- TỪ NGUỒN DIỆU PHÁP
-
- 7. NGỖNG VÀ CHAI
Một người nuôi một con ngỗng
trong một cái chai. Khi ngỗng lớn, làm sao để đưa ngỗng ra khỏi chai mà
chai không vỡ, ngỗng cũng không chết? Đấy là một trong những công án
thiền.
Giữa các giải đáp, có người đề
nghị con ngỗng nhịn ăn bớt uống cho thể xác gầy mòn để chui ra (khổ
hạnh để giải thoát). Có người bi quan, cho rằng ngỗng nhất định
phải chết (cá nhân phải bị tập thể hay hoàn cảnh nghiến nát). Có
người cho ngỗng tượng trưng ngã chấp, ngã chấp càng lớn thì thấy cổ
chai càng nhỏ, không thể nào chui ra, nếu xóa bỏ ngã chấp như hư không,
thì còn cổ chai nào không lọt? Lại có quan niệm cho rằng, trong hay ngoài
chai đều là những lối nhìn phiến diện, đối với cái nhìn toàn diện
thì không có trong ngoài, và khi ấy tâm được giải thoát không còn thấy
trong
ngoài. Chỉ cần mở rộng cõi
lòng, thì đâu cũng là nhà, vì "đâu mà chẳng có chút trời xanh".
Theo nhận xét thông thường, thì đây
quả là một thế nan giải: hoặc ngỗng phải chết, hoặc chai phải vỡ,
không thể nào cả hai đều nguyên vẹn. Đó cũng chính là cái thế nan giải
của con người trước cuộc đời. Mọi bi kịch lớn nhỏ đều bắt nguồn
từ xung đột giữa cá nhân với tập thể (gia đình, xã hội) và người
ta dường như phải chọn chỉ một trong hai đường: hoặc đạp đổ cái
khung tập thể đang giam hãm mình để được tự do cá nhân (chai phải vỡ)
hoặc là đành héo mòn trong cái khung ấy (tức là để cho ngỗng chết).
Hoặc nếu không chết khô, thì cá nhân cũng phải vùng vẫy để thoát
ra bằng mọi giá, ôn hòa thì chọn cái "quẻ" ép xác
khổ hạnh (lối thoát của nhà khổ tu để tự độ), mà bạo động
thì tạm đập đổ để xây dựng một khuôn khổ mới hợp ý mình hơn. Với
phương pháp sau này, nhiều cá nhân phảí bị hy sinh, hiện tại phải bị
hy sinh cho một tương lai nào đó.
Đạo Phật, trước vấn đề ngỗng
và chai sẽ nêu lên câu hỏi: "Con người và cuộc đời cá nhân với
hoàn cảnh, là hai hay một?". Xét cho cùng, ta chính là cuộc
đời và cái khung mà ta tưởng rằng mình bị nhốt trong đó. Chính ta đã
tạo ra cái khung ấy, không ai khác. Ta có liên hệ mật thiết với cái
khung xã hội này, cả bề ngang cũng như bề dọc, bề rộng cũng như sâu
trong không gian và trong thời gian. Cái tôi bao hàm sự hiện diện của
vô số người và vật không-phải-tôi: thân này không có, nếu không có tổ
tiên ông bà cha mẹ, nếu không có bà bán rau cải, nhà nông, thợ dệt, thợ
mộc, thợ nề, nếu không có đất nước lửa gió, ánh sáng mặt trời...;
"cái tôi", tinh thần, tâm linh sẽ không có nếu không
có những tiền bối đông tây kim cổ, một cộng đồng siêu thời không,
mà đối với ta đôi khi gần gũi hơn cả người láng giềng gần nhất, ta
cảm như cùng thở một bầu không khí với họ mỗi khi đọc sách, tư duy.
Sự tương quan giữa một và tất cả đó, giáo lý Hoa Nghiêm gọi là pháp
giới trùng trùng duyên khởi. Vậy thì, cái khung (hoàn cảnh) và con
người không phải là hai. Không phải chuyện tình cờ ngẫu nhiên nếu ta
phải sống trong một mẫu mực xã hội nào đó: chính ta đã chọn lựa
nó, một cách hữu thức hay vô thức.
Nhận thức điều đó không có nghĩa
rằng ta phải bó tay cam chịu, hoặc trụy lạc theo thói đời, vì tưởng mình
đã là con đẻ của hoàn cảnh thì có làm gì cũng vô ích. Đạo Phật cho
rằng, cuộc cách mạng chân thực phải bắt đầu từ bản thân, và chỉ
khi nào con người có trưởng thành trí tuệ mới có thể có cuộc cách mạng
căng để đưa con người đến tự do tuyệt đối, nghĩa là giải thoát mà
không là giải thoát khỏi một cái gì: mọi cái khung đều là ảo tưởng
do tâm tạo. Giải được nó là giả, thì liền thoát không cần phải
đập vỡ cái gì cả, nên " Bồ tát đi vào đời mà không xáo trộn
trật tự của cuộc đời", cũng không bị đời chi phối, mà
ngược lại còn tác động sâu xa trên những người đồng thời và mai hậu:
điển hình là sự âm thầm từ giã cung điện vào lúc nửa đêm của thái
tử Siddhartha cách đây gần ba ngàn năm. Bồ tát vẫn ung dung sống giữa đời
bốc cháy ngọn lửa tham dục bằng thái độ kham nhẫn, từ bi, như dãi nước
mát trên sa mạc, như ngọn gió thanh lương giữa trưa hè oi bức. Bồ tát
nhìn chúng sinh còn tham đắm không khác người lớn nhìn trẻ con đang ham
thích đồ chơi: sự mê say của chúng là đương nhiên, vì chúng chưa
lớn. Đến một giai đoạn, chúng sẽ
bỏ đồ chơi ấy. Không ích gì lý luận với chúng rằng đó chỉ là đồ
giả, hay giật đồ chơi của chúng liệng đi, hay bực bội vì sự đam mê
của chúng. Trái lại, Bồ tát nhìn chúng sinh với lòng bi mẫn: "Họ
và ta chỉ là một, vì còn mê nên gọi là chúng sinh, đến khi hết mê thì
đều là Bồ tát". Không hoan hô hay đả đảo bất cứ gì , Bồ
tát vẫn thung dung sống giữa cuộc đời ô nhiễm như đóa sen vươn lên từ
bùn dơ:
Như từ đống rác thối
Quăng bỏ trên đại lộ
Ở đấy hoa sen mọc
Tỏa hương đẹp ý người
Cũng vậy giữa quần sinh
Mù lòa và ô nhiễm
Bậc thánh đệ tử Phật
Tỏa trí tuệ sáng ngời.
(Pháp cú 58-59)
Trí tuệ và Từ bi của Bồ tát như
vết dầu loang, ảnh hưởng sâu rộng theo nguyên lý "trùng trùng
duyên khởi" đã nói: khi một người tu, cả nhà ảnh hưởng,
một nhà tu, cả xóm ảnh hưởng, cứ như thế, ảnh hưởng tốt đẹp từ
từ lan rộng cho đến vượt quá biên cương một quốc gia, một thời đại,
như đạo Phật từ một nước Ấn Độ đã lan tràn khắp Âu châu, Á
châu, Úc châu, Mỹ châu ngày nay.
Vậy, còn đâu là cái chai nhốt ngỗng?
Mục lục | 1
| 2 | 3 | 4
| 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10
| 11 | 12 | 13