- TỪ NGUỒN DIỆU PHÁP
12. VỌNG
MỸ NHÂN
Vào một ngày đẹp trời thanh
thản, vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) xứ Kosala dạo chơi trong vườn ngự uyển.
Khi nhìn ngắm những gốc đại thụ ở chỗ xa vắng tịch mịch, với những
tàn lá tỏa rộng che bóng mát, thật khả ái, đẹp mắt, nhà vua bỗng nhớ
đến Đức Thế Tôn và nghĩ: "Những gốc cây khả ái, đẹp mắt, lặng
lẽ, vắng người, thoáng gió, xa lánh mọi tụ hội đông đảo thích hợp
cho sự trầm tư mặc tưởng này, chính là nơi Thế Tôn thường ngự tòa,
chính là nơi chúng ta đảnh lễ Thế Tôn". Nghĩ như vậy rồi
vua quay sang bảo người hầu cận tên Kàràyana rằng:
– Này Kàràyana, ta nhớ đức Thế
Tôn. Mi có biết hiện nay Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh đẳng giác trụ tại
chỗ nào không?
– Tâu đại vương, lành thay đại
vương nghĩ đến Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh đẳng giác ấy. Ngài cùng với
đại chúng thường du hành khắp nơi, rày đây mai đó không có trú xứ
nào nhất định. Thật là một cuộc đời mây bay hạc lánh khó tìm dấu vết!
Nhưng may thay, lúc này Ngài đang dừng chân ở một thị trấn của dân
chúng Sakka, tên gọi thị trấn Medalumpa.
– Cách đây bao xa?
– Tâu đại vương, cách không xa,
có thể đến đấy và trở về nội trong ngày.
– Vậy Kàràyana này, hãy thắng cỗ
xe. Chúng ta sẽ đi yết kiến Thế Tôn, bậc A la hán Chánh đẳng giác.
– Thưa vâng, tâu đại vương.
Vua cùng các quan hầu cận đi đến
thị trấn nơi Thế Tôn đang trú. Vua đi bộ vào Tinh xá. Lúc bấy giờ một
số đông Tỷ kheo đang kinh hành ngoài sân, vua hỏi:
– Thưa chư Tôn giả, Thế Tôn hiện
ở đâu. Chúng tôi muốn yết kiến Ngài.
Các vị Tỷ kheo chỉ vào một gian
tịnh thất bảo:
– Thưa đại vương, gian nhà cửa
đóng kín kia là nơi Thế Tôn đang nghỉ. Hãy im lặng đến gần, bước vào
hành lang thật nhẹ, sau khi đằng hắng, hãy gõ cửa. Thế Tôn sẽ mở cửa
cho đại vương.
Đến nơi, vua cởi vành khăn đội
đầu (một cử chỉ cung kính, như ngày nay ta cởi nón mũ) và trao thanh kiếm
hộ thân cho quan hầu cận. Quan hầu cận hiểu ý vua muốn vào một mình, vội
dừng lại ngang chỗ vua bỏ kiếm. Vua đến đằng hắng và gõ cửa tịnh
thất của Thế Tôn. Thế Tôn mở cửa. Sau khi bước vào căn nhà, vua cúi
đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, lấy miệng hôn chân Thế Tôn, lấy tay xoa
chân Thế Tôn và tự xưng tên:
– Bạch Thế Tôn, con là vua
Pasenadi nước Kosala.
Thế Tôn hỏi:
– Do thấy những gì mà đại
vương lại hạ mình tột bực và biểu lộ tình thân ái đối với thân
này như vậy?
Vua kể những lý do sau:
– Bạch Thế Tôn! Trong khi con thấy
nhiều vị Sa môn Bà la môn, các giáo phái khác hành trì phạm hạnh có giới
hạn chỉ trong một thời gian rồi lại trở về thế tục thụ hưởng năm
món dục lạc, thì các vị Tỷ kheo đệ tử của Thế Tôn thực hành phạm
hạnh viên mãn đến trọn đời. Do đó con nghĩ: Thế Tôn là bậc chánh đẳng
giác, pháp được Thế Tôn khéo giảng, chư tăng đệ tử của Thế Tôn
khéo hành trì!
Lại nữa, bạch Thế Tôn ở đời
và ở các tập thể xã hội, trí thức, tôn giáo, triết học khác con thường
thấy vua chúa cãi lộn với vua chúa; Bà la môn cãi lộn với Bà la môn, gia
chủ cãi lộn với gia chủ, cha mẹ cãi lộn với con cái, anh chị em cãi lộn
với nhau... Còn trong pháp luật Thế Tôn con thấy các vị Tỷ kheo sống với
nhau thuận hòa, thân hữu không cãi lộn, hòa hợp như nước với sữa, nhìn
nhau bằng cặp mắt ái kính. Bạch Thế Tôn, con không thấy một
chỗ nào có một phạm hạnh viên
mãn thanh tịnh như vậy. Do đó con kính ngưỡng Thế Tôn.
Lại nữa, bạch Thế Tôn. Khi đi du
hành con thường gặp các vị Sa môn, Bà la môn, các giáo phái khác gầy gò
khốn khổ, bạc nhược không đẹp mắt chút nào. Con đến hỏi và các vị
ấy trả lời rằng: "Tâu đại vương, chúng tôi bị bệnh gia truyền".
Còn ở trong pháp và luật của Thế Tôn, thì con thấy các vị tỷ kheo hoan
hỉ, phấn khởi, các căn thoải mái, tịch tịnh, bình tĩnh, khinh an. Do vậy
con kính ngưỡng Thế Tôn và nghĩ "Pháp được thế tôn khéo giảng,
đệ tử chúng tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con là
vua cả nước, có quyền sinh sát trong tay, vậy mà khi con ngồi xử kiện đôi
khi có người dám ngắt lời con, dù con đã ra lệnh không được ngắt lời.
Còn ở đây, con thấy trong khi Thế Tôn thuyết pháp cho đồ chúng hàng trăm
ngàn người, thì không một ai gây tiếng động. Một lần, con thấy khi Thế
Tôn đang thuyết pháp, có một vị đệ tử ho lên và liền bị một vị đồng
phạm hạnh khẽ đập vào đầu gối, bảo nhỏ: “Tôn giả hãy im lặng,
chớ làm ồn. Bậc đạo sư của chúng ta đang thuyết pháp". Bạch
Thế Tôn, do vậy con kính ngưỡng Thế Tôn và nghĩ: "Thật là vi diệu!
Chúng Thích tử này khéo được huấn luyện không cần đến gậy kiếm".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy
nhiều học giả các giáo pháp thật uyên bác, muốn chất vấn Thế Tôn,
bàn sẵn những câu để khích bác, nhưng khi đến trước Thế Tôn, tất cả
những học giả ấy đều câm lặng, và sau khi được pháp thoại của Thế
Tôn làm cho hoan hỉ, phấn khởi, đều xin quy y Thế Tôn, trở thành đệ tử
của Thế Tôn. Do vậy con kính ngưỡng Ngài.
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con có
hai quan giữ ngựa ăn cơm của con, đi xe của con, nhờ con mà sống, chính
con đem lại danh vọng cho chúng. Vậy mà chúng không hạ mình với con như với
Thế Tôn. Có một lần, trên đường hành quân, con và hai quan giữ ngựa
vào nghỉ đêm trong một căn nhà hẹp giữa rừng. Sau khi cùng nhau đàm luận
về chánh pháp đến quá nửa khuya, cả hai quan giữ ngựa của con nằm xuống
ngủ, để đầu hướng về phía mà chúng được nghe là Thế Tôn đang ngự,
và trở chân về hướng con nằm. Bạch Thế Tôn, khi ấy con nghĩ thật sự
những vị này chắc phải ý thức một sự thù thắng trong giáo lý của Thế
Tôn, nên mới có thái độ tôn trọng cùng tột đến coi nhẹ mạng sống
như thế. Do vậy, con kính ngưỡng Thế Tôn.
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
thuộc đấng Sát đế lỵ, Thế Tôn người nước Kosala, con cũng thuộc nước
Kosala. Thế Tôn 80 tuổi, con cũng 80 tuổi. Do vậy, con sẵn sàng hạ mình tột
bực đối với Thế Tôn và biểu lộ tình thân ái.
Kể xong những lý do trên, vua
Pasenadi đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi kiếu từ.
Sau khi vua ra về Thế Tôn kể lại cho các tỷ kheo và dạy: "Này các
Tỷ kheo, đấy là các pháp trang nghiêm, các ngươi nên học tập. Các pháp
trang nghiêm này là căn bản của phạm hạnh".
Lời bàn:
Đọc xong kinh Pháp trang nghiêm, kẻ
hậu bối này không khỏi cảm khái vài ý nghĩ
1. Vua Ba Tư Nặc trước cảnh
đẹp thiên nhiên, phi tần mỹ nữ không nhớ, rượu ngon thịt béo không
nghĩ, mà chỉ nhớ tưởng đến Phật thiết tha như nhớ cha nhớ mẹ và tức
tốc tìm đến nơi để đảnh lễ Ngài. Thật là một ông vua hiền, xứng
đáng được sinh đồng thời với Phật, gặp Phật. Và đức Phật của chúng
ta cũng thật may mắn hơn đức Khổng Phu Tử nhiều. Vì trong lúc đó bậc
Thánh Trung Hoa sinh đồng thời với Phật, đã phải than phiền về ông vua
bê bối mê nàng Nam Tử rằng: "Nhà vua trọng sắc hơn trọng đức".
Nhưng đối với vua Ba Tư Nặc ngày xưa cũng như với Phật tử chúng ta
ngày nay, thì Đức Thế Tôn là NGƯỜI ĐẸP CỦA MUÔN ĐỜI VÀ VẠN LOẠI,
cho nên mới có câu: "Vọng mỹ nhân hề, thiên nhất phương".
2. Trong 7 lý do vua kể
vì sao vua kính mộ Phật là:
– Chư đệ tử xuất gia theo Phật
sống phạm hạnh trọn đời (trên nguyên tắc không kể đến những trường
hợp cổi áo cà sa vì lý do kỹ thuật).
– Đệ tử Phật không cãi lộn.
– Đệ tử Phật lóng tai chí
thành nghe pháp
– Nhan sắc đệ tử Phật tươi tốt
vui hòa giải thoát (không có bị bệnh gia
truyền).
– Những người muốn khích
bác Phật, khi đến trước Ngài đều được cảm hóa, thành đệ tử Ngài.
– Hai quan giữ ngựa ăn lộc vua mà
kính Phật hơn vua.
– Phật đồng giai cấp huyết thống
với vua.
Trong 7 điều, ta thấy hết 5 diều
liên hệ đến tư cách của Phật tử, qua tư cách đó vua cảm mộ và quy y
Phật, đủ thấy tư cách người theo Phật quan trọng thế nào. "Nhân
năng hoằng đạo" là vậy.
3. Về điểm thứ 6. Vua thấy
hai bề tôi phạm tội khi quân, dám nằm quay chân về phía mình, mà chưa vội
nổi sân đòi chém đầu, lại lần dò tìm hiểu lý do tại sao những kẻ
ấy có thái độ cung kính một người khác hơn mình như vậy, trong khi chính
mình lại là người dem lại cho chúng bổng lộc, danh vọng, cầm trong tay
sinh mạng của chúng. Thái độ ấy quả là tư cách sáng suốt của một
ông vua có trí.
4. Về điểm cuối cùng, vua
ngưỡng mộ Phật vì Phật cùng một giai cấp, một ca-lip với mình. Đúng
là kiểu suy tư của hạng thượng lưu xã hội, đối với hạng này, Phật
tánh thật có nam bắc. Họ sẽ không chịu quy y một chàng bán củi như Lục
Tổ Huệ Năng khả ái kính của chúng ta đâu. Có lẽ vì vậy đức Phật
phải hạ sanh vào dòng dõi vua chúa để độ cho hạng vương giả. Tất cả
đều là phương tiện thiện xảo của Bồ tát để độ sanh: khi cần sanh
vào hàng
cao sang, các ngài cũng không từ khước, mục đích
chính yếu là thuyết pháp độ sanh, không câu nệ hình thức. Khi cần ngồi
xe bò thuyết pháp, cứ ngồi xe bò. Khi cần lên xe Mercedès thuyất pháp thì
đi Mercedès. Ngày nay, nhiều người câu nệ phẩm bình sao vị kia đi tu mà
còn ngồi xe sang hoặc ngồi xe tồi... đều là những lời phẩm bình chấp
tướng nông nổi.
Mục lục | 1
| 2 | 3 | 4
| 5 | 6 | 7
| 8 | 9 | 10
| 11 | 12 | 13