- TỪ NGUỒN DIỆU PHÁP
13. NỮ GIỚI
TRONG ĐẠO PHẬT
Thông thường, nói đến phụ
nữ, người ta nghĩ ngay đến những phong trào đòi bình quyền, đòi quyền
sống, đến những quan niệm kỳ thị nam nữ, những ý kiến ủng hộ hay
chống đối trước những quan niệm ấy, chia ra hai phe rõ rệt mà người bênh
vực sự kỳ thị đa số là phái nam, và người chống đối luôn luôn là
phái nữ. Tựu trung, vấn đề kỳ thị nam nữ cũng như kỳ thị chủng tộc,
tôn giáo... bao hàm tranh chấp quyền lợi và thế lực. Ở đâu còn
tranh chấp, ở đấy sẽ còn đủ loại kỳ thị. Sự kỳ thị chỉ chấm dứt
khi nào con người vươn lên bình diện tâm linh, nơi không còn tranh chấp.
Trong địa hạt vật chất cũng như tinh thần, khi một người no tất phải
có những kẻ khác đói, một người dư dật thì kẻ khác phải thiếu thốn,
một người được gọi là tài giỏi hay ho tất phải có kẻ chịu tiếng
vụng về khờ khạo. Niềm hân hoan, sự chiến thắng của một cá nhân hay
một đoàn thể này bao hàm nỗi tủi nhục, sự thất bại của một cá
nhân, một tập đoàn khác. Chỉ trong địa hạt tâm linh, niềm vui của ta mới
không phải trả giá bằng nỗi khổ của người, mà còn tỏa rộng bóng
mát của nó cho mọi kẻ chung quanh. Chỉ trong địa hạt tâm linh, mỗi con
người mới có thể đạt đến tự do tuyệt đối mà không phương hại đến
kẻ khác, và chỉ trong địa hạt tâm linh, tình yêu mới không thể biến
thành ganh ghét hận thù. Cho nên chỉ có những bậc Thầy tâm linh vĩ đại
mới không có thành kiến về phụ nữ, vì họ đã vượt ra ngoài tranh chấp,
ra ngoài yêu ghét thường tình. Đức Phật chính là bậc Thầy tâm linh vĩ
đại đã mở ra cho nữ giới con đường giải phóng không những ra khỏi một
thân phận đen tối thấp hèn, lệ thuộc vào nam giới, mà còn ra khỏi ngục
tù bản ngã nhỏ hẹp để vươn lên Chân lý, Niết bàn.
Nói chung, những đức tính và thói
xấu của phụ nữ khác hẳn của nam giới. Nếu ở nam giới Trí tuệ được
đề cao, thì đức tính được đề cao ở nữ giới là Từ bi, bởi thế
mà tượng Bồ tát từ bi đều có dạng nữ. Nếu ở nam giới, can đảm chí
khí được tán dương thì ở nữ giới người ta chờ đợi sự nhẫn nhục
ôn hòa, đức bao dung tha thứ. Thánh Gandhi đã xem phụ nữ là hiện thân của
đức khoan hồng. Nếu ở nam giới, sự ăn to nói lớn, hoạt bát hùng hồn
là một đức tính thì trái lại, đức tính của phái nữ nằm trong sự nhũn
nhặn. Nếu ở nam giới, quyền lực uy phong được ca tụng thì ở nữ giới,
đức tính cần thiết là khiêm tốn. Nhưng những đức tính nữ có những
mặt trái đánh lừa ta, ví dụ ta dễ lẫn lộn sự si ái với từ bi, hoặc
có khi ta tưởng mình từ bi mà kỳ thực chỉ là thói bám víu và ưa che chở
quá mức cần thiết. Vì người đàn bà đóng một vai trò quan trọng trong
việc đem lại sự sống, nên họ dễ xem mình là tất cả, dễ nghĩ rằng
không có ta đây thì không xong. Đức tính im lặng nhẫn nhục nơi phụ nữ
có thể có mặt trái là chấp trước, ôm hận xuống tuyền đài, khó giải
thoát. Đức tính nhũn nhặn khiêm tốn của phụ nữ có thể chỉ là thói
nhút nhát ỷ lại, đỏm dáng, luôn lệ thuộc vào kẻ khác. Chính vì muốn
phát huy những đức tính và sửa trị những thói xấu nơi phụ nữ, mà đức
Phật đã chế ra Bát kỉnh pháp và những giới luật riêng cho hàng nữ xuất
gia. Nhiều người đã căn cứ vào Bát kỉnh pháp (tức 8 điều mà Ni phải
tuân giữ đối với Tỷ kheo Tăng) và căn cứ vào việc Phật chế giới
cho Ni nhiều hơn Tăng, mà cho rằng Phật kỳ thị nam nữ. Thật ra, vì phái
nữ có những điều kiện vật lý tâm lý khác hẳn nam giới cho nên giới
luật cũng khác. Riêng về Bát kỉnh pháp, chúng ta có thể đi ngược dòng
lịch sử để xét lý do Phật chế tám điều cung kỉnh. Trong đoàn thể xuất
gia đầu tiên của Phật không có nữ lưu. Mãi đến nhiều năm sau khi thành
lập tăng đoàn, bà mẹ nuôi Đức Phật là Hoàng hậu Mahaprajapati (Đại
Ái Đạo) cùng với 500 nữ nhân dòng Thích Ca mới đến xin Phật thế phát
xuất gia. Phật từ chối. Lần thứ hai khi nghe Đức Phật đang ở Kỳ hoàn
Tinh xá, Hoàng hậu cùng 500 nữ nhân ấy từ xa xôi lặn lội, đi bộ rách
cả gót chân, y phục lấm lem đất bụi, đến nơi đứng ngoài cửa khóc
lóc thảm thương. Ngài A Nan thấy thế động lòng can thiệp giúp cho hoàng
hậu và sau ba lần Ngài năn nỉ Phật mới bằng lòng cho bà và 500 nữ
nhân xuất gia với điều kiện phải tuân Bát kỉnh pháp. Phật biết tâm
lý kiêu căng cố hữu của người phụ nữ, mặt trái của bản năng làm mẹ,
ưa bảo bọc và tự cho mình quan trọng. Bà Mahaprajapati là một vì đương
kim Hoàng hậu, lại là Mẹ nuôi đã chăm sóc Thái tử (Phật trước khi xuất
gia) từ khi mới ra khỏi lòng mẹ được bảy ngày. Bà có đủ tất cả lý
do để kiêu căng ngã mạn khi bước vào hàng ngũ xuất gia. Nếu Phật không
chế ra Bát kỉnh pháp thì rất có thể bà sẽ trổ trời mà lên, không coi
ai vào đâu nữa. Nếu ở đời Bà đã sai bảo được lính tráng quan hầu,
thì không lý do gì khi vào đạo và lại là Mẹ của Phật, Bà không sai bảo
được những nam tu sĩ choai choai đáng đầu con cháu bà? Một kỉnh pháp
có lẽ cốt chĩa vào Kiều Đàm di mẫu chứ không ai khác, vào thời gian sớm
sủa ấy khi chưa có nữ nhân nào xin đi tu: "Một vị Tỷ kheo Ni dù 100
tuổi hạ cũng phải cung kính vái chào mời ngồi một Tỷ kheo Tăng dù mới
1 tuổi (thật ra là 21 tuổi vì tuổi tối thiểu để thọ tỷ kheo giới là
20, cộng thêm một năm tuổi hạ)". Một lý do khác là để giữa Tăng
và Ni phải có khoảng cách trong hòa khí. Nữ giới hay quá đà: hoặc quá
thân thì mất cung kỉnh, dễ lờn hoặc quá sơ thì dễ đi đến chỗ kiêu
căng tự phụ cho rằng ta đây có thể tự lập không cần ai dắt dẫn. Do
đó một kỉnh pháp khác bắt buộc Ni phải thỉnh thoảng đi đến tỷ kheo
Tăng xin chỉ giáo, để luôn luôn nhớ địa vị khất sĩ của mình, nghĩa
là phải cầu pháp. Ta cần lĩnh hội Bát kỉnh pháp một cách sâu xa hơn,
ấy là phải kính trọng tất cả, vì trở ngại lớn nhất cho người tìm
Đạo là thói kiêu căng. Thánh Gandhi nói: "Người tìm chân lý phải
xem mình hèn mọn hơn cát bụi. Vũ trụ nghiền nát cát bụi dưới chân
mình, song kẻ đi tìm chân lý phải nghĩ mình nhỏ nhoi đến độ bụi cát
cũng có thể nghiền nát mình. Chỉ khi đó con người mới mong có được một
tia sáng nào của chân lý". Như vậy, người nữ nào thực
tình muốn xóa ngã chấp thì không nên mặc cảm về Bát kỉnh pháp, và nam
tu sĩ cũng không có lý do gì để tự hào.
Phái nữ có những lãnh vực hoạt
động khác hẳn lãnh vực nam, không thể so sánh. Nếu trong xã hội, đàn
ông nắm giữ những địa vị then chốt thì trong gia đình, giềng mối lại
do đàn bà nắm giữ. Bởi thế đức Phật thường dùng danh từ Màtugàma
những bà Mẹ, để tỏ ý kính trọng khi nói về những phụ nữ lớn tuổi
và danh từ Pàramàsakhà (những bạn tốt của chồng) để chỉ những phụ
nữ đã kết hôn. Đông phương có danh từ "nội tướng" chỉ
những bà mẹ đảm đang trong gia đình, những bà Mẹ có một ảnh hưởng
vô cùng quan trọng trong sự giáo dục con cái. Về điểm này chúng ta có thể
tìm ví dụ trong tiểu sử những bậc Thánh như ngài La Thập, mà thân mẫu
đã đóng góp một phần không nhỏ trên đường tiến tu đạo nghiệp; Ngài
Dhammapala một vị hộ pháp có công chấn hưng Phật giáo tại Tích Lan và
sáng lập hội Mahabodhi cũng đã nhờ công lao rất nhiều của thân mẫu. Tiểu
sử ghi rằng thân mẫu Ngài đau buồn trước tình cảnh nền tín ngưỡng
Phật giáo cổ truyền của xứ sở bị cuốn trôi trước những làn sóng
xâm lăng của dị giáo, đã thường tha thiết cầu nguyện sinh được một
người con trai đầy đủ tài đức để phục hưng tôn giáo nước nhà. Bà
đã được toại nguyện, ngài Dhammapala đã ra đời giữa tiếng kinh vang rền
của chư Tàng, hương trầm nghi ngút. Bà sống một đời thánh thiện trong
thời kỳ hoài thai bậc Thánh, mong người con sau này phải trở thành cứu
tinh của dân tộc. Bà Mạnh mẫu cũng đã chọn chỗ ở thích hợp để nuôi
dạy người con về sau đã trở thành một vì á Thánh của Trung quốc.
Thân mẫu của Mahatma Gandhi cũng đã gây một ảnh hưởng lớn trong đời bậc
vĩ nhân này, và triết gia Anh lỗi lạc là Bertrand Russell cũng đã được
giáo huấn từ tấm bé bởi một bà nội đầy nghị lực quả cảm không
thua gì nam giới. Những tỉ dụ ấy đầy rẫy trong các tiểu sứ những vĩ
nhân của nhân loại. Những bà mẹ ấy đã dễ dàng bị lãng quên trước
sự thành công sáng chói của những người con, nhưng chính sự lãng quên
ấy lại là một phần làm nên sự vinh quang của những bà mẹ, với đức
hy sinh vô bờ không chờ đợi được đền đáp hay được nhắc nhở. Đức
hy sinh xả kỷ của những bà mẹ vĩ nhân nói chung ấy đáng lẽ chúng ta
phải xây đài kỷ niệm như chúng ta đã xây đài kỷ niệm những chiến sĩ
vô danh.
Vai trò then chốt của những bà mẹ
trong gia đình được tỏ rõ qua kinh nghiệm: ta thường thấy rằng khi một
gia đình có người cha vô trách nhiệm nhưng được bà mẹ đảm đang đức
hạnh thì gia đình vẫn còn vững, con cái vẫn có thể làm nên nấu chín.
Trái lại khi một gia đình có bà mẹ bê tha thì gia đình ấy kể như tan rã,
con cái bơ vơ không nơi nương tựa. Một văn hào Pháp đã nói: "Chính
phụ nữ là những người tạo dựng và phá hoại gia đình!" (Ce
sont les femmes qui font et dèfont la maison.) Trong khi công việc của nam giới
là khai sáng dựng xây, thì công việc của nữ giới là duy trì, bảo vệ
và hỗ
trợ cho những công trình công ích.
Trong những phong trào, những tổ chức văn hóa và tôn giáo, phụ nữ thường
là những người bảo trợ và hưởng ứng, như bà bá tước Chatelet với lâu
đài Cirey đã giúp văn hào Voltaire trú ẩn chính quyền Pháp, tại đây ông
đã sáng tác những tác phẩm bất hủ cho nhân loại.
Trong lãnh vực Tôn giáo, vai
trò hỗ trợ của phụ nữ lại càng quan trọng hơn. Vào thời Đức Phật
còn tại thế, đã có rất nhiều phụ nữ trong số những đệ tử Phật,
điều ấy được chứng tỏ qua Kinh tạng và Luật tạng bằng tiếng Pali.
Luật Pali (Vinaya Pitaka) có hai chương dành cho nữ giới là Bhikkhunivibhanga
và Bhikkhuni khandhaka nói đến những giới luật mà Tỷ
kheo Ni và những nữ nhân tập sự
xuất gia phải tuân giữ. Họ là những phụ nữ
thoát ly gia đình để đi tìm sự
an tĩnh nội tâm, sự tự chủ, ánh sáng tri thức, và trên tất cả tìm Giải
thoát, trọng tâm căn để của Phật giáo như Đức Thế Tôn dạy: "Cũng
như nước trong bốn biển chỉ có một vị mặn, Đạo của ta cũng chỉ thấm
nhuần một vị, ấy là vị Giải thoát". Trong số đông đảo
phụ nữ xuất gia hồi Đức Phật còn tại thế, có nhiều người đã chứng
đến quả A la hán, quả vị cao tột mà một đệ tử đương thời của Phật
có thể chứng đắc, mà chứng tích còn tồn tại đến chúng ta qua những
bài thơ (kệ) họ thốt ra sau khi đắc quả, những bài kệ này được ghi
lại trong Kinh tạng Pali gồm ba phần: phần thứ nhất quan trọng hơn cả gọi
là Therigàthà (Trưởng lão Ni kệ) gồm những bài thơ của 73 vị nữ tu lớn
tuổi gọi là Trưởng lão Ni. Phần thứ hai là Bhikkhuni Samyutta, một phần
trong kinh Samyutta Nikàya (Tạp A hàm) sưu tập những bài kệ của 10 vị Trưởng
lão Ni trong số kể trên; và phần cuối cùng là Apadàna là tập tiểu sử
viết bằng thơ kể lại đời của 40 vị Ni sống đồng thời với Đức
Phật, so với 547 tiểu sử của các vị Tăng. Đương thời đức Phật,
trong khi Tăng bộ có hai vị là Sariputta (Xá Lợi Phất) và Mogallàna (Mục
Kiền Liên) cai quản thì Ni cũng do hai vị Ni đã đắc quả A la hán hướng
dẫn là bà Khemà và Uppalavannà. Nhiều vị nữ đệ tử khác cũng đã được
Đức Phật liệt vào hàng lỗi lạc nhiệt thành. Sự thành lập Ni bộ của
Đức Phật đã được các nhà dân tộc học cho là một việc làm vô cùng
cách mạng, nếu ta xét đến yếu tố thời gian cách đây 2500 năm và không
gian là xứ Ấn Độ đầy thành kiến đối với phái nữ. Không những
ngày xưa mà ngay hiện tại nhiều nơi ở Ấn vẫn còn giữ tục lệ Purdah
tức tục che mặt của phụ nữ khi ra đường, và họ phải sống trong
phòng the khóa kín. Theo tục lệ Ấn giáo, phụ nữ không được giáo dục,
không được làm những công việc ngoài đường dù nhỏ mọn như bán trầu
thuốc, rau cải, tất cả đều do đàn ông đảm trách. Sinh con gái là một
điều bất hạnh cho mọi gia đình, vì phải lo việc gả chồng và sắm của
hồi môn. Hơn nữa trong Xã hội Ấn Độ thời bấy giờ, cũng như ở Trung
Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam, mọi gia đình đều xem con trai là rường cột
trong việc nắm giữ giềng mối tổ tông và lo việc tế tự thờ cúng. Việc
tế lễ trong đó nhiều sinh vật thường bị giết làm vật hy sinh, được
thực hành sâu rộng và người ta tin rằng khi người cha trong gia đình chết
đi mà không có con trai nối dõi tông đường thì linh hồn ông sẽ thành ma
trở về quấy phá. Do đó nếu một người đàn bà không sinh được con
trai, thì người chồng có thể cưới vợ khác và ngay cả có thể trục xuất
bà ra khỏi gia đình. Nhưng kể từ khi đạo Phật ra đời, những truyền
thống của Xã hội Ấn đã trải qua một cuộc đổi thay. Phật giáo dạy
rằng sự tế tự phải bắt nguồn từ nội tâm, bằng cách gột rửa những
tư tưởng ngã chấp, thiêu đốt tham sân si. Sự tế tự phải tránh xa mọi
hành vi tàn bạo độc hại đối với mọi sinh vật khác. Hoàng hậu
Mallikà nhờ thấm nhuần những tư tưởng ấy của đạo Phật, đã trở
thành một Phật tử tại gia. Bà đã thuyết phục được vua Pasenadi khỏi
nghe lời một giáo sĩ bà la môn, giết nhiều muôn sinh trong một đại tế
đàn để thế mạng vua. Lại nữa, lý thuyết Phật giáo theo đó mỗi người
chịu trách nhiệm việc sinh tử của mình, đã bật tung gốc rễ của truyền
thống tế tự thần linh để cầu sinh con trai, hay tin rằng linh hồn người
cha sẽ trở về quấy nhiễu nếu việc cúng tế không được chăm sóc chu
đáo. Với lý thuyết nghiệp, đạo Phật không tin vào những vụ cúng tế
dù để xin con trai hay để chuộc tội lỗi. Vị trưởng lão Ni tên Punna
trong một bài kệ có nhận xét rằng nếu lễ tắm rửa trong nước sông
có thể tẩy sạch tội lỗi và thanh hóa con người thì những loài tôm cua
rùa cá và rắn nước đáng lẽ phải được lên thiên đàng tất cả. Như
vậy, với sự xuất hiện của Phật giáo, người phụ nữ Ấn không còn
phải quá lo ngại và bị ngược đãi khi không sinh được con trai, vì người
ta đã nhận thức được rằng cuộc sống đời sau của người cha hoàn
toàn tùy thuộc vào những hành vi hiện tại của ông, chứ không phải do sự
cúng tế của người con trai hay con gái nào cả. Và
sự kế nghiệp gia đình cũng không
còn quá lệ thuộc vào người trưởng nam như trước. Ngày nay ở bờ biển
Tây Ấn còn có một giai cấp Bà la môn rất xưa cũ gọi là Nairs có truyền
thống chỉ trao quyền thừa kế cho con gái. Điều này có thể là do một
ảnh hưởng của đức Phật. Chúng ta được kể rằng khi vua Pasenadi tỏ vẻ
buồn bã thất vọng vì Hoàng hậu Mallikà sinh con gái, đức Phật đã an
ủi vua bằng những lời lẽ như sau:
"Tâu Đại vương, một cháu
gái có thể còn tốt hơn cả một bé trai
Cô bé có thể trở thành một thiếu
nữ hiền đức
Biết kính trọng mẹ chồng, và
làm một người vợ tốt
Nàng có thể sinh một người con làm
nên việc lớn
Cai trị những vương quốc lớn rộng
Trở thành một người lãnh đạo
quốc gia".
Một truyền thống khác cũng đã
được Đức Phật xóa bỏ với cuộc cách mạng của Ngài là thành kiến
khinh bỉ đối với những phụ nữ sống độc thân cho đến già. Với sự
xuất hiện của Phật giáo và đoàn thể Ni chúng, đoàn thể phụ nữ độc
thân có tổ chức đầu tiên, người phụ nữ không lập gia đình dù chưa
phải là Phật tử cũng bắt đầu thấy tự do thoải mái, nàng có thể ra
đường mà không bị phỉ báng, hài lòng với công việc thích hợp như phụng
dưỡng cha mẹ, săn sóc đàn em, chăm lo nhà cửa. Nàng có thể trở thành
chủ nhân những gia sản lớn, có nhiều nô bộc đất đai ruộng vườn
như trường hợp nàng Subhà con gái người thợ kim hoàn. Sau khi nghe pháp
nàng đâm chán ngấy mọi thú vui thế tục và gia nhập đoàn thể Ni. Như vậy
ta thấy giáo pháp của Phật đã mở rộng cho tất cả hàng phụ nữ không
phân giai cấp: bà Mahapajapati mẫu hậu cao sang quyền quý, nàng Subhà giàu
có, nàng Isidàsi đau khổ, nàng Ambapali ăn chơi. Theo các bài kệ và tiểu sử
những vị này, về sau đều trở thành những bậc Trưởng lão Ni và đều
đắc quả. chúng ta được biết Isidàsi là một phụ nữ đau khổ có bốn
đời chồng, khi xuất gia sống đời giải thoát Bà đã diễn tả trong một
bài thơ nỗi niềm vui sướng vì đã thoát khỏi một cách vinh quang ba điều
khó chịu là "cối, chày, và người chồng bất chính" và khi
đắc quả Bà đã hân hoan thốt lên: "Tôi đã thoát khỏi sống chết,
tôi đã cắt đứt sợi dây luân hồi" (Trưởng lão ni kệ 11.).
Bà Pàtàcàra một phụ nữ bị mất một lượt hai con, chồng, cha, mẹ và
anh trong một tai nạn
thảm khốc. Nhờ thần lực Phật,
Bà được gặp Ngài và ngay sau khi nghe Pháp từ chính Kim khẩu đức Thế Tôn,
Bà đã đắc sơ quả và xin xuất gia. Một hôm xuống rửa chân trong dòng
suối, nhìn nhu74ng giọt nước từ bàn chân nhỏ xuống tan trong dòng nước
trôi đi, bất giác Bà nghĩ đến sự mong manh của đời người chẳng khác
nào những giọt nước kia, sớm muộn cũng tan rã, chấm dứt. Đức Phật
đọc được những ý nghĩ ấy và biết tâm Bà đã sẵn sàng chứng quả
cao hơn, đã thuyết pháp cho Bà. Nghe xong thời pháp Bà đã đắc quả A la hán,
và từ đấy trở thành nguồn an ủi cho nhiều phụ nữ bất hạnh khác.
Đến trường hợp nàng Ambapali là
một kỹ nữ kiều diễm ăn chơi của kinh thành Vesali mà nhan sắc đã làm
cho vua Bimbisara suýt mất mạng, Đức Phật cũng đã cảm hóa được và khiến
nàng trở thành một người xuất gia thanh tịnh trong hàng ngũ ni chúng. Sự
kiện Phật độ cho nàng Ambapali xuất gia đã chứng tỏ đức bình đẳng và
lòng từ bi bao la của Phật, hơn nữa đấy còn là một bằng chứng hùng hồn
cụ thể của lời Phật dạy là ai cũng có Phật tính, có thể đắc đạo
miễn là họ chịu nỗ lực rèn luyện bản thân.
Nhưng không phải đoàn thể ni
chúng chỉ gồm những phụ nữ muốn thoát ly gánh nặng gia đình và đời
sống cam go; những người đau khổ tìm đến niềm an ủi của một đoàn
thể, mà còn gồm cả những phụ nữ có khả năng tâm linh cao vượt, muốn
thẳng tiến lên con đường của các bậc thánh. Đó là những người như
Bà Bhaddhà Kundalakesin trước kia là một đồ đệ Kỳ na giáo, chuyên môn
đi khắp xứ để tranh biện với những người uyên bác. Một ngày kia Bà
tranh luận với Tôn giả Xá Lợi Phất. Tôn giả đã giải được tất cả
những vấn nạn của bà và đưa Bà đến Đức Phật. Vừa nghe Phật thuyết
pháp bà đã đắc quả A la hán và gia nhập đoàn thể Ni. Đây là một trường
hợp hiếm thấy nơi phụ nữ, đắc quả trước khi xuất gia. Bà lại còn
có cái vinh dự được chính Đức Phật cho xuất gia với mấy lời đơn giản:
“Lại đây hỡi nữ hhất sĩ". (Ehu bhikkhunì thiện
lai, tỷ kheo ni.) Một vị Trưởng lão Ni khác nữa có trình độ tâm linh
cao là Bà Bhaddhà Kàpilàni (TLNK 63) Bà này đã xuất gia cùng một lượt với
chồng là Kassapa. Việc này rất thường xảy ra vào thời Phật tại thế,
khi nhân cách sáng chói của Ngài chiếu thẳng vào mọi tâm hồn và cảm
hóa được tất cả, khiến cho người ta có thể lìa bỏ những gì thân
yêu nhất để đi theo tiếng gọi của chân lý. Hai người này đã thỏa
thuận cùng nhau xuất gia sống đời lang thang như chính đức Phật và các
đệ tử của Ngài. Họ khởi hành cùng lúc nhưng liền chia tay để đến
nơi Đức Phật theo những con đường khác nhau, vì sợ người ta lầm tưởng
họ còn ái luyến, và sự nghĩ quấy này có thể rước lấy ác báo. Trong
Trưởng lão kệ có ghi rằng mãnh lực của quyết định này nơi đôi bạn
đã làm chấn động quả đất.
Một phụ nữ đặc biệt khác nữa
là Bà Dhamadinnà, vợ Visàkha một đệ tử tại gia thuần thành của Phật.
Khi Bà xin phép xuất gia, Visàkha tiễn đưa Bà đến một Ni viện, nhưng
ông thì vẫn làm cư sĩ tại gia. Sau khi đắc quả A la hán Dhammadinna có lần
thảo luận về Pháp với ông Visàkha. Những cuộc trao đổi này được ghi
lại trong kinh Cùlaveddala Sutta, Pali tạng. Phật xem vị sư nữ
Dhammadinna là một trong những đệ tử "thuyết pháp đệ nhất"
và ấn chứng cho tất cả những gì Bà đã nói. Ngài bảo Visakha rằng
nếu hỏi Ngài, Ngài cũng sẽ dạy hệt như Dhammadinna đã nói, và những lời
của Bà được trở thành Buddhavacana, Phật ngôn. Một trường hợp
khác mà lời một vị Ni được xem như Phật ngôn là khi Phật xác nhận lối
giải thích của vị Ni (khuyết danh) ở Kajangala. Vị Ni này đã giải đáp
10 câu hỏi quan trọng.
Riêng về sự ủng hộ Phật pháp bằng
cách cung cấp tứ sự cúng dường cho đoàn thể Tăng Ni, và sống một đời
tại gia hợp với chánh pháp, hàng phụ nữ đương thời đức Phật cũng
đóng một vai trò khá quan trọng. Một trong những thí chủ hào phóng thời
ấy là Bà Visakhà được Đức Phật chuẩn y cho phép thi hành tám điều công
đức gồm: cúng dường vật thực cho chư tăng khi vào thành Xá vệ, khi rời
thành, cúng dường vật thực cho người bệnh, người nuôi bệnh, thuốc
men cơm cháo cho những người cần, y phục cho chư Tãng vào mùa mưa và áo
tắm cho Ni. Những nữ đệ tử tại gia nổi tiếng khác là Hoàng hậu
Mallikà (Mạt lợi phu nhân) đã có công hướng dẫn vua Pasenadi (Ba tư nặc)
theo chánh đạo, Bà Nakulamàtà đã cứu chồng thoát khỏi tử thần. Những
ví dụ tương tự rải khắp tạng kinh Pali cho ta thấy phụ nữ đã là những
người ủng hộ đắc lực cho đoàn thể Tăng chúng trong thời Phật tại
thế, và hộ trì chánh pháp không những bằng sự cúng dường vật thực,
bằng lòng kính thành sùng đạo của họ, mà quan trọng nhất là chính họ
đã hướng dẫn gia đình theo chánh đạo, từ bỏ những thói tục dị
đoan và trở thành những đệ tử trung kiên của Phật.
Trong Phật giáo hiện đại cũng thế,
những công tác Xã hội để hàn gắn những vết thương của đồng loại
trong lúc gặp chiến tranh ách nạn, phần nhiều là do Ni và nữ Phật tử
nhiều từ tâm xả kỷ. Hàng nữ xuất gia cũng như tại gia hiện tại cũng
đóng một vai trò hộ trì không kém phần quan trọng đối với những công
trình lớn lao của Giáo hội, thông thường là việc gây ngân quỹ.
Về phương diện tinh thần, đoàn
thể Ni chúng là một tấm gương sáng, một niềm khích lệ an ủi cho nhiều
phụ nữ bất hạnh trong sinh hoạt gia đình. Những lúc tinh thần căng thẳng
rối loạn vì đời sống hôn nhân, họ đến chùa và được tăng thêm tự
tin khi thấy có những người con gái đáng đầu con cháu họ đang dạn dĩ
bước đi một mình trên đường đời, lấy Chân lý làm bạn và lấy
chúng sinh đau khổ làm gia đình. Họ bỗng nhận ra rằng một gia đình nhỏ
với dăm ba đứa con hóa ra không phải là mục tiêu duy nhất của người
phụ nữ, nhiều phụ nữ khác có thể sống trọn vẹn hơn mà không cần
gì đến những phụ tùng phiền toái như họ. Biết bao nhiêu người đàn
bà đau khổ đã được cảm hóa khi biết hướng tâm hồn của họ về
ánh sáng Phật pháp thay vì quanh
quẩn trong bóng tối của một bản
ngã nhỏ hẹp với những vấn đề bất tận dàn ra trước mắt mà họ
không thể nào giải quyết. Nhiều phụ nữ đã thú thật nếu không nhờ
Phật pháp có lẽ họ đã hóa điên hay ra thân tàn ma dại. Quả thế trong
thời buổi chiến tranh nhiều tang tóc này, chắc chắn Phật giáo đã cứu
vớt rất nhiều phụ nữ. Bao nhiêu gia đình nhờ thấm nhuần chánh pháp
mà giữ được bình tĩnh trước những tai biến tầy đình trút lên đầu
họ. Có thể nói trong một nước chịu nhiều chiến tranh, phụ nữ là
thành phần đau khổ nhất. Vì họ là những người đã trực tiếp mang lại
sự sống, nên cũng xót xa nhất trước cái chết của những người con.
Nhưng nhờ Phật giáo, có những bà mẹ đáng lẽ héo mòn trong đau khổ, đã
tìm thấy con đường phục vụ, tham gia công tác cứu khổ của Phật giáo
để thấy Khổ đế lan khắp mặt đất chứ không riêng gì bản thân
mình. Khi nhận ra điều này, cõi lòng họ sẽ lắng lại, và trong họ nảy
sinh một tình thương lớn, lan dần, tỏa rộng ra đến tất cả mọi ngườì
và mọi loài đau khổ, nỗi khổ đau mà họ đã hơn một lần thực chứng.
Để kết luận, có thể nói Phật
giáo đã đem lại một niềm an ủi vô bờ cho những phụ nữ đau khổ, đã
mở ra một con đường vinh quang cho những phụ nừ có khả năng giác ngộ.
Ngược lại, phụ nữ cũng đóng góp một phần quan trọng trong việc duy
trì bảo vệ Chánh pháp. Dưới ánh sáng tâm linh của đức Phật, không có
vấn đề kỳ thị mà trái lại, mọi người mọi loài đều được hiển
lộ đúng chỗ của nó và đều quan trọng, đều cần thiết như nhau. Quan
niệm bình đẳng giữa nam nữ càng được tỏ rõ trong đại thừa giáo như
trường hợp Long nữ thành Phật trong kinh Pháp Hoa, hay trường hợp Phật
thọ ký cho các Bà Ma ha ba xà ba đề và Da du đà la thành Phật, hoặc trường
hợp trong kinh Duy ma cật với đoạn ứng đối hào hứng giữa Tôn giả Xá
lợi phất và Long nữ. Nhưng quan niệm bình đẳng của Phật giáo phải
được đặt căn bản trên tài và đức thì sự bình đẳng ấy mới có ý
nghĩa thực thụ chứ không phải chỉ có tính cách chính trị, mị dân.
Chính người phụ nữ phải nỗ lực gột bỏ những thói xấu cố hữu và
trau dồi những đức tính, khả năng của họ để tạo nên sự bình đẳng
ấy chứ không phải ngồi một chỗ kêu gào người ta đem đến cho mình,
vì khi ấy sự bình đẳng nếu có thì cũng chỉ trên lý thuyết. Đức Phật
dạy rằng chỉ có tự chúng ta làm
cho chúng ta thanh cao hay hèn hạ, không ai
khác có thể nâng cao hay hạ thấp phẩm giá của
ta. Trong vấn đề phụ nữ cũng vậy, khi người đàn bà chấm dứt những
tệ đoan thường thấy, khi họ không tự hạ giá bằng cách biến mình
thành một thứ hoa chỉ để trang hoàng cho vui mắt, khi họ không quá chú
trọng bề ngoài mà biết thực sự đề cao, theo đuổi những giá trị tinh
thần tâm linh, biết sống vì chân lý, thì họ không có lý do gì để mặc
cảm về thân phận mình, lại càng không có lý do gì để kiêu căng, mà chỉ
sống như một con người, đơn thuần là một con người, và theo Phật
giáo, đấy là một địa vị thuận lợi mở ra muôn ngàn khả năng đạt
đến Tuyệt đối, Niết bàn.
Mục lục | 1
| 2 | 3 | 4
| 5 | 6 | 7
| 8 | 9 | 10
| 11 | 12 | 13