- TỪ NGUỒN DIỆU PHÁP
8. HỘ TRÌ CHÂN
LÝ
Trong Thường Già kinh (Trung
bộ II, kinh số 95) Đức Phật phân biệt ba trình độ tiếp cận chân lý: hộ
trì chân lý, giác ngộ chân lý và chứng đạt chân lý.
Hộ trì chân lý nói
theo ngôn ngữ thời nay là tôn trọng sự thật. Khi tin tưởng một điều gì,
ta cứ việc tin, nhưng không nên xác quyết rằng: chỉ có điều ta tin mới
thật đúng, ngoài ra đều sai. Bởi không chắc gì ngày mai chính chúng ta
còn tin như vậy hay không và quan trọng hơn, không chắc gì niềm tin ấy
là hoàn toàn đúng. Vậy tốt hơn là cứ tin, nhưng đừng cực đoan ôm chặt
nó. Kinh Bách Dụ kể chuyện một người cha trong lúc cháy nhà, chạy
lạc thằng con, về sau tìm được nắm xương cháy tưởng là con liền đem
về thờ cúng. Một thời gian sau, đứa con tìm được nhà cha, trở về gõ
cửa. Người cha không mở, cho là ma quái tới quấy phá, vì tin chắc con
mình đã cháy thành nắm xương khô kia. Con người si chấp một niềm tin
sai lạc cũng như người cha ngu si ấy: đã tin giả làm thật thì đến khi
cái thật đến, vẫn cứ đóng chặt tâm hồn. Thái độ hộ trì chân lý
trong trường hợp này là, khi tưởng đống xương là con thì cứ việc
cúng quảy làm chay cho nó đi (cũng không hại gì, nó không hưởng được
thì có cô hồn khác hưởng thay). Nhưng đừng quyết chắc như vậy khi
chưa thấy tận mắt. Phật dạy có 5 điều không chắc đúng: Một là điều
ta tin theo (tùy tín), hai là điều ta đồng ý (tùy hỉ). Ba là
điều ta nghe đồn (tùy văn). Bốn là điều ta xác nhận sau khi cân
nhắc suy tư. Năm là quan điểm, lý thuyết mà ta chấp nhận. Trong cả năm
loại ấy, nếu là người hộ trì chân lý, ta sẽ không vội xác quyết:
"Chỉ có niềm tin này, sự đồng ý này, lời đồn này, sự suy tư
này, quan điểm này... là đúng, ngoài ra đều sai". Nghĩa là ta có
quyền tin thế này thế khác, có quan điểm nọ kia nhưng không bao giờ nên
cả quyết niềm tin của mình, quan điểm của mình là duy nhất đúng.
Giác ngộ chân lý là
khi một người xét rõ một vị thầy, thấy họ không có tham, sân, si;
Pháp được họ khéo giảng, đưa đến vô tham, vô sân, vô si, người ấy
sinh lòng tin, đến gần, giao thiệp, lóng tai nghe pháp, thọ trì, tìm hiểu
ý nghĩa, hoan hỉ chấp nhận pháp ấy, khởi ý muốn tu tập theo, cố gắng
cân nhắc, tinh cần. Nhờ tinh cần mà tự thân thể nhập được chân lý
người ấy thấy. Như vậy là giác ngộ chân lý, nhưng chưa phải là chứng
đạt chân lý.
Chứng đạt chân lý là
sau khi thấy, còn phải luyện tập, hành trì cho thuần thục. Ta có thể lấy
ví dụ giác ngộ như ngọn đèn vừa được thắp lên trong căn phòng tối
tăm dơ dáy bụi bặm trải nhiều năm tháng. Chứng đạt là quét sạch hết
bụi dơ ấy sau khi đã thấp đèn lên.
Muốn chứng đạt chân lý, phải trải
qua 13 giai đoạn tuần tự như sau:
1. Trước hết là lòng
tin đối với bậc Thầy xứng đáng sau khi đã tìm hiểu kỹ vị ấy
như trên. Điều này rất quan trọng. Biết bao nhiêu người vì lầm tin thầy
bà yêu nghiệt mà phải khổ một đời, lụy đến muôn kiếp. Nhưng cốt yếu
ở đây vẫn là "chánh tâm". Nếu tâm tà đi tìm thầy thì chỉ
gặp thầy tà. Tâm cầu tài lợi thì chỉ gặp thầy bói. Cầu khỏi bệnh
thì chỉ gặp thầy lang, có khi lang băm. Cầu khỏi nạn chỉ gặp thầy bùa,
thầy cúng. Ưa bề ngoài thì dễ tin hạng thầy chỉ có bề ngoài. Lòng tin
chân chánh là tin Phật pháp có năng lực diệt khổ, giải thoát ngay hiện
tại. Khi đã có lòng tin như vậy, phải tìm đến vị thầy cùng tin như vậy
và có khả năng trao truyền phương pháp diệt khổ của Đức Thế Tôn.
2. Đến gần: Có tin tưởng
một vị thầy, thì tất nhiên phải đến gần họ, mới nung nấu niềm tin
chánh pháp được.
3. Thân cận giao thiệp: Sau
khi đến gần, phải thân cận thường xuyên vị thầy. Nếu Phật tử mà 3
năm mới tới thăm thầy một bận, thầy quên mặt mũi gốc gác mình mất
rồi, làm sao hướng dẫn mình trên đường học đạo! Hoặc tới chùa mà
chỉ ra vườn xuống bếp, tránh mặt thầy, thì cũng vô phương học đạo.
4. Lóng tai: ám chỉ một
thái độ sẵn sàng đón nhận sự dạy bảo của thầy về Phật pháp. Có
nhiều Phật tử ưa thân cận giới xuất gia chỉ để tâm sự vụn, gần gũi
giao thiệp chỉ để thỏa chí tò mò, kiểu tìm bạn bốn phương, thì thầy
trò đều thất lợi. Có Phật tử tới chùa chỉ nói chuyện thế gian, khi
động đến Phật pháp thì lánh mặt ra vườn xem cây cảnh. Như vậy là
không lóng tai.
5. Nghe pháp: Có thái độ
sẵn sàng, tâm hồn chuẩn bị lóng tai nghe pháp, Pháp mới lọt vào tai được.
6. Thọ trì: Nghe xong, phải
thọ trì, nghĩa là ghi nhớ vào lòng, giữ gìn không mất. Người cố thọ
trì pháp thì nghe pháp mới có ích lợi, như lưỡi vừa động tới thức
ăn là mặn lạt biết ngay. Người nghe mà không thọ trì thì pháp chỉ vô
tai này ra tai kia, như cái muỗng suốt đời tiếp xúc đồ ăn mà vẫn vô
tri giác. Phật dạy:
Người ngu dẫu trọn đời
Thân gần bậc hiền trí
Vẫn không biết chân lý
Như cái muỗng múc canh.
Người trí dù một khắc
Thân cận với bậc hiền
Cũng thấy ngay chân lý
Như lưỡi nếm vị canh.
(Pháp cú 64-65)
7.Tìm hiểu ý nghĩa: Nhớ
kỹ những điều đã nghe rồi, phải tìm hiểu ý nghĩa cho chín chắn, để
khỏi tu tập sai lầm. Thọ trì pháp mà không hiểu ý nghĩa là hạng người
"hay chữ lỏng" rất nguy hại. Thà dốt đặt còn hơn
hay chữ lỏng, nghĩa là không biết mà cứ tưởng mình biết, biết sai tưởng
biết đúng:
Ngu tự biết mình ngu
Nhờ vậy thành có trí
Ngu tự cho có trí
Mới thật là chí ngu.
(Pháp cú 63)
8. Hoan hỷ chấp nhận: Khi
đã hiểu rõ ý nghĩa của pháp, cần có sự hân hoan chấp nhận pháp ấy,
xem Pháp như phao cứu mạng giữa biển khổ, luôn luôn sống cái tâm trạng
vui mừng của một kẻ trộm vừa gặp được kho báu lớn, hay của một
gã cùng tử tìm thấy viên bảo châu buộc trong áo rách.
9. Ước muốn tu tập:
Kế tiếp phải phát sinh ý muốn tu theo Pháp. Chấp nhận mà không muốn
tu thì chỉ là một sự chấp nhận suông, rốt cuộc không ích gì. Có Phật
tử nói đạo rất cao siêu nhưng tuyệt không dính dấp gì tới đạo trong
nếp sống của họ hàng ngày, vì họ không có ước muốn tu tập.
10. Nỗ lực: Đã muốn
tu thì phải cố gắng dụng tâm trong việc tu hành, biến tất cả việc
làm, tất cả hoàn cảnh trong đời sống thành pháp tu.
11. Cân nhắc: Khi nỗ lực
quyết tu tập pháp rồi phải cân nhắc pháp môn nào thích hợp, không
thích hợp với mình.
12. Tinh cần: Sau khi đã
cân nhắc chọn cho mình một pháp môn thích đáng, phải tinh cần theo pháp
môn ấy cho chuyên nhất. Có những Phật tử vì thiếu tinh cần nên dễ bị
người khác lay chuyển, dễ rơi vào tà ma ngoại đạo, hoặc luôn luôn thay
đổi thầy, chạy từ pháp môn này qua pháp môn khác.
13. Chứng đạt chân lý: Sau
khi tinh cần chuyên nhất với một pháp môn trong một thời gian dài, cuối
cùng hành giả mới chứng đạt chân lý, giải thoát đau khổ.
Như vậy sự thành đạt trí tuệ là cả một
con đường dài cam go, không thiếu cạm bẫy. Mỗi chặng đường đều mở
ra một khúc quanh mới mà hành giả thiếu thiện xảo có thể bỏ cuộc hoặc
lạc đường
.
Mục lục | 1
| 2 | 3 | 4
| 5 | 6 | 7
| 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13