- Ðức Phật Lịch Sử
(The Historical Buddha)
- H.W. Schumann (1982)
M. O'C. Walshe dịch sang Anh ngữ (1989)
Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch Việt (1997)
Chương III (tt)
-oOo-
NHỮNG VẤN
ÐỀ LIÊN HỆ ÐẾN KOSAMBÌ
Các Ðại Vương nước Magadha và
Kosala, những nhà cai trị hùng cường nhất đương thời, đều là thân hữu
của đức Phật Gotama và con số tín đồ của ngài đã lên đến vài ngàn
người. Ngài cảm thấy thời cơ đã thuận lợi để thiết lập quan hệ với
vua Udena ngự tại Kosambì (Kiều-thưởng-di) đang cai trị vương quốc Vamsà
ở giữa sông Hằng và sông Yamunà (Diệm-mâu-na).
Ðức Phật đã nghe nhiều người nói
nên biết rõ vị vua này: ngài đã an cư mùa mưa 521 trước CN tại Sumsumàragiri
(Núi Cá Sấu), quê hương của bộ tộc Bhagga thuộc vương quốc vua Udena và
ngài biết thủ đô của Vamsà ở Kosambì (khoảng 55km về phía tây nam
Allahabàd ngày nay) do nhiều chuyến du hành. Nhờ sự hào hiệp của một số
thương nhân từ Kosambì đã đi nghe bậc Ðạo Sư thuyết Pháp tại Sàvatthi
và đã dành các lâm viên để ngài sử dụng ở tỉnh nhà, nên Tăng chúng
có nơi cư trú ổn định và số môn đồ đông đảo ở Kosambì.
Ðặc biệt nhất là tinh xá Lâm
Viên của trưởng giả Ghosita (Cù-sư-la), vị đệ nhất phú gia ở Kosambì
vừa là chủ tịch nghiệp đoàn vừa là chủ ngân khố hoàng gia, bấy giờ
đã phát triển thành một trung tâm tu học rất hoạt động. Như vậy địa
thế đã có vẻ sẵn sàng để việc truyền giáo mở rộng và vì vậy đức
Phật lại đến Kosambì một lần nữa vào năm 520 để giáo giới chư Tăng
suốt mùa mưa ấy và cũng để thuyết phục vua Udena theo Giáo Pháp.
Lần thử nghiệm ấy đã thất bại.
Nhà vua Vamsà là người có đầu óc thế tục nên không buồn chất vấn về
những gì xảy ra sau thời hiện tại này và nhà vua tránh gặp bậc đại
Ðạo Sư. Nhà vua đã chán ngán những tranh luận về tôn giáo giữa các vương
hậu của ông là Sàmàvati và Màgandiyà, một quý phi ông vừa mới rước về.
Vương hậu Samàvati là một tín nữ của đức Phật, trong lúc Màgandiya lại
chống đối ngài. Nàng không từ bỏ một việc gì nhằm bôi nhọ danh dự
của người tình địch sùng đạo Phật này với nhà vua. Bằng cách phao
tin là vương hậu Sàmàvatì thường ngắm nhìn đức Phật qua cửa sổ cung
thất bà khi ngài đi khất thực ngang qua đó, nàng khơi dậy lòng ghen tức
trong trí vua Udena khiến ông ra lệnh lấy gạch bít kín cửa sổ của bà.
Sau đó nàng lại cố dùng nhiều kế
hoạch ám chỉ vương hậu Sàmàvatì là kẻ cừu địch đang bí mật lập mưu
sát hại mạng vua. Mặc dù vua không tin nàng hẳn, ông vẫn đa nghi, nên
hình như ông đã bắt vương hậu Sàmàvatì phải chịu một hình phạt thử
thách. Ông nhắm một mũi tên bắn vào bà, nhưng mũi tên hụt mất. Một thời
gian sau bà chết trong một trận hỏa hoạn ở khu hậu cung của phi tần.
Nhà vua phát giác rằng nàng Màgandiyà đã gây ra đám cháy nên trước tiên
ông bắt tội các quyến thuộc đồng mưu của nàng và sau đó chính nàng
Màgandiyà phải chịu chết thảm.
Ác cảm của nhà vua đối với vấn
đề tôn giáo không ngăn cản được các hậu phi quan tâm vào đạo. Có lần,
khi vua Udena đi ngủ sau một chuyến du ngoạn đến rừng Udaka gần Kosambì,
các phi tần nắm lấy cơ hội này đi nghe Pháp do Tỳ-kheo Pindola (Tần-đầu-lô)
thuyết giảng. Khi vua thức dậy, ông nổi trận lôi đình và đe dọa cho ném
vị Tỳ-kheo ấy vào ổ kiến lửa (Jàt 497), một lời đe dọa mà ông đã
có thể thi hành nếu không vì sự thực tôn giả Pindola là nam tử của vị
Bà-la-môn triều đình, quốc sư Bhàradvàja thân tín mà ông không muốn làm
mất lòng.
Khi tuổi càng cao, vua Udena càng trở
nên khoan dung hơn đối với đạo Phật, có lẽ vì lý do chính trị, bởi
Giáo Pháp đến thời này đã biến thành một yếu tố chính trị ngay trong
vương quốc Vamsà, và có lẽ vì chính Bồ Ðề Vương tử (Bodhi rajà)
con ruột ông cũng đã trở thành người hộ trì đức Phật. Vấn đề động
lực nào có thể khiến cho một nam nhân cường tráng phải chịu khép mình
vào sự rèn luyện bản thân đã có lần thúc giục ông đi tìm cho ra Tỳ-kheo
Pindola và vị này giải thích cho nhà vua nghe sự ô nhiễm của tham dục, của
sắc thân và của các nhận thức giác quan, cùng ích lợi của sự tự điều
phục bản thân (S. 35. 127).
Rất lâu về sau, khi đức Phật đã
diệt độ, vua Udena cho phép các phi tần được nghe Giáo Pháp do Trưởng lão
Ànanda thuyết giảng tại ngự viên Udaka. Nhưng khi họ tâu trình ông số y
phục mà họ đã cúng dường vị tôn giả này, ông lại bực mình. Ông băn
khoăn tự hỏi phải chăng tôn giả Ànanda có ý muốn bắt đầu toan tính
việc hưởng vật chất, và mặc dù đã cao tuổi, ông cũng không quản ngại
nỗi nhọc nhằn phải ngự ra khỏi cung để đối chất với vị Tỳ-kheo này
(Cv 11. 1. 12-14).
Khi đức Phật Gotama đến Kosambì năm
520 trước CN, mọi việc kể trên đều nằm trong tương lai. Tuy thế, sự
thờ ơ của nhà vua đối với Tăng chúng thật rõ ràng và ông tỏ ra thiếu
tin tưởng về đạo hạnh thấp kém của số Tỳ-kheo ở địa phương ấy.
Ðức Phật đã phải ngượng mặt biết bao khi thấy Tỳ-kheo Sàgata nằm
say bí tỉ trước cổng thành Kosambì! Lúc đi khất thực, vị này đã uống
ở mỗi nhà một chén nhỏ rượu dừa. Quả thật cảnh tượng chẳng vinh
quang chút nào khi các Tỳ-kheo phải khiêng bạn đồng đạo say mèm trở về
tinh xá, và chắc chắn là kèm theo những lời bình phẩm châm biếm từ đám
thị dân. Sự kiện này tạo cơ hội cho đức Phật ban hành lệnh cấm Tăng
chúng uống rượu (Sv 51.1). Sau đó ngài ra điều luật hễ Sa-di nào bị
phát giác uống rượu sẽ bị bác bỏ quyền thọ cụ túc giới. (Mv 1.60)
Nếu ngày nay ta phải tin theo Luận
tạng, thì được biết chính cái ghè nước rửa tại nhà vệ sinh - ở Á
Châu, nước được dùng vào mục đích giống như ta dùng giấy ngày nay
- đã suýt gây chia rẽ trong Giáo hội. Một Tỳ-kheo ở tinh xá Ghosita
tại Kosambì đã để lại cái ghè bên ngoài nhà vệ sinh tập thể mà
không đổ hết phần nước còn sót trong ghè, đó là một lỗi lầm vi phạm
phép vệ sinh chung. Luật tạng (Mv.10) kể tiếp phần sau của câu chuyện
này. Vị Tỳ-kheo sơ ý ấy, khi bị một vị đồng Phạm hạnh khiển trách,
đã tuyên bố rằng vị ấy không xem việc bất cẩn của mình là phạm giới.
Hội đồng Tăng chúng họp lại giải quyết vấn đề này nhận thấy vị
ấy can tội bất cẩn và tạm đình chỉ việc tu tập. Nhưng vị Tỳ-kheo bị
xử kỷ luật kia lại có nhiều thân hữu và đồ đệ trong đám Tăng chúng
địa phương ủng hộ - và thế là có hai nhóm Tỳ-kheo chủ trương hai quan
điểm khác nhau về tính cách hợp pháp của lệnh tạm đình chỉ tu tập
kia. Sự việc đến tình trạng này được trình lên bậc Ðạo Sư.
Trong lúc ấy, hai nhóm Tỳ-kheo đã
công khai xung đột nhau và thậm chí đánh nhau trước mặt đám cư sĩ tại
gia. Ðức Phật phải khẩn thiết kêu gọi Tăng chúng:
"Này các Tỳ-kheo, nếu một
Giáo Hội chia rẽ (trong quan điểm) nếu Giáo Hội ấy không cư xử đúng
theo giới luật, nếu có chuyện bất hòa, chư vị phải ngồi xuống họp lại
và cùng suy xét: dẫu sao tối thiểu chúng ta cũng cương quyết không đối
xử bất xứng với nhau trong hành động và ngôn ngữ - Chúng ta cương quyết
không gây sự đánh nhau!". (Mv 10. 2.1)
Lời khuyến cáo này chỉ đủ công
hiệu để việc đấm đá thô bạo chấm dứt, song những lời tranh cãi vẫn
tiếp tục không ngừng.
Một thời gian sau, đức Phật được
một trong các vị Tỳ-kheo ôn hòa thỉnh cầu xoa dịu nhóm Tỳ-kheo đang
tranh cãi về vấn đề giới luật ấy thêm một lần nữa.
Thấy rằng không thể nào thuyết
phục cho đám này biết cư xử hợp lẽ phải, đức Phật cắt ngang mọi
người: "Thôi đủ rồi, này các Tỳ-kheo, không được đấu tranh,
không khẩu tranh, không cạnh tranh, không luận tranh gì nữa cả!". Song
các Tỳ-kheo ấy đang cuồng nộ đến nỗi lệnh của đức Phật cũng thành
vô hiệu lực. Một vị trong đám nọ còn la to lên một cách hỗn xược: "Xin
bậc Ðạo Sư hãy kham nhẫn và ngồi xuống đây an nhiên tự tại. Còn cuộc
đấu tranh, khẩu tranh, cạnh tranh, luận tranh này là việc của chúng đệ
tử!" (Mv 10. 2. 2)
Cố làm ngơ trước sự vô lễ
này, đức Phật kể cho các Tỳ-kheo một câu chuyện dài có tính cách cảnh
giác, song việc này cũng không có kết quả gì. Quá chán nản và buồn rầu,
đức Phật rời bỏ hội chúng ấy ra đi. (Mv 10. 2. 20)
Vào khoảng cuối mùa mưa (520 trước
CN) đức Phật lại du hành, vượt qua làng Bàlakalonakàra, ở Ðông Trúc
Lâm, ngài gặp các Tỳ-kheo Anuruddha, Kimbila và Nandiya, những vị thể hiện
một bức tranh thân hữu hòa hợp tuyệt diệu: "Con đã từ bỏ ý muốn
riêng của mình để sống tùy thuận ý muốn của hai vị kia. Chúng con có
thân khác nhau nhưng cùng chung một tâm". Tôn giả Anuruddha tuyên bố
với bậc Ðạo Sư và hai vị kia đồng ý. (Mv 10.4 = MN 128)
Ðức Phật trải qua mùa mưa gió thứ
mười của sự nghiệp giáo hóa (519) tại rừng Pàrileyya gần Kosambì, nơi
có nhiều đàn voi hoang dã. Ðược vài đồ đệ thân tín hộ tống, ngài
chuyên tâm vào thiền định. Ngài cần độc cư một lần nữa (Mv 10.4-6) để
tìm trong an tịnh một giải pháp cho cuộc xung đột ở Kosambì, một cuộc
xung đột đe dọa luôn cả sự hòa hợp của Tăng chúng.
Giải pháp ấy chợt đến như một
kết quả của nhiều hoàn cảnh mới, trong khi đức Phật đang cư trú vào
khoảng cuối năm 519 sang năm 518 tại Kỳ Viên ở Sàvatthi. Các Tỳ-kheo ở
Kosambì đã gây chuyện bất hòa tranh cãi dữ dội trong suốt mười tám
tháng từ khi ngài rời kinh thành ấy đến độ các cư sĩ tại gia cung cấp
lương thực cho Tăng chúng cũng mất hết kiên nhẫn. Họ quyết định không
đảnh lễ và hộ trì các Tỳ-kheo nữa, khiến cho Tăng chúng ở thành
Kosambì phải đối đầu với các vấn đề lương thực rất gay gắt. Do đó
cả hai nhóm Tỳ-kheo phải vội vã gửi các phái đoàn đại diện đến yết
kiến bậc Ðạo Sư ở Sàvatthi, thỉnh cầu ngài hòa giải mối tranh chấp
theo quyết định của ngài.
Phương pháp tiến hành công việc của
đức Phật chứng tỏ trí thông minh và tài khéo léo của ngài. Khi đám bạn
của vị Tỳ-kheo bị đình chỉ tu tập đã giải thích rằng nay vị ấy đã
nhận thấy lỗi của mình, đức Phật bảo chư vị phục hồi chức vụ của
vị ấy. Khi việc này đã làm xong, ngài đàm đạo với đám Tỳ-kheo trước
đây đã đưa ra lệnh đình chỉ. Ngài giải thích cho chư vị biết lý do
phục hồi chức vụ trên, và giảng rõ rằng việc vị Tỳ-kheo nhận lỗi
trong quá khứ chứng tỏ tính cách hợp pháp của hành động đình chỉ
kia. Rồi ngài bảo chư vị từ nay nhìn nhận sự phục hồi chức vụ vừa
nêu. Ðiều này cũng được thực hiện: bằng cách im lặng (nghĩa là:
không nêu ý kiến phản đối) hội chúng công nhận vị Tỳ-kheo gia nhập
Giáo đoàn lại như cũ. Sự hòa hợp bề ngoài đã được tái lập (Mv 10.
5. 11- 14). Mỗi phe đều đắc thắng ở điểm mà họ xem là quan trọng nhất
-- không có phe nào mất thể diện cả!
Tuy nhiên, các Tỳ-kheo ở Kosambì vẫn
tiếp tục sinh sự tranh chấp mãi. Suốt ba mươi lăm năm còn lại trong đời
ngài, đức Phật không bao giờ đến an cư mùa mưa ở Kosambì hay bất cứ
nơi nào trong vương quốc Vamsà của vua Udena lần nào nữa.
THẬP NIÊN HOẰNG PHÁP THỨ HAI
Sau thập niên đầu tiên đức Phật
hoằng Pháp, tài liệu lịch sử trong Kinh Tạng Pàli trở nên rời rạc ít
ỏi, không phải vì thiếu thông tin tổng quát - tất cả hơn ba mươi tập
trong Kinh tạng và Luật tạng và Luận tạng chứa đầy tài liệu. Song Tam
Tạng gồm phần lớn các câu chuyện và bài kinh mang tính đức dục trí dục
giải thích các quan điểm giáo lý, mà hầu như không có một chi tiết lịch
sử nào cả. Ngoài ra, thập niên đầu tiên đánh dấu rõ ràng địa điểm
hoạt động của đức Phật. Từ đó về sau những nơi chốn ấy cứ tái
diễn trùng lập, khiến cho dấu tích của bậc Ðạo Sư bị lẫn lộn nên
khó phân biệt.
Một ví dụ về câu chuyện không
có hiệu quả về phương diện lịch sử tuy nhiên lại minh họa đời sống
của đức Phật cùng sự tự tin của ngài, là câu chuyện sau đây có thể
ghi vào năm thứ mười một ngài hoằng Pháp:
Trong lúc đi khất thực, đức Phật
đến vùng lân cận làng Ekanàla phía nam Ràjagaha, vừa đúng lúc Bà-la-môn
hào phú Bhàradvàja đang phân phát cơm sữa cho nông dân ăn sáng. Ðức Phật
lặng lẽ nhập bọn và đợi xem thử ngài có được chia phần cơm không.
Bhàradvàja: Tôi cày và gieo, rồi
sau khi xong việc, tôi mới ăn. Này Sa-môn, ngài cũng phải cày và gieo, rồi
ngài mới được nhận phần cơm.
Ðức Phật: Này Bà-la-môn, ta cũng
cày và gieo, rồi khi ta làm xong, ta mới ăn.
Bhàradvàja: Chúng tôi không thấy Ðạo
Sư Gotama dùng cái ách hay cái cày, tuy nhiên ngài lại bảo như thế?
Ðức Phật: Ta gieo hạt giống
chánh tín, cây cày là trí tuệ, tinh tấn là đôi bò kéo cày, thành quả
lao động của ta là trạng thái Bất Tử . Bất cứ ai làm xong việc ấy, sẽ
được giải thoát khổ đau.
Nhưng đến khi Bà-la-môn Bhàradvàja
cúng dường đức Phật một chén cơm sữa, đức Phật lại chối từ. Một
tặng vật nhận được do tài hùng biện hoa mỹ không phải là món khất
thực chân chánh và không đem lại phước đức gì cho thí chủ. Tuy nhiên,
vị Bà-la-môn không lấy chén cơm lại, vì không xứng đáng với phẩm
cách của vị ấy nếu phải ăn một món đã bị chối từ hoặc đem cho các
nông dân, nên vị ấy đổ xuống con suối gần đó.
Cách dùng ảnh dụ người gieo hạt
rất thích hợp với hoàn cảnh Bà-la-môn Bhàradvàja thật có hiệu quả tức
thì. Những hạt giống bằng lời mà đức Phật đã gieo vào tâm vị
Bà-la-môn đến lúc chín muồi, vị ấy được Giáo Pháp cảm hóa và trở
thành Tỳ-kheo (SN 7.2.1)
Năm 517 là một năm đói kém. Theo lời
mời của một Bà-la-môn cư sĩ, đức Phật cùng vài đệ tử hộ tống đến
an cư mùa mưa gần Verañ jà, một nơi gần phía nam thành Sàvatthi (Sv Par 1.
1. 9) Hội đồng xã đã phát phiếu khẩu phần cho dân chúng đang bị nạn
đói, nên món khất thực khó kiếm đến nỗi nhiều khi các Tỳ-kheo phải
mang bát không trở về. May mắn thay vài nhà buôn ngựa từ Bắc Ấn cũng vừa
đến ở tại Verañ ja với bầy ngựa nên họ cho các Tỳ-kheo một ít cám
bột mì. Khi tôn giả Ànanda đem đến mời đức Phật món ăn này, ngài
bình thản tuyên bố một ngày kia tình thế sẽ trở lại tốt đẹp hơn
(Sv Par 1. 2. 1).
Năm 515 trước CN, Ràhula, con trai của
bậc Ðạo Sư, đã được hai mươi tuổi (kể từ lúc thụ thai) và đã đến
độ tuổi tối thiểu để một Sa-di được thọ đại giới Tỳ-kheo. Sau
khi đức Phật đã an cư mùa mưa ở tinh xá Jetavana gần Sàvatthi, một hôm
ngài bảo Sa-di Ràhula cùng đi với ngài vào trong Rừng Người Mù và Ràhula
sẵn sàng đồng ý. (MN 147)
Cũng như lệ thường trong trường
hợp con của các người cha vĩ đại, Ràhula là người có cá tính không
rõ rệt. Các khuynh hướng hơi thiên về nói phóng đại và thêu dệt theo tưởng
tượng, một đặc điểm có thể biểu lộ năng khiếu tường thuật truyện
văn chương, đã bị trục xuất ra khỏi trí chàng thiếu niên ở tuổi mười
lăm, như một "hình thức nói dối" (MN 61), và ngay cả cảm tưởng
tự tin do niềm thích thú về vẻ mặt khôi ngô của mình cũng bị tẩy sạch
luôn (MN 62). Ràhula không có được một chút phong cách thanh lịch, tài năng
ngoại giao và uy lực thuyết phục như thân phụ, chứ đừng nói gì đến
vẻ mặt rực sáng đầy kỳ diệu của ngài. Nhưng quả thật, làm thế
nào chàng có thể phát triển được những đặc tính như vậy, những đặc
tính chỉ có thể tăng trưởng khi phải đương đầu với cuộc sống thế
gian?
Ðược dưỡng dục từ tuổi lên
chín trong một cộng đồng Tăng chúng chỉ toàn nam giới, lại được trưởng
lão Sàriputta và đức Phật huấn luyện chuyên tâm thiền quán về giải
thoát và tuân thủ lý tưởng tu tập bản thân của một Tỳ-kheo, nên
chàng không thể hưởng thời kỳ ấu thơ theo thói vui chơi. Không được
phép phát triển các năng khiếu và chỉ được dưỡng dục theo một đường
lối phát triển hạn hẹp, chàng đã trở thành một người đầy đủ trí
tuệ kiến thức, nhưng sẵn sàng chấp nhận giáo huấn và chịu phục
tòng: những đức tính duy nhất chàng được phép phát triển là tinh cần
và tuân thủ giới luật tu hành thật nghiêm khắc. Như mọi người đều
đồng ý, chàng là một thanh niên thông minh khả ái, nhưng không có gì
khác hơn thế nữa.
Mối tương quan giữa đức Phật và
Sa-di Ràhula đầy tin cẩn và thiện cảm, song không thân ái hoặc mật thiết,
vì điều này theo quan điểm đức Phật có nghĩa là tạo nên một mối
ràng buộc nội tâm có thể gây khổ đau. Vì vậy cũng dễ hiểu, Kinh Ðiển
quả thực đã không tường thuật những cuộc nói chuyện riêng tư giữa
hai cha con: các kinh Giáo Giới Ràhula cũng không khác gì về hình thức với
những kinh bậc Ðạo Sư giảng cho chúng Tỳ-kheo cả.
Ví dụ sau đây là lời ngài dạy
Sa-di Ràhula khi hai vị cùng ngồi dưới gốc cây trong Rừng Người Mù. Bài
kinh liên hệ đến phương pháp phòng hộ bản thân khỏi bị xúc động do
các nhận thức giác quan:
-- Này Ràhula, con nghĩ thế nào? Con
mắt, hình sắc, nhãn thức là thường hằng hay vô thường?
-- Bạch Thế Tôn, vô thường.
-- Thế tai, mũi, lưỡi, thân (xúc
giác) và tâm hay ý (cơ quan tư duy) cùng các pháp và thức tương ứng với
chúng là thường hằng hay vô thường?
-- Bạch Thế Tôn, vô thường.
-- Cái gì vô thường thì khổ hay lạc?
-- Bạch Thế Tôn, khổ.
-- Vậy có hợp lý chăng khi nghĩ đến
những gì vô thường, khổ đau, chịu biến hoại như sau: "Cái này là
của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta?".
-- Thưa không, bạch Thế Tôn.
-- Này Ràhula, khi một vị đa văn
đệ tử nhận thức điều này, vị ấy yếm ly các căn, các pháp và các
thức tương ứng (nghĩa là vị ấy không để cho mình tham đắm chúng). Do
vậy, vị ấy ly tham và giải thoát cùng chấm dứt tái sanh. (MN 147, giản
lược)
Ngay khi phụ thân thuyết giảng,
Sa-di Ràhula lãnh hội ý nghĩa uyên thâm của giáo lý và các lậu hoặc (àsava)
đưa đến tái sanh đau khổ đều tan biến dần khỏi tâm vị ấy. Như vậy,
vị ấy cũng trở thành một bậc A-la-hán nữa.
Có lẽ cũng chinh năm 515, trong lúc
đức Phật đang an cư mùa mưa tại Jetavana gần Sàvatthi, hoặc có lẽ vào
một dịp nào đó ngài đến viếng thủ đô nước Kosala, đức Phật đã tạo
mối giao hữu thân tín với nữ đệ tử đại phú gia Visàkhà (Tỳ-xá-khư).
Hơn một thập niên trước, tiểu thư Visàkhà mới lên bảy đã hội ngộ
đức Phật khi còn sống cùng cha mẹ ở Bhaddiya (trong nước Anga). Suốt thời
gian ấy, nhiều sự kiện xảy ra đến với đời nàng. Ông Dhanañ jaya, phụ
thân nàng đã cùng gia đình dời đến Sàketa và tại đây, cô con gái xinh
đẹp của ông đã lọt mắt xanh của đám người mai mối cho gia đình phú
thương Migàra, người đang tìm một tân nương cho cậu quý tử
Punnavaddhana. Cuộc hôn nhân thành tựu, từ đó Visàkhà sống tại Sàvatthi
với chồng, và nàng sinh được nhiều con.
Giữa các nữ thí chủ của Tăng chúng,
Visàkhà chiếm địa vị đệ nhất. Bà cúng dường chư Tỳ-kheo áo mưa, thực
phẩm dành cho những vị sắp đi xa hoặc mới đến, chăm sóc người bệnh,
cùng các thứ thực phẩm dược liệu (Mv 8.15.7). Tinh xá quan trọng do bà cống
hiến hào phóng là nơi thành lập "Ðông Viên Trùng Các" (pubbàràma)
sau này nổi tiếng ở ngoài đông môn kinh thành Sàvatthi.
Khi đức Phật an trú trong tinh xá
này, bà Visàkhà thường yết kiến nhiều lần để được ngài an ủi sau
những chuyện đau buồn. Có một lần bà đã thua kiện: Vua Pasenadi Kosala
làm chánh án đã xử thiệt hại về phần bà. Ðang giữa trưa nóng bức, một
thời điểm không thích hợp để xin yết kiến, bà đi tìm cho ra đức Phật
và kể hết mọi việc với ngài. Ðức Phật đầy đủ trí tuệ đã không
bênh bỏ phe nào cả, chỉ khuyên bà những lời lẽ đầy triết lý này:
Buộc ràng đau khổ biết chừng nào!
Ðiều phục tự thân: lạc tối cao
Ràng buộc là gây nhiều khổ não,
Thoát ly triền phược khó làm sao!
(Ud 2.9)
Một lần khác nhiều năm sau, bà lại
đến phi thời xin yết kiến đức Phật, cả người và tóc đều ướt đẫm.
Bà thưa với ngài rằng một cháu gái yêu quý của bà vừa mất, và vì thế
bà ướt đẫm cả người (do lễ tẩy trần sau khi dự đám táng). Bậc Ðạo
Sư đáp:
-- Này Visàkhà, bà ước muốn sinh
nhiều con cháu bằng dân số ở Sàvatthi chăng?
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
-- Thế có bao nhiêu người chết
mỗi ngày ở Sàvatthi?
-- Bạch Thế Tôn, có lẽ mười
người hoặc tám chín người -- ít nhất cũng mỗi người một ngày. Chẳng
thiếu gì người chết tại Sàvatthi.
-- Này Visàkhà, bà nghĩ thế nào, vậy
có bao giờ bà khỏi bị ướt tóc tai áo quần chăng?
-- Bạch Thế Tôn, chắc chắn là
không. Con đã quá nhiều khổ đau với bầy con cháu đông đúc này rồi.
-- Này Visàkhà, ta nói cho bà rõ, bất
cứ ai có một trăm vật yêu quý sẽ có một trăm mối khổ sầu, ai có
chín mươi, tám mươi, năm mươi, hai mươi, mười, năm, hai vật yêu quý sẽ
có chừng ấy mối khổ sầu. Nhưng hễ ai không có vật gì yêu quý thì
không có khổ sầu. Ta nói cho bà rõ, những người ấy thoát sầu não, ly
tham dục:
Tất cả nỗi sầu khổ, khóc than
Thiên hình vạn trạng giữa trần gian
Phát sinh từ vật mình yêu quý,
Không có gì thân, khổ chẳng mang.
Vậy người hạnh phúc, thoát ưu bi,
Sống giữa trần không luyến ái gì,
Nếu ước mong mình không khổ não,
Ở đời không có vật yêu vì.
(Ud 8. 8, giản lược)
Trong thời kỳ tiếp theo sau đó, đức
Phật an cư mùa mưa ở Kapilavatthu (514 trước CN), tại Àlavi phía bắc
Benares (513), tại Ràjagaha (512 và 509) và ở vùng núi Càlika (chưa xác định
được vị trí) (511, 510), không có điều gì quan trọng về phương diện lịch
sử được ghi lại. Chỉ trong năm 508, trở về sau, đức Phật chọn nhiều
tinh xá ở Sàvatthi để trú mưa thường xuyên, là năm lại có vài việc đáng
ghi nhớ.
Một sự kiện đáng chú ý của năm
ấy là việc giáo hóa tướng cướp gây kinh hoàng Angulimàla (Người Ðeo
Vòng Ngón Tay), sở dĩ được gọi như vậy vì tướng cướp ấy đã làm
cho mình một xâu chuỗi đeo cổ bằng các lóng tay của những người bị y
giết. Y là con của Bà-la-môn Gagga giữ một chức vụ tại triều đình vua
nước Kosala và đã tiếp thu một nền học vấn uyên bác tại đại học
Takkasìla. Với trí thông minh điêu luyện, y tránh né mọi cuộc săn lùng
nên mọi quân tuần tra mật thám mà vua Pasenadi truyền theo dõi y đều trở
về tay không. Angulimàla được bà mẹ đồng tình báo cho y biết mọi hoạt
động của quân đội cảnh vệ.
Làm một đạo tặc trên xa lộ, có
lẽ lãnh tụ của một bọn cướp rình rập khách lữ hành và các đoàn xe
chở hàng, Angulimàla là một phần tử trong nhóm tội phạm nghiêm trọng nhất
ở cổ Ấn Ðộ. Trong các thôn làng vào thế kỷ thứ sáu trước CN, quần
chúng sống an ổn, "mọi nhà đều mở cửa" như tục ngữ
thường nói, tội phạm rất hiếm hoi. Song ở thành thị, tội phạm lại
nhiều hơn. Các vụ cướp phá không xảy ra thường xuyên vì các nhà giàu
có tài sản đáng cướp bóc luôn được đám gia nhân canh giữ suốt ngày
đêm. Thông thường hơn là chuyện một gia nhân biến mất cùng vài đồ vật
quý giá của chủ nhưng việc này cũng chỉ có giới hạn nhỏ vì đa số tôi
tớ sống với gia đình họ ngay trong nhà chủ hay gần nhà chủ khiến cho
việc đào tẩu khó thực hiện.
Ðánh cướp bằng vũ khí là cách
có triển vọng kiếm nhiều tiền mau nhất, do vậy đó là cách thông thường
nhất, mặc dù tội phạm này đe dọa cả ngành thương mại lẫn tài sản
quốc gia nên đã bị đe dọa lại bằng các hình phạt nặng như chặt tay
chân, làm mù mắt, đâm cọc qua người, bóp cổ hoặc chém đầu.
Ðức Phật đã làm ngơ trước mọi
lời cảnh giác khi ngài khởi hành từ Sàvatthi tiến vào khu vực bất an
vì Angulimàla trú ẩn. Chẳng mấy chốc ngài gặp tướng cướp, y đầy
kinh ngạc về sự can đảm của vị khất sĩ lang thang đơn độc này. Mẫu
đối thoại giữa hai người như đã được lưu truyền trong Kinh Tạng (MN
86)có lẽ là chuyện sáng tác về sau, lại càng có vẻ như vậy vì được
kể theo thể kệ. Song sự thật vẫn có chuyện Angulimàla sau cùng xin đức
Phật nhận y vào Giáo đoàn và đức Phật lập tức nhận lời. Cả hai vị
trở về Sàvatthi với tư cách Ðạo Sư và đệ tử, rồi cùng an trú trong
tinh xá Kỳ Viên của ông Cấp Cô Ðộc.
Dẫu ta hết lòng ngưỡng mộ uy lực
thuyết phục của đức Phật, thì sự chuyển tâm hối cải của Angulimàla
cũng có vẻ hơi quá đột ngột nên khó tin được đó là một sự cảm
hóa thuần túy tôn giáo. Sự chuyển hướng vội vã cải tà quy chánh này
có vẻ hợp lý hơn nếu ta giả sử rằng tướng cướp Angulimàla muốn
tránh hình phạt bằng cách gia nhập Tăng đoàn, vì mọi giáo phái đều khỏi
chịu lệ thuộc vào quyền xét xử của pháp luật thế gian. Ðại Vương
Pasenadi cũng hiếu kỳ muốn thấy tên tội phạm trước kia ông đã truy
lùng suốt một thời gian rất dài mà không đạt kết quả gì. Trong một
chuyến chiêm bái tinh xá Kỳ Viên, nhà vua đàm đạo với Tỳ-kheo Angulimàla
nay đã cạo trọc đầu, đắp y vàng làm một Sa-môn Thích tử.
Nếu vua Pasenadi có thể tha thứ cho
tướng cướp được hàng phục cách này thì dân chúng Sàvatthi muốn báo
thù, lại suy nghĩ cách khác. Trong khi Tỳ-kheo Angulimàla đi khất thực trong
kinh thành, họ ném đá vào vị ấy, gây thương tích trầm trọng. Mình đầy
máu, y bị rách và bình bát bị vỡ, vị ấy đến yết kiến đức Phật
ở tinh xá Jetavana và được ngài khuyên nhủ: "Hãy kham nhẫn, này
Bà-la-môn! Con đang thọ lãnh ngay trong đời hiện tại quả báo của các
ác nghiệp, bằng không con sẽ phải chịu nhiều khổ đau rất lâu dài
trong địa ngục"(MN 86). Song Tỳ-kheo Angulimàla cũng không sống được
lâu trong Giáo hội. Vị ấy từ trần sớm, có lẽ là do kết quả của một
vụ dân chúng tấn công lần thứ hai.
Việc giáo hóa tướng cướp Angulimàla
đã gây tiếng vang lớn ra ngoài và càng tăng uy tín của đức Phật. Ðiều
này khơi dậy lòng ganh tỵ của các nhóm Sa-môn khác bị giảm sút phần tặng
vật cúng dường, nên họ xem xét nhiều mưu kế hạ uy tín đức Phật. Họ
tìm được một công cụ lợi hại ở nữ khất sĩ Sundarì, họ thuyết phục
cô ấy thường xuyên lai vãng tinh xá Jetavana càng nhiều càng tốt và lộ
diện cho càng nhiều người thấy càng hay. Cô ấy làm như lời họ bảo, rồi
sau một thời gian, cô ấy bị đám người ủng hộ kia giết chết và chôn
vội xác vào tinh xá Jetavana. Ngay liền sau vụ này, các Sa-môn ác hạnh loan
tin Sundarì thất lạc và có lẽ được tìm ra xác chết trong tinh xá Kỳ
Viên.
Chỉ chốc lát tử thi được phát
hiện trong một hố ở Kỳ Viên và được mang về Sàvatthi, tại đây bọn
sát nhân đã lớn tiếng la ó: "Này mọi người hãy nhìn xem hành động
của đám đồ đệ Sa-môn Thích Tử! Bọn chúng thật vô tàm vô quý, phá
giới, độc ác, dối trá, bất tịnh. Làm sao một người đàn ông lại có
thể giết đàn bà sau khi hành lạc!". Lời vu cáo này không phải
là không có kết quả, vì nó được lập lại nhiều lần và các Tỳ-kheo
phải chịu một thời gian khó khăn lúc đi khất thực.
Ðức Phật phản ứng lại giống
như ngài đã làm tại Ràjagaha, khi ngài bị gọi là "người gây cảnh
góa bụa cho phụ nữ" và "bắt cóc nam nhi". Ngài dạy
cho các Tỳ-kheo một đoạn kệ để phản công lại đám người lăng mạ:
Ðịa ngục cho phần kẻ dối gian
Và người không nhận việc mình làm,
Cả hai, khi chết đều đồng đẳng
Hành nghiệp đời sau hạ liệt tràn.
(Ud 4.8 - Dhp.306)
Về việc này, không có bằng chứng
vô tội và phục hồi danh dự chư Tăng trước quần chúng, song chẳng mấy
chốc niềm tin tưởng rằng Giáo hội đức Phật không liên hệ gì đến vụ
mưu sát này lan truyền rất nhanh.
Năm thứ hai mươi mốt (508 trước
CN) trong cuộc đời hoằng Pháp đem lại cho đức Phật nhiều niềm an vui vì
em họ ngài, tôn giả Ànanda, nhận chức vụ phụ tá thường trực kiêm thị
giả (upatthàka) hầu cận riêng của ngài. Bậc Ðạo Sư, lúc này năm
mươi sáu tuổi, đã mỏi mệt vì những thay đổi thường xuyên đám nhân
sự hầu cận quanh ngài, đặc biệt là giữa nhiều Tỳ-kheo và Sa-di đã phục
vụ ngài theo mỗi khả năng riêng biệt như chư vị Nàgasamàla, Nàgita,
Upavàna, Sunakkhatta, Cunda, Sàgata, Ràdha, và Meghiya..., mà không có ai thực
hành nhiệm vụ hoàn toàn cẩn trọng cả.
Khi ngài hỏi các Trưởng lão xem thử
ai muốn đảm trách phận sự này, chính tôn giả Ànanda đầy thiện ý sẵn
sàng cống hiến phần mình. Ðể tránh mọi điều nghi kỵ là tôn giả đảm
trách công việc này vì lợi ích cá nhân, tôn giả Ànanda thỉnh cầu đức
Phật đừng bao giờ ban cho tôn giả thực phẩm hay y phục cúng dường ngài,
bậc thượng thủ Tăng chúng, cũng không đem tôn giả theo ngài khi được
thỉnh mời thọ trai, song phải thuyết giảng cho tôn giả nội dung các bài
kinh đức Phật đã giảng trong lúc vị này vắng mặt. Ðức Phật đồng
ý mọi điểm nêu trên.
Suốt hai mươi lăm năm, tôn giả
Ànanda ở cạnh bậc Ðạo Sư, trung thành tận tụy như hình với bóng (Thag
1039-45). Tôn giả chuẩn bị chỗ nằm nghỉ ban đêm cho ngài, mang nước hầu
ngài, rửa bình bát, bảo vệ cho ngài khỏi bị đám người tò mò đột nhập
quấy rầy, hoặc đưa những khách quý vào trình diện ngài, và thông báo
cho ngài các sự kiện hằng ngày, cứ thế mãi cho đến khi bậc Ðạo Sư
diệt độ (483 trước CN), các công việc ấy không còn cần thiết nữa.
M ục lục | Ia | Ib | Ic | Id | IIa | IIb | IIIa | IIIb | IIIc | IVa | IVb | IVc | IVd | Va | Vb | VIa | VIb | VII | VIII
|