ nội tại của chúng, phải viết ra khoảng năm
435, nếu không là 453 như đã thấy, và chắc hẳn phải trước năm 455. Chúng
tôi nghĩ trước năm 455, bởi vì nếu sau đó, thì Pháp Minh phải kể việc
thiêu thân của Đàm Hoằng tại chùa Tiên Sơn, mà sự thần dị vang lừng,
đến nỗi hơn nữa thế kỷ sau Huệ Hạo còn ghi lại trong Cao Tăng truyện
của ông. Đặc biệt là khi cả Tăng lẫn tục tại chùa Tiên Sơn đều chứng
kiến nó khi Pháp Minh đã dùng đến những thần dị của những người đã
có một kết nối đậm đà với nền Phật giáo nước ta như Vu Pháp Lan.
Việc Đàm Hoằng tự thiêu vào năm
455. rất có thể là vì những bàn cãi kiểu bàn cãi trong sáu lá thư trên,
những bàn cãi về sự không thấy bản thân đức Phật và sự không có cảm
ứng.. Nó nhằm chứng minh sự chân thực của điều khẳng định, mà Đạo
Cao và Pháp Minh lập đi lập lại mấy lần, đấy là "vong thân đầu
thành thì tất có cảm, có cảm thì tất đều thấy, không cảm thì tất
không thấy". Hoằng quả đã vong thân đầu thành, nên đã thấy được
đức Phật và hiện về cho mọi người cùng thấy. Hành động của Hoằng
không những cung hiến sự minh chứng, mà còn cho thấy một phần nào sự gần
gũi đậm đà của Phật tử nước ta đối với Hoằng.
Vậy, nếu chấp nhận năm 455 ấy
cho chung kỳ cực tiểu của những lá thư, thì sự đồng nhất Lý Miễu với
Lý Trường NHân có lẽ không xa vời lắm, khi coi Nhân sinh vào khoảng 420,
như đã vạch ra. Không xa vời, bởi vì những lá thư của Miễu tuy khá rõ
ràng mạch lạc, đã tỏ ra không già giặn. Chẳng hạn lá thư thứ ba, Miễu
nói tới chuyện "Đế vương Cơ Khổng huấn chỉ dương thế",
trong hki lá thư thứ năm ông nói ngược lại, và Pháp Minh đã không quên vạch
ra sự mâu thuẩn ấy. Chúng do thế có lẽ do một người trên dưới ba
mươi tuổi viết, khi khí hăng đang còn mạnh và sẵn sàng thay đổi ý kiến.
Dù Lý Miễu và Lý Trường Nhân là
một hay hai người, điều chắc chắn vẫn là, những lá thư trên phải
được viết sau năm 435 và có lẽ trước năm 455, và tác giả Lý Miễu phải
đang còn thanh niên, khi viết những lá thư này. Tất nhiên, chúng ta không
thể loại hẳn cái khả hữu là Lý Miễu có thể là người đứng tuổi
hay một người già khi viết chúng.
Niên đại 435 - 455 giả thiết này
cho những lá thư có thể làm vững thêm, khi ta trả lời câu hỏi sau:
"tại sao chúng đã ra đời và lại bàn về những chủ đề như
"không thấy bản thân đức Phật"
| Mục lục | I | II | III | IV | IVb | V | VI | VII | VIII | VIIIb | IX | IXb | X | XI | XII |