- TỪ NGUỒN DIỆU PHÁP
-
- 2. BỐN HẠNG NGƯỜI
Trong các Kinh tạng Pàli, Đức
Thế Tôn thường nhắc đến bốn hạng người sống trên đời:
– Hạng tự hành khổ mình, chuyên
tâm hành khổ mình.
– Hạng hành khổ người, chuyên
tâm hành khổ người.
– Hạng vừa tự hành khổ mình,
chuyên tâm hành khổ mình; vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.
– Hạng không tự làm khổ mình,
không chuyên tâm tự làm khổ mình; cũng không làm khổ người, không
chuyên tâm làm khổ người.
Bốn hạng người trên, đời nào xứ
nào cũng có. Mặc dù những lời dạy đã cách xa chúng ta trên hai ngàn năm
trăm năm, trải qua không biết bao lần “tam sao thất bổn" chúng
ta khi đọc lại tạng kinh gần nhất thời Phật này, đã phải ngạc nhiên
thích thú trước tinh thần hài hước của Đức Thế Tôn, một nhà tâm lý
siêu việt. Ngôn ngữ dầu có đổi thay qua 25 thế kỷ, tinh thần mà ngôn
ngữ ấy nói lên vẫn rất mới mẻ đáng truy tầm. Ta hãy xét bốn hạng
người mà Phật đã ám chỉ, theo khoa học phân tích tâm lý ngày nay:
1. Hạng thứ nhất: là hạng
người mang một chứng tâm bệnh gọi là masochism (tự hành hạ, có khuynh hướng
tự hành khổ) đó là hạng người ưa thương vay khóc mướn, như Kiều:
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào
trong
Vậy nên những chốn thong dong
Ở không yên ổn, ngồi không vững
vàng
Đang là một cô gái con nhà khuê
các, đi chơi gặp nấm mồ vô chủ của một kỹ nữ, Kiều đã nghĩ ngay
đến thân phận mình:
"Thấy người nằm đó biết
sau thế nào!"
Ta phải ngạc nhiên trước thái độ
của Kiều, sự lân mẫn xót thương nơi nàng đối với nấm mồ vô chủ
đã vượt quá giới hạn từ bi, trở thành bệnh hoạn, bệnh "tự
hành khổ mình". Cái gì mà vừa nghe cậu em Vương Quan mới dẫn
gần xa cái tiểu sử dở hơi của cô gái dưới mồ (cậu này cũng lạ, còn
nhỏ tuổi mà đã thuộc vanh vách tiểu sử của một gái làng chơi!), Kiều
đã:
Thoắt nghe nàng đã đầm đầm
châu sa
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời là bạc mệnh cũng là lời
chung
Suốt cuộc đời 15 năm đoạn trường
của nàng Kiều chỉ là hậu quả của sự "vận vào khó nghe"
ấy. Vì chuyên "vận vào" cho nên:
Ma đưa lối quỷ đem đường
Lại tìm những chốn đoạn trường
mà đi.
Tuy nhiên sự tự làm khổ của Kiều
không phải hoàn toàn vô ích, ít ra Kiều đã chuộc được cha. Có những sự
tự hành khổ mà không chuộc ai được mới đáng ức: đó là sự tự
hành khổ của những người tu khổ hạnh không đưa tới giải thoát, mà vẫn
chấp chặt lấy khổ hạnh ấy. Phật gọi là "giới cấm thủ kiến".
Những nhà tự hành khổ này đặt ra nhiều giới luật quái gở được
kể nhan nhản trong Kinh tạng Pàli, đượm vẻ dí dỏm khôi hài: liếm tay
cho sạch (không chịu rửa tay), đi khất thực không chịu bước tới, không
nhận đồ ăn ở chỗ có chó đứng, có ruồi bu, không nhận đồ ăn từ
nơi miệng nồi, miệng chảo, không nhận tại ngưỡng cửa, tại cối giã
gạo, không nhận từ hai người đang ăn... Chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ
nhận ăn một miếng, hay chỉ ăn tại hai nhà, chỉ ăn hai miếng. . . Có
lẽ những người chuyên tâm tự hành khổ ấy nghĩ rằng giữ giới càng
khó theo càng được nhiều phước, nên ta không ngạc nhiên khi ở thời Phật
có những vị hành trì cẩu hạnh, ngưu hạnh nghĩa là sống như chó hay như
trâu bò trong một thời gian dài với tin tưởng rằng do hạnh ấy sau khi chết,
sẽ được sinh lên cõi trời. Một vị hành giả thuộc loại này đi đến
Thế Tôn hỏi về số phận tương lai của một người hành trì cẩu hạnh,
ngưu hạnh một cách viên mãn sẽ ra sao. Ngài đáp: "Ai hành trì cẩu
hạnh một cách viên mãn thì sẽ được sanh trong loài chó, nếu hành trì cẩu
hạnh với niềm tin sẽ được sanh cõi trời thì tương lai sẽ có hai khả
năng: một
là sẽ được sanh làm chó nếu
hành trì cẩu hạnh một cách viên mãn, hai là sanh vào địa ngục nếu hành
trì không viên mãn” (sinh địa ngục do tức giận, vì cứ tưởng nhờ
cẩu hạnh mà sẽ được sinh lên trời, té ra không). Người ta có thể nghĩ
rằng hạng người hành trì ngưu hạnh, cẩu hạnh (bắt chước trâu, chó)
chỉ có mặt vào thời bán khai xa xưa ấy, chứ thời văn minh ngày nay làm
gì có? Nhưng không, nó vẫn tồn tại dù dưới hình thức hơi khác: tuy
không mang lông đội sừng cho giống như trâu như chó, con người ngày nay
làm việc còn nhiều hơn loài trâu, tham gặm xương khô (mồi danh bã lợi)
còn dai dẳng hơn loài chó.
2. Hạng thứ hai: là người
làm khổ kẻ khác, chuyên tâm làm khổ kẻ khác. Tâm phân học gọi đó là
chứng sadism, nghĩa là ưa gây đau khổ cho người và vật. Hạng này không
thiếu trên đời, xưa cũng như nay. Ta nhớ trường hợp vua Lê Long Đĩnh
(Ngọa triều) ưa róc mía trên đầu thầy chùa cho chảy mláu chơi. Phật kể
đến một số người hành các nghề ác như đồ tể, bán buôn khí giới,
đao phủ, buôn bán quan tài và vật tẩn liệm...
3. Hạng thứ ba: là hạng
vừa tự làm khổ mình, chuyên tâm làm khổ mình; vừa làm khổ người,
chuyên tâm làm khổ người. Đây là hạng người có cả hai chứng bệnh vừa
kể trên. Kinh Kandaraha (Trung bộ kinh 2, tr.334) mô tả những ông vua
làm tế đàn cúng thần: "Vị này. . . cạo bỏ râu tóc, đắp
áo da thô, toàn thân bôi dầu, gãi lưng với một sừng nai, đi vào giảng
đường với bà vợ chính và một Bà la môn tế tự. Rồi vị ấy nằm xuống
giữa đất có lát cỏ. Vua sống với sữa từ vú một con bò cái, có con
bò con cùng mầu sắc, bà vợ chính sống với sữa từ vú thứ hai, vị bà
la môn tế tự sống với sữa từ vú thứ ba. Còn sữa từ vú thứ tư
thì dùng để tế lửa. Con nghé con thì sống với đồ còn lại (còn được
cái gì?) Ông vua ra lệnh giết vô số bò đực, bò cái, nghé con, dê,
cừu để tế lễ, chặt vô số cây cối để làm cột tế đàn. Những người
phục dịch vì sợ đòn gậy, sợ nguy hiểm với mặt tràn đầy nước mắt
khóc lóc làm các cô ng việc..."
Hạng thứ ba này thường được thấy
trong những trường hợp "oan gia tụ hội": cha mẹ, vợ
chồng, con cái... không hợp nhau mà vẫn phải sống đời với nhau, không
thể xa nhau bởi vì họ cần... tự làm khổ và làm khổ nhau. Hóa ra "yêu
nhau thì lại bằng mười phụ nhau". Có một câu ngạn ngữ
Pháp diễn tả rất đúng nỗi khổ của những cặp oan ương: “Có em
tôi chết cái một, không em tôi chết dần chết mòn” (Avec toi je suis
mort, sans toi je m'en meurt). Những người chết đuối chưa tắt hơi, điều tối
quan trọng là đừng cho người thân tới gần, có bóng dáng một người thân
nào (càng thân càng mau chết) lai vãng, mà nạn nhân hé mắt dòm thấy được
tức thì hộc máu chết liền. Vì có người thân trong lúc nguy cấp thì chỉ
thêm rắc rối vấn đề không thể cứu vãn do bởi sự xúc cảm quá độ
của đôi bên ảnh hưởng lẫn nhau. Phật dạy: "Sầu bi khổ ưu não
do ái sanh, hiện hữu từ nơi ái."
4. Hạng thứ tư. là hạng
không tự làm khổ mình, không chuyên tâm làm khổ mình, cũng không làm khổ
người, không chuyên làm khổ người. Đây là hạng người lành mạnh,
không có những tâm bệnh kể trên. Họ sống không tham dục, các căn tịch
tịnh, cảm giác lạc thọ... Sớm hay muộn, những vị này sẽ thấy tại
gia là ràng buộc, dục vọng con người như cục bướu, như bệnh chướng,
như vết thương, như hố than hừng, và sẽ xuất gia sống đời giải thoát.
Vị ấy thực hành sự hộ trì các căn, chế ngự những nguyên nhân làm
cho tham ái, ưu, bi, các bất thiện pháp khởi lên. Do hộ trì các căn, vị
ấy
cảm thọ vô uế lạc, vị ấy
"khi đi tới, đi lui đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh
giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác. . . khi đi, đứng, nằm,
ngồi, thức, ngủ, nói, im đều tỉnh giác..." (Kinh Kandaraha).
Thành tựu chánh niệm tỉnh giác, vị ấy chọn một nơi thanh vắng độc
cư thiền định, gột rửa 5 triền cái là tham, sân, ngủ gật, dao động,
hoài nghi, chứng sơ thiền với 5 thiền chi: tầm (theo dõi một đối
tượng), tứ (chú tâm trên đối tượng, ví dụ hơi thở), hỉ (là
tâm vui), lạc (là thân khoan khoái) và nhất tâm. Hỉ lạc ở sơ
thiền là hỉ lạc do ly dục sanh vì còn tầm, tứ nên hãy còn trong tình trạng
dao động. Vị ấy xả tầm xả tứ, chứng và trú hỉ lạc ở nhị thiền,
một hỉ lạc do định sanh không tầm không tứ, cứ thế vị ấy xả bỏ
dần cho đến Tứ thiền thì chỉ còn lại xả niệml thanh tịnh, từ
đây các pháp quán mới thực sự hữu hiệu để phát sinh những thần
thông lật trời dời đất.
Chúng ta thường nói quán Không,
quán Vô thường, quán Như huyễn, quán Khổ v.v... song chỉ là những lối
đại ngôn bởi vì chúng ra vẫn thấy có, thấy thường, thấy thật,
thấy vui... nên mới khổ. Bởi chúng ta chưa xả bỏ hoàn toàn,
hành lý còn cả đống, thì làm sao nhẹ nhàng được để bay bổng trong các
cõi thiền.
Để ý trong bốn hạng người kể
trên, Phật không nhắc đến hạng nào làm lợi mình lợi người. Chỉ một
hạng người "không làm khổ mình, không làm khổ người" đã
là quá quý, quá hiếm ở trên đời, khoan nói đến bác ái, vị tha gì hết.
Thật là thực tế, không màu mè. Chúng ta ưa ngụy trang những tật xấu của
mình dưới những danh từ đẹp đẽ, nhưng nhìn hậu quả thì biết ngay
nguyên nhân thực sự của nó. "Không làm khổ mình, không chuyên tâm
làm khổ mình, cũng không làm khổ người, không chuyên tâm làm khổ người",
sống như vậy nghe qua thật giản dị, nhưng sự thật thì vô cùng khó
khăn. Sống giản dị quả là rất khó "Live and let live" (hãy sống,
và để cho thiên hạ
sống với) là một lý tưởng mà xưa nay
chưa ai thực hiện trọn vẹn, ngoại trừ Phật và một số rất ít những
bậc Thánh.
Mục lục | 1
| 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7
| 8 | 9 | 10
| 11 | 12 | 13