- Ðức Phật Lịch Sử
(The Historical Buddha)
- H.W. Schumann (1982)
M. O'C. Walshe dịch sang Anh ngữ (1989)
Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch Việt (1997)
Mục lục
Lời Giới thiệu
1. Thời niên thiếu - Cuộc tầm cầu
- Giác ngộ (563-528 TCN)
2. Thành lập Giáo hội và khởi đầu Hoằng pháp (528 TCN)
3. Hai mươi năm đầu tiên (528-508 TCN)
4 Giáo lý, Tăng chúng, và giới cư sĩ
5. Ðức Phật Gotama và các phương diện tâm lý
6. Các năm sau
7. Cuộc hồi hương vĩ đại (485 TCN)
8. Phần cuối - Thư mục Tham khảo
-ooOoo- |
Lời
Giới Thiệu
Ðôi nét về tác giả quyển Ðức
Phật Lịch Sử
H. W. Schumann là học giả người Ðức
sinh năm 1928. Ông nghiên cứu ngành Ấn Ðộ học, các tôn giáo đối chiếu
và nhân chủng xã hội học tại Ðại học Bonn (Ðức). Ông nhận rằng tiến
sĩ năm 1957 với luận án Triết học phật giáo. Từ 1960 đến 1963 ông là
giảng sư Ðại học Ấn Ðộ ở Benares, Ấn Ðộ. Năm 1963 ông tham gia công
tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa liên bang Ðức, phục vụ ngành
ngoại giao và lãnh sự của Tây Ðức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến),
Chicago (Mỹ) và Colombo (Srilanka). Trong nhiều năm, ông đã đảm trách văn phòng
Ấn Ðộ tại Bộ Ngoại giao Ðức quốc. Hiện nay (1989), ông là Tổng lãnh
sự của CHLB Ðức tại Bombay (Ấn).
Trong suốt mười bảy năm ở Á
Châu, Tiến sĩ Schumann đã viếng thăm tất cả mọi nơi chốn liên hệ đến
cuộc đời Ðức Phật và thuyết giảng đạo Phật tại Ðại học Bonn.
Các tác phẩm gần đây nhất của ông là: "Buddhism: An Outline of Its
Teachings and Schools" (Ðạo Phật: Sơ Lược Các Giáo Lý và Tông Phái,
1973), quyển này trong bản dịch tiếng Ðức đã được in năm lần, và một
quyển sách hướng dẫn về tranh tượng Phật Giáo Ðại Thừa và Mật
Tông là quyển "Buddhist Imagery" (Tranh Tượng Phật Giáo, 1986).
Quyển "Ðức Phật Lịch Sử"
này phối hợp một công trình nghiên cứu uyên thâm về Kinh Tạng Pàli cũng
như lịch sử Ấn Ðộ và tính cách quen thuộc thân thiết với môi trường
Ấn Ðộ của vị học giả này.
Nhà xuất bản Arkana (1989)
Lời Giới Thiệu
Tác phẩm "Ðức Phật lịch sử"
là một công trình nghiên cứu uyên thâm do tiến sĩ H. W. Schumann, một nhà
Ấn Ðộ học người Ðức biên soạn và xuất bản đầu thập niên 90, sau
17 năm sống tại Ấn Ðộ để nghiên cứu đạo Phật và du hành khắp
vùng đã in dấu chân hoằng hóa của đức Phật cách đây 2500 năm. Tác phẩm
này giới thiệu bậc Ðạo sư như một vĩ nhân trong lịch sử tư tưởng
nhân loại đã đem niềm lại niềm tự hào cho đất nước Ấn Ðộ trước
lòng ngưỡng mộ của thế giới Ðông Phương cũng như Tây Phương trong bao
thế kỷ qua.
Ðó là hình ảnh của bậc Ðạo sư
giản dị nhưng trí tuệ siêu việt, đã thuyết giảng giáo lý Trung Ðạo
được thiết lập trên nền tảng vững chắc của Bốn Chân Lý Vi Diệu
và Mười Hai Nhân Duyên, đưa ra một nhân sinh quan và vũ trụ quan mới cho
xã hội Ấn Ðộ mang cổ đại truyền thống Vệ-đà hàng ngàn năm trước
đã gây bao nỗi chán nản thất vọng cho những người mong cầu các kinh
nghiệm tâm linh như thật đem lại ánh sáng Giác Ngộ Chân Lý.
Bước đường hành đạo của đức
Phật thật sinh động trong khung cảnh Ấn Ðộ cổ đại được minh họa bằng
các trích đoạn kinh kệ từ Tam Tạng Pàli nguyên thủy đầy thiền vị hòa
lẫn thi vị, cùng một số địa đồ đầy đủ chi tiết các vùng đất
xưa từng ghi dấu chân đức Phật Thế Tôn, từ vườn hoa Lumbini, nơi ngài
đản sanh cho đến rừng Sàli ở Kusinàrà, nơi ngài viên tịch trong Niết-bàn
tối hậu.
Phật giới học xưa nay đã quen thuộc
với hình ảnh đức Bổn sư qua bao kinh điển cùng các tác phẩm nghiên cứu
bình luận của nhiều học giả khắp thế giới, nhưng phần lớn các hình
ảnh ấy đã được ít nhiều thần thoại hóa hay tiểu thuyết hóa theo
quan điểm của mỗi soạn giả. Còn đặc điểm của tiến sĩ H. W. Schumann
là đã dày công nghiên cứu và xây dựng hình ảnh của đấng Giác Ngộ như
một người sống thật của Ấn Ðộ, với những nhận xét khách quan của
một học giả nghiên cứu có hệ thống rõ ràng theo phương pháp khoa học.
Cái nhìn của học giả H. W. Schumann về đức Phật có vẻ khác lạ với
quan niệm về đức Phật của Phật tử Việt Nam, nhưng đó chính là điều
bổ ích làm tăng giá trị của quyển sách trong sự đóng góp vào kiến thức
Phật học của tôn giả cùng Phật tử Việt Nam.
Riêng tôi được đọc sách này qua
bản dịch tiếng Anh của ông M.O'C. Walshe, người mà tôi đã gặp và làm
việc chung tại Luân Ðôn trong Giáo Hội Tăng Già Anh Quốc (English Sangha
Trust) nhiều năm qua. Ông Maurice Walshe là người Anh gốc Ðức, một nhà Phật
học nổi tiếng, đã dịch quyển "Ðức Phật Lịch Sử" này; vì vậy
quyển sách không những có giá trị về phương diện ngôn ngữ do sự hợp
tác của soạn giả và dịch giả trong sự hiểu biết thấu đáo về Phật
giáo nguyên thủy cùng ngôn ngữ Ðức-Anh.
Nhận thấy tác phẩm này có công dụng
thực tiễn phương diện nghiên cứu Phật học rất cần thiết cho Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam và giới Phật tử Việt Nam trong giai đoạn
hiện tại, tôi giao phó việc phiên dịch tác phẩm sang tiếng Việt cho cư
sĩ Nguyên Tâm Trần Phương Lan, giáo sư phụ trách môn Anh Văn Thuật
Ngữ Phật học tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam, Thành Phố HCM, cũng là
một dịch giả của Bộ Jàtaka (Kinh Bổn Sanh hay Chuyện Tiền Thân Ðức Phật)
thuộc Tiểu Bộ Kinh, tạng Pàli, một tác phẩm đắc sắc thấm đậm truyền
thống phong tục xã hội đời thường ở cổ Ấn Ðộ từ thời đức Phật
tại thế cùng Thánh chúng của ngài cho đến vài thế kỷ sau qua những
câu chuyện đầy tình người hòa lẫn hương đạo.
Với niềm mong muốn các giới
nghiên cứu Phật học Việt Nam đón nhận một quyển sách có giá trị mới
ra đời, cùng cống hiến cho Phật tử và độc giả Việt Nam một công
trình nghiên cứu thấu đáo.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu
dịch phẩm "Ðức Phật Lịch Sử".
Xuân Ðinh Sửu, 1997
Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
Tỳ-kheo Thích Thiện Châu
Lời Tựa Của
Tác Giả
Thật hiếm nhân vật trong lịch sử
tư tưởng nhân loại từng có ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài như đức
Phật Siddhattha Gotama, và cũng không ai từng để lại dấu ấn sâu đậm trên
toàn Châu Á như ngài. Ðạo giáo do ngài sáng lập không chỉ đem lại nguồn
an ủi cho vô số người mà còn cung cấp nền tảng học thuyết nhân bản
cao thượng và một di sản văn hóa vô cùng tế nhị. Bài thuyết pháp đầu
tiên do đức Phật dạy tại Lộc Uyển (Sàrnàth) gần Benares năm 528 trước
CN là một sự kiện lớn đem lại những kết quả đầy lợi lạc liên tục
mãi đến thời đại này.
Nhan đề "Ðức Phật Lịch Sử"
nói lên cả chủ điểm của quyển sách cùng các giới hạn phạm vi của
nó. Sách này không đề cặp các đức Phật phi lịch sử trong quá khứ và
tương lai vẫn thường được nhắc đến qua Kinh Ðiển Phật giáo; nó cũng
loại bỏ các truyền thuyết hoang đường bao phủ quanh cá nhân của đức
Phật lịch sử, ngoại trừ những điểm có thể tìm thấy tính chất lịch
sử trong đó. Sách này bàn đến con người với những đặc tính phi thần
thoại của một bậc Ðạo Hiền Trí, cùng với thời đại ngài sinh trưởng
và hoàn cảnh chính trị xã hội đã tạo điều kiện cho ngài thực hiện
sứ mạng cao cả đưa đến thành công như vậy.
Vì trước đây đã có nhiều sử
sách về cuộc đời đức Phật, nên một quyển lịch sử mới ra đời cần
có sự minh chứng rõ ràng. Ðiều này nằm trong sự thật là ngành Ấn Ðộ
học ở cương vị một khoa học cuối cùng đã chịu bước ra khỏi tháp
ngà từ hai thập niên vừa qua và giờ đây chuyển hướng nhìn theo cách
quan sát kỹ các đại tư tưởng gia Ấn Ðộ trong bối cảnh các biến cố
của thời đại cùng môi trường xung quanh các ngài. Thời đại đức Phật,
khoảng thế kỷ thứ sáu đến thế kỷ thứ năm trước CN, đã được soi
rọi trong một làn ánh sáng mới mẻ, kết quả của nhiều cuộc nghiên cứu
đầy công phu vừa qua.
Giờ đây đức Phật không còn được
nhìn như một thánh nhân đang du hành trên hư không, ta có thể nói như vậy,
mà là một nhà sáng lập đầy trí tuệ về mọi vấn đề thế gian, đã
hiểu biết cách tận dụng các hòan cảnh chính trị với tài năng lãng đạo
có kế hoạch tinh xảo, quả thật, giống như một nhân vật có thể sánh
với đệ nhất vĩ nhân trong thời hiện đại là Mahàtma Gandhi (bậc Ðại
trí Gandhi), một người đã hoàn thành xứ mạng của mình không chỉ vì đó
là một người Ấn Ðộ có đức độ thành tín mà còn là một luật sư
xuất chúng và là một tư tưởng gia có một đầu óc thực tiễn.
Không có thời kỳ nào trong lịch sử
thực sự là thời đại "cổ sơ hoàn hảo" cả, và thời đức Phật
cũng không phải là ngoại lệ như đã được chứng tỏ qua sự quan tâm của
dân chúng đến các tân học thuyết về giải thoát mới xuất hiện. Chúng
ta muốn công bằng nhận xét thuở đó như một thời đại con người không
khác chúng ta về trí thông minh cũng như về tiêu chuẩn đạo đức, nhưng
chỉ có một thế giới quan khác ta, và ít có quyền năng kỹ thuật đối
với các sức mạnh thiên nhiên mà thôi. Còn con người thời ấy cũng bị
các dục vọng chi phối giống hệt như chúng ta ngày nay vậy.
Nhiều người theo đạo Phật đôi
khi chủ trương rằng cá nhân đức Phật không quan trọng, vì rằng không
phải các sự kiện thoáng qua trong quãng đời ngài, mà chính toàn thể
giáo lý vượt thời gian của ngài mới đáng cho chúng ta chú tâm. Cũng có
vài điều cần bàn về quan điểm này, và quả thực chúng ta đặt đức
Phật ra ngoài hệ thống giáo lý của ngài mà không loại trừ một yếu tố
căn bản nào trong đó. Song về phương diện khác, mỗi quan điểm triết lý
là một cách giải thích chứng minh hợp lý thái độ tinh thần của tư tưởng
gia sáng tạo ra nó. Một người khác hay một người cùng ở trong các hoàn
cảnh khác nhau đã có thể phát triển thái độ tâm lý khác và do vậy có
thể lý luận cách khác, nghĩa là người ấy có thể suy tư cách khác. Như
thế, người sáng lập hệ thống giáo lý xứng đáng được quan tâm như một
cá nhân trong bối cảnh thời đại của vị ấy, nhất là đối với con
người Phương Tây vẫn thường suy nghĩ theo tương quan lịch sử; đối với
họ. Phương pháp đạt một tri kiến toàn diện cũng đáng chú ý như Thực
chất của nó vậy.
Hệ thống tôn giáo triết lý hướng
đến giải thoát mà đức Phật thuyết giảng cho người Ấn Ðộ đương
thời trong vòng 45 năm hành đạo của ngài được phát họa ở đây trong
hình thái cổ sơ nhất từng được biết đến. Còn các độc giả nào muốn
tìm hiểu những sự phát triển về sau của giáo lý đức Phật cần tham
khảo một sách khác của tôi: "Buddhism, An Outline of Its Teachings and
Schools" (Ðạo Phật: Sơ Lược Các Giáo Lý và Tông Phái), NXB Rider,
London.
Vì trong sách biên khảo này chúng
tôi không quan tâm đến các chi tiết triết lý, mà chỉ chú trọng các mối
tương quan hoặc sự kiện lịch sử của cá nhân, nên khả dĩ chấp nhận
việc nêu ra các lời dạy của bậc Ðạo Sư trong hình thức giản lược
hoặc diễn dịch cho dễ hiểu. Như thế lời dạy có thể sinh động hơn là
được trình bày theo lối văn thánh điển thường trùng lập, đó là sản
phẩm của nhiều đại hội Tăng chúng duyệt Kinh Tạng Pàli.
Kinh điển bằng ngôn ngữ Pàli nguồn
quan trọng nhất đối với người viết lịch sử đức Phật, như vậy các
danh từ riêng và thuật ngữ Phật học ở đây đều theo tiếng Pàli. Ví dụ:
Nibbàna (Pàli) thay vì Nirvana (Sanskrit). Những danh từ hay thuật ngữ khác đều
theo hình thức nào thông dụng nhất: Sanskrit, Prakrit Hindì.
Lẽ ra có thể minh họa sách này với
nhiều tranh ảnh hình tượng Phật. Nhưng tôi đã tránh làm điều này vì
các ảnh tượng của đức Phật qua nghệ thuật Ấn Ðộ chỉ xuất hiện
khoảng bốn thế kỷ rưỡi sau khi bậc Ðạo Sư tịch diệt, không lâu trước
CN và chúng tiêu biểu, không phải đức Phật Gotama lịch sử mà là bậc
Ðại Siêu Nhân (Mahàpurisa) đã được biến thành huyền thoại thần kỳ.
Như vậy việc đưa những tranh ảnh nghệ thuật Phật giáo vào đây có thể
tạo nên những yếu tố huyền thoại đã được gạn lọc ra từ đầu.
Ðức Phật lịch sử là đức Phật không có hình tượng nào cả.
Tôi chân thành cảm tạ tất cả những
vị giúp tôi thực hiện quyển sách này. Trước tiên là hiền phụ của
tôi trong suốt năm năm liền đã dành mọi buổi chiều tối yên lặng làm
việc, trước ở Bonn và về sau ở Colombo, vì vậy phải hy sinh nhiều dự
án cộng tác khác.
Tôi cũng hết lòng cảm ơn Thượng
Tọa Ðại Trưởng Lão người Ðức, tôn giả Nyànaponika, ở Sơn Lâm Thảo
Ðường (the Forest Hermitage), Kandy, Tích Lan, về sự hỗ trợ rất hào hiệp
và nỗ lực kiên trì ngài dành cho tôi. Mặc dù bận rộn các tác phẩm văn
học của ngài cùng các nhu cầu biên tập của Hội Xuất Bản Phật Học,
ngài cũng tìm được thời giờ đọc bản thảo của tôi thật cẩn thận.
Những ý kiến bình luận của ngài đã đóng góp rất lớn vào việc cải
thiện tính cách chính xác trong vài phần của sách này.
Cuối cùng nhưng không kém quan trọng,
tôi xin tỏ bày lòng biết ơn đối với ông M. O'C. Walshe, người dịch sách
này sang tiếng Anh. Dịch giả nguyên là giảng sư đại học môn Văn
Chương Ðức Ngữ, Phó Chủ Tịch Hội Phật học ở Luân Ðôn, đã từng dịch
bộ Dìgha Nikàya (Trường Bộ Kinh) sang tiếng Anh, và là tác giả nhiều
sách khác nữa, quả thật không có ai đầy đủ khả năng hơn để đảm
trách công tác phiên dịch này.
H. W. Schumann
-ooOoo-
Chú Thích Về Bản Niên Ðại
Ðôi lời giải thích về niên đại của đức
Phật lịch sử ghi trong sách này, theo bản niên đại đã được hiệu đính
của Tích Lan và đa số chấp nhận, đức Phật đã sống trong khoảng từ
563 đến 483 trước CN. Khuyết điểm rõ ràng của bản niên đại này được
nhiều nhà Ấn Ðộ học trước kia công nhận đã khiến Giáo sư P.H L.
Eggermont đặt lại vấn đề ấy trong bốn bài báo trên tạp chí Persica giữa
năm 1965 và 1979, từ đó, ông được Giáo sư Heinz Bechert ủng hộ (trong tạp
chí Indoldgia Taurinensia X, 1982). Cả hai học giả đều tin rằng các sử gia
viết tiếng Sinhala (Sri-lanka) đều sai và hai vị ghi niên đại của đức
Phật vào khoảng 115 năm sau đó. Lý luận của các vị ấy cũng đáng chú
ý nhưng cần phải triển khai thêm trước khi chúng được xem là cung cấp
chứng cớ cuối cùng và đưa đến một bản mới có thể chấp nhận được
được thay vào bản niên đại đã được chấp nhận trước kia. Do đó,
tôi chưa chấp nhận chúng, nhưng sẵn sàng để độc giả rút bớt 115 năm
từ các niên đại ghi những sự kiện trong cuộc đời đức Phật lịch sử.
Chân thành cảm ơn cư
sĩ Bình Anson đã tặng bản điện tử
M ục lục | Ia | Ib | Ic | Id | IIa | IIb | IIIa | IIIb | IIIc | IVa | IVb | IVc | IVd | Va | Vb | VIa | VIb | VII | VIII