- Ðức Phật Lịch Sử
(The Historical Buddha)
- H.W. Schumann (1982)
M. O'C. Walshe dịch sang Anh ngữ (1989)
Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch Việt (1997)
Chương II: 528
trước CN
Thành lập Giáo Hội và khởi đầu Hoằng Pháp
-oOo-
NHỮNG
BÀI THUYẾT PHÁP ÐẦU TIÊN
Theo truyền thống, đấng Giác Ngộ
trẻ tuổi sống bảy ngày đầu tiên sau khi thành đạo dưới cội bồ-đề
để hưởng "giải thoát lạc" (Mv1.1.1). Ta có thể nhận điều
này đúng sự thực, vì nền tảng giáo lý đang cần bổ sung nhiều đặc
điểm chi tiết, đồng thời một tâm trạng vừa hân hoan, vừa lưu luyến
thân tình có lẽ đã giữ bậc Giác Ngộ ở nán lại địa điểm đầy ý
nghĩa như vậy đối với ngài. Ta ít tin hơn vào câu nói rằng sau bảy
ngày dưới cội bồ đề, ngài lại sống thêm bảy ngày nữa dưới một số
gốc cây khác ở Uruvelà. Dưới gốc Ða Mục Tử (Ficus Indica) ngài giải
thích cho một Bà-la-môn hỏi ngài về bản chất thực sự của đạo Bà-la-môn,
giáo lý bao gồm trong một đời sống đạo đức thanh tịnh và tinh thông
kinh Vệ-đà (Mv1.2).
Càng có vẻ huyền thoại hơn nữa
là sự kiện được xem như đã xảy ra vào tuần thứ ba sau khi Giác Ngộ,
dưới gốc cây mucalinda (Barringtonia acutangula). Theo Ðại Phẩm (Mv 1.
3), khi một cơn bão báo hiệu gió mùa nổi lên, con rắn hổ mang sống dưới
gốc cây cuộn mình quấn quanh ngài và che ngài khỏi bị mưa bằng chiếc mào
mở rộng. Nguồn gốc chuyện này có thể là con rắn ấy bị nước mưa tràn
vào lỗ phải bò ra nằm sát trước vị Sa-môn này, nhưng không làm hại
ngài.
Từ cây mucalinda đức Phật đi đến
cây ràjàyatana (Buchanania latifolia) và cũng ở lại dưới gốc cây ấy
một tuần. Chính tại đây, hai thương nhân Tapussa và Bhallika đang du hành từ
Ukkalà (thuộc Orissa?) có lẽ đến Ràjagaha, cúng dường ngài cháo mạch và
mật ong để "tạo thêm an lạc và phước đức". Ngài dùng thực
phẩm cúng dường ấy và hai vị thương nhân kia "quy y bậc Giác Ngộ
cùng Giáo Pháp của ngài" - Giáo Pháp mà lúc ấy ngài chưa tuyên bố
- và như vậy đã trở thành các đệ tử tại gia đầu tiên của ngài (Mv.
1.4).
Tuần thứ năm sau khi Giác Ngộ,
ngài lại đến ở một lần nữa dưới bóng mát cây Ða Mục Tử. Có thể
do lời thỉnh cầu giáo hóa của Tapussa và Bhallika gợi ý, ngài suy xét xem
có nên giữ giáo lý cho riêng ngài hay tuyên thuyết cho người đời vì "giáo
lý ấy thật thâm áo, khó thấy, khó hiểu, dựa trên thực nghiệm, tuyệt
diệu, không phải do lý luận, tế nhị, chỉ người có trí thấu triệt
được mà thôi".
Kinh Ðiển Pàli (Mv1.5 và MN 26) ghi lại
các mối hoài nghi này theo hình thức một cuộc đối thoại với Phạm Thiên
Sahampati (Tự Tại Thiên, Ta-bà Chủ). Rõ ràng đức Phật muốn làm cho sự
xung đột giữa các tư tưởng nội tâm ngài trở thành dễ hiểu, nên đã
sử dụng hình ảnh vị Phạm Thiên lừng danh này để trình bày những
tranh luận đối lập nhau khi ngài do dự thuyết Pháp. Dĩ nhiên, ngài cũng
như đa số các người đương thời, vẫn tin có các thần linh (các vị
này cũng phải chịu sanh tử luân hồi theo luật tự nhiên của mọi loài).
Song việc chính ngài thấy rõ tận mắt vị Phạm Thiên ấy một cách linh
động như các kinh điển tuyên bố, có lẽ do sự diễn giải của chư Tỳ-kheo
về sau.
Trong cuộc "đối thoại"
tiếp theo đây được rút gọn vào các điểm chính yếu, các lý luận
thiên về đời sống an tịnh cá nhân đối lập với lý luận vị tha quên
mình, và các lý luận sau đã thắng các lý luận trước.
Ðức Phật bảo: "Thế giới
này thích thú dục lạc, song Giáo Pháp (Dhamma) của ta hướng đến viễn
ly, ly tham, ái diệt. Giả sử ta thuyết giảng Giáo Pháp này, tức phải đi
ngược dòng, và người đời không hiểu được ta, điều ấy sẽ gây nhọc
lòng cho ta".
Phạm Thiên đáp: "Thế giới
sẽ hủy diệt nếu đấng Toàn Giác không quyết định thuyết Pháp. Do vậy,
cầu xin đức Thế Tôn hãy thuyết Pháp. Có những người ít nhiễm bụi
trong mắt, nếu không được nghe Pháp, chúng sẽ sa đọa. Song nếu chúng
nghe Pháp, chúng sẽ đạt giải thoát".
Lý luận của Phạm Thiên gợi lên
lòng bi mẫn của đức Phật đối với chúng sanh và cùng với tiếng gọi
lớn: "Các cửa Bất tử đều rộng mở cho những ai muốn nghe",
ngài đồng ý thuyết Pháp. Vị Phạm Thiên hân hoan đảnh lễ đức Phật,
đi vòng quanh ngài với thân hướng về phía hữu theo nghi thức Ấn Ðộ, rồi
biến mất. Như thế các Thiên thần cũng biết cách giữ lễ độ đối với
một bậc Giác Ngộ.
Khi đang suy xét xem ngài nên giảng
Pháp đầu tiên cho người nào, đức Phật nghĩ ngay đến những vị có thời
từng là Ðạo Sư của ngài: Àlàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta. Khi biết rằng
cả hai đều từ trần, ngài liền nghĩ đến năm vị đồng tu khổ hạnh với
ngài thuở trước, mà ngài biết bấy giờ chư vị đang trú tại Lộc Uyển
(Vườn Nai) ở Isipatana (Chư Tiên Ðọa Xứ) gần Benares (Ba-la-nại) hay
Vàrànasi. Ngài biết chư vị ấy sẽ nhanh chóng thông hiểu giáo lý. Trong
niềm hân hoan chiến thắng vì đã có sẵn phương tiện độ sanh trong tay,
cùng quyết định dâng trọn đời mình cho sứ mạng cao cả này, ngài khởi
hành đến Benares. Nếu ta xét rằng ngài phải khất thực mỗi buổi sáng
và cái nắng gắt buổi trưa thật bất tiện cho việc đi bộ, thì ta phỏng
đoán ngài phải cần ít nhất là mười bốn ngày cho cuộc hành trình dài
210 km này (theo đường chim bay).
Khoảng giữa Uruvelà và Gayà, ngay
sau khi ngài khởi hành, ngài gặp một du sĩ lõa thể tên Upaka nào đó thuộc
phái Àjivika, là người chủ trương thuyết định mệnh cực đoan. Vẻ hân
hoan nội tâm tỏa ra trên khuôn mặt sáng chói của ngài khiến vị này chú
ý và hỏi ai là Ðạo Sư của ngài và Giáo Pháp ngài như thế nào. Ðức
Phật đầy tự tin tuyên bố ngài đã được giải thoát nhờ ái diệt,
ngài là vị thắng giả chiến trường, vì vậy ngài không có Ðạo Sư, mà
chính ngài là bậc Ðạo Sư. Nghe điều này, Upaka cũng không cảm phục
và nói: "Có thể là như vậy, thưa hiền giả" rồi lắc đầu
rẽ vào một con đường khác bên cạnh. (Mv1.6; MN 26, MN 85). Các nhà kiết tập
Kinh Tạng Pàli đã có thể dễ dàng cắt bỏ tiểu đoạn này vì nó làm hỏng
phần nào hình ảnh của đức Phật. Song chư vị đã không làm như vậy chứng
tỏ lòng tôn trọng sự thật lịch sử.
Còn các vị Kondañña, Bhaddiya,
Vappa, Mahànàma và Assaji thật bất mãn khi thấy Sa-môn Gotama, người bạn
đồng tu cũ trước kia đã rời bỏ chư vị, nay lại đi đến gần Vườn
Nai ở Isipatana. Quả thật chư vị đã đồng lòng không chào hỏi cũng không
đứng lên đảnh lễ ngài. Song khi ngài đến gần, chư vị đã bị chinh phục
trước vẻ cao quý của một bậc giải thoát khiến chư vị đều cư xử với
ngài vô cùng kính cẩn. Chư vị cầm lấy bình bát và thượng y của ngài,
sửa soạn chỗ ngồi cho ngài, rửa chân ngài và xưng hô "Hiền giả"
(Àvuso) với ngài theo thói quen. Song đức Phật bác bỏ cách xưng hô
này:
"Này các Tỳ-kheo, đừng gọi
Như Lai (Tathàgata: Bậc Ðến Như Vậy) là "Hiền giả" (như một
trong các vị). Này các Tỳ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác". (Mv1.6.12 ; MN 26)
Một bậc Giác Ngộ tượng trưng một
hạng người độc nhất, trên thực tế vẫn có hình dáng bề ngoài như mọi
người, cũng phải chịu biến hoại về thể chất (do kết quả của tiền
nghiệp chưa tiêu trừ), song vị ấy không còn bị trói buộc vào vòng luân
hồi sanh tử. Bao lâu ngài chưa đắc Niết-bàn vô dư y tối hậu (đại diệt
độ), ngài vẫn sống như một bậc giải thoát ở đời, song nội tâm
không còn tham luyến đời, buông xả đối với đời. Mọi kiết sử ràng
buộc từ gia đình đến xã hội, đều bị ngài cắt đứt.
Lời tuyên bố đã khám phá con đường
đưa đến Bất Tử tức con đường Giải thoát, đã Giác Ngộ Chân Lý và
chứng đắc Pháp (Dhamma) của ngài lúc ấy được năm nhà tu khổ hạnh,
bạn đồng tu cũ, đáp lại với vẻ hoài nghi. Chư vị hỏi, làm thế nào
một người đã từ bỏ khổ hạnh để chọn đời sống sung túc lại có
thể chứng đắc Chân Lý? Ðức Phật giải thích rằng ngài chẳng hề tham
đắm đời sống sung túc, và để làm sáng tỏ mọi việc, ngài thuyết giảng
một bài kinh (sutta) cho chư vị, bài kinh danh tiếng Chuyển Pháp
Luân, khởi đầu sự nghiệp hoằng Pháp của ngài. Bài kinh trình bày Pháp
(Dhamma) là Trung Ðạo, và nêu lên hệ thống Bốn Chân Lý:
đó là một căn bản hợp lý chứa đựng đầy đủ các lời dạy tinh vi:
"Có hai cực đoan, này các Tỳ-kheo,
mà người xuất gia không nên hành trì. Ðó là hai cực đoan nào? (Một mặt)
đắm mình vào dục lạc, thấp kém, tầm thường, hạ liệt, không xứng đáng
bậc Thánh, không ích lợi. (Mặt khác) chuyên tâm khổ hạnh ép xác, gây khổ
đau, không xứng đáng bậc Thánh, và cũng không ích lợi.
Này các Tỳ-kheo, Như Lai đã tránh
xa hai cực đoan này, và tìm ra Trung Ðạo chính là con đường khiến cho ta
thấy và biết (tác thành nhãn và trí), con đường đưa đến an tịnh, thắng
trí, Giác Ngộ, Niết-bàn.
- Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh đế về Khổ
(Dukkha): sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi,
khổ, ưu, não là khổ; thân cận những gì ta không thích là khổ, xa lìa những
gì ta thích là khổ, cầu không được là khổ; tóm lại, ngũ thủ uẩn (tạo
thành một cá nhân sống thực) là khổ.
- Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh đế về Nguồn gốc
của Khổ (Samudaya): Ðó chính là khát ái (tanhà) đưa đến tái sanh, câu hữu
với hỷ và tham, tìm thấy lạc thú chỗ này chỗ kia: đó là Dục ái
(Kàmatanhà), Hữu ái (bhavatanhà) và Phi hữu ái (Vibhavatanhà).
- Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh đế về Khổ Diệt
(Nirodha) chính là sự đoạn trừ, diệt tận hoàn toàn khát ái đó, quăng bỏ
nó, chấm dứt nó, xả ly nó, không chấp thủ nó.
- Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh đế về Con Ðường
đưa đến Khổ Diệt (Magga). Ðó là Thánh Ðạo Tám Ngành tức là:
Chánh Kiến (Sammà-Ditthi)
Chánh Tư duy (Sammà-Sankappa)
Chánh Ngữ (Sammà-Vàcà)
Chánh Nghiệp (Sammà-Kammanta)
Chánh Mạng (Sammà-Àjìva)
Chánh Tinh tấn (Sammà-Vàyàma)
Chánh Niệm (Sammà-Sati)
Chánh Ðịnh (Sammà-Samàdhi)
(Mv1.6.17, 19, 22 = SN 56. 11. 5 - 8)
Năm vị tôn giả hết sức chú tâm
lắng nghe lời ngài, và ngay khi ngài thuyết giảng, tôn giả Kondañña đã
quán triệt Giáo Pháp: "những gì chịu qui luật sinh khởi đều phải
chịu qui luật hoại diệt". (Mv. 1. 6. 29) Sau đó, tôn giả liền xin
đức Phật nhận làm đệ tử và đức Phật lấy phương ngôn: "Ðến
đây, này Tỳ-kheo, Giáo Pháp đã được khéo giảng, hãy sống đời Phạm
hạnh (thanh tịnh) để đoạn tận khổ đau" để nhận tôn giả
làm một Tỳ-kheo (Bhikkhu) (Mv 1. 6 . 32). Như vậy tôn giả Kondañ ñ a
là vị Tỳ-kheo đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, và sự thọ giới của
tôn giả đánh dấu khởi điểm của Tăng đoàn (Sangha) tồn tại cho
đến ngày nay.
Trong các nước Châu Á theo đạo Phật,
lễ "Chuyển Pháp Luân" được cử hành hằng năm vào ngày rằm
tháng Àsàlhà (tháng 5-6) như vậy khoảng hai tháng âm lịch (56 ngày) được
xem là đã trôi qua giữa thời đức Phật Thành Ðạo tháng Vesàkha và thời
thuyết Pháp tại Isipatana.
Chẳng bao lâu lời dạy của đức
Phật đã khiến cho tôn giả Vappa và Bhaddiya hiểu Pháp (Dhamma) và hai
vị cũng được nhận làm Tỳ-kheo. Trong lúc chư Tỳ-kheo (nghĩa đen là Khất
sĩ) Kondañ ñ a, Vappa và Bhaddiya đi khất thực để cung cấp thức ăn cho cả
nhóm, bậc Ðạo Sư thuyết giảng riêng cho tôn giả Mahànàma và Assaji.
Trong chốc lát, chư vị cũng đắc tri kiến cần thiết (của bậc Nhập
lưu) và xin thọ giới (Mv1. 6.33-7). như vậy đã có sáu Tỳ-kheo trên thế
gian - đức Phật và năm đệ tử của ngài.
Vài ngày sau lễ thọ giới của năm
vị đệ tử, đức Phật dạy chư vị bài Pháp về Vô Ngã (Mv1.6.38-46; SN
22.59). Ðiều đáng chú ý là bài Pháp này nêu lên một ý tưởng chưa hề
được gợi lên vào thời Giác Ngộ hoặc thời Pháp ở Isipatana, và ý tưởng
này thực sự gây kinh ngạc trong một hệ thống giáo lý hướng về tinh thần:
phủ nhận sự hiện hữu của linh hồn. Ðiều này chứng tỏ đức Phật
đã phát triển phương diện triết lý trong Pháp của ngài từ khi Thành Ðạo.
Kinh Vô Ngã Tướng bắt đầu từ sự
thừa nhận rằng mỗi cá thể thực sự gồm có năm uẩn - chỉ có năm - (khandha)
thành tố, tức là sắc, thọ, tưởng, hành (sankhàra) và thức. Vì
ở Ấn Ðộ, bản ngã, linh hồn (atta hay àtman) luôn ám chỉ một cái
gì thường hằng, vĩnh cửu tồn tại sau khi chết, còn ngũ uẩn thì không
có gì thường hằng vĩnh cửu cho nên phải kết luận là không có uẩn
nào chứa đựng một linh hồn cả. Trong ngũ uẩn kết hợp thành một cá
nhân toàn vẹn có đời sống tâm lý hay tinh thần, song không có một linh hồn
theo nghĩa một thực thể trường cửu: cá nhân là vô ngã (anatta), không
có linh hồn.
Một lý luận thứ hai hỗ trợ lý
luận đầu tiên. Tính chất biến đổi và hoại diệt của ngũ uẩn khiến
chúng gây khổ đau (dukkha) và một vật gây khổ đau, (và không làm
thỏa mãn) không thể là một linh hồn trường cửu.
Khi năm Tỳ-kheo nghe lời thuyết giảng
này của đức Phật, tâm của chư vị thoát khỏi mọi lậu hoặc (àsava)
đưa đến tái sanh, và do vậy, chư vị trở thành các bậc Thánh (A-la-hán)
(Mv1.6.47). Tri kiến của chư vị về Giáo Pháp cứu khổ bấy giờ cũng trở
thành mênh mông, sâu thẳm như tri kiến đức Phật, chỉ khác ngài ở điểm
nguồn gốc tri kiến ấy mà thôi. Về phương diện giáo lý, một đức
Phật được định nghĩa là vị tự tìm ra con đường giải thoát cho
mình, trong khi một bậc A-la-hán được giải thoát nhờ nghe Pháp thuyết giảng.
(SN 22. 58)
Sự đắc quả tương đối dễ dàng
của năm vị đầu tiên cũng như nhiều vị Tỳ-kheo và cư sĩ về sau đã
khiến cho nhiều người đọc Kinh Ðiển nghĩ rằng quần chúng thời đức
Phật có sẵn căn cơ hướng đến tuệ giác nhiều hơn chúng ta thời nay.
Ðiều này cũng có thể xảy ra, vì trong lịch sử thế giới có thể thấy
nhiều thời kỳ tinh thần thăng tiến hay suy giảm.
Một lý do khác để giải thích sự
kiện thường tuyên bố đắc quả A-la-hán là người Ấn Ðộ cổ đại vẫn
có niềm tin chắc rằng nhận thức và chứng đắc là một: Bất cứ ai
quán triệt Tứ Thánh Ðế và theo Thánh Ðế thứ hai, ai nhận thức chính
tham ái (tanhà) là nguyên nhân tái sanh và đau khổ, liền đoạn tận
tham ái nhờ tri kiến ấy và như vậy là trở thành một bậc A-la-hán.
Ngày nay, chúng ta ít lạc quan hơn về hiệu năng của nhận thức ấy.
SÀRNÀTH, ÐỊA ÐIỂM KHẢO CỔ
Sarnàth giống như một ốc đảo
thanh bình nằm kế cận tiếng còi xe điện ồn ào và tiếng chuông xe kéo
leng keng ở Benares. Thành phố tấp nập này của Ấn giáo chỉ cách 8km với
cảnh yên tĩnh của Lộc Uyển (Migadàya) ở Isipatana, nay tên là Sàrnàth (Sanskrit:
Sàranganàtha: Lộc Vương), song ở đây, phong cảnh trông thật khác hẳn
- trật tự và trang nghiêm. Ðoạn cuối con đường nhựa được viền với
những hàng cây xoài rậm rạp và cây me hùng vĩ. Khuôn viên có tường đá
bao quanh được Ban Khảo Cổ Ấn Ðộ chăm sóc cẩn thận. Giữa các quần
thể di tích là các sân cỏ điểm lấm tấm những chùm hoa giấy tím đỏ
khắp nơi.
Ngôi đền nổi bật nhất ở Sàrnàth
là Ðại Tháp Dhamekh cao 44m, một tháp tròn, đường kính 27m dựng trên một
bệ đá, xây bằng gạch với nhiều nơi có hình đá chạm trổ trang hoàng,
khoảng giữa hẹp dần lên đến 2/3 đường kính đáy. Tất cả tháp này gồm
nhiều mái che và hình thẳng mở rộng ra từ một tháp nhỏ bằng gạch và
đất sét thời vua Asoka (thế kỷ thứ ba trước CN).
Nguồn gốc danh từ Dhamekh được
tranh luận mãi cho đến khi khám phá ra một tấm bia ký bằng gạch nung của
người mộ đạo mới ổn định vấn đề này. Chữ khắc trên bia ghi tên
tháp là Dhamàka (Skt: dhammacakra), nghĩa là nó đánh dấu nơi đức Phật
thuyết giảng cho năm Tỳ-kheo đầu tiên: Chuyển Pháp Luân (Pàli:
Dhamma-cakka). Những người hành hương chiêm bái tháp này, cũng như mọi
tháp khác đều được xây đặc bên trong, vì vậy không vào được, chỉ
còn cách đi vòng quanh về phía hữu, một phong tục Ấn Ðộ bày tỏ lòng
tôn kính các bậc cao trọng.
Vượt qua các di tích đền tháp cổ,
khách hành hương đi từ Ðại Tháp Dhamekh đến ngôi đền chính ở
Sàrnàth, có các tường gạch dày 2m, cao 5m. Nhận xét theo vẻ xây dựng
kiên cố và lời tường thuật của Pháp sư Huyền Trang, ngôi cổ tháp hẳn
đã cao chừng 60m. Di tích các bức tường bao quanh một vùng rộng 13m x
13m. Ðây là nền trong của chánh điện mà theo lời ngài Huyền
Trang miêu tả vào thế kỷ thứ bảy, đã bài trí một tượng Phật bằng
kim loại. Có lẽ ngôi đền xuất hiện khoảng thế kỷ thứ hai hay thế kỷ
thứ ba (sau CN) ngay trên vị trí ngày xưa. Năm vị Tỳ-kheo dựng một am thất
bằng lá dành cho bậc Ðạo Sư, nơi ấy ngài an cư mùa mưa năm 528 trước
CN. Ðịa điểm này là nơi hành thiền thuận lợi đối với các khách
chiêm bái từ Sri Lanka, Miến Ðiện, Thái Lan. Thường các sư Tây-Tạng mang
y đỏ tía cũng đến đây hành lễ Pùja hoặc tưởng niệm bậc Ðạo Sư với
108 lần khấu đầu đảnh lễ và thắp đèn dầu cúng Phật.
Về phía tây chánh điện, du khách
thấy một trụ đá thẳng ghi sắc dụ của Ðại đế Asoka (thế kỷ thứ
ba trước CN). Trụ đá có đáy dày 70cm và phần trên dày 55cm, xưa cao 16m,
nay đã vỡ thành nhiều mảnh vì hậu quả cuộc tàn phá Benares và Sàrnàth
của tướng Qutb-ud-Din năm 1194. Phần đầu trụ đá này ở trong bảo tàng
địa phương, là một cổ vật danh tiếng, có hình tượng bốn con sư tử
điêu khắc tinh xảo ngồi đối lưng nhau, vì cũng như sư tử có tiếng rống
lớn nhất giữa muôn loài, vang dậy tứ phương, đức Phật là bậc Ðạo
Sư vang danh đệ nhất trong thời ngài và ngài hoằng Pháp khắp mọi hướng.
Ðầu trụ đá hình sư tử ngày nay
là quốc huy của Cộng hòa Ấn Ðộ, và bánh xe 24 nan hoa hiện diện bốn
phía ở đế của đầu trụ đá - là biểu tượng của Phật Pháp và của
nền cai trị công chính - ngày nay hiện diện trên quốc kỳ Ấn Ðộ.
Sắc dụ của hoàng đế ghi bằng
chữ Bràhmì trên một phần trụ đá còn tồn tại thật ra không thích hợp
với vẻ tôn nghiêm của thánh địa này. Sắc dụ ấy cảnh báo Tăng chúng
và Ni chúng đề phòng sự chia rẽ Giáo hội cùng ra lệnh cho những kẻ
gây bất hòa phải mặc bạch y thay vì hoàng y của Giáo hội và phải rời
Giáo hội. Ðệ tử cư sĩ phải tuân giới luật vào các ngày trai giới (Bố-tát:
Uposatha) tức các ngày mồng một, mồng tám (trăng non), ngày rằm trăng
tròn và ngày hai mươi ba ở giữa nửa tháng sau (23).
Vì sắc dụ không đề cập các sự
kiện thuyết pháp đầu tiên ở Isipatana, nên người ta đã kết luận rằng
cột đá được mang đến Sarnàth từ một nơi nào đó. Nội dung sắc dụ
phù hợp với việc thời xưa nó đã được đem đến từ Kosambì.
Cách phía nam ngôi đền và trụ đá
Asoka độ vài mét, du khách thấy một nền cao hình tròn. Ðây là nền Bảo
Tháp Dharmaràjika, xưa cao 30m với một lan can bằng đá. Bảo tháp này cũng
do vua Asoka dựng lên, nay chỉ còn sót một vài lớp gạch. Phần kia đã bị
Jagat Singh, đại thần của tiểu vương Chet Singh ở Benares phá hủy để lấy
gạch năm 1794. Trong lúc triệt hạ ngôi tháp, họ tìm được một bình đá
tròn ở khoảng 9m dưới đỉnh tháp, đựng một hộp thánh tích bằng cẩm
thạch, hộp này giữ một phần tro xá-lợi Phật mà vua Asoka đã rước về
từ nơi hỏa táng nguyên thủy đến Sàrnàth với mục đích là nơi đức
Phật Sơ Chuyển Pháp Luân và thành lập Tăng đoàn cũng hưởng phần xá-lợi.
Còn đại thần Jagat Singh lại giải quyết phần xá-lợi theo kiểu Ấn Ðộ
giáo: Ông truyền lệnh làm lễ rải tro trên sông Hằng.
Tuy nhiên việc phá hủy Bảo Tháp
Dharma-ràjika và khám phá xá-lợi Phật cũng có mặt thuận lợi. Bản tường
thuật về Bảo Tháp của Anh kiều tại địa phương này đã khiến công
chúng quan tâm vùng Sàrnàth đưa đến việc điều tra di tích khảo cổ ở
đây.
PHÁT TRIỂN GIÁO HỘI
Từ Lộc Uyển ở Isipatana (Sàrnàth
ngày nay), đức Phật ít thích đến viếng thành phố Benares. Ngoài khoảng
cách chừng một giờ rưỡi đi bộ, còn phải băng qua sông Varunà, (nay là
Barnà) và phải di chuyển bằng phà có trả tiền là thứ mà một khất sĩ
không cất giữ! Nhất là dân Benares thường chống đối đám du sĩ hành khất
nên khó kiếm được thực phẩm bố thí ở đó.
Tuy nhiên, mối liên lạc với
Benares đã được thiết lập sẵn dành cho đức Phật mà không cần ngài
phải làm gì cả. Việc đó là do thanh niên Yasa (Da-xá), nam tử của một
thương nhân hào phú, chủ tịch một nghiệp đoàn ở Benares, có lẽ là chủ
ngân khố hoặc thương nhân tơ lụa bán sỉ. Yasa là một thanh niên được
nuông chìu mọi mặt quá thỏa mãn với cuộc sống truy hoan đã làm cho nội
tâm chàng trống rỗng. Kinh Ðiển Pàli (Mv1.7) nhắc đến ba ngôi nhà chàng
ở theo từng mùa, đám nữ vũ công bao vây chàng, song chàng vẫn hờ hững
dửng dưng, cùng đôi hài bằng vàng - có lẽ được thêu chỉ bằng vàng -
mà chàng mang thuở đó.
Do vậy chàng Yasa chán ngán đời sống
gia đình đầy xa hoa, với tâm trạng bất mãn, một sáng sớm kia đến viếng
Vườn Nai ở Isipatana, đảnh lễ đức Phật và kính cẩn ngồi xuống cách
ngài một khoảng. Ðức Phật nhận ra vẻ chán chường cuộc sống thế tục
ở thanh niên này, bèn thuyết giảng cho chàng một bài Pháp "thuận thứ".
Phương pháp này chứng tỏ tài năng giảng dạy của ngài, lần đầu tiên
ngài ứng dụng với Yasa, gồm cách trình bày trước hết các vấn đề dễ
hiểu như bố thí, trì giới, cõi Thiên và sự bất lợi của dục lạc.
Nếu người nghe có khả năng thọ
giáo thêm, ngài sẽ tiếp tục thuyết giảng Tứ Thánh Ðế, đó là chân
lý về khổ, khổ tập, khổ diệt và con đường chấm dứt khổ. Phương
pháp sư phạm này chứng tỏ hiệu quả tức thời đối với Yasa. Chàng đắc
"Pháp nhãn vô trần ly cấu" tức là thấy "bất cứ vật
gì chịu quy luật sanh khởi đều phải chịu quy luật hoại diệt".
(Mv1.7.6)
Trong lúc ấy, mẫu thân chàng Yasa
đang lo âu về con trai bà nên xin chồng bà đi tìm con. Vì thế phụ thân
chàng cũng đến Vườn Nai và hỏi đức Phật về con trai mình. Thay vì đáp
thẳng, đức Phật bảo ông ngồi xuống, rồi cũng thuyết giảng "bài
Pháp thuận thứ" của ngài vừa chứng tỏ thành công với chàng Yasa.
Song vì phụ thân chàng Yasa quá lo âu nên không thể thọ giáo thêm nữa,
ngài chỉ giảng cho ông nghe phần đầu dễ hiểu trong Giáo Pháp. Lập tức
phụ thân chàng Yasa xin quy y Phật, Pháp, Tăng và xưng mình là cận sự nam
cư sĩ (Upàsaka). Như vậy, sau Tapussa và Bhallika, ông là đệ tam cư
sĩ tại gia của Giáo hội Phật giáo, mặc dù ông là người đầu tiên
được giáo hóa với phương thức Tam Quy Phật, Pháp, Tăng vẫn còn tồn tại
đến ngày nay.
Cuối cùng, thân phụ chàng Yasa mới
nhận thấy con trai ông đang ngồi trong hội chúng vây quanh đức Phật, và
ông van xin chàng trở lại nhà vì mẹ già đang ưu phiền về chàng. Song
chàng Yasa nhìn đức Phật với vẻ khẩn cầu tha thiết khiến ngài bảo rằng
một người đã khinh chê cuộc sống thế gian như Yasa không thể tiếp tục
sống đời cũ nữa.
Thân phụ Yasa đành chấp nhận lý
luận của ngài, song ông thỉnh Phật đến thọ thực ngày hôm sau có Yasa
theo hầu. Ðức Phật im lặng nhận lời, đó là cách bày tỏ đồng ý
thông thường trong đạo Phật - có lẽ đi kèm với một dấu hiệu chấp
nhận vẫn thịnh hành đến nay, là vẽ hình số 8 nằm ngang với chiếc cằm.
Ngay sau khi phụ thân ra về, thanh
niên Yasa xin thọ giới Tỳ-kheo. Ðức Phật nhận lời thỉnh cầu của
chàng và chẳng bao lâu Tỳ-kheo Yasa đắc Thánh quả A-la-hán, "Giờ
đây có bảy vị A-la-hán trên thế gian". (Mv1.7)
Mặc dù chuyện này mang tính khích
lệ đạo đức, đó cũng là một truyền thuyết cảm động của thời ấy.
Không những nó nêu rõ ước vọng tâm linh tha thiết xâm chiếm tâm hồn
dân Ấn ở thế kỷ thứ sáu trước CN đã khiến cho vô số người rời bỏ
nhà cửa trang trại để phiêu lưu trên đường đời khất sĩ vô định, nó
còn cho ta thấy nỗi đau lòng mà cha mẹ, đôi khi cả vợ con nữa, phải chịu
đựng trước cảnh chia ly với con, chồng, cha họ.
Buổi cơm cúng dường mà thân phụ
chàng Yasa thỉnh mời đức Phật, Ðạo Sư của ông và chính cả con trai
ông nữa, diễn ra sáng hôm sau. "Ðược tôn giả Tỳ-kheo Yasa theo hầu",
bậc Ðạo Sư lên đường tiến về nhà song thân tôn giả , và được mẫu
thân và "nguyên hiền phụ" của tôn giả nghênh tiếp. Sau khi hai
bà này thọ giáo bài Pháp thuận thứ với đầy đủ chi tiết của đức
Phật, hai bà liền quy y Tam bảo, như vậy đã trở thành các nữ đệ tử
cư sĩ đầu tiên, các cận sự nữ (Upàsikà) của đức Phật. Kế đó,
cùng với phụ thân tôn giả, hai bà phục vụ chư Tăng suốt buổi thọ thực
(Mv1.8)
Việc tôn giả Yasa xuất gia đầu
Phật đã gây nhiều tiếng vang lớn. Sự kiện một giáo lý hướng nội thúc
giục một chàng thanh niên chán hưởng thụ rời bỏ đời sống đầy lạc
thú để trở thành một Sa-môn khất sĩ là bằng cớ hùng hồn cho thân hữu
chàng thấy giáo lý này hẳn phải phi thường xuất chúng, khiến thêm bốn
người trong đám ấy cũng làm theo chàng: Vimala, Subàhu, Punnaji và Gavampati,
tất cả cũng như tôn giả Yasa, đều là nam tử của các thương nhân thuộc
giai cấp Vệ-xá, đã được nhận làm Tỳ-kheo theo lời tiến cử của tôn
giả, và sau đó đều trở thành A-la-hán (Mv1.9)
Chẳng bao lâu sau, thêm 50 thân hữu
của tôn giả từ các vùng lân cận Benares cũng gia nhập Giáo đoàn và đều
đắc quả A-la-hán. Như vậy, chư vị A-la-hán đã lên đến số 61 người
(Mv1.10)
M ục lục | Ia | Ib | Ic | Id | IIa | IIb | IIIa | IIIb | IIIc | IVa | IVb | IVc | IVd | Va | Vb | VIa | VIb | VII | VIII