- TỪ NGUỒN DIỆU PHÁP
1 . NGUỒN
SINH LỰC ĐẠO PHẬT QUA TRUNG BỘ KINH
Qua Trung bộ kinh gồm 152 kinh
do Hòa Thượng Minh Châu phiên dịch, chú thích và giảng giải, chúng ta tìm
thấy một nguồn sinh lực rạt rào của kinh tạng Pàli mà các học giả đều
công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại những lời dạy của
Ngài qua 49 năm du hóa. Ở đây, đức Phật được làm sống lại như
một con người, và một con người tuyệt luân. Nghe Trung bộ kinh, chúng ta
như được thở lại bầu không khí trong lành vườn Cấp cô độc ngày xa
xưa ấy. Chúng ta cảm như được dự phần vào pháp hội đông đảo
thính chúng của Phật gồm cả
loài Người và chư Thiên. Chúng ta như được gần gũi chư vị Thánh đệ
tử quen thuộc kính yêu mà khoảng cách thời gian dài 25 thế kỷ và không
gian cả đại trùng dương không làm cho chướng ngại. Này đây là tôn giả
A Nan đẹp trai khả kính, đầy nhân ái, bao dung, đa cảm. Ngài là ân nhân
của phụ nữ và 12 loại cô hồn. Chính nhờ Ngài mà phụ nữ được phép
xuất gia. Lại theo truyền thống Đại thừa giáo, thì chính tôn giả là người
phát minh ra trai đàn chẩn tế mệnh danh "cứu đảo huyền"
(cái khổ bị treo ngược) vào ngày rằm tháng bảy. Trong nghi chẩn tế
có nói tôn giả Nan Đà nhân nhập định thấy đức Bồ tát Quan Âm thị
hiện thành vị thần mặt đen lưỡi dài để cứu khổ chốn địa ngục.
Ngài bèn bạch Phật và nhân đấy bày ra việc cúng cơm cháo cho cô hồn đói
khổ: "Nan đà tôn giả nhân nhập định, Cứu khổ Quan Âm thị Diện
nhiên". Này đây là tôn giả Ca Diếp nghiêm túc với hạnh
đầu đà. Này đây Tôn giả Mục Kiền Liên, chan chứa đức bi mẫn, nêu
cao gương hiếu hạnh. Này đây là tôn giả Xá Lợi Phất với trí tuệ bạt
tục siêu quần. Và ôi, cảm động xiết bao, khi ta hình dung lại bóng Từ
Tôn, Đấng Đại Giác bằng xương bằng thịt qua những dòng kể của thanh
niên ngoại đạo Uttara: "Tôn giả Gotama ngồi, tâm hướng đến lợi
mình, lợi người, lợi cả hai, lợi toàn thế giới. Đi đến tu viên, tôn
giả thuyết pháp cho hội chúng, không tán dương hội chúng ấy, không chỉ
trích hội chúng ấy... Hội chúng sau khi được Tôn giả Gotama khai thị,
khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho thích thú, làm cho hoan hỉ, từ chỗ
ngồi đứng dậy và ra đi vẫn đoái nhìn lại không muốn rời bỏ. Chúng
con thấy Tôn giả Gotama đi, chúng con thấy tôn giả Gotama đứng, chúng con
thấy Tôn giả Gotama ngồi im lặng trong nhà. Chúng con thấy Tôn giả Gotama
ăn trong nhà. Chúng con thấy Tôn giả Gotama sau khi ăn xong, ngồi im lặng. Chúng
con thấy Tôn giả Gotama sau
khi ăn xong, nói lời tủy hỉ công
đức. Chúng con thấy tôn giả đi đến tu viện, chúng con thấy tôn giả
đi đến tu viện ngồi im lặng. Như vậy và như vậy là Tôn giả
Gotama ấy, như vậy và còn nhiều hơn vậy nữa." (Kinh Phạm Ma).
Hình ảnh đức Từ Phụ như trở về trong vòm trời tâm thức chúng ta
qua những lời kể thật thà chất phác ấy.
Khi đọc "Sư Tử hống đại
kinh", ta cảm thấy rùng mình, lông tóc dựng ngược như
khi được nghe chính kim khẩu của đức Từ phụ kể lại những khổ hạnh
Ngài đã trải qua trên đường tìm chân lý: "Trên thân ta, bụi bậm
chất đầy trải nhiều năm tháng, đóng thành tấm, thành miếng... Này
Sàriputta, như thế này là sự cô độc của ta: Ta đi sâu vào một khu rừng
và an
trú tại đấy. Khi ta thấy người
chăn bò, người mục súc, người cắt cỏ, người đốn củi hay người thợ
rừng, ta liền chạy từ rừng này qua rừng khác, từ thung lũng này qua
thung lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác. Ta nghĩ rằng, mong chúng
đừng thấy ta, và mong ta đừng thấy chúng... Khi các con bò cái đã bỏ
đi khi các người chăn bò không có mặt, ta ăn phân những con bò con. Khi nước
tiểu và phân của ta còn lại, ta tự nuôi sống với những loại ấy...
Trong những đêm đông lạnh lẽo, mùa tuyết rơi, ta sống giữa trời vào
ban đêm, và ban ngày thì sống trong khu rừng rậm rạp... Ta nằm ngủ trên
bãi tha ma, dựa trên một bộ xương... Những đứa mục đồng khạc nhổ
trên ta, rắc bụi trên ta, và lấy que đâm vào lỗ tai và ta biết ta không
khởi ác tâm đối với chúng... Vì ta ăn quá ít, tay chân ta trở thành như
những cọng cỏ hay những đọt cây leo khô héo... Vì ta ăn quá ít, các đốt
xương sống của ta phô bày như một chuỗi banh. Vì ta ăn quá ít, các xương
sườn của ta gầy mòn như rui cột một sàn nhà hư nát. Vì ta ăn quá ít,
con ngươi của ta nằm sâu thẳm trong lỗ mắt, như ánh nước long lanh nằm
sâu thẳm trong giếng nước thâm sâu..."
Có khi chúng ta như được trông thấy
thanh niên Bà la môn rón rén đi đến tịnh thất của Phật, gõ nhẹ vào cửa.
Thế Tôn ra mở chốt. Quang cảnh thanh bình, an tĩnh, trong sáng, chan hòa mạch
sống tâm linh ở thánh địa Cấp cô độc ngày xưa như hiện rõ trước mắt
ta, và hình ảnh đức Từ Tôn trở nên vô cùng linh động. Chỉ ở đây,
chúng ta mới bắt gặp hình ảnh đức Thế Tôn như một Con Người, nghĩa
là rất gần gũi, và do đó, càng thêm đáng kính đáng yêu. Chúng ta như
được thấy tôn giả Nàgasamàla đang đứng sau lưng Thế Tôn và quạt cho
Ngài (Sư tử hống đại kinh). Trong khi bàn về hạnh phúc của sự độc
cư, chúng ta được nghe Ngài hồn nhiên tâm sự với thị giả Nàgità rằng
Ngài cảm thấy thoải mái ngay cả khi đi đại tiểu tiện mà không thấy
có người nào ở trước mặt hay sau lưng. Đọc kinh "Xa đầu tụ
lạc", chúng ta được mục kích quang cảnh rộn rịp ở rừng
cây Kha lưu lặc, khi hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên dẫn về
500 đệ tử để yết kiến Thế Tôn. Vì mới xuất gia chưa thuần thục uy
nghi cửa thiền, nên chư vị này gây nhiều tiếng động khi đặt y bát và
xếp dọn chỗ nghỉ dưới những gốc cây. Từ thảo am, đức Thế Tôn
nghe ồn náo bèn hỏi thị giả A Nan đứng một bên: "Này A Nan, các
tiếng ồn ào kia là tiếng gì, giống như tiếng hàng cá tranh giành cá với
nhau?" A Nan trình bày sự việc. Phật quở trách và bảo A Nan
ra đuổi 500 vị tân tỷ kheo đi chỗ khác: “Hãy đi đi, này các tỷ
kheo. Ta đuổi cácngươi. Các ngươi chớ có ở gần ta". Chúng
ta như thấy được vẻ tiu nghỉu buồn rầu của những vị ấy khi cuốn gói
ra đi. Và chúng ta thích thú hình dung dáng điệu từ ái của đấng Cha lành
khi Ngài gọi lại hai vị đại đệ tử thân yêu để hỏi xem hai vị đã
nghĩ gì khi Ngài đuổi 500 đệ tử của họ dẫn về. Tôn giả Sàriputta thưa:
"Bạch Thế Tôn, con nghĩ rằng từ nay Thế Tôn được ít bận rộn
và chúng con cũng ít bận rộn". Tôn giả Mục Kiền Liên thưa:
"Bạch Thế Tôn, con nghĩ rằng từ nay Thế Tôn sẽ ít bận rộn, nhưng
chính con và tôn giả Xá Lợi Phất nên đảm đương việc lãnh đạo
chúng tỷ kheo ấy". Đức Phật quở Xá Lợi Phất và khen Mục
Kiền Liên, vì tôn giả có tinh thần trách nhiệm, biết lo tiếp dẫn hậu
lai. Một lần nữa, chúng ta lại được chiêm ngưỡng đức độ vị Thánh
đệ tử khả ái, khả kính, được Đại thừa giáo tôn xưng là bậc đại
Bồ tát về hiếu hạnh. Nhờ Ngài mà ngày nay Phật tử chúng ta biết đến
lễ Vu Lan báo đền ân đức cha mẹ hiện tại và bảy đời qua. Nhưng đồng
thời, ta cũng khâm phục hạnh giải thoát của tôn giả Xá Lợi Phất, điển
hình của Thanh văn hạnh. Ngài không lưu tâm khi những tỷ kheo bị Phật
đuổi ấy là chính do mình dẫn về. Nếu là một người còn ngã chấp,
thì dĩ nhiên phải sanh tâm buồn bực.
Đọc "Trung bộ kinh” chúng
ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ
chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh. Mặc dù
bản thân ngài đã trải qua những khổ hạnh cực kỳ khốc liệt trên đường
tìm chân lý, đức Phật không bao giờ khuyên chúng ta nên ép xác khổ hạnh.
Trung bộ kinh trình bày một lối giáo dục đầy tình người, thực tế,
thuận nhân tính. Đối với đệ tử nào tánh nhiều tham dục, Ngài khuyên
đừng ăn ngon mặc đẹp, có thị giả dung mạo khả ái, vì dễ động lòng
tham. Trái lại, đối với đệ tử nào tánh nhiều sân, nóng tánh, Phật dạy
nên cho vị ấy ăn ngon mặc đẹp, người hầu cận vị ấy phải có mặt
mày vui vẻ dễ coi, để khỏi kích động tánh sân. Vị đệ tử nào nặng
nề si chấp, ngài khuyên nên cho vị ấy ở chỗ thoáng khí, nhìn ra một
khung cảnh trời đất bao la để cõi lòng họ cũng dễ mở rộng. Kinh
"Nhất thiết lậu hoặc” (TBK1) dạy cho chúng ta nhiều lối
đối trị những lậu hoặc, hay phiền não đau khổ, phát sinh từ nhiều
nguyên nhân trên con đường tu tập. Những lời dạy của Phật ở đây rất
hợp lý, hợp tình, và là bài học quý giá cho những người có khuynh hướng
quá khích. Khi đói chúng ta nên ăn, vì đói là một nỗi khổ cụ thể, từ
đó lậu hoặc dễ phát sinh (nghèo đói dễ sinh ra nhiều thói tệ). Điều
cốt yếu là nên ăn cách thế nào vừa đủ để diệt trừ cảm thọ đói
khổ mà không phát sinh cảm thọ mới là tham ăn, ưa vị ngon vật lạ. Về
nghỉ ngơi, y phục, chỗ ở và những vật dụng cần thiết khác trong đời
sống cũng vậy. Đó là những lậu hoặc cần đoạn trừ bằng cách "thọ
dụng" liên hệ đến cách "tu thân", gặp
thuận cảnh không tham đắm. Phật dạy, vị tỷ kheo thọ dụng đồ ăn, thức
uống do thí chủ cúng dường không nên ham hố, làm mất tín tâm của họ,
nên xử sự như ong hút mật hoa, không làm tổn hại đến hương sắc. Lại
có những nỗi khổ mà vị tỷ kheo cần phải đối trị bằng cách kham nhẫn,
như khi đói mà không ai cho đồ ăn, rét mà không có đồ mặc, kham nhẫn lạnh
nóng, đói khát, sự xúc chạm của ruồi muỗi, gió, sức nóng mặt trời,
những loài bò sát, kham nhẫn lời mạ lỵ, hủy báng, kham nhẫn các cảm
thọ về thân, những cảm thọ thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối,
không sung sướng, không thích thú, chết điếng người, (Kinh Nhất thiết
lậu hoặc). Đó là những lậu hoặc do kham nhẫn mà đoạn trừ, liên hệ
đến cách tu tâm của vì tỷ kheo: gặp gian khổ không giao động. Nhưng đây
không phải là một lối khổ hạnh cố ý mà chỉ là bất đắc dĩ. Một lời
khuyên thực tế của Phật cho các tỷ kheo là không nên cư trú những nơi
khất thực khó khăn, bốn sự cần dùng là y phục, thực phẩm, dược phẩm
và những tiện nghi cư trú (sàng tòa) khó kiếm. Phật lại còn cẩn thận
như một vị cha lành khuyên bảo đàn con thơ dại, Ngài dạy chúng ta không
nên tới gần những nơi nguy hiểm, những vật nguy hiểm có thể nguy hại
đến bản thân: "Này các vị tỷ kheo, ở đây vị tỷ kheo chân
chánh giác sát để tránh né voi dữ, ngựa dữ, tránh né bò dữ, chó dữ,
rắn, khúc cây, gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước dơ, hố rác, chỗ ngồi
không xứng đáng... tránh những trú xứ không nên lai vãng (có thể chuốc
lấy hiềm nghi của kẻ khác) tránh giao du những bè bạn ác độc".
(Kinh Nhất thiết lậu hoặc). Đấy là đoạn trừ lậu hoặc bằng
cách tránh né.
Nhưng lại còn có những lậu hoặc
vi tế sâu xa hơn, vị tỷ kheo cần phải quán sát một cách chân chánh,
không tự dối mình, để diệt trừ ngay khi vừa móng tâm động niệm: đó
là những tư tưởng nhiễm vì dục ái, tham sân, những tư tưởng hại mình,
hại người, hại cả hai, những ác bất thiện pháp. Đấy là những lậu
hoặc phải được đoạn trừ bằng cách “tận diệt". Tư
tưởng là nguồn gốc của mọi sự, nên điều cần yếu là tỷ kheo phải
biết phân biệt những pháp nào đáng tư niệm, những pháp nào không đáng
tư niệm (suy tư nghiền ngẫm) để tránh khổ cho tâm, cũng như phân biệt
món nào nên ăn, món nào không nên ăn để tránh khổ cho thân. Phật dạy
những pháp đáng tư niệm là những pháp nào mà khi tư niệm đến chúng
thì dục lậu (tức là sự tham đắm đối với năm dục trưởng dưỡng
nghĩa là những thứ cố tác dụng tăng ham muốn vật chất: sắc, thanh,
hương, vị, xúc) chưa sanh không sanh khởi, và những dục lậu đã sanh khởi
được trừ diệt. Đối với hữu lậu (sự tham đắm cõi sắc và vô sắc
nơi các người tu thiền) và vô minh lậu (không liễu tri bốn diệu đế,
hay không có chánh biến tri), cũng vậy. Còn những việc không đáng tư niệm
là những việc nào mà khi tư niệm đến thì làm cho dục lậu, hữu lậu,
vô minh lậu chưa sanh nay sanh khởi, và những dục lậu, hữu lậu, vô minh
lậu sanh rồi nay tăng trường. Đây là sự đoạn trừ lậu hoặc bằng chánh
tri kiến. (Kinh Nhất thiết lậu hoặc).
Khi đức Phật dạy về sự phòng hộ
sáu căn khi tiếp xúc sáu trần làm sao để khỏi khởi lên dục ái, Ngài
đã bị một số Sa môn, Bà la môn lên án là kẻ phá hoại sự sống. Đó
cũng là quan niệm thông thường của người thế tục ngày nay và muôn thuở.
Đối với họ, đi tu là một sự đày đọa thân xác dại dột, tu là hết
sống, và sống đối với họ chỉ có nghĩa là thụ hưởng thật đầy đủ
năm dục trưởng dưỡng đối với sắc thanh hương vị xúc. Dù có phải
vì những thứ ấy mà họ phải chịu muôn sầu nghìn khổ, con người cũng
sẵn sàng lao mình vào đấy như con thiêu thân lao vào ngọn lửa. Phật lấy
ví dụ một người tử tội vì ham năm giọt mật mà quên đi cái hiểm họa
của hố sâu, rắn độc, voi dữ. Xét sâu vào bản chất của ngũ dục, ta
thấy tiềm ẩn một cội nguồn đau khổ rất vi tế mà đức Phật, như một
nhà phân tích tâm lý tuyệt luân, đã thám hiểm đến tận ngọn nguồn lạch
sông. Chạy trốn vào dục ái là một trong những phương pháp con người
thường dùng để giải quyết nỗi sầu ngũ uẩn, để khỏa lấp cái tẻ
nhạt, vô vị của kiếp nhân sinh nặng nề: Ta có thể thấy rõ hiện tượng
này qua các trào lưu hiện sinh, con đẻ của nền triết lý phi lý
(philosophie de l'absurde). Đức Phật xem dục lạc như là một giải pháp tạm
bợ đối với người bệnh hoạn, trong khi bản chất của nó chính thật
là khổ. Như đối với một người bệnh cùi cơ thể lở lói, trong khi cơn
bệnh hoành hành, người ấy dùng móng tay cào rách miệng các vết thương
rồi hơ chúng lên hố than hừng để cảm thấy đã ngứa, dễ chịu. Vết
thương, hố than hừng tự chúng không phải là khoái lạc mà trái lại bản
chất là thống khổ. Cho nên đối
với người không bệnh hay đối với
người cùi khi khỏi bệnh, chúng không ham muốn, ao ước được như người
cùi kia để có cái khoái cảm của sự đã ngứa, cũng không ao ước có những
vết thương hay hố than hừng mà bản chất là thống khổ. Vì càng tìm
quên, càng chạy trốn vào dục lạc thì nỗi sầu khổ của con ngưỏi chỉ
càng tăng thêm, không vơi bớt được, như một kẻ đã khát nước mà còn
ăn thêm muối vào. Những người tìm quên trong men rượu
thường phải đau khổ thấy rằng
“đất trời nghiêng ngửa, mà thành sầu không sụp đổ" (VHC).
Đối với người đã giải thoát thì năm dục như bệnh khổ, như cục bướu,
như mũi tên, như vết thương, như hố than hừng (Kinh Ma Kiên Đề,
TBK II).
Đức Phật không phủ nhận có lạc
thọ trong đời sống tại gia, cũng như có lạc thọ cho người xuất gia; có
hạnh phúc do tiền tài sắc đẹp danh vọng đem lại, nhưng cũng có hạnh
phúc do đời sống giải thoát xuất trần. Nhưng trong mỗi thứ cảm thọ
ấy Phật khuyên chúng ta nên phân tích, hiểu rõ ba điều: vị ngọt, sự
nguy hiểm, sự xuất ly. Khi mắt tiếp xúc sắc đẹp, ta cảm thấy dễ chịu,
đó là vị ngọt của sắc khiến ta phát sinh lòng ham muốn đối với
nó. Nhưng khi ham muốn ấy suy yếu, nghĩa là khi hết ham, hoặc khi nó bị cản
trở, thì đấy là sự nguy hiểm của sắc, vì nó làm chúng ta đau khổ.
Nếu khi tiếp xúc với sắc pháp, chúng ta biết rõ nó là vô thường nên
không phát sinh ưa muốn, thì đấy là sự xuất ly đối với sắc. Ví
dụ một người thấy người khác mặt mũi xinh đẹp, càng nhìn càng ưa,
đấy là thấy vị ngọt của sắc. Nếu chưa học Pháp, người ấy
đi từ sự ưa thích đến ái luyến, mong chiếm hữu làm của riêng mình
mà không được nên sinh ra sầu khổ cay đắng ê chề khi thấy sắc đẹp
kia ngoài tầm mình với tới: đó là nguy hiểm của sắc. Phàm phu là
vậy chỉ có đi từ vị ngọt đến nguy hiểm vì không biết có một con
đường thứ ba. Nếu có học Pháp, người ấy sẽ nghiền ngẫm chân lý Phật
dạy: sắc là vô thường, luôn luôn biến đổi để đi đến hủy diệt. Lại
nữa sắc chỉ là thứ ngoài da, còn tính xấu nằm trong xương tủy; ham cái
vẻ ngoài của một người khi chưa biết gì đến những thói xấu nết tốt
của họ là một điều nguy hiểm. Thấy vậy bèn hết mê đắm; mặc
dù vẫn còn thấy đẹp nhưng hết ham, không đến nỗi chết mệt vì sắc,
chỉ nhìn mọi vẻ đẹp như nhìn cái ráng cầu vồng: đấy gọi là xuất
ly.
Đối với người xuất gia, vị ngọt
của cảm thọ là "vô hại tầm" ở cảnh giới sơ thiền, một
trạng thái hỉ lạc do ly dục sanh, không còn tâm sân hận. "Này các
tỷ kheo, trong khi vị tỷ kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú sơ
thiền, có tầm có tứ, trong khi ấy, vị này không nghĩ đến tự hại, không
nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai... vị ấy cảm thọ một
cảm thọ vô hại. Này các tỷ kheo, tối thượng vô hại ấy ta nói là vị
ngọt của cảm thọ" (Kinh Đại khổ uẩn 13, TBK
I). Sự nguy hiểm của cảm thọ là tính vô thường, biến đổi của
cái cảm thọ vô hại này. Mặc dù cảm thọ vô hại là một hạnh phúc tối
thượng so với dục lạc thế gian, nhưng nó cũng ở trong khổ uẩn vì vẫn
còn chịu sự chi phối của vô thường, biến dịch. Do đó, sự xuất ly
cũng cần thiết: ấy là không tham đắm, chấp trước cảm thọ ấy. Chính
vì tham đắm vị ngọt của thiền lạc mà người tu thiền không thể tiến
thêm, bị lạc vào hóa thành, một Niết bàn giả tưởng. Quá trình tu tập
là một quá trình giảm trừ đến chỗ cứu cánh: lên đến tứ thiền, thì
cả tầm, tứ, hỉ, lạc đều bỏ, chỉ còn lại xả niệm thanh tịnh.
Ở một Kinh khác, "Kinh Sợ
hãi và khiếp đảm" (TBK I) chúng ta được nghe Đức Phật
trình bày rốt ráo nguyên nhân nỗi sợ hãi âm thầm đè nặng trên tâm thức
con người muôn thuở. Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ
đói rét, sợ uy quyền, sợ cô độc, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất
cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật. Vì sợ hãi chúng ta lao mình vào
công việc làm ăn, vào các thú tiêu khiển, lập gia đình, gia nhập các đoàn
thể, nỗ lực tạo mãi tiền của, danh vọng, tri thức, tài khéo, cốt làm
sao để chứng minh mình không phải là một con số không dưới mắt mọi
người và nhất là dưới mắt mình. Nhưng cảm giác khó chịu về số
không vẫn còn mãi đấy. Càng lao tâm lao lực, cuộc sống chúng ta càng bận
rộn chừng nào, với càng nhiều bạn bè sở hữu, quyến thuộc chừng
nào, chúng ta càng thấy rõ sự nghèo nàn cô độc vô vị trống rỗng của
nó chừng nấy, khi mà chúng ta bắt buộc một mình đối diện với cuộc tử
sinh của chính mình. Vì sợ hãi, chúng ta tạo ra những thần linh bất diệt
để có thể đặt niềm tin tưởng của chúng ta vào đấy để có chỗ
bám víu ở giữa một thế giới đầy dẫy những lọc lừa tráo trở. Rồi
chúng ta gán cho thần linh ấy đủ các tính xấu của chúng ta, nghĩa là cũng
đầy ngã chấp nhỏ nhen, có thể rất từ bi với một tín đồ trung kiên,
nhưng cũng có thể rất độc ác với kẻ nào phản bội. Tuy vậy, chúng ta
thà có một tín ngưỡng bất toàn hơn không có gì cả. Voltaire: "Nếu
Thượng đế không thật có, thì cũng cần phải tạo ra Thượng đế”.
Như những con cừu nằm xích lại gần nhau để tìm hơi ấm,chúng ta cũng
ưa quần tụ, gia nhập hội này đoàn nọ, vì không thể chịu được mặc
cảm cô đơn. Chúng ta nói tiếng nói của tập thể, ưa thích và lựa chọn
giống như sự ưa thích và chọn lựa của mọi người, để khỏi bị xem
là "không giống ai". Quả thế, vì sợ hãi cô độc, chúng ta
thà làm một con cừu ngoan ngoãn trong bầy cừu ấm áp hơn là làm một vì
sao cô độc trên nền trời giá băng.
Đức Phật không chấp nhận những
giải pháp tạm bợ mà chúng ta thường dùng để đối trị nỗi sợ hãi
âm thầm ngự trị trong ta. Ngài đi thẳng vào trọng tâm vấn đề, tìm những
nguyên nhân sâu xa của nó để có thể nhiếp phục sợ hãi. Những nguyên
nhân ấy theo lời Phật dạy, là những thói xấu cố hữu trong ta như tham,
sân, si, hôn trầm, thụy miên, giao động, hoài nghi, khen mình chê người,
lười biếng thất niệm, ham danh lợi, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp
không thanh tịnh, mạng sống không thanh tịnh. "Này các tỷ kheo, những
vị Sa môn, Bà la môn nào có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp
không thanh tịnh, có mạng sống không thanh tịnh, những Tôn giả Sa môn hay
Bà la môn ấy chắc chắn làm cho sợhãi khiếp đảm, bất thiện khởi lên.
Ta không có mạng sống không thanh tịnh... Ta tự quán sát mạng sống hoàn
toàn thanh tịnh này, cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn khi sống
trong rừng núi.
Này Bà la môn, những Sa môn hay Bà
la môn nào có tâm sân hận, ác ý, sống tại các trú xứ xa vắng
trong rừng núi hoang vu... những Tôn giả Sa môn hay Bà la môn ấy chắc chắn
làm cho sợ hãi khiếp đảm bất thiện khởi lên... Những Sa môn hay Bà la
môn nào giao động, tâm không an tịnh, những Sa môn, Bà la môn nào còn ham
muốn lợi danh, tiếng tăm... những Sa môn, Bà la môn nào thất niệm, không
chú ý... những Sa môn, Bà la môn nào không có tâm định tĩnh, tâm bị
tán loạn mà sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu... những
Tôn giả Sa môn, Bà la môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi khiếp đảm bất
thiện khởi lên..."
(Kinh Sợ hãi và Khiếp
đảm, TBK I).
Một trong những phản ứng thông thường
của chúng ta trước sự sợ hãi là chạy trốn: "tẩu đào vi thượng
sách". Sự chạy trốn mang nhiều hình thức khác nhau.
Chúng ta trốn vào trong những cuộc vui, trốn vào những công việc, hội
hè đình đám, đoàn thể, bạn bè, để khỏi phải đối mặt với hư vô
và với chính mình: ngồi thiền sở dĩ rất khó khăn là vì thế, chúng ta
phải đối diện với chính mình trong khi độc cư thiền tịnh. Chỉ có những
bậc giác ngộ mới có thể sống hoàn toàn cô độc, đối diện với chính
mình mà không phát sinh cảm giác khó chịu, trái lại cảm thấy một lạc
thọ, hạnh phúc thuần túy. "Này chư hiền, ta có thể không di động
thân thể, không nói lên một lời, sống cảm giác thuần túy lạc thọ
luôn trong một ngày một đêm... luôn trong hai ngày hai đêm.. Cho đến luôn
trong bảy ngày bảy đêm..." (Kinh Tiểu hhổ uẩn). Như
người ca kỹ trong thơ Xuân Diệu ngày xưa, nỗi sợ hãi lớn nhất của ta
là phải chạm mặt với chính mình: "Chớ để riêng em phải gặp hồn
em":
Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo buốt
xương da
Cái "không vô biên"
ấy thật là dễ sợ, nó có thể làm chúng ta chết ngạt
trong đó như một phi hành gia chết
rũ khi bay ra ngoài quỹ đạo của trái đất.
Đức Phật đối trị sợ hãi bằng
cách nhìn thẳng vào nó, không trốn chạy vào một việc làm khác, một tư
thế khác, một thái độ khác như đối xử sự thông thường của chúng
ta, "Này Bà la môn, trong bất cứ hành vi, cử chỉ nào của ta mà khiếp
đảm sợ hãi xảy đến, thì ngay trong hành vi cử chỉ ấy, ta diệt trừ nỗi
sợ hãi khiếp đảm. . . Trong khi ta đi kinh hành qua lại, mà sợ hãi khiếp
đảm đến, thì ta không đứng, không ngồi, không nằm mà ta diệt trừ sợ
hãi khiếp đảm ấy ngay trong khi ta đang kinh hành qua lại." (Kinh
Sợ hãi và hhiếp đảm).
Do sợ hãi, chúng ta thường bóp
méo sự thật cho nó hợp với sở thích của chúng ta, như người điên
trong tập "Cuồng nhân nhật ký" của Gogol luôn
luôn tưởng tượng mọi sự đều tốt đẹp, có ảo tưởng rằng mình là
Hoàng đế và nhà thương điên là cung điện. Đức Phật không thế. Đối
với Ngài sự thật là sự thật, dù nó xấu xa hay đẹp đẽ, cần phải
được thấy đúng như bản chất của nó: “Này Bà la môn, có một số
Sa môn, Bà la môn nghĩ rằng ngày là đêm, đêm là ngày. Ta nói những Sa
môn, Bà la môn ấy sống trong si ám... Ta nghĩ rằng đêm là đêm, ngày là
ngày”. Chúng ta nhớ đến một câu trong kinh Pháp cú, Phật dạy: “Nó
đánh tôi, mắng tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi, Ai ôm hiềm hận ấy, Oán
thù không thể nguôi.” Một điểm đáng lưu ý ở đây là Phật không
dạy chúng ta nên tưởng tượng sự lăng mạ thành ra sự ngợi khen
hay tưởng tượng sự đánh đập thành ra sự ve vuốt. Ngài chỉ dạy đừng
ôm giữ tâm niệm ấy nghĩa là hãy xả bỏ, cho qua để khỏi rước thêm
khổ, tự hại mình: Một lời khuyên thực tiễn, khôn ngoan.
Trong kinh "Ví dụ cái cưa",
Phật dạy Tỳ kheo dù có bị cưa xẻ thân thể ra từng mảnh từng đoạn,
cũng đừng ôm lòng sân hận mới đúng là đệ tử của Ngài. Nếu ta chấp
chặt từng lời từng chữ thì thấy lời dạy này thật khó mà thực
hành. Kỳ thực lời này rất thâm thúy hiểu theo nghĩa bóng: Dù không ai cưa
xẻ, cái cưa Vô thường cũng đang cưa xẻ thân ngũ uẩn này từng giây từng
phút cho đến khi nó hoàn hoàn tan thành tro bụi. Vậy thì, còn sống hơi thở
nào, hãy sống trong chính niệm, an lạc, đừng nổi sân vì những chuyện bất
bình mà chuốc thêm đau khổ trong khi đang bị vô thường cưa dần tới
nấm mồ hoặc lò hỏa thiêu.
Không một lời dạy nào của Phật
là không liên hệ trực tiếp đến việc tìm hiểu con người chúng ta,
thân tâm chúng ta, với những vấn đề của nó. Bản chất của dục vọng,
nguyên nhân của dục, con đường thoát ra khỏi dục được đề cập một
cách chi ly. Sự sống sở dĩ là khổ chính vì con người vốn đã đau khổ
vì già, bệnh, chết, lại còn đi chuốc thêm vào mình những cái phải chịu
sự chi phối của già, bệnh, chết: đó là sắc đẹp, danh vọng, tài sản.
Nếu chúng ta biết ngay trong đời sống khổ đau này, với thân xác khả hoại
này, đi tìm, gần gũi, thân cận những cái không già, bệnh, chết, thì đó
là ta đã đạt được Niết bàn, bất tử ngay trong sinh tử. Cái đó là
chánh pháp tối thượng. Cho nên, Phật dạy rằng tài sản của người xuất
gia là chánh pháp tối thượng này.
Mục lục
| 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6
| 7 | 8 | 9
| 10 | 11 | 12 | 13