- TỪ NGUỒN DIỆU PHÁP
6. NIẾT
BÀN SINH TỬ
Luồng gió thanh bình ngày Phật
Đản gợi cho con một ít suy tư. Lạy Phật, phước đức nào đã khiến
con gặp được Chánh pháp vi diệu, được dự vào hàng ngũ xuất gia? Tội
nghiệp nào đã đưa đẩy con sống quá xa thời Phật? Một kẻ sát nhân tắm
máu như Angulimàla khi được gặp Phật cũng thành Thánh, dâm nữ Ambapali nhờ
diện kiến từ nhan cũng đã chứng quả dễ
dàng. Còn ngày nay thì ôi, khó quá.
Tu hành bao nhiêu cũng như nước đổ lá môn. Phiền não tham sân đôi khi tưởng
đã tạm yên, đến khi gặp duyên hóa ra vẫn còn nguyên vẹn. Giai do vì
không được sinh đồng thời với Phật.
Những lời Thế Tôn dạy thật
đơn giản: “Không có gì là ta hay của ta". Con có thể thấy rõ
chân lý này vào một ngày chủ nhật đi dạo phố. Thật không có một
chút gì là ta hay của ta giữa cái biển người và vật hỗn độn ấy.
Nhưng bỗng nhiên, một vị Tôn giả chúng sinh khởi lên ý nghĩ: "Ta
phải lấy cái đồng hồ kia. Nó phải thuộc về của ta". Rồi
vị ấy đến cướp giật, làm khổ chủ la lên, cảnh sát nổ súng xông lại.
Thế là máu đổ, tù đày, hình phạt, tội lỗi phát sinh chỉ vì nhận lầm
cái không ta làm cái có ta vậy. Nên Thế Tôn dạy, chỗ nào còn bóng dáng
cái ngã là chỗ ấy còn đau khổ, trói buộc.
Phật còn dạy thêm một lời thâm
thúy: "Thà chấp thân là ta còn ít nguy hiểm hơn chấp tâm là ta".
Nghĩa là, nếu có "duy" gì, thì thà duy vật hơn duy tâm
vậy.
"Sung sướng thay chúng
ta sống không sở hữu!" Một vị Thánh đệ tử đắc đạo
đã thốt ra lời cảm hứng như vậy trong Trưởng lão kệ . Chỉ ngày nay
người ta mới thấm lời nói đơn giản ấy, tưởng rằng không sở hữu
thì có nghĩa là không có tư sản. Nhưng kỳ thực câu nói kia có mật ý
sâu xa, vì được thốt lên bởi một bậc A la hán, và chỉ có vị này mới
thực sự không còn sở hữu vì đã hoàn toàn thoát khỏi ngã chấp. Người
chưa chứng quả thì dù là một nhà khổ hạnh không đất cắm dùi, không
cả đến cái dùi, cũng vẫn còn sở hửu, vì còn cái ngã là còn đủ mọi
sự, với năm thủ uẩn nguồn gốc của mọi khổ đau. Trong tất cả sở hữu,
tư tưởng là cái khó bỏ nhất.
Nhưng người ta chỉ tư duy về những
gì mình ưa thích. Bởi thế gốc rễ của tư duy là khát ái–tanhà. Một
người vô ngã thực sự là người đã cắt đứt gốc rễ của khát ái
này; hoàn toàn độc lập, không dính mắc một cái gì dù thuộc vật chất
hay tinh thần. Người ấy được Phật mệnh danh là con người "độc
cư lý tưởng", hoàn toàn sống một mình, không ở chung với
một pháp thứ hai. Một người dù sống ở núi rừng mà tâm tư còn vướng
mắc cái đã qua, cái chưa tới, còn luyến tiếc hy vọng, thì vẫn chưa phải
là người độc cư lý tưởng. Trái lại một người dù sống ở chỗ đông
người nhưng đã cắt đứt khát ái liên hệ đến ngã thì cũng được xem
là độc cư lý tưởng khi phá tan được dục vọng, ngã chấp. Vị ấy
luôn luôn sống trong hiện tại, hoàn toàn buông xả, tâm tư như con thú rừng,
hồn nhiên, vô úy. Một người như thế sẽ bình tĩnh trước mọi chuyển
biến, sáng suốt đối diện với thực tại trong tinh thần trách nhiệm,
không oán hận, nguyền rủa. Vị ấy có thể chuyển hóa nghiệp lực thành
nguyện lực, biến độc dược thành cam lồ, đi vào địa ngục thì địa
ngục biến thành an vui, và lửa đỏ cũng hóa hiện được sen hồng. Đó
là diệu dụng, là sức mạnh của chân lý khi được sống, được thể hiện
trọn vẹn nơi một con người, khi pháp (dhamma) đã trở thành tùy
pháp (anudhamma), một "chân lý tùy thân" thể nhập
vào người. Do đó kinh Lăng già có những lời bóng bẩy khi tả đức Phật:
“Khi Thế Tôn dời gót đến một nơi nào, thì nơi ấy cây lá trở nên
xanh tươi, hoa trái đơm đầy suối ngàn reo vui, đàn cầm không ai gảy mà
ngân lên những âm thanh vi diệu". Đó là cốt nói lên diệu dụng
sự hiện diện của bậc Thánh có năng lực chuyển hóa cả đến vật vô
tri.
Lý vô ngã bao trùm cả các pháp yếu
khác như Khổ và Niết bàn. Có khổ nhưng không có người khổ. Có Niết
bàn nhưng không có cái ngã nhập Niết bàn. Người bị khổ dày xéo
luôn luôn có ảo tưởng rằng bao nhiêu oan nghiệp ở trần gian, con tạo
dành để trút lên đầu mình. Ai cũng thấy mình khổ nhất, không ai thấy
mình khổ nhì, nguyên nhân vì ngã chấp. Thế nên mới có chuyện tự tử.
Tự tử là vì thấy mình khổ quá chịu không nổi. Nếu có ai hỏi sao người
hàng xóm chịu được thì họ trả lời ngay rằng tại ông hàng xóm không
khổ bằng tôi. Nhưng nếu nhìn một cách tỉnh táo hơn, nhìn thẳng vào sự
khổ đang thấm lan mỗi người một ít, mỗi người một cách, thì quả thật
chỉ có sự khổ, không có con người khổ ở đằng sau sự khổ. Con
người là một tổ hợp năm uẩn, và chính tổ hợp ấy đã là khổ rồi
còn ai vào đó nữa. Cho nên nói rằng "tôi khổ" đã là thừa
chữ tôi, là trên đầu còn gắn thêm một cái đầu.
Niết bàn cũng thế. Có Niết bàn
nhưng không có cái ngã nào nhập Niết
bàn. Bởi vì nói ngã nhập Niết
bàn thì hóa trong Niết bàn còn có ngã, tức có khổ, và câu ấy thành ra
mâu thuẫn, vì Niết bàn là hạnh phúc tuyệt đối. "Không có ngã
thì ai nhập Niết bàn?". Người ta hay đặt câu hỏi như vậy.
Làm như thể muốn nhập Niết bàn phải có ngã mới được, không có ngã
không xong. Nhưng nói như vậy là không hiểu gì về niết bàn và quá đề
cao cái ngã. Ngã chỉ là một dụng cụ của đau khổ, hơn nữa nó chính
là sự đau khổ. Cũng như xe chỉ dùng để chạy trên mặt đất. Không ai
đặt câu hỏi “Không có xe làm sao chạy lên trời?"
Nói về tâm hồn con người, một dụng
cụ của khổ, Chateaubriand có câu: "Tâm hồn chúng ta là một nhạc cụ
bất túc, một cây đàn thiếu dây, ở trên đó chúng ta bắt buộc phải gảy
những khúc vui trên những cung bực chỉ dành cho điệu thở dài"
(Notre coeur est un instrument incomplet, une lyre ou il manque des cordes, et où nous
sommes forcés de rendre les accents de la joie sur le ton consacré au soupir). Tâm hồn
con người chưa giác ngộ là như vậy, cho nên những kiệt tác văn học của
nhân loại phần lớn đều là những thiên bi kịch và trường hận ca. Thi
hào Pháp Alfred de Musset nói:
Lời tuyệt vọng là lời ca đẹp
nhất
Và tôi biết những bài ca bất tử
chỉ thuần là điệu thổn thức não nùng
(Les plus désespérés sont les chants
les plus beaux. Et j'en sais d'immortels qui sont de purs sanglots)
Con người càng dồi dào từ
ngữ và tài liệu để diễn tả nỗi khổ bao nhiêu, thì lại có vẻ nghèo
nàn thiếu thốn khi cần diễn tả hạnh phúc bấy nhiêu. Khi những vở kịch
đến giai đoạn nhân vật bắt đầu hết cơn bỉ cực, thì màn cũng từ từ
hạ. Dù có diễn thêm cũng không ai xem, vì các cảnh vui vầy sum họp phần
lớn đều giống nhau, đều tẻ nhạt đáng nhàm. Dường như hạnh phúc
không phải là cái cần diễn đạt, hay vì thiếu tài liệu để diễn tả
hạnh phúc. Ngay dù khi tả một cảnh vui, thì cái vui ấy cũng "nghe
ra ngậm đắng nuốt cay thế nào", cũng chỉ là trá hình của
khổ. Keats nói:
Nụ cười chân thật nhất
Thường vẫn nhuốm đau thương
Tiếng ca êm ái nhất
Thường vang dội ý buồn,
(our sincerest laughter
with some pain is fraught
our sweetest songs are those
which tell of saddest thought)
Tâm hồn con người đã là một
khí cụ bất túc, một khí cụ chỉ dành để diễn đạt và cảm thọ khổ
đau, thì làm sao hiểu được Niết bàn là hạnh phúc tuyệt đối, bất khả
tư nghì? Một nhà thơ Phật giáo viết:
Nợ tử sinh chưa ra hhỏi sáu
đường
Làm sao thoáng được mùi hương vô
tận?
Nói đúng hơn, khi ngã hoàn toàn
tiêu diệt thì có Niết bàn. Vậy thì ai Niết bàn. Trả lời
câu hỏi này, có lẽ Phật cũng đã lúng túng, vì biết trình độ chúng ta
không hiểu nỗi. Nên Ngài chỉ dạy một bài kệ, ai hiểu sao thì hiểu:
Vô hữu niết bàn Phật
Vô hữu Phật niết bàn
Viễn ly giác, sở giác
Mâu ni tịch tịnh quán
Thị tắc yểm ly sanh
Thị danh vi bất thủ
Kim thế hậu thế tịnh
(Kinh Lăng Già)
Không Phật vào niết bàn
Không niết bàn của Phật
Xa lìa biết bị biết
Bậc thánh lặng quan sát
Nhờ vậy sanh nhàm chán
Ấy là không ôm giữ
Đời này lẫn đời sau.
Khi ngã chấp tiêu diệt thì khổ hết,
Niết bàn hiển lộ, như mây tan thì trăng hiện. Ảo tưởng về ngã vướng
vào đâu thì khổ đó, ảo tưởng về ngã tan đi ở đâu thì Niết bàn ở
đó. Cho nên Khổ hay Niết bàn, cả hai vừa ở khắp nơi, vừa không ở nơi
nào, như câu ngạn ngữ "họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu"
(họa phước không có cửa, chỉ do người tự rước vào). Kinh Pháp Hoa
có câu:
Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Có nghĩa rằng bản thể các pháp vẫn
thường Niết bàn, không một dấu vết của dục vọng đau khổ. Khi nói
"Niết bàn là vắng lặng không còn khổ đau, dục vọng” người
ta thường đồng hóa Niết bàn với cõi chết hoặc trạng thái vô vi thụ
động như pho tượng. Có người cho rằng tu thành Phật để leo lên tòa
sen ngồi làm thinh cho thiên hạ hì hục lạy, thì cũng chẳng được cái
tích sự gì. Làm như thể thành Phật thì chỉ có thành một cái tượng xi
măng mà thôi. Mãn Giác thiền sư phải thêm hai câu để ám chỉ diệu dụng
của niết bàn:
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng anh đề liễu thượng
Vì trong cái thể vắng lặng tịch
diệt kia, hàm ẩn một nguồn sống vô tận như thiên nhiên vốn im lặng,
mà đến khi xuân về thì muôn hoa khoe sắc:
Xuân đến trăm hoa cười
Oanh vàng ca liễu thắm
Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh
cũng vậy, có một diệu dụng khôn lường. Con người chỉ thật là người
khi biết kềm chế dục vọng phát sinh từ ngã chấp, và khi ngã chấp hoàn
toàn tiêu diệt, con người ấy trở thành bất tử. Đức Thích Tôn của
chúng ta là một Con Người như vậy. Ngài đã từ bỏ tất cả ngai vàng
điện ngọc để trở thành một khất sĩ nghèo khổ lang thang rày đây mai
đó, từ trần dưới một gốc cây, thế mà cuộc đời Ngài đã trở
thành nguồn cảm hứng bất tận cho hàng triệu người. Giáo lý của Ngài
truyền lan khắp nhân loại suốt trên 25 thế kỷ, làm lợi lạc cho vô số
sinh loài, kể cả những chúng sinh bé bỏng. Đó không phải là diệu dụng
của Niết bàn hay sao?
Niết bàn tuy vậy, vẫn không phải
là cái gì ta có thể đi tìm mà được, vì có tìm kiếm tức đã bao hàm
cái ngã đang tìm kiếm khát khao, vậy là đã có đau khổ. Nói rằng "tôi
khát khao thành Phật" hay "làm sao để tôi phá trừ được
ngã chấp", cũng phi lý như nói "tôi làm sao rèn luyện
được đức nhũn nhặn, khiêm tốn" mặc dù nghe qua rất hợp lý.
Nhưng cái tôi nào muốn tự xóa mình, nỗ lực để phá trừ ngã chấp,
thì vô tình đã làm cho ngã hiện lù lù ra đó một cách còn rõ rệt hơn,
như khi một người nào muốn biểu lộ sự khiêm tốn của họ vậy! "Làm
cách nào" ám chỉ một đường lối, phương pháp, kỹ thuật...
là những thứ thuộc lĩnh vực chính trị, khoa học. Đạo trái lại, chỉ
là một cái nhìn. Pàli có từ ngữ Ehi passika chỉ đạo Phật là
đạo đến để mà thấy: Khi thấy rõ thân ngũ uẩn này là cát bụi
giữa thời-không vô cùng, đời sống dăm ba chục năm của cái thân ấy
trên mặt đất chỉ là một chút bọt nước trên đại dương hiện tượng
sinh diệt tiếp nối vô tận, thì ngã chấp tự tiêu tan như sương mai gặp
ánh nắng mặt trời, còn gì mà phải diệt trừ với nỗ lực. Một Thiền
sư bảo, mong cầu thành Phật thì vị Phật ấy chính là nguồn gốc của
luân hồi sinh tử. Khi được hỏi: "Làm sao tôi thoát được bánh xe
luân hồi?" Một Thiền sư hỏi lại: "Ai buộc ngươi vào
đó?" Đạo là một cái cửa không lối vào, hay một lối vào
không cửa: vô môn quan. Đạo không có đường lối khuôn phép nào cả,
đường của đạo là đường chim bay không có hành tung dấu vết. Kinh Lăng
Già lấy biểu tượng một ngọn núi cao chót vót đứng cheo leo bên biển,
chỉ có ai đắc thần thông mới lên được, và thần thông ấy chỉ cho thánh
trí tự chứng, tự tu hành để thể hiện chân lý, không ai có thể
truyền dạy cho ai. Do đó mà đức Phật đã dè dặt bảo: "Trong 49 năm
thuyết pháp, ta chưa từng nói một lời". Bởi vì, dù Ngài
có khô cổ rát họng để truyền trao giáo pháp, Ngài vẫn không sao nói ra
được cái điều duy nhất đáng nói, mà chỉ phải nói quanh quẩn bằng
ẩn dụ, truyện xưa tích cũ theo đúng kiểu cách một nhà mô phạm khuyên
cái này nên làm, cái kia nên tránh, toàn những điều thuộc kỹ thuật tu
hành hơn là tâm điểm của đạo là cái không thể nói. Không thể nói,
có lẽ vì vừa quá đơn giản vừa quá phức tạp như hơi thở, có lẽ vì
tâm hồn chúng ta quá rắc rối kiêu căng không muốn chấp nhận rằng chân
lý, Niết bàn là cái gì ở ngay trong những sự vật tầm thường gần
gũi. Chúng ta ưa tìm kiếm cao xa và ưa nghĩ rằng những cái chúng ta đang tìm
kiếm phải rất thiêng liêng huyền bí. Chúng ta vô tình quên thực tế là,
những nhu yếu phẩm như nước uống, không khí, những thứ tối cần, quý
báu nhất cho đời sống vốn dĩ được phân phối đồng đều cho mọi
sinh vật, không có tiêu chuẩn. Chân lý hay Niết bàn cũng vậy vốn là của
kho vô tận dành cho tất cả mọi người. Thế mà vì thiếu giản dị, vì
quá kiêu căng, vì nghiệp lực buộc ràng, chúng ta cứ mãi mãi thiếu thốn
khát khao, mong cầu tìm kiếm, kết quả là càng tìm càng xa, càng mong càng
vắng. Như lời Phật dạy trong kinh Niết bàn, "chúng ta như kẻ ngu
đi tìm hư không, chạy khắp đông tây nam bắc không nơi nào bắt được
hư không". Lại có người thấy ngã quá đau khổ, muốn thoát
ly bằng cách tự hủy diệt, có biết đâu ngã đã là không thì có gì phải
diệt. Kẻ ấy chẳng khác nào "như người sợ hư không mà trốn chạy
khắp đông tây nam bắc không nơi nào thoát khỏi hư không".
Đó là tất cả bí ẩn của đau khổ và giải
thoát, của Sinh tử và Niết bàn.
Mục lục | 1 | 2 | 3 | 4
| 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10
| 11 | 12 | 13