- Ðức Phật Lịch Sử
(The Historical Buddha)
- H.W. Schumann (1982)
M. O'C. Walshe dịch sang Anh ngữ (1989)
Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch Việt (1997)
Chương VI
Các Năm Sau
-oOo-
CÁC TRIẾT LÝ
ÐỐI LẬP
Khoảng giữa năm 515 và 500 trước
CN, tại vùng "Trung Nguyên", xuất hiện bảy vị Ðạo Sư trong số
các Sa-môn có ảnh hưởng lớn đặc biệt. Ngoài đức Phật, các nguồn
Kinh Ðiển Phật Giáo nêu lên danh sách các vị này (DN 2.2)
1. Pùrana kassapa (Phú-lan-na Ca-diếp)
2. Makkahi Gosala (Mạt-già-lê Cù-xá-lợi).
3. Ajita Kesakambilin (A-kỳ-đa Kỳ-xá-khâm-bà-la).
4. Pakkuda Kaccàyana (Bà-phù-đà Ca-chiên-diên).
5. Sanjaya Belatthiputta (Tán-nhã-di Tỳ-la-phê-phất).
6. Nigantha Nàtaputta (Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử).
Các vị này đều là bậc trưởng
thượng, đáng tôn trọng (DN 2.2) - nhưng chúng ta phải luôn nhớ rằng thọ
mạng trung bình của người ấn Ðộ vào thế kỷ thứ sáu - thứ năm trước
CN được dự trù vào khoảng hai mươi hai tuổi, vì vậy một người trên
năm mươi tuổi được xem là già lắm rồi.
1) Pùrana Kassapa:
Pùrana kassapa tự xưng là Toàn tri
kiến (AN 9.39) vì thế tên vị này có lẽ phải được giải thích là
Purananõàna: có toàn tri kiến, nhất tri kiến.
Chúng ta chỉ được biết về nguồn
gốc vị này là người thuộc gia tộc thấp hèn, và theo hạnh du sĩ lõa thể
- "mặc bộ y đức hạnh", tình trạng lõa thể này được gọi
như thế. Các Kinh điễn Kỳ-na giáo nhắc đến một "kẻ khổ hạnh
ngu si" tên là Pùrana có gốc từ Bebhela, chắc hẳn là vị Purana này. Một
giả thuyết cho rằng vị ấy đã nhịn đói đến chết sau mười hai năm
khổ hạnh và đã chết ở Sàvittha. Nhưng theo một bài Kinh Phật về sau của
tạng Sanskrit (Divyàvadàna), vị ấy buộc một bình đầy đất vào cổ rồi
trầm mình.
Một số lời thuyết giảng của
Pùrana còn được lưu lại vừa đủ để ta có thể thấy sơ lược nội
dung triết lý này. Vua Ajàtasattu, người đã làm đạo với du sĩ Pùrana, tường
thuật chuyện này với đức Phật như sau:
"Ðạo sĩ Pùrana Kassapa nói:
"Thưa Ðại Vương, không có ác nghiệp do người làm hay người xúi gục
kẻ khác làm, như chém giết, đốt cháy, gây phiền muộn, khổ não, kích
động, sát sanh hay cướp bốc. Thậm chí người nào dùng một bánh xe sắc
như dao giết chết hết mọi chúng sanh trên quả đất này thành một đống
thịt cũng không có tội ác do kết quả việc làm kia, và tội ác cũng không
tăng trưởng. Hoặc nếu kẻ nào bố thí, tế lễ, cũng không có phước đức
do kết quả việc làm ấy, và làm phước cũng không tăng trưởng. Bố thí,
tu tập thân tâm, nói lời chân thật ... cũng không có phước báo gì".
(DN 2.17, giản lược)
Phù hợp với điều trên, một đệ
tử của Pùrana tóm tắt Giáo lý của thầy mình bằng những lời này:
"Ðạo sư Kassapa không thấy tội ác gì trong việc chém giết, lừa đảo,
dối gian cả. Vị ấy cũng không tin có phước báo gì cho mỗi người"
(SN 2.3.10), và Mahàli người Licchavì, tường thuật với đức Phật lời
tuyên bố của Pùrana: "không có nhân duyên (điều kiện) đối với sự
ô nhiễm của chúng sanh. Không có nhân duyên, chúng sanh bị nhiễm ô. Không
có nhân duyên, chúng sanh trở thành thanh tịnh". (SN 22.60)
Như vậy Pùrana chủ trương rằng
thiện hành hay ác hành đều không có hậu quả gì đối với người tạo
nghiệp, tức là vị ấy phủ nhận qui luật nghiệp báo. Vì giải thoát
không cần điều kiện tiên quyết nên nó không thể được thực hiện nhờ
hành động của chính mình. Nói cách khác, chúng sanh không thể góp phần
gì vào sự giải thoát của mình cả, mà phải chấp nhận số phận và chờ
đợi được giải thoát một cách thụ động. Thuyết định mệnh của Pùrana
tương tự với thuyết của người giữ vững lập trường Aụjivika, là
Makkhali Gosala.
2) Makkhali Gosala:
Bản Kinh Bhagavatìsùtra của Kỳ-na
giáo nêu tên của Makkhali theo lối chữ Ardha-Màgadhì là Makhaliputta Gosalà.
Do vậy, vị này là con trai của người hát dạo (mankha), cái nghề mà có lẽ
chính vị này đã nối tiếp cha ông. Ðứa bé thuở ấy được sinh ra trong
một chuồng bò (gosàla) ở Saravana, vì thế có tên này.
Makkhali gặp Nigantha Nataputta (tức
Mahàvìra), vị kế thừa tổ sư sáng lập Kỳ-na giáo, khi vị này đang tu tập
khổ hạnh vào năm thứ ba (524 trước CN). Bị lôi cuốn theo cách này,
Makkhali cầu xin Mahàvìra nhận mình làm đệ tử, nhưng Mahàvìra im lặng bước
đi. Một thời gian sau, Makkhali quyết định vứt bỏ hết y phục giống
như Mahàvìra và từ đó sống suốt đời làm một Sa-môn lõa thể. Tại
Paniyabhùmi, một nơi không xa Nàlandà, vị ấy gặp lại Mahàvìra, và thỉnh
cầu lần nữa được nhận làm đệ tử. Lần này Mahàvìra nhận lời, và
suốt sáu năm ròng, hai người sống cùng nhau chia xẻ mọi nỗi khó khăn của
đời du sĩ vô gia đình.
Chính trong thời gian này, Makkhali
phát triển niềm tin vào tính chất tiền định của mọi việc diễn tiến.
Vị này hết sức thán phục vị thầy thông thái của mình tiên đóan nhiều
sự kiện không thể nào ngăn cản được. Ví dụ, có lần Mahàvìra tiên
đoán rằng vào một ngày nhất định nào đó, Makkhali sẽ được cho một
đồng tiền giả lúc đi khất thực, và mặc dù Makkhali tìm hết mọi cách
ngăn cản việc này, nó vẫn xảy ra chính xác như Mahàvìra đã tiên đoán.
Vì thế Makkhali kết luận "Việc gì phải xảy ra thì sẽ phải xảy ra
như vậy, chứ không thể khác được".
Chính một phần do triết lý này
và một phần do tính khoe khoang khoác lác mà Makkhali liên tục đặt mình
và vị thầy minh trí của mình vào các cảnh khốn đốn ngặt nghèo. Hơn một
lần vị ấy bị đám đông đánh đập tả tơi. Thỉnh thoảng hình như vị
ấy ngầm trả thù những kẻ từ chối bố thí cho vị ấy thì nhà của họ
và cả làng họ có thể bị hỏa hoạn, và chuyện ấy cũng xảy ra thực!
Vì có lần Mahàvìra không giúp sức
chống lại những kẻ tấn công nên Makkhali rời bỏ vị thầy dạn dày
kinh nghiệm ấy ra đi, để rồi chẳng mấy chốc liền nhận ra rằng không
có thầy bảo vệ, vị ấy càng gặp nhiều gian lao vất vả mới sống mà
chẳng hề hấn gì. Sáu tháng sau, vị ấy tìm lại thầy, nhưng chẳng học
hỏi được gì về kinh nghiệm sống của thầy và vẫn tiếp tục lối cư
xử đầy khiêu khích và tinh quái. Vào một dịp có một đám cưới đi
qua, vị ấy bình luận là cả cô dâu lẫn chú rễ đều xấu xí lạ lùng.
Sau khi bị đám cưới cho một trận đòn chí tử, vị ấy nhận ra rằng lời
nói của mình chẳng khôn khéo gì cả.
Sự đỗ vỡ sau cùng với đạo sư
Mahàvìra là do một trong các trò lừa gạt khác của vị đệ tử này.
Trên con đường đi qua Magadha, Makkhali chỉ một cây mè và hỏi thầy xem thử
riêng cây mè này sẽ có quả nào không. Mahàvìra bảo có nhiều lắm. Khi họ
tiếp tục du hành, Makkhali đi lùi ra sau một chút và đợi lúc Mahàvìra
không để ý, bèn nhổ cây mè lên. Một thời gian sau, cả hai cùng đến lại
chỗ ấy và thấy cây mè kia, dù bị nhổ lên, vẫn không chết. Một trận
mưa đã làm cho cây bén rể lại và nó còn sinh ra trái mè nữa! Do vậy, mặc
dù Mahàvìra được chứng tỏ là đã tiên đoán đúng, trò đùa tinh quái của
Makkhali để thử tài thầy cũng là lý do đủ làm cho vị đạo sư tống cổ
vị đệ tử kỳ quặc này.
Bị bỏ lại theo đường lối riêng
của mình, Makkhali nỗ lực rèn luyện mong đạt thần thông và tri kiến, những
mục đích mà theo lời đồn vị ấy chứng đắc trong vòng sáu tháng. Việc
này có lẽ được ghi lại vào năm 517 trước CN. Từ đó đến lúc mạng
chung, Makkhali sống đời Sa-môn du sĩ, nhưng bao giờ cũng an cư mùa mưa
trong nhà một người đàn bà làm đồ gốm. Theo thời gian, vị ấy dần tạo
được một số đệ tử xuất gia lẫn tại gia. Chắc hẳn vị ấy cũng có
vài đặc điểm kỳ diệu nào đó nên đã gây được sự cảm phục ngay cả
Ðại Vương Pasensdi nước kosala, vị thân hữu của đức Phật.
Các Kinh điển Kỳ-na giáo ghi đầy
đủ chi tiết về cuộc đời của Makkhali một lần nữa vào năm du hành thứ
hai mươi bốn của vị ấy, tức là năm vị ấy từ trần (501 trước CN).
Năm ấy Makkhali họp sáu đệ tử quanh mình để kết tập giáo lý theo hệ
thống. Khi Mahàvìra, đạo sư thông thái cũ của vị ấy, nghe tin về cuộc
hợp này, liền nhớ lại các trò điên khùng của Makkhali từ thời hai vị
còn sống chung với nhau, và nói toang mọi việc cho đám đồ chúng nghe.
Chuyện này lan truyền nhanh như cháy rừng, gây biết bao phiền muộn cho
Makkhali.
Phẫn nộ vì bị làm trò cười
như vậy, vị ấy liền đến trước mặt Mahàvìra, tuyên bố rằng mình
không còn là chàng Makkhali Gosala cũ kỹ trong thời quá khứ xa xưa: nhiều lần
tâm trí được tái sanh đã biến cải vị ấy thành một người mới hoàn
toàn. Khi Mahàvìra khinh bỉ phủ nhận luận điệu này, Makkhali mất hết
bình tĩnh và thét lên vào mặt Mahàvìra: "Người sẽ bị thần thông của
ta đục thủng! Trong sáu tháng ngươi sẽ chết vì sốt!". Tuy nhiên
Mahàvìra chẳng hề dao động: phép mầu không có tác động gì đối với
vị này cả mà sẽ trở về với kẻ sử dụng nó: "Trong bảy đêm kể
từ nay, chính ngươi sẽ chết vì sốt".
Và quả thực, các Kinh điển Kỳ-na
giáo nói tiếp, Makkhali trở về lò gốm ở Sàvittha, và bắt đầu lâm bệnh.
Vị ấy lên cơn sốt mê sảng, nhảy múa, ca hát và trét đất sét nguội của
lò gốm lên khắp mình mẩy. Ðối với những người hâm mộ đến thăm vị
ấy trong tình trạng này, vị ấy cũng nói toàn những lời lú lẫn do loạn
trí. Ít lâu sau vị ấy ra huấn thị cho đám đệ tử về việc hỏa táng
của mình, và lễ hỏa táng ấy phải được cử hành linh đình trọng thể.
Nếu ngày nay ta có thể tin tưởng
được các Kinh điển Kỳ-na giáo (chắc chắn có nhiều thành kiến), thì
Makkhali, vào đêm thứ bảy sau cuộc so tài nguyền rủa kia, đã thú nhận
việc phạm giới khổ hạnh của mình với các đệ tử rằng vị ấy không
phải là một A-la-hán chứng đắc thắng trí mà chỉ là một kẻ lừa đảo,
do vậy đã chết vì lời nguyền của chính mình. Vội rút lui lời huấn thị
về việc tổ chức hỏa táng trước kia của mình, vị ấy truyền lệnh rằng
cần phải làm ô nhục thân xác mình, các Sa-môn phải phỉ nhổ ba lần
vào mặt thầy, rồi buộc một dây thừng vào chân trái thi thể và kéo đi
khắp thành Sàvitthi rồi quẳng thây đâu đó.
Các môn đồ chỉ làm chuyện xúc
phạm thánh thể ấy một cách tượng trưng mà thôi. Họ vẽ bản đồ thành
Sàvatthi trên sàn túp lều của lò gốm rồi kéo di hài lên, sau đó làm lễ
hỏa táng vô cùng long trọng!
Trong đám ngoại đạo sư đồng thời,
đức Phật khinh bỉ Makkhali. Ngài tuyên bố: "Ta không thấy ai đem lại
nhiều tai họa và bất hạnh cho nhiều người bằng Makkhali Gosala, kẻ điên
khùng ấy". (AN 1.17)
Trong tất cả giáo lý của Sa-môn
Bà-la-môn ngoại đạo, chủ thuyết của Makkhali là hạ liệt nhất. Vì
Makkhali ngu si này tuyên bố chủ trương không có (qui luật) nghiệp nhân,
không có nghiệp quả, không có tinh tấn (năng lực để đạt giải thoát)."
(AN 3.135)
Và trong một cuộc đối thoại với
du sĩ Bà-la-môn Vacchagotta, ngài tuyên bố không một người nào thuộc phái
Ajìvika từng đạt giải thoát khổ đau, chỉ trừ được một người tái
sanh Thiên giới, nhưng vị này không hẳn là một vị Ajìvika đích thực
và vị ấy đã không tin vào nghiệp (do vậy đã tạo được một số công
đức cho mình).
Kinh Tạng Pàli ghi lại sơ lược lý
thuyết của Makkhali Gosala từ miệng vị này thốt ra. Vua Ajìtasattu tường
thuật với đức Phật những lời của vị ấy, được xem là y nguyên văn:
"Không có nhân duyên đối với
sự ô nhiễm của chúng sanh. Không có nhân duyên, chúng sanh bị ô nhiễm.
Không có nhân duyên đối với sự ô nhiễm của chúng sanh. Không có nhân
duyên, chúng sanh được thanh tịnh. Sự thành đạt hình thái hiện hữu
nào cũng không tùy thuộc vào tự lực, tha lực hay tinh tấn... .Tất cả mọi
hữu tình, mọi sinh vật, mọi sinh loại, mọi sinh mạng (Jìva) đạt đến
hình thái hiện hữu của chúng đều không do tinh tấn hay tự lực, nhưng
đã thành thục như là kết quả của định mệnh (niyati), cha mẹ sinh sản
(sangati) và hiện hữu (bhàva) ở đời trong sáu loại tái sanh, nơi mà giờ
đây chúng hưởng thọ khổ hay lạc. Sau 8.400.000 kiếp (trong vòng luân hồi
sanh tử), người hiền trí cũng như kẻ ngu si nhiều đoạn tận khổ ưu.
Ta không nên suy nghĩ: "nhờ kỷ luật này, giới hạnh này, khổ hạnh
này hay Phạm hạnh này ta sẽ làm thành thục các nghiệp chưa chín muồi,
và sẽ đoạn trừ các nghiệp đã thành thục". Những việc ấy không
thể xảy ra, khổ hay lạc đều được định phần và không thể tăng hay
giảm vòng luân hồi sanh tử. Giống như một cuộn dây được tung ra sẽ kéo
dài mãi cho đến khi tháo hết, cũng vậy, cả kẻ ngu lẫn người trí đều
chấm dứt khổ đau khi nào họ đã lưu chuyển trọn vòng luân hồi sanh tử."
(DN 2.20, giản lược).
Quan điểm chính của triết lý này
là số mệnh (niyati) quyết định con đường của mọi chúng sanh qua vòng
luân hồi . Nó không chịu tác động của bất cứ điều gì, do vậy thiện
nghiệp hay ác nghiệp đều không gây hậu quả đối với tính chất các cuộc
tái sanh.
Cũng vậy, Giới Luật tu tập cũng
không có giá trị gì, và thâm chí một vị Aụjìvika cũng không thể thúc
đẩy tiến trình giải thoát. Các Sa-môn Ajìvika làm đạo sĩ vì số phận
đã định phần cho họ như vậy, chứ không phải vì họ có hy vọng cải
thiện số phận tương lai. Tuy nhiên, một động lực chung của họ là học
nghệ thuật tiên đoán. Nếu số phận mọi người đã được tiền định,
theo họ suy nghĩ, ít ra họ có thể tìm cách biết việc tương lai gần xảy
ra.
Vì con đường của mọi người qua
vòng luân hồi đã được hoạch định sẵn, nên phải phân lượng hạnh
phúc hay khổ ưu mà họ thọ hưởng đều được số phận ban bố trước.
Do vậy, thái độ hợp lý duy nhất là chấp nhận mọi sự xảy ra và chịu
đựng mà không than phiền. Giải thoát sẽ tự động diễn tiến ngay khi mỗi
người trải qua 8.400.000 kiếp. Có một tục ngữ của phái Ajìvika như sau:
Không đường lên thiên giới,
Cứ sống hết phận mình,
Mọi buồn vui xảy tới
Ðều do số phận dành.
Vòng luân hồi chung cuộc
Khiến mọi người tịnh thanh.
Ðừng nóng lòng muốn biết
Những việc sắp thành hình.
(Jàkata VI 544)
Giới chiến sĩ đặc biệt bị thuyết
định mệnh này lôi cuốn nhưng rất nhiều người khác nữa thường thích
nhớ lại một tục ngữ nào đó của phái Ajivika mỗi khi có chuyện không
may xảy ra.
Cùng với sự biến mất của phái
Ajìvika vào thế kỷ thứ hai trước CN ở bắc Ấn và thế kỷ thứ mười
bốn sau CN ở Nam Ấn, tất cả kinh sách của họ cũng thất lạc luôn; cho
nên mọi điều chúng ta hiểu biết về triết lý của phái này đều phát
xuất từ các trích đoạn trong thi văn của các phái đối lập. Một số vấn
đề cốt yếu như bản chất của linh hồn hay sinh mạng (Jìva) tạo nên mối
liên lạc giữa các đời sống với nhau, và bản chất của giải thoát ở
chặng cuối cùng của sinh tử lộ dài dằng dặt ấy đều được số phận
phát họa sẵn, do vậy, không có câu giải đáp chính xác nào cả.
3) Ajita Kesakambalin:
Không có các chi tiết nào được
lưu truyền về tiểu sử của Ajita Kesakambalin (ngoại trừ sự kiện là vị
này già hơn đức Phật nhiều. Biệt hiệu trên chứng tỏ là vị ấy mang
áo khoác (kambala) bằng tóc (kase) một loại y mà như đức Phật nhận xét
(AN 1.135), hết sức bất tiện: lạnh lẽo về mùa lạnh, và nóng nực về
mùa nóng, lại hôi hám và ngứa ngáy. Không ai hiểu được tại sao vị ấy
mặc y này quanh năm, bởi vì vị ấy phủ nhận giá trị của khổ hạnh ,
nên vị ấy cũng không hy vọng cái ý này làm gì được cho việc giải thoát.
Lý thuyết duy vật- hư vô của
Ajita tương tự với lý thuyết của các phái Lokàyatas, Càrvàkas hoặc
Nàstikas và theo lời vua Ajìtasattu, được tóm tắt như sau:
" Không có bố thí, hy sinh hay tế
lễ, (những việc có thể đem giá trị cho giải thoát). Không có kết quả
của các nghiệp thiện ác (kamma), không có đời này hay đời sau (mà chỉ
có sự gặp gỡ các giác quan). Không có mẹ, không có cha, và cũng không
có các loài hóa sanh. Ở trên đời này không có các Sa-môn hay Bà-la-môn
thành tựu cứu cánh tối thượng, những vị đạt giác ngộ viên mãn,
tuyên thuyết thế giới này và thế giới khác, sau khi đã chứng tri chúng
bằng thắng trí của mình. Ðúng ra, con người này do tứ đại hợp thành.
Khi mạng chung, địa đại trở về với đất, thủy đại trở về với
nước, hỏa đại trở về với lửa, phong đại trở về với không khí
và các căn tan biến vào cõi hư vô. Cả năm, nghĩa là bốn kẻ gánh quan
tài và thi thể trong quan tài là năm, cùng đi đến nơi hỏa táng. Bọn người
kiêng xác cứ ca ngợi tán dương cho đến tận nơi kia, nơi đống xương hóa
ra màu trắng xóa và lễ vật trở thành tro bụi. Chỉ có người ngu si truyền
bá các sự bố thí tế lễ. Khi chúng bảo có ích lợi cho việc kia, đó chỉ
là lời dối trá trống rỗng. Kẻ ngu cũng như người trí, khi thân hoại mạng
chung đều hủy diệt, tiêu vong, không còn tồn tại sau khi chết". (DN
2.23)
Thật khó tưởng tượng rằng
Ajita, người không đưa ra một tia hy vọng nào về đời sau hay con đường
giải thoát, lại có thể được Sa-môn nào theo làm đồ đệ. Hình như vị
ấy xuất hiện như một diễn giả đơn độc và chỉ có đám đệ tử tại
gia mà thôi.
4) Pakudha Kaccàyana:
Một lý thuyết về nguyên tử của
vật chất được Pakudha Kaccàyana đề xướng, từ đó vị này rút ra những
kết luận thô thiển hạ liệt. Ta chỉ đây là một người thuộc giai cấp
Bà-la-môn qua danh tánh ấy. Vị này công nhận có bảy yếu tố căn bản
hay thân
(kàya) thuộc về bảy loại hoàn
toàn khác biệt do đó mọi vật được cấu thành. Chúng không được sáng
tạo, thường hiện hữu và bất biến. Bảy yếu tố căn bản ấy là: đất,
nước, lửa, gió, lạc, khổ và linh hồn hay mạng căn (Jìva).
"Không có người bị giết hay
người chết, không có người nghe hay người nói, cũng không có người biết
hay người cho biết. Bất kỳ ai chặt đầu người khác với kiếm sắc
bén cũng không đoạt mạng sống của ai cả. Kẻ ấy chỉ xuyên lưỡi kiếm
vào khoảng hư không nằm giữa bảy yếu tố kia (chứ không làm hại vật
gì cả). (DN 2.26)
Sự thật là bảy yếu tố căn bản
kia, nếu được phối hợp thành một tổng thể có sức sống, khả dĩ bao
hàm một hiện tượng cao quí hơn, vĩ đại hơn con số cọng đơn giản tất
cả yếu tố lại, rõ ràng điều này không soi sáng vào lý luận của
Pakudha. Tuy nhiên ,về phương diện lịch sử, đạo sư này cũng có địa vị
quan trọng như một người chủ trương thuyết nguyên tử vật chất đầu
tiên của Ấn Ðộ. Bảy yếu tố căn bản của vị này về sau được phái
Ajivika phương nam tiếp nhận, vì vậy đôi khi vị ấy cũng được gọi là
một vị Ajivita.
5) Sanojaya Belatthipputta:
Kinh điển Phật giáo đưa ra một hình
ảnh khá mờ nhạt về vị này, có lẽ đây chính là vị Sanojaya ở
Ràjagaha đã có thời là đạo sư của hai tôn giả Sàriputta và Moggallàna.
Trong cuộc đàm luận với vua Ajàtasattu, vị này tự xem mình là một người
theo thuyết hoài nghi và bất khả tri, bài bác mọi lý thuyết không được
thiết lập trên quan sát và kinh nghiệm. Có lẽ triết lý này cũng có một
ý nghĩa nội dung tích cực nào đó, song nếu vậy thì nội dung ấy đã
không tồn tại qua hai ngàn năm trăm năm kể từ thời sơ khai.
6) Nigantha Nàtaputta (nam tử của
gia tộc Nàtha theo phái Ly Hệ Phược), có tên riêng là Vardhamàna, và là
con trai của vị võ tướng quý tộc nhiều quyền lực Siddhattha cùng phu
nhân Trisalà. Vị ấy sinh năm 557 trước CN tại Kundagràma (nay là Basukund) gần
Vesàli, về sau nỗi tiếng hơn với các danh hiệu tôn quý như Mahàvìra (Ðại
Hùng) và Jina (Thắng Giả). Tên gọi tôn giáo của đạo sư này, Kỳ-na
giáo, phát xuất từ biệt hiệu thứ hai.
Vardhamàna lớn lên trong hoàn cảnh
gia đình hưng thịnh, tiếp nhận một nền giáo dục thông thường của một
vị Sát-đế-lỵ. Khi đến tuổi trưởng thành, vị ấy kết hôn và có một
con gái. Cha mẹ vị này theo giáo lý của Pàrsva (Nàtha), có lẽ đó là một
đạo sư có thật trong lịch sử, tương truyền xuất thân từ Benares, sống
vào thế kỷ thứ tám trước CN và đám môn đồ được gọi là Nigantha
(Ni-kiền-tử: Ly hệ phược). Họ theo giáo phái khổ hạnh thật nghiệm khắc
đến độ, muốn đạt thanh tịnh bản thân để tiêu trừ nghiệp quá khứ
(kamma), họ nhịn đói cho đến chết. Theo bước chân cha mẹ, ngoài
Vardhamàna, vị huynh trưởng Nandivardhana cũng là một Ni-kiền-tử. Sau khi
cha mất, Nandivardhana lãnh nhiệm vụ chính trị của cha và dùng thế lực
ở Vesàli để truyền bá đạo Ni-kiền-tử.
Hai năm sau khi cha mẹ nhịn đói đến
chết, vào dịp đầu mùa đông, Vardhamàna từ giã gia đình để theo đời
Sa-môn. Thời ấy, (527 trước CN) vị này được ba mươi tuổi. Vì tuân thủ
lời dạy của sơ tổ Pàrsva, vị ấy không cần tìm một đạo sư mới mà
chỉ sống theo Giới Luật của sơ tổ. Trước tiên, vị ấy làm du sĩ khổ
hạnh, chỉ đắp một y, nhưng sau mười ba tháng vị ấy bỏ y này và từ
đó "mặc y không khí:, tức là lõa thể, một tập tục mà đồ đệ một
thời của vì này là Makkhali Gosala, một du sĩ Ajivika, đã chấp nhận.
Vardhamàna tự buộc mình theo những
điều luật khắc nghiệt, tương truyền là đã dựng một bức tường cao
quanh mình để hành thiền bên trong. Suốt hai năm hai tháng vị ấy vẫn ở
chỗ cũ theo cách này, và sau đó bắt đầu du hành, dần dần tiến về hướng
đông từ vùng "Trung Nguyên" vào phía Tây vịnh Bengal ngày nay, và
có lẽ ra tận biển. Việc tiếp xúc của vị ấy với quần chúng miền đông
Ấn không được hoàn toàn tốt đẹp, vì dân chúng ở đó xem hình thức
lõa thể là vô liêm sĩ và không hiểu được lối sống khất sĩ. Ðôi khi
họ còn thả chó ra vồ cả Sa-môn lõa thể kia nữa!
Vardhamàna sống đời khổ hạnh cùng
cực, dù vị ấy chưa theo đuổi một kiểu hành hạ xác thân nào. Sự kiện
Giác Ngộ của vị này được xem là đã khiến vị này thành bậc Toàn Tri
Kiến xuất hiện sau mười hai năm sống đời du sĩ không nhà, nghĩa là năm
515 trước CN. Khung cảnh giác ngộ là một cây Sàla gần Jrimbhikagràma. Do
giác ngộ, đạo sư Vardhamàna trở thành Thắng Giả (jina) cùng với danh hiệu
này, thời kỳ bị quần chúng bài xích cũng qua đi: vị Thắng Giả đã
được thiên hạ đối xử tôn kính.
Sau ba mươi năm hành đạo và tạo
nên sự nghiệp thành công với địa vị giáo chủ, Mahàvìra từ trần tại
Pàvà (nay là Pàvapurì) gần Patna vào năm 485 trước CN ở tuổi bảy mươi
hai. Cũng giống như cha mẹ đạo sư này nhịn đói cho đến chết. Vị ấy
để cho hậu thế một hội chúng Sa-môn và đệ tử tại gia, cả nam lẫn
nữ, ít hơn số tăng chúng Phật giáo hay phái Ajivika, nhưng cũng khéo tổ
chức theo đoàn thể. Giáo lý Nigantha được vị này phục hưng, dần dần
theo thời gian được gọi là Kỳ-na giáo, tồn tại ở Ấn Ðộ cho đến
nay và có khoảng hai triệu môn đồ, phần lớn ở Bombay.
Ðại cương giáo lý Kỳ-na mà
chúng ta thấy được trong Kinh Tạng Pàli (DN 2.29) thiếu mất điểm trọng
yếu của hệ thống này. May mắn là chúng ta không cần phải theo nguồn
Kinh điển ấy, vì chính môn đồ Kỳ-na giáo có nguồn thánh điển bao quát
đầy đủ được chép thành văn vào thế kỷ thứ năm sau CN và lưu truyền
theo ngôn ngữ Ardhamagàdhì (ngôn ngữ của sư tổ Mahàvìra), Apadhramsa và
Sanskirt.
Ngoài ra, văn học của dân chúng
Ấn Ðộ chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Kỳ-na. Giáo phái này xem việc
bảo tồn các kinh sách cổ điển quan trọng là công đức tạo phước nghiệp
bằng cách chép tay hay in lại các sách này hư nát sau khoảng chừng một trăm
rưỡi năm.
Cũng như Phật giáo, đạo Kỳ-na không
tin vào sự tăng hay giảm theo định kỳ của thế giới. Thế giới xưa nay
vẫn tồn tại như vậy và không hoại diệt, mặc dù mọi hình thức thay
đổi cứ tiếp diễn trong đó và mọi hoàn cảnh luôn biến dịch. Vạn
pháp diễn ra theo qui luật nhân quả tự nhiên và không có một vị thần
linh nào kiểm tra cơ chế của thế giới cả. Mọi sự can thiệp từ bên
ngoài vào qui luật tự nhiên là điều không thể có được.
Toàn thể thế giới gồm các yếu
tố phi sinh mạng và sinh mạng, điều này được phái Kỳ-na phân biệt rất
rõ ràng. Lãnh vực phi sinh mạng (ajìva) bao gồm năm thể loại, hình thái,
và thực tại, đó là: không gian, chuyển động, đình chỉ, thời gian và vật
chất (pudgala). Vật chất (tức là đất, nước, lửa, không khí) do các
nguyên tử (anu) tạo thành, các nguyên tử này không thể phân chia nhỏ hơn
nữa. Các nguyên tử kết hợp cùng với nhiều nguyên tử khác, và từ sự
hòa đồng này phát sinh nhiều biểu hiện vật chất đa dạng mà ta có thể
thấy được. Bóng tối, ánh sáng, âm thanh và tiếng động cũng đều được
xem là vật chất.
Trái với lãnh vực phi sinh mạng
ấy là lãnh vực sinh mạng (jìva). Vô số linh hồn hay tự ngã riêng biệt
(àtman) thuộc về lãnh vực này, chúng trường tồn, có ý thức, toàn tri
kiến, vô ưu và hoàn hảo, bao lâu chúng chưa bị suy thoái thành các
"sinh mạng" (jìva) hay "linh hồn nhập thể" do sự ô nhiễm
từ bên ngoài. Cả hai từ àtman và jìva đều chỉ chung linh hồn, theo cách
nó hiện hữu trong trạng thái thanh tịnh hay trạng thái nhập thể. Tất cả
mọi atmans đều giống nhau, trong khi các jìvas lại khác nhau do quá trình hiện
thân nhập thể ấy.
Sự suy thoái của àtman thành một
jìva do sự lắng động một chất bất tịnh tinh tế tạo nên, mắt thường
không thấy được, nó dính vào àtman như thể các hạt bụi dính vào một
bề mặt trơn láng. Theo cách này, àtman trước hết tạo ra một thực thể
tâm linh, sau đó là một thực thể vật chất. Thực thể này ban đầu che
dấu và cuối cùng bao phủ lên mọi tính chất căn bản àtman. Như thế
àtman trở thành một jìva, là một hữu tình sống thực bị trói buộc
vào vòng luân hồi sanh tử (samsàra), vì vậy phải chịu đựng khổ đau
triền miên tái diễn.
Mọi khổ đau phát xuất từ sự
trói buộc linh hồn vào thể chất. Các jìvas không chỉ là loài người,
sinh vật, mà còn là cỏ, cây, đất, nước, lửa, gió, cho đến đá, sỏi
nữa. Các loài vật này có một linh hồn tập thể. Theo quan điểm Kỳ-na
giáo như thế, phần lớn các phạm vi hiện hữu đều sống động, trong
khi các trường phái tư duy khác thường xem chúng là vô tri, bất động. Niềm
tin này giải thích sự quan tâm đặc biệt của người theo đạo Kỳ-na tránh
làm hại môi trường xung quanh.
Sự trói buộc (yoga) các linh hồn
vào thế giới vật chất và vòng luân hồi sanh tử đã xuất hiện từ thời
vô thủy. Nó được tạo ra bởi các nghiệp (karman) từ ý, khẩu, thân của
mỗi vị hữu tình. Mọi hành động dù thiện hay ác, đều cuộn lên những
hạt bụi của nghiệp lực -được gọi là những karman trong thuật ngữ Kỳ-na
giáo - chúng làm cấu uế sinh mạng tức là người hành động: những
karman này được xem là các "chất tội lỗi" tinh tế. Các hành động
độc ác và ích kỷ tạo nhiều bụi bặm ô nhiễm nghiệp lực hơn các
hành động khác, và càng trói chặt loài hữu tình vào vòng luân hồi hơn
nữa.
Cứu cánh của Kỳ-na giáo là giải
thoát linh hồn khỏi vòng tái sanh. Giải thoát, nghĩa là biến đổi sinh mạng
(jìva) trở về trạng thái linh hồn (àtman) thanh tịnh, được thực hiện
bằng cách sống cho hết mọi nghiệp quá khứ (karman), như vậy chúng được
tận diệt, đồng thời bằng cách không tạo thêm các nghiệp mới. Phương
pháp đi đến cứu cánh này qua nhiều kiếp tái sanh thật trường kỳ và
khổ đau. Phái Kỳ-na do vậy nhận định rằng chỉ có một số ít hữu
tình đi con đường ấy cho đến đích, còn đa số phải chịu tái sanh vĩnh
viễn.
Ðể hủy diệt các nghiệp cũ càng
nhanh càng tốt, nhiều người theo đạo Kỳ-na thực hành nhiều giới khổ
hạnh khắc nghiệt gồm cả nhịn ăn đến chết. Chết do khổ hạnh thì
được chấp nhận, mặc dù tự sát thông thường được xem là dấu hiệu
của hèn nhát. Nhằm mục đích đề phòng các nghiệp mới sanh khởi, họ
thường theo nếp sống vô cùng nghiêm ngặt.
Tất cả mọi đệ tử Kỳ-na giáo,
tu sĩ cũng như tại gia, có năm điều luật căn bản (vrata), được suy diễn
là khá nới lỏng đối với cư sĩ, nhưng cực kỳ nghiêm khắc đối với
tu sĩ, đó là: không hại bất cứ jìva nào (ahimsà), không trộm cắp hoặc
nói dối, sống tiết chế nhục dục và không tạo quá nhiều tài sản.
Con đường đi đến giải thoát
dành cho cư sĩ được chia làm mười một giai đoạn (pratimà). Vì không thể
nào tránh làm hại các sinh vật bé nhỏ ở trong đất, nên giữa các nghề,
người thế tục bị cấm làm nghề nông. Thế là cộng đồng cư sĩ đạo
Kỳ-na đa số gồm thương gia, nhiều người đã trở thành giàu có nhờ
buôn bán vàng ngọc. Vàng ngọc là vật vô tri, do vậy sử dụng chúng
không làm hại jìva nào cả.
Chứng đắc viên mãn (siddhi) và giải
thoát (moksa) chỉ có thể do giới tu sĩ thành tựu. Ðiều này cốt yếu là
giải thoát linh hồn, phục hồi sự thanh tịnh của àtman. Những ai được
giải thoát (kevalin) sau khi chết sẽ cư trú trên cõi trời cao hơn vũ trụ
này. Tại đó họ tồn tại như những linh hồn phi thể chất trong một trạng
thái cực lạc toàn tri kiến, bất động, ly hỷ, vô ưu.
Trên đây là sơ lược giáo lý Kỳ-na,
mặc dù một vài điểm có thể đã được phân loại về sau, tuy nhiên,
điều chắc chắn là các tư tưởng tinh túy đều đã có từ thời tổ sư
Mahàvìra, thậm chí cả tổ Pàrsva nữa.
Kinh điển Pàli không có dấu hiệu
nào cho thấy đức Phật đã từng đích thân hội kiến bất kỳ ai trong số
lục sư ngoại đạo danh tiếng ở thời ngài cả. Theo nguyên tắc ngài
tránh các cuộc gặp mặt như vậy (Snip 828, 912) mặc dù rất có thể là
ngài sẽ thắng trong bất kỳ cuộc tranh luận nào với chư vị ấy. Ngài
được xem là một đối thủ đáng kính nể, khó thắng được.
"Sa-môn Gotama đầy mưu lược,
vị ấy biết nhiều xảo thuật mê hoặc lôi cuốn (tức là cảm hóa) các
đệ tử ngoại đạo". Vị đệ tử Kỳ-na giáo Dìhatapassin (Trường Khổ
Hạnh Giả) tường trình với đạo sư Mahàvìra của mình như vậy, sau khi
đã tranh luận với đức Phật (MN 56). Tổ Mahàvìra có lễ cúng để dễ dàng
tạo được một số ý kiến cá nhân đánh giá "Sa-môn Gotama", vì
cả hai vị đều ở gần nhau tại Nàlandà (MN 56). Về phương diện khác,
đức Phật cũng không quan tâm đến việc kết giao với tổ Mahàvìra.
Trong hai thập niên hoằng pháp đầu
tiên, việc hóa đạo của đức Phật thành công tương đối dễ dàng. Nhiệt
tình của ngài còn tinh nguyên và truyền cảm, trong khi các giáo lý đối lập
lại yếu hơn. Ðám người cạnh tranh gay gắt để chiếm ưu thế giữa quần
chúng và các đạo sư đối lập điêu luyện chỉ xuất hiện dần theo thời
gian, trước tiên từ phái jìvikas, về sau từ phái Kỳ-na. Trong thập niên
cuối cùng của đời ngài, hầu như chỉ còn phái Kỳ-na là nhóm triết gia
đối lập với ngài.
Mặc dù đức Phật chưa bao giờ đích
thân gặp mặt bất cứ vị lãnh đạo nào của các giáo phái khác, thông
thường đệ tử của các đạo sư ấy, nhất là của tổ Mahàvìna, vẫn
đến yết kiến ngài. Kinh điển Pàli tường thuật nhiều cuộc viếng
thăm kia, ví dụ như sau:
"Một thời, Thế Tôn trú tại
Nàlandà, ở tinh xá trong Vườn Xoài Pàvàrika. Rồi thôn trưởng
Asibandhakaputta, đệ tử của đạo sư Lõa thể Mahàvìra đến yết kiến Thế
Tôn. Khi vị ấy ngồi xuống bên tả Thế Tôn, Thế Tôn hỏi:
-Này thôn trưởng, giáo pháp của
Nigantha Nàtaputta dạy đệ tử thế nào?
-Bạch Thế Tôn, Nigantha Nàtaputta dạy
như vầy:
" Bất cứ ai sát hại sinh mạng,
tất cả chúng đều phải vào đọa xứ, địa ngục. Bất cứ ai lấy của
không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, tất cả chúng đều
phải vào đọa xứ, địa ngục. Theo cách một người có thói thường sống
như thế nào, kẻ ấy đi về hướng sanh thú ấy". Bạch Thế Tôn, như
vậy là giáo pháp mà Nigantha Nàtaputta dạy đệ tử".
-Này thôn trưởng, ông nói:
"Theo cách một người có thói thường sống thế nào thì kẻ ấy
đi về hướng sanh thú ấy". Song nếu sự tình là như vậy, thì không
ai vào đọa xứ, địa ngục cả. Vì ông nghĩ thế nào, này thôn trưởng?
Nếu một người thỉnh thoảng có sát sanh, thì thời nào là thông thường
hơn (= nhiều hơn) đối với kẻ ấy: thời gian kẻ ấy sát sanh hay thời
gian kẻ ấy không sát sanh?
-Bạch Thế Tôn, dĩ nhiên thời gian
kẻ ấy không sát sanh là thường hơn.
-Nhưng ông nói: "Theo cách một
người có thói thường sống như thế nào, thì kẻ ấy đi về hướng sanh
thú ấy". Do vậy, theo giáo pháp của Nàtaputta, không ai được đọa
xứ, địa ngục cả.
(Ðiều này cũng phù hợp với các
ác nghiệp được tổ Mahàvìra bác bỏ).
Này thôn trưởng, một đạo sư khác
thuyết giảng (điều trái ngược hẳn với những gì Mahàvìra tuyên bố)
và đệ tử đặt lòng tin vào thầy mình. Kẻ ấy nghĩ: "Thầy tuyên bố
rằng bất cứ ai sát sanh - tất cả chúng đều vào đọa xứ, địa ngục.
Nay ta cũng đã sát sanh, vậy ta sẽ phải vào đạo xứ, địa ngục". Và
bởi vì kẻ ấy chấp chặt tà kiến kia, không buông bỏ tà kiến kia, chắc
chắn kẻ ấy phải vào địa ngục, đọa xứ.
* Nhưng ở đây, này thôn trưởng,
Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A-la-hán Cánh Ðẳng Giác. Như Lai kịch liệt
chỉ trích sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, và nói
láo. Vị đệ tử đặt lòng tin vào đạo sư, bèn suy nghĩ: "Nay ta đã
sát sanh. Việc ấy là không đúng, như vậy là không tốt. Phải luôn ghi nhớ
rằng hành động ác kia ta đã lỡ làm, nay ta hãy ăn năn hối cải". Và
do suy nghĩ như vậy, vị ấy từ bỏ sát sanh và bằng cách này vị ấy vuợt
qua ác nghiệp (kamma)... và đồng thời tu tập chánh kiến, hộ trì các căn,
phát triển thiền định, quán từ âm...
Cũng giống như chiếc tù và bằng
vỏ ốc vang dội bốn phương, vị ấy biến mãn khắp bốn phương với tâm
từ, bi, hỷ, xả, vô lượng, vô biênẨ, này thôn trưởng, nhờ từ tâm giải
thoát và xả tâm giải thoát được tu tập như vậy, phàm việc gì có hạn
lượng sẽ không có dư tàn, sẽ không còn tồn tại".
Khi nghe những lời này, thôn trưởng
Asibandhakaputta thưa với Thế Tôn:
" Thật vi diệu thay, Bạch Thế
Tôn, thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn, ước mong Thế Tôn nhận con làm cư
sĩ tại gia quy ngưỡng Thế Tôn từ nay cho đến trọn đời". (SN 42.2,8
giản lược)
Bài kinh này thật thú vị, không chỉ
vì miêu tả một cuộc thảo luận giữa các giáo phái, mà còn vì kỹ thuật
biện luận được đức Phật dùng ở đây, kỹ thuật này có thể được
gọi là "phương pháp hạn chế". Sau khi nêu rõ lý thuyết về nghiệp
(kamma) của Mahàvìra là cực đoan A (các hành động ác thỉnh thoảng xảy
ra không đưa đến nghiệp quả), và của một đạo sư khác là cực đoan Z
(tất cả các hành động ác đều đưa đến nghiệp quả), ngài trình bày
lý thuyết về nghiệp của ngài là Trung Ðạo M hợp lẽ phải: "
Nghiệp quả của một hành động ác có thể được khắc phục nhờ ăn
năn hối cải và tu tập phát triển công đức giới hạnh". Cả
trong thực chất của vấn đề cũng như phương pháp lý luận, ở đây đức
Phật đều chứng minh Trung Ðạo của ngài.
Ðức Phật không đánh giá cao khả
năng thuyết giảng cùng giáo lý của tổ Mahàvìra. Ngài bảo chư Tỳ-kheo,
các giáo lý Kỳ-na không thỏa đáng từ bất cứ quan điểm nào. Bởi vì nếu
khổ lạc của chúng sanh đều do nghiệp quá khứ quyết định thì mọi đệ
tử phái Kỳ-na, những kẻ sống theo Giới Luật khắc nghiệt, phải chịu
đựng quá nhiều khổ đau như vậy, chắc hẳn phải là những kẻ tạo nhiều
ác nghiệp trong kiếp quá khứ. Hoặc nếu ta giả thiết khổ lạc đều do
một đấng sáng tạo nào đó, hoặc do ngẫu nhiên, thì hẳn mọi đệ tử
Kỳ-na phải do một đấng Sáng Tạo ác độc tác thành, hoặc là kết quả
của tai họa ngẫu nhiên đầy bất hạnh. (MN 107)
Trí tuệ linh hoạt mẫn tiệp của
đức Phật khiến ngài dễ dàng phản bác các triết lý đối lập bằng cách
nêu ra các điểm mâu thuẫn nội tại của họ. Một ví dụ là cuộc đối
thoại với vị thôn trưởng phái Kỳ-na vừa nêu trên, một ví dụ khác
là cuộc đàm luận của ngài đối với du sĩ ngoại đạo Dìghanakha
Aggivessana, con trai của bà chị tôn giả Sàriputta (MN 74). Dìghanakha (Trường
Trảo) đến yết kiến đức Phật trên núi Linh Thứu (Gijjhakuta) gần
Ràjagaha, và nêu quan điểm: "Tất cả đều không làm tôi thích
thú". Ðức Phật đáp rằng nếu tất cả (sabbam) đều không làm vị
ấy thích thú, thì điều này phải bao gồm luôn cả triết lý với vị ấy
nữa. Túng thế, Dìghanakha buộc phải thừa nhận điều này chính là vậy.
Sau đó đức Phật thuyết giảng rằng những quan niệm đầy mâu thuẫn nội
tại như vậy làm chướng ngại sự an tịnh của tâm. Cứu cánh giải
thoát chỉ có thể đạt được bằng cách từ bỏ mọi hý luận triết
lý, nhờ tuệ giác thấu triệt bản chất như thật của hiện hữu, sắc
thân là vô thường, khổ, vô ngã (tức là không có bản ngã tồn tại sau
khi chết). Nhận thức này sẽ đưa đến yếm ly mọi cảm thọ (khổ, lạc,
bất khổ bất lạc), ly tham, giải thoát và đoạn tận tái sanh. Dìghanakha
cảm phục khi nghe lời thuyết giảng này, liền xin gia nhập hội chúng cư
sĩ tại gia của đức Phật.
M ục lục | Ia | Ib | Ic | Id | IIa | IIb | IIIa | IIIb | IIIc | IVa | IVb | IVc | IVd | Va | Vb | VIa | VIb | VII | VIII