...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Ðức Phật Lịch Sử
(The Historical Buddha)
- H.W. Schumann (1982)
M. O'C. Walshe dịch sang Anh ngữ (1989)
Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch Việt (1997)
Chương V
Ðức Phật Gotama và các phương diện
tâm lý
-oOo-
NHÂN DẠNG CỦA NGÀI
Kinh Ðiển Pàli có nhiều đoạn miêu
tả đức Phật do Bà-la-môn Sonadanta phát họa. Quả thật, trước kia vị Bà-la-môn
chưa gặp bậc Ðạo Sư vào thời điểm miêu tả này, vị ấy chỉ lập lại
những gì đã được nghe, nhưng sau đó vị ấy diện kiến ngài và nhận
ra rằng điều này thật chính xác:
"Quả thật Sa-môn Gotama diện mạo
tuấn tú, khả ái, gợi niềm tin tưởng, đặc biệt có làn da như màu hoa
sen, màu da tương tự như Phạm thiên, rực rỡ như Phạm thiên. Diện mạo
ngài thật cao sang. Giọng nói ngài thanh lịch, ngôn từ ngài diễn đạt
cũng vậy, tao nhã, tế nhị, hùng hồn, trong sáng và chính xác". (DN
4.6)
Làn da tươi sáng của đức Phật
được nhiều người đồng thời chú ý. Ngài thường được miêu tả "có
màu da sáng như vàng" và sau cuộc tranh luận sôi nổi với vị cư
sĩ Ni-kiền-tử Saccaka Aggivessana, vị ấy nhận xét rằng "màu da của
Tôn giả Gotama vẫn giữ nguyên vẻ trong sáng" (MN 36. 49). Trong một
xứ như Ấn Ðộ, nơi người ta chú trọng đến màu da và da có màu
"lúa vàng" được xem là dấu hiệu của cả giai cấp thượng lưu
(vanna: nghĩa đen: màu da) cùng với gia tộc cao sang, nhận xét này có ý nghĩa
không chỉ là ca ngợi diện mạo đức Phật mà còn tán tụng các tổ tiên
của ngài nữa.
Tuy nhiên không thể kết luận về
nguồn gốc gia tộc của đức Phật do màu da của ngài. Dân chúng ở cộng
hòa Sakiya một phần gốc Ấn, đa số gốc Indo-Ariyan. Họ nhập cư từ miền
Tây và Nam, và một phần gốc Mông Cổ từ Bắc tràn xuống dọc theo các
thung lũng bên bờ sông. Thời đức Phật có hai sắc tộc, dân Ấn màu nâu
và dân Mông Cổ vàng nâu, đã đồng hóa với nhau trong lãnh thổ bộ tộc
Sakiya này, vì thế có nhiều mẫu người tạp chủng và nhiều dân tộc có
đủ màu da phối hợp.
Một dấu hiệu cho thấy đức Phật
có lẽ thuộc về sắc tộc Ấn Ðộ hơn là sắc tộc Mông Cổ ở vùng Tuyết
Sơn là chiều cao của ngài. Dân tộc Mông Cổ thường mập lùn, thô kệch,
thấp hơn dân Ấn Ðộ, còn kinh sách ghi chép rằng đức Phật Gotama, ngay cả
khi đang du hành giữa đám dân chúng Ấn Ðộ ở miền Nam sông Hằng, cũng
vẫn hiện rõ dáng điệu oai nghi cao cả.
SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA NGÀI
Nếu quốc vương Suddhodana ở
Kapilavatthu từng nuôi hy vọng rằng Thái tử của ngài sẽ trở thành một
người cường tráng đầy năng động, quan tâm đến thế sự và có tham vọng
trị nước, thì ngài đã thất vọng. Vì nam tử này chẳng hề bị lôi cuốn
vào các trò tiêu khiển tập thể hay các buổi huấn luyện quân sự, mà lại
trở thành một người thích cô độc, với nhiều khuynh hướng về suy luận
triết lý và trầm tư mặc tưởng. Thay vì hưởng thụ mọi lạc thú đúng
với vị trí một hoàng tử, chàng lại phát triển các tiêu chuẩn của
riêng mình và bất mãn với thế gian vì phải chịu đựng những sự bất
toàn hảo ở đời. Ðồng thời, chàng lại trầm tư về cách làm thế nào
chàng có thể vượt lên cảnh đời ấy theo ý mình. Tóm lại, theo ngôn từ
tâm lý học, chàng là mẫu người trí thức nhạy cảm, thường xuyên hướng
nội. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi đời sống gia đình và hôn nhân
không làm chàng thỏa mãn và chàng đã nắm lấy cơ hội từ giã thế tục
để thành Sa-môn khất sĩ.
Chúng ta cần phải nhìn thấy trong
kinh nghiệm Giác Ngộ (bodhi) của đức Phật vào năm 528 trước CN cả
một biến cố trọng đại không chỉ đem lại Ðạo Pháp cho thế giới,
mà còn chuyển biến Thái tử Siddhattha Gotama với khuynh hướng nội tâm nổi
bật ấy thành đức Phật hướng ngoại theo định kỳ. Kinh nghiệm Giác
Ngộ ấy đã đổ xô về hướng biểu lộ tâm tư qua ngôn ngữ với một sức
mạnh vĩ đại biết chừng nào! Nó khiến đức Phật đi tìm nhiều người
để ngài có thể khai thị các khám phá của ngài và truyền thụ kho tàng
tâm linh mà ngài vừa tìm được.
Suốt bốn mươi lăm năm hoạt động
hoằng Pháp này, ta có thể quan sát đức Phật chuyển dịch giữa khuynh hướng
thiên về nội tâm và khuynh hướng ngoại giới. Các thời kỳ thuyết Pháp
thành công rực rỡ khiến ngài du hành từ vùng dân cư đông đúc này đến
vùng khác, có thể được phân biệt rõ ràng với những thời kỳ ngài mệt
mỏi vì quần chúng và tìm cách độc cư an tịnh. Ngài thích du hành một
mình (AN 6. 42 & SN 22. 81) "như tây ngưu". Giáo Pháp của ngài hợp
với người thích độc cư, chứ không phải với những người ham quần chúng,
ngài tuyên bố như vậy (AN 8. 30).
Tuy thế, ngài chỉ dành cho khuynh hướng
độc cư ở trong một số giới hạn, bởi vì dù ngài truyền bá một giáo
lý hướng nội ẩn dật, ngài cũng phải hướng ngoại và du hành giữa quần
chúng nếu ngài muốn có nhiều người được cảm hóa vào đạo. Về sau,
có sự phân biệt giữa một vị Ðộc Giác Phật (Pacceka-Buddha), một
vị Giác Ngộ riêng mình, xem các khám phá của mình là sở hữu riêng, nên
đã giữ im lặng về việc ấy, và một vị Toàn Giác hay Chánh Ðẳng Giác
(Sammà- Sambuddha) là vị Phật tuyên bố sự khám phá của mình về
con đường cứu khổ cho đời. Lý tưởng của vị Phật Toàn Giác cao thượng
hơn vì một bậc đại tuệ hiền trí có tri kiến tối thắng không chỉ
nghĩ đến tự lợi mà còn nghĩ đến lợi tha (AN 4. 186) .
Khi tuổi càng cao, các giai đoạn
hướng nội tâm của đức Phật càng kéo dài. Về phương diện truyền bá
Giáo Pháp, ngài hài lòng với sứ mạng thành công của ngài và không còn cảm
thấy nỗi phấn khởi của người diễn thuyết khi thính chúng bám sát từng
lời nói của mình và ngài chán ngán danh vọng (AN 5. 30) . Mặc dù ở độ
tuổi tám mươi ngài vẫn còn đầy đủ trí lực (MN 12. 62) và diễn thuyết
hùng biện, các ảnh dụ của ngài đã thiếu vẻ tân kỳ và màu sắc linh
động, còn các bài giảng Pháp của ngài có phần nào lập lại theo khuôn
mẫu cũ. Như vậy, càng ngày ngài càng cảm thấy việc giáo huấn chư Tăng
là vừa đủ cho ngài, nên chỉ khuyên răn giới cư sĩ khi được yêu cầu.
Về phần còn lại, thì từ nay Giáo hội đã phát triển thành một cơ cấu
có địa bàn rộng lớn với nhiều đệ tử truyền bá Giáo Pháp danh tiếng
lẫy lừng, cần phải đảm nhận chức vụ thuyết giảng này (DN 29. 15).
Trong các lý do khiến đức Phật giảm
bớt hoạt động thuyết Pháp, cần phải thêm một điểm quan trọng nữa:
khoảng từ độ tuổi sáu mươi, sức khỏe không cho phép ngài tiêu hao năng
lực nhiều.
Trước kia, đức Phật vẫn luôn
luôn nhận thức rõ vấn đề sức khỏe, và ngài cũng tuân hành các giới
luật của đời Sa-môn. Trong những tháng nóng nhất cuối mùa hạ ở Ấn
Ðộ, ngài cho phép mình ngủ trưa sau buổi thọ thực (MN 36. 46) và kiêng
ăn buổi tối để "giữ gìn sức khỏe, tươi vui, khinh an, dõng lực
và sống dễ chịu". (MN. 70)
Ngoài chứng bao tử đôi khi gây
xáo trộn, đó là điều không thể tránh được trong đời khất sĩ mà
ngài đã chữa khỏi bằng cách xoa dầu và dùng thuốc nhuận tràng (Mv 8. 1.
30), uống mật mía với nước nóng (SN 7. 2. 3) hoặc cháo lỏng có ba dược
liệu (Mv 6. 17. 1), ngài còn mắc chứng đau lưng lúc về già, có lẽ vì một
đốt xương sống bị trặc. Ðứng lâu khiến ngài đau lưng (AN 9. 4) và mặc
dù lúc ngài đến viếng Kapilavatthu, ngài ngồi trong hội trường mới xây,
dựa lưng vào cột, xương sống cũng làm ngài đau nên ngài phải nằm xuống
và bảo Tỳ-kheo Ànanda giảng tiếp Pháp thoại (MN 53) .
Hơi ấm thật tốt lành cho chứng
đau lưng ấy, có lẽ điều này khiến bậc Ðạo Sư thường xuyên tắm
các suối nóng khi trú tại Ràjagaha. Một bài kinh (SN 48. 5. 1) tả cảnh đức
Phật về già thường ngồi ở tinh xá Ðông Viên sưởi ấm lưng trần dưới
nắng chiều tà trong lúc thị giả Ànanda vừa xoa bóp đôi chân gầy yếu của
ngài vừa mải mê bàn luận về sự suy tàn của thân thể lúc tuổi già.
Chẳng bao lâu, trước khi viên tịch, bậc Ðạo Sư nhận xét rằng thân
ngài chỉ được duy trì sức sống nhờ chống đỡ bằng dây đai chằng chịt
(DN 16. 2. 25).
CÁCH ÐỨC PHẬT TỰ NHẬN XÉT MÌNH
Như đã nói ở trên, sự Giác Ngộ
bừng lên trong tâm vị vương tử Thích-ca ba mươi lăm tuổi này không chỉ
là một hoạt động của tri thức, mà còn là một chuyển biến về nhân
cách nữa. Do Giác Ngộ, ngài cảm nhận vô cùng sâu sắc rằng một bậc
Giác Ngộ không còn thuộc vào một hạng người nào trên thế gian này nữa,
mà đúng hơn, ngài tượng trưng cho một loại hữu tình đặc biệt (AN 4.
36):
"Ðừng xưng hô với ta (theo
cách thân mật cũ) là ‘hiền giả’", ngài bảo các bạn đồng tu
khổ hạnh ngày trước của ngài, khi ngài gặp chư vị sau thời kỳ Giác
Ngộ, "nay ta là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác" (Mv 1. 6. 12).
Ðặc biệt phi thường do quả Giác
Ngộ, lại có nguồn gốc quý tộc, học vấn xuất sắc và trí tuệ ưu việt,
đức Phật thấy không có lý do gì phải e ngại bất kỳ ai cả. Với các
đại vương và tiểu vương ở vùng "Trung Nguyên", ngài nói chuyện
thẳng thắn, không có gì dè dặt, và đàm đạo bình đẳng với các
Bà-la-môn thông thái nhất thời ngài. Ðối trị với sự kiêu mạn của một
số Bà-la-môn đã có lần bày tỏ vẻ khinh bỉ một cách thô lỗ (DN 3),
ngài cương quyết không chịu để cho họ xem ngài thấp kém hơn họ. Khi một
trong số ấy trách ngài không đảnh lễ các vị Bà-la-môn chuyên nghiệp
cao sang, không đứng dậy chào họ hoặc mời họ ngồi, bậc Ðạo Sư đáp
lại rằng ngài không thấy có ai trên đời xứng đáng để ngài tỏ ra
tôn trọng như vậy (AN 8, 11) . Ngài chỉ muốn phản
bác lại những điều tương tự như thế, chứ không có ý gì hơn. Ngài đã
từng tuyên bố, "Một vị A-la-hán không cảm thấy hơn hay kém bất
cứ ai khác". (AN 6. 49)
Ngành tôn giáo đối chiếu thường
phân biệt các vị sáng lập tôn giáo thành những nhà tiên tri và những
nhà huyền bí.
Nhà tiên tri là một người hướng
ngoại quá nhiệt tình, tâm trí bị ám ảnh bởi kinh nghiệm thần linh nên
cố thuyết phục người đồng loại tuân lệnh Thượng Ðế, và tìm cách
cải tạo thế giới theo ý Thượng Ðế. Vị ấy tạo được số tín đồ
bằng những lời hứa hẹn hạnh phúc và đe dọa trừng phạt đọa đày,
và vì không tránh né tranh chấp ở đời, nên khi vị ấy gặp xung đột với
những kẻ theo truyền thống cũ, thì thông thường phải chịu mạng vong do
bạo lực.
Trên phương diện khác, nhà huyền
bí khởi đầu từ quan điểm rằng giải thoát khổ đau không thể được
chứng đắc ở ngoại giới hay qua sự can thiệp của một vị thần linh nào,
mà nó chỉ có thể tìm thấy ở nội tâm - qua sự thâm nhập vào bên trong
của mỗi người. Bậc hiền trí như vậy sống hòa hợp với thế giới.
Thái độ căn bản của vị ấy là thái độ thanh thản, buông xả nội
tâm, an nhiên tự tại.
Ðức Phật tượng trưng mẫu người
huyền bí này. Vì ngài phủ nhận sự hiện hữu của một bản ngã, một
cái Tuyệt Ðối, nên kinh nghiệm Giác Ngộ của ngài mang hình thức một
sự đột phá trong tri kiến, chứ không phải sự hòa nhập vào cái huyền
bí (unio mystica). Ðó chính là tuệ giác thấy rằng thế giới với tất
cả khổ đau (dukkha) có thể được nhiếp phục, và nhờ nỗ lực mỗi
người, ta có thể chặt đứt vòng luân hồi sanh tử (Samsàra). Kinh
nghiệm của ngài về cái siêu nhiên, do đó ngài đạt địa vị cao quý ở
đời, là sự chứng đắc giải thoát bằng cách "dập tắt", tịch
diệt, Niết-bàn.
Bất cứ ai gặp ngài đều cảm thấy
rằng người này vẫn ở trong thế giới, nhưng không còn thuộc
về thế giới này nữa, và chính tuệ giác siêu phàm ấy đã
khiến ngài không bị nhiễm ô giữa thế giới hiện tượng luôn biến
chuyển.
"Này các Tỳ-kheo, Như Lai (tức
chính đức Phật) đã liễu ngộ thế giới và đã giải thoát khỏi thế
giới. Như Lai đã liễu ngộ nguồn gốc của thế giới (và của khổ đau)
và đã giải thoát khỏi thế giới. Như Lai đã liễu ngộ sự đoạn tận
thế giới và đã tự mình chứng đắc sự đoạn tận ấy. Như Lai đã liễu
ngộ và thuyết giảng con đường đưa đến sự đoạn tận thế giới. Bất
cứ những thứ gì trong thế giới từng được (do tri kiến giải thoát) thấy,
nghe, cảm nhận, thức tri, chứng đắc, tầm cầu, suy tư, tất cả những
thứ ấy đều được Như Lai liễu ngộ. Chính vì lý do này, ngài được gọi
là Như Lai". (AN 4. 23, giản lược)
"Này các Tỳ-kheo, ta không tranh
chấp với đời, chính đời tranh chấp với ta. Người Thuyết Pháp không
tranh chấp với bất cứ ai giữa đời.
Bất cứ điều (kiến) gì được
người hiền trí bác bỏ, ta cũng đều bác bỏ. Bất cứ điều (kiến) gì
được người hiền trí chấp nhận, ta cũng đều chấp nhận ...
Giống như một hoa sen xanh hay trắng
sinh ra trong nước, lớn lên trong nước (và vì có lớp màng phủ bên
ngoài) nên không bị nước làm ô nhiễm. Cũng vậy, Như Lai đã sinh trưởng
trong đời, đã vươn lên khỏi đời và an trú không bị đời làm nhiễm
ô". (SN 22. 94, giản lược)
Thật không có một nhà huyền bí
nào tự miêu tả đặc tính của mình chính xác hơn thế nữa.
Lời đức Phật khẳng định rằng
ngài chỉ công nhận những quan điểm (kiến) nào được người hiền trí
công nhận đáng cho ta quan sát kỹ lưỡng. Lời ấy dựa trên niềm tin vững
chắc rằng Giáo Pháp của ngài không phải là thứ triết lý do suy tư tạo
thành, mà phát xuất từ tuệ giác thực chứng và tượng trưng chân lý
khách quan. Ngài chắc chắn là bất cứ ai thể nhập vào tri kiến uyên
thâm về thế giới cũng sẽ xác nhận Pháp chính là thực tại đơn thuần,
không gì khác.
Với niềm xác tín như vậy, thật
không lạ gì khi ngài xem các quan điểm khác chỉ là tà kiến, hý luận vọng
tưởng và nhận định vô căn cứ (DN 1. 1. 29). Các vấn đề lý luận siêu
hình như là thế giới thường hằng hay vô thường (DN 1. 2), bản ngã (mà
ngài đã bác bỏ sự hiện hữu) là gì và có tồn tại sau khi chết không
(DN 1. 2. 38) và tương lai sẽ ra sao..., tất cả những vấn đề đó ngài đều
bài bác như những điều vô ích. Chỉ một thứ tri kiến cần thiết: đó
là giải thoát tri kiến (DN 1. 3. 30).
Những kẻ khác có thể đã công
kích những lý thuyết mà họ xem là sai lầm, và tranh luận với những ai
giữ quan điểm ấy, song đức Phật không làm như vậy, ngài có thái độ
điển hình của nhà huyền bí không "tranh chấp với ai ở đời":
Có người thường nói với tâm sân,
Một số nói tâm hướng thật chân,
Ðể mặc cho người đời muốn nói,
Bậc hiền trí tịnh chẳng quan tâm.
(SNip 780)
Bậc trí tịnh tâm thấy khắp nơi
Không còn thành kiến với người đời
Tử sinh, ngài đoạn trừ si, mạn,
Không chấp thủ gì, để ý ai.
Lắm kẻ bận tâm chuyện thế gian
Người không vướng bận, biết sao bàn?
Người không chấp nhận, không bài bác,
Rũ sạch mọi thiên kiến, chẳng màng.
(SNip 780-7)
Các từ "kiến", "quan
điểm", dịch từ "ditthi" (Pàli) chỉ tất cả các quan
điểm lý luận ở đời không được thực chứng.
Kinh Ðiển Pàli ghi lại nhiều trường
hợp hễ đức Phật thấy một cuộc tranh luận nào thiên về lý thuyết,
thì ngài liền tìm cách đưa đề tài ấy trở lại con đường thực tiễn
đi đến giải thoát. Trong các vấn đề tín ngưỡng, ngài là một người
chủ trương thực tiễn, như ngài đã giải thích cho Tỳ-kheo Màlunkyaputta với
ảnh dụ mũi tên độc. Màlunkya-putta đã suy tư nhiều về đủ mọi vấn
đề lý luận siêu hình mà vị ấy đưa ra tham vấn đức Phật. Bậc Ðạo
Sư đáp:
"Này Màlunkyaputta, hỏi thế
này cũng giống như trường hợp một người bị bắn một mũi tên tẩm
thuốc độc rất nặng. Bằng hữu người ấy mời một y sĩ, song người bị
thương ấy bảo: "Ta không muốn nhờ nhổ mũi tên này ra cho đến khi
ta biết rõ tên họ, gia tộc người bắn cung, kẻ ấy cao hay thấp, da đen,
nâu, hay vàng, sống ở đâu, cây cung và dây cung ra sao, mũi tên được làm
bằng gì và loại lông chim nào kết vào mũi tên. Này, Màlunkyaputta, người
kia có thể chết trước khi tìm được mọi câu giải đáp ấy". (MN
63, giản lược)
Lời khuyên nhủ tiến hành theo
cách thực tiễn, tiêu chuẩn làm phương tiện lợi ích cho giải thoát, được
đức Phật đưa ra cho dân chúng thuộc bộ tộc Kàlàmas ở Kesaputta, một
thị trấn nhỏ ở vương quốc Kosala. Những người ấy hỏi ngài làm thế
nào phân biệt giả chân khi các Sa-môn, Bà-la-môn nói những điều tương
phản nhau. Ðức Phật bảo họ:
"Này các vị Kàlàmas, đừng
tin theo truyền thuyết, truyền thống, cũng đừng tin theo những gì người
ta thường nói hay uy quyền của kinh điển, cũng đừng theo các lý luận
siêu hình hay các lối suy diễn, hoặc do thích thú một số học thuyết
quan điểm, hoặc vì cảm phục tài đức một bậc đạo sư. Nhưng đúng hơn,
khi nào chính chư vị nhận xét: "Các pháp này là bất thiện, đáng
chê trách, bị người trí chỉ trích và nếu được thực hiện sẽ đưa
đến bất hạnh khổ đau", thì này các vị Kàlàmas, chư vị hãy bác bỏ
chúng.
... Và khi chính chư vị nhận xét:
"Các pháp này thuần thiện đáng được chấp nhận, được người hiền
trí tán thán và nếu được thực hiện, sẽ đưa đến lợi lạc hạnh phúc",
thì này các vị Kàlàmas, chư vị hãy chấp nhận chúng". (AN 3. 65,
giản lược)
Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá
một lý thuyết là tính cách hữu hiệu của nó đưa đến giải thoát: giá
trị của nó nằm ở trong kết quả nó đạt được. Nếu giá trị giải
thoát của nó đã được xác lập, thì người ta phải tuân thủ nó.
Ðức Phật cũng thực tiễn khi trình
bày các khám phá mới của ngài, và chỉ giới hạn những điều ngài khai
thị cho phù hợp với cứu cánh giải thoát. Có lần đang lúc ngài ngồi
nghỉ gần Kosambì dưới một khóm cây rừng Simsapà, tức cây Asoka (Saraca
indica) với các chùm hoa nở tuyệt đẹp, ngài nắm một ít lá rụng
trong bàn tay và hỏi:
"- Này các Tỳ-kheo, cái nào nhiều
hơn, nắm lá Simsapa trong tay ta, hay đám lá trên các cây kia?
- Bạch Thế tôn, chỉ có một ít lá trong tay Thế tôn,
còn trên cây kia thật nhiều lá.
- Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, có rất nhiều điều ta đã
khám phá, nhiều hơn hẳn những gì ta đã khai thị. Chỉ có một ít điều
ta đã khai thị mà thôi. Và tại sao ta lại không khai thị các điều kia? Bởi
vì chúng không có lợi ích, không phục vụ đời Phạm hạnh, không đưa đến
yếm ly, ly tham, an tịnh, thắng trí, Giác Ngộ, Niết- bàn". (SN
56.12. 4 , giản lược)
Trong khi một số đạo sư Ấn Ðộ
tự xưng là có khả năng giải thoát cả thế giới này, đức Phật Gotama
nói rõ là chỉ những người nào "biết lắng tai nghe" do có
căn tánh nghiệp lực thuận lợi, mới có thể được giải thoát. Ngài thấy
ngài chính là người hướng dẫn con đường đưa đến giải thoát, song
ngài không thể bắt buộc những người được ngài chỉ đường phải
đi con đường ấy.
"Chỉ một số ít đệ tử được
ta thuyết giảng, chứng đắc cứu cánh tối thượng, Niết-bàn. Những kẻ
khác không chứng đắc cứu cánh ấy... Có Niết-bàn, có con đường đưa
đế Niết-bàn và có ta là người chỉ đường. Nhưng trong các đệ tử
được ta thuyết giảng chỉ một số chứng đắc cứu cánh, một số khác
thì không. Ta biết làm gì được? Ta chỉ là người chỉ đường". (MN
107 , giản lược)
TÍNH TÌNH
* ÐẶC TÍNH TÂM LÝ: Từ, Bi, Hỷ, Xả
Ðức Phật bài bác niềm tin của
giai cấp Sát-đế-lỵ (võ tướng) khi ngài dạy rằng các võ tướng chiến
sĩ ngã xuống ngoài mặt trận sẽ phải chịu một tái sanh bất hạnh vì
nghiệp lực. Do các hận sân của vị ấy tăng trưởng đối với kẻ thù,
một chiến sĩ chết trận có thể tái sanh vào Ðịa ngục Saràjità, ngài
tuyên bố như vậy (SN 42. 3). Mặc dù sự trận vong của người anh hùng có
ích lợi cho tổ quốc, nó lại đem đến một tái sanh khổ đau cho người
tử sĩ.
Chủ trương hòa bình vô điều kiện
của đức Phật biểu lộ rõ ràng trong ba vần kệ của Pháp Cú, ở đó
ngài diễn tả bất bạo động là phương tiện chấm dứt thù nghịch hận
sân:
"Nó làm nhục tôi, tấn công tôi!
Nó chiến thắng tôi, cướp của tôi!"
Ai chứa trong lòng tư tưởng ấy,
Hận thù như vậy chẳng hề nguôi.
"Nó làm nhục tôi, tấn công tôi!
Nó chiến thắng tôi, cướp của tôi!"
Không chứa trong lòng tư tưởng ấy,
Hận thù như vậy sẽ dần nguôi.
Các mối hận thù giữa thế gian
Chẳng hề tiêu diệt bởi lòng sân,
Vô sân trừ khử niềm sân hận,
Ðịnh luật muôn đời của cổ nhân.
(Dhp 3-5)
Khi các tôn giáo của dân bản xứ
Ấn Ðộ bị người Hồi giáo đàn áp vào thế kỷ thứ mười một và mười
hai, hàng ngàn Tỳ-kheo chịu để cho họ giết mà không kháng cự. Các nguồn
kinh điển Tây Tạng đã ghi nhận hành động tự điều phục bản thân anh
dũng ấy.
Vô sân là một lý tưởng cao thượng
nhưng lạnh lùng, nó cần được lòng từ (mettà) bổ sung. Dù cho các
tên trộm cướp sát nhân có chặt tay chân của một Tỳ-kheo bằng cái cưa,
các Tỳ-kheo cũng không được để cho thù hận khởi lên trong lòng. Thậm
chí ở trong hoàn cảnh như vậy, chư vị cũng phải tự kiềm chế, và tự
nhủ:
"Tâm ta sẽ không dao động, ô
nhiễm và ta sẽ không thốt ra một ác ngôn nào. Chúng ta sẽ an trú với từ
tâm, không sân hận. Sau khi đã làm thấm nhuần khắp người kia với từ tâm,
chúng ta sẽ an trú trong trạng thái ấy biến mãn cùng khắp thế
gian..." (MN 21. 1, giản lược).
Ðức Phật chứa chan lòng từ hướng
đến mọi cảnh giới có sự sống trên thế gian. Các nghề nghiệp tạo khổ
đau cho người hay vật, những "nghề ác độc" như: đồ tể, bẫy
chim, bắt thú, thợ săn, chài lưới, trộm cướp, đao phủ, cai ngục (MN
51), ngài xem là đáng bài bác và không phù hợp với chánh mạng. Ngài chán
ngán tránh xa việc tế lễ bằng súc vật và còn cảm thấy thương xót
luôn cả loài cây cỏ, như khi ngài phủ nhận việc phá hại hạt giống
và cỏ cây (DN 1. 1).
Từ tâm là đặc điểm chính yếu
trong tính cách của đức Phật, y sĩ Jìvaka tuyên bố như vậy với ngài
trong một cuộc đàm thoại (MN 55), song chính điểm này đức Phật cũng chế
ngự, không cho phép nó vượt quá một giới hạn nào đó: Ngài không để
cho mình nhúng sâu vào lòng bi mẫn. Sự thăng bằng trong tâm trí và ổn
định mọi tình cảm là điều quan trọng nhất đối với ngài, và đã trở
thành một phần bản tánh của ngài do tu tập điều thân.
Vì thế, những cuộc tấn công tới
tấp chĩa thẳng vào ngài mà vẫn không làm ngài nao núng. Ngay cả các triết
gia đối thủ với ngài cũng công nhận Sa-môn Gotama không thể bị khiêu
khích và cũng không dao động. Người cư sĩ Ni-kiền-tử như đã nói ở
trên đây, Saccaka Aggivessana, tuyên bố khi cuộc thảo luận được chấm dứt
(MN 36), rằng "màu da Tôn giả Gotama vẫn giữ nguyên vẻ trong
sáng", nghĩa là ngài không đỏ bừng mặt; còn các đạo sư khác,
trong những lúc tranh luận, thường tránh né các câu chất vấn bằng cách
nói lạc hướng và nổi giận.
Tâm bình thản hay xả (upekkhà)
phối hợp với trí thông minh lanh lợi biểu hiện trong cách đức Phật đối
xử với Bà-la-môn Bhàravadja ở Ràjagaha. Bất mãn vì một người trong gia
tộc quy y Phật Pháp, vị này phỉ báng đức Phật với các từ ngữ như "đồ
ăn trộm, lạc đà, lừa...". Ðức Phật bình thản để cho vị ấy
nguyền rủa, rồi bỗng nhiên ngài hỏi vị ấy thỉnh thoảng có mời bạn
bè về nhà ăn cơm không. Khi được trả lời là có, ngài hỏi tiếp vị
ấy phải làm sao nếu khách không dùng các món ăn. Vị Bà-la-môn đáp các
món ấy sẽ dành cho phần mình. Ðức Phật tuyên bố: "Thế cũng giống
hệt như lời phỉ báng kia, ta không nhận nó, vậy nó trở lại với
ông!"(SN 7. 1. 2).
Trong một Pháp thoại với các Tỳ-kheo
ở Jetavana tại Sàvatthi, bậc Ðạo Sư diễn tả tính cách an nhiên tự tại
của ngài và khích lệ chư Tăng nỗ lực tu tập tâm bình đẳng tương tự:
"Này các Tỳ-kheo, nếu người
khác mạ lỵ, phỉ báng, phiền nhiễu Như Lai, trong tâm Như Lai cũng không
oán hận, phẫn nộ hay bất mãn... Và nếu người khác kính lễ, tôn trọng,
sùng bái Như Lai, trong tâm Như Lai cũng không hoan hỷ, thích thú hay phấn khởi".
(MN 22)
Hằng chục mẫu chuyện ghi lại
các sự kiện trong Kinh Tạng Pàli xác nhận cách biểu lộ đặc tính của
ngài như trên.
Tuy nhiên có những trường hợp đức
Phật không đơn giản chấp nhận những lời người khác nói, mà ngài bước
ra khỏi thành trì kiên cố của tâm xả và chuyển sang thế công. Ðó là
trường hợp có vấn đề bảo vệ Giáo Pháp chống lại sự xuyên tạc và
diễn dịch sai lạc do các đệ tử ngài đề xướng. Giáo Pháp là một
khám phá vĩ đại của ngài, đó là công trình và tặng vật của ngài
dành cho thế gian; ngài không chấp nhận sự có mặt của các Tỳ- kheo
xuyên tạc Giáo lý do vô tình hoặc ác ý trong Giáo đoàn của ngài, mà phận
sự Giáo đoàn là truyền đạt lời giáo huấn của ngài cho các thế hệ
sau. Khi Tỳ-kheo Sàti diễn tả Giáo Pháp theo ý nghĩa rằng thức (viñ ñ
ana) tồn tại mãi sau khi thân hoại và mang một hình thái sống mới, như
vây là tạo nên một linh hồn bất tử, bậc Ðạo Sư cho gọi vị ấy đến
và hỏi xem có phải đấy là ý kiến của vị ấy không. Khi Tỳ-kheo Sàti
xác nhận là phải, đức Phật cao giọng bảo:
"Này kẻ ngu si kia (moghapurisa),
do ai mà ông nghe rằng ta đã thuyết giảng Giáo Pháp như vậy? Này kẻ ngu
si kia, ta đã chẳng từng dùng nhiều pháp môn nói rằng thức do duyên khởi
(và vì thế không thể tồn tại mãi sau khi chết) hay sao? Này kẻ ngu si
kia, ông không chỉ xuyên tạc ta vì chấp thủ sai lạc, mà tự còn làm hại
mình và tạo nhiều điều tổn đức đưa đến bất hạnh lâu dài!" (MN
38)
Sau đó ngài tiếp tục hỏi các Tỳ-kheo
hiện diện để chư vị xác nhận rằng Tỳ-kheo Sàti, con người đánh cá,
không có một chút ánh sáng kiến thức nào về Giáo Pháp cả. Chúng ta chỉ
còn biết thương hại vị Tỳ-kheo tội nghiệp ấy, theo như bài kinh miêu tả,
đã ngồi im lặng, hổ thẹn, lo âu, rụt vai lại, không nói nên lời.
Tỳ-kheo Arittha, trước kia là người
huấn luyện chim ưng, cũng không tiến bộ gì hơn. Vị này hiểu Giáo Pháp
theo ý nghĩa là các hành động được đức Phật xem là chướng ngại pháp
chẳng bao giờ đưa đến khổ ưu cả. Vị này cũng bị bậc Ðạo Sư
khiển trách là "kẻ ngu si" (MN 22). Ðiều đáng chú ý là
trong cả hai trường hợp này Kinh Ðiển nhắc đến nguồn gốc hèn kém của
các Tỳ-kheo bị quở mắng như vậy. Hình như là đức Phật chỉ mong những
người thiếu học vấn cố rèn luyện các đức tính theo giới hạnh, chứ
không mong có nhiều khả năng trí tuệ.
M ục lục | Ia | Ib | Ic | Id | IIa | IIb | IIIa | IIIb | IIIc | IVa | IVb | IVc | IVd | Va | Vb | VIa | VIb | VII | VIII
|
|