- Ðức Phật Lịch Sử
(The Historical Buddha)
- H.W. Schumann (1982)
M. O'C. Walshe dịch sang Anh ngữ (1989)
Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch Việt (1997)
Chương I (tt)
CON ÐƯỜNG XUẤT GIA CỦA THÁI TỬ
SIDDHATTHA
Những cuộc bàn luận triết lý kia
hẳn đã gây ấn tượng sâu sắc vào tâm trí vị thái tử trẻ tuổi
Siddhattha. Chàng nhận thấy sự lôi cuốn mãnh liệt của phong trào chống
thần giáo Vệ-đà và việc gia nhập các đoàn Sa-môn có sức hấp dẫn đặc
biệt. Như thái tử đã hơn một lần khẳng định: "Ðời sống tại
gia đầy bất tịnh thật là chật hẹp _ còn đời Sa-môn tự do
như bầu trời khoáng đạt".
Ta đã thấy đoạn văn miêu tả việc
thái tử xuất gia trong Nidànakathà (Duyên Khởi Luận), quyển luận xuất
hiện vào khoảng thế kỷ thứ năm CN là sớm nhất. Mặc dù có tính cách
huyền thoại, sách này vẫn chứa đựng những câu phát biểu rất có thể
xuất phát từ một truyền thống đích thực. Nếu ta đặt bản văn này
bên cạnh những lời tự thuật rất hiếm hoi nhưng đáng tin cậy của
thái tử Siddhattha sau khi ngài thành Phật, ta có thể có vài ý niệm về
cách ngài từ giã đời thế tục như thế nào.
Quyển luận Nidànakatha sử dụng
một đoạn văn tường thuật trích từ Kinh Trường Bộ (DN. 14.2)* kể lại bốn cuộc du hành của đức Phật (phi
lịch sử) Vipassi (Tỳ-bà-thi), một vị cổ Phật, rồi gán các việc
kia cho đức Phật lịch sử Siddhattha Gotama. Chuyện kể cách thái tử
Siddhattha, thuở ấy đang sống đời xa hoa tại thành Kapilavatthu, ước muốn
đi ngoạn cảnh công viên ngoại thành. Khi ngự trên vương xa do bốn ngựa
kéo và một quản xa đưa đường, thái tử thấy một lão già bên vệ đường,
lưng còng run rẩy, tóc bạc, răng long. Hoảng sợ trước cảnh này, chàng hỏi
vị quản xa ông già ấy là người nào và được biết đó là người sắp
mạng chung. Lòng chàng xúc động sâu sắc vì nhận ra rằng một ngày kia
chàng cũng sẽ già, thái tử liền trở về cung.
Câu chuyện kể trong ba cuộc du
hành tiếp theo, thái tử thấy một người bệnh, một người chết và một
khất sĩ. Cuộc gặp gỡ cuối cùng này đã khiến thái tử ước mong trở
thành một khất sĩ, vì thế chàng quyết định từ giã thế tục ngay đêm
ấy. Chính vào đêm ấy, vợ chàng, công chúa Bhaddakaccànà hay Yasodharà,
sinh một nam tử được đặt tên Ràhula.
Khi thời điểm giã từ thế tục
đã đến, thái tử bảo người quản xa Channa (Xa-nặc) đặt yên cương vào
ngựa, nhưng chính chàng lại muốn thấy mặt hài nhi trước khi xuất hành.
Khi chàng bước vào phòng công chúa Bhaddakaccànà đang ngủ, ngọn đèn dầu
đã tắt và vì bà mẹ trẻ ấy ôm lấy đầu con thơ trong dáng điệu che
chở, nên thái tử không thể nào nhìn mặt con mình được. Thế là sau đó,
chẳng nhìn được mặt con, chàng rời thành Kapilavatthu lúc nửa đêm cỡi
ngựa Kanthaka (Kiền-trắc) cùng với Channa, đến đông môn của kinh thành
đã được đóng chặt và canh gát nghiêm ngặt lại nhờ thần lực của chư
Thiên mở ra cho chàng.
Ði qua lãnh thổ của ba quốc vương,
thái tử Siddhattha đến dòng sông Anomà cùng đêm ấy, và sang bờ kia,
chàng cắt bỏ râu tóc theo kiểu khất sĩ và khoác áo Sa-môn. Rồi chàng
giao ngựa và vàng ngọc trang điểm cho Channa đem về thành Kapilavatthu. Thái
tử sống tuần đầu tiên của cuộc đời mới trong khu vườn xoài gần
làng Anupiyà, rồi tiến lên về phía Ràjagaha.
Như vậy câu chuyện trên được kể
không mang tính cách thần thoại mấy. Những đặc điểm lịch sử nổi bật
có lẽ là Ðại Sự Xuất Thế của thái tử Siddhattha diễn ra ngay sau khi
Ràhula, con trai chàng, ra đời, và chàng sống những ngày đầu tiên của đời
xuất gia gần làng Anupiyà. Sông Anomà có lẽ là sông Aumì hiện nay, một
phụ lưu của sông Gandak trên nước cộng hòa Malla thuở ấy, nhưng làng
Anupiyà của bộ tộc Malla vẫn chưa được tìm ra tung tích. Việc chàng đi
qua các lãnh thổ của ba vị quốc vương để đến làng này là đúng sự
thật, vì muốn đến cộng hòa Malla về phía đông nam của cộng hòa Sakya,
chàng phải băng ngang lãnh thổ bộ tộc Koliyas.
Việc xuất hành nửa đêm cùng cắt
bỏ râu tóc bên bờ sông Anomà là những đặc điểm của truyền thuyết
thần kỳ, chứ không phải theo lời tự thuật của đức Phật. Chính
điều này làm sáng tỏ việc phụ vương Suddhodana và dưỡng mẫu Pajàpatì
ít ra cũng đã hiểu về các ý định xuất gia của ngài nhưng không thể
nào ngăn cản ngài được:
"Khi ta còn là Bồ-tát (vị nỗ
lực hướng đến quả Giác Ngộ), ý tưởng này khởi lên trong trí ta:
"Ðời sống tại gia, nơi chứa đầy bất tịnh, thật là chật hẹp.
Còn đời sống Sa-môn thì tự do như bầu trời khoáng đạt. Thật không dễ
gì cho người gia chủ sống đời Phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh và thánh
thiện viên mãn. Giả sử ta nay cắt bỏ râu tóc, khoác áo Sa-môn, xuất gia
từ giã gia đình sống không gia đình?
Khi ta đang trẻ, là trang nam tử
tóc còn đen nhánh, ngay giữa tuổi xuân xanh, trong khoảng đầu thời hoa niên,
ta cắt bỏ râu tóc, mặc dù cha mẹ ta phản đối việc này với mặt đầy
nước mắt, ta vẫn khoác áo cà-sa xuất gia từ giã gia đình, sống không
gia đình". (MN 26.16, MN 36.10)*
Nếu ta đặt câu chuyện kể đơn
giản này bên cạnh lời xác nhận trong Nidànakathà việc thái tử xuất
gia (pabbajà) tiếp diễn ngay sau khi Ràhula ra đời, ta có thể giả thiết
rằng từ lâu thái tử đã thúc giục song thân chấp thuận bước ra đi này,
và hai vị phải chấp thuận với điều kiện có được cháu đích tôn!
Ðiều này thậm chí còn giải thích việc thái tử Siddhattha làm cha khá muộn
màng: sau mười ba năm hôn phối, khi cả thái tử lẫn công chúa
Bhaddakaccànà đều đến tuổi hai mươi chín, như vậy có thể là từ lâu
công chúa đã không muốn sinh con sớm để khỏi xa lìa đức phu quân!
Dẫu sao đi nữa, một khi cháu đích
tôn mà phụ vương Suddhodana và mẫu hậu Pajàpati đòi hỏi đã ra đời, thì
thái tử không còn trì hoãn việc thực hiện ý định xuất thế của chàng.
Như vậy trang nam nhi được nuông chìu này là thái tử của quốc vương
Sakiya, lẽ ra sẽ cầm quyền trị nước với vương nghiệp trong tương lai,
lại chấp nhận cuộc đời gian khổ của một du sĩ hành khất vào năm hai
mươi chín tuổi, tức năm 534 trước CN.
Mặc dù các nguồn kinh điển không
có điều gì mâu thuẫn nhau về việc thái tử đi đến đâu trước tiên,
chúng cũng không giải thích gì rõ ràng cả. Theo lời tường thuật của ngài
nhiều năm sau (MN 26 và 36), khi đã rời Kapilavatthu, ngài đi ngay đến am thất
đạo sư Àlàra Kàlàma, nhưng theo Nidànakathà, ngài sống tuần đầu tiên
ở làng Anupiyà rồi đi đến thành Vương Xá. Cuộc viếng thành Vương Xá
nhân đó ngài gặp Ðại vương Bimbisàra còn trẻ tuổi của nước Magadha
được xác nhận trong Kinh Tập (Sutta Nipàta) (SNip. 3.1)*. Thời ấy nhà vua mới hai mươi bốn tuổi và
đã trị nước chín năm.
Chuyện kể rằng trong lúc nhà khổ
hạnh Gotama đi khất thực trong vùng Giribbaja, một trọng điểm trong thành
lũy cổ quanh Vương Xá, Ðại vương Bimbisàra từ trên lầu thượng của hoàng
cung nhìn xuống thấy ngài. Ðộng lòng hiếu kỳ trước dáng điệu cao sang
của vị khất sĩ, nhà vua cho người đi điều tra rồi đến gặp ngài tại
đồi Pandava, một ngọn đồi ở hướng đông bắc trong số năm đồi bao bọc
Vương Xá thành. Khi được hỏi về nguồn gốc sinh trưởng, thái tử
Siddhattha đáp ngài đến đây từ quốc độ Kosala dưới chân dãy Tuyết Sơn,
và thuộc bộ tộc Sakiya. Ngài đã khước từ mọi dục lạc thế gian và
trở thành du sĩ khất thực để mưu cầu sự điều phục bản thân tức tự
thắng mình. Ðến đây, câu chuyện đứt đoạn. Rõ ràng nội dung ít ỏi
này đã nêu lên một sự kiện lịch sử, vì hiếm khi cuộc đời cho ta biết
trọn vẹn một câu chuyện từ đầu chí cuối.
Sự kiện vị đại vương đã phải
đi tìm gặp một Sa-môn trẻ chứ không phải vị này đến yết kiến nhà
vua cũng có vẻ hợp lý. Lúc nhàn rỗi nhiều người xưa vẫn thường tham
vấn các bậc tu hành, nhất là vì thói thường tin tưởng rằng sự hội
kiến các bậc trí tuệ cao thâm sẽ tỏa phần nào thần lực vào tâm người
phàm tục. Tuy nhiên chúng ta không tìm ra dấu hiệu nào về tình bằng hữu
được phát triển sau đó giữa vua Bimbisàra và thái tử Siddhattha.
Thái tử hình như cũng không ở
lâu tại thành Vương Xá. Vì nóng lòng tìm giải thoát giác ngộ, ngài rời
kinh thành và đặt mình dưới sự hướng dẫn của một đạo sư mệnh
danh Àlàra Kàlàma. Ðạo sư Àlàra không thuộc về hàng lãnh đạo thời
danh, vì ta chỉ nghe tên vị này qua các nguồn kinh Phật và liên hệ đến
việc tầm cầu giác ngộ của thái tử Siddhattha mà thôi.
Thái tử miêu tả việc học tập dưới
sự hướng dẫn của đạo sư Àlàra như sau:
“Sau khi đã xuất gia tầm cầu
cái thánh thiện tối thắng an tịnh, ta đến Àlàra Kàlàma và nói: "Bạch
tôn giả Kàlàma, vãn sinh ước mong sống đời Phạm hạnh theo giáo pháp
và giới luật của tôn giả”. Vị ấy đáp: “Này hiền giả, hãy ở lại
đây. Giáo pháp này là như vậy, khiến cho người có trí chẳng bao lâu có
thể chứng đạt tri kiến bằng đạo sư của mình và an trú trong ấy".
Quả thật, ta học tập thông giáo lý ấy một cách nhanh chóng. Nhưng ta
cũng chỉ phát biểu suông và đọc tụng giáo lý mà ta đã học được từ
các đệ tử trưởng lão, và rồi cũng giống như các vị kia, ta cho rằng
ta đã biết, đã hiểu giáo lý này.
Rồi tư tưởng này khởi lên trong
trí ta: “Chắc hẳn đạo sư Àlàra Kàlàma tuyên thuyết giáo lý này không
phải chỉ vì lòng tin, mà vì chính vị ấy đã thực sự chứng đắc bằng
tri kiến trực giác". Ta liền bảo ngài: "Bạch Tôn giả Kàlàma,
ngài đã tự chứng đắc giáo lý này bằng trực giác cho đến mức độ nào?"
và ngài tuyên bố Vô Sở Hữu Xứ với ta.
Ta lại suy nghĩ: "Không phải chỉ
Àlàra có lòng tin, có tinh tấn, có niệm, có định, có tuệ. Ta cũng có đủ
tất cả những điều kiện này". Và chẳng bao lâu ta cũng đã chứng
đắc giáo lý cùng an trú trong ấy. Ta nói chuyện này với Àlàra Kàlàma
và vị ấy bảo: "Thật là ích lợi cho chúng ta, thật là an lạc cho
chúng ta khi có được tôn giả này làm vị đồng Phạm hạnh của chúng
ta. Giáo pháp này ta đã chứng đắc, tôn giả cũng đã chứng đắc. Ta như
thế nào, tôn giả cũng vậy, tôn giả thế nào, ta cũng như vậy. Này tôn
giả, chúng ta sẽ cùng hướng dẫn hội chúng đệ tử này!". Như vậy
vị đạo sư này đã xem ta như người đồng đẳng và rất tôn trọng ta.
Song ta suy nghĩ: "Giáo pháp này không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn mà chỉ đưa đến Vô Sở
Hữu Xứ”. Vì thế ta chán ngán, không muốn chấp nhận giáo pháp này nữa,
ta bác bỏ nó và ra đi". (MN 26.16, giản lược)
Lòng hiếu kỳ của chúng ta về những
gì tôn giả Àlàra thực sự thuyết giảng vẫn chưa được thỏa mãn vì
thái tử Siddhattha xem điều ấy không đáng kể. Từ ngữ “Vô Sở Hữu Xứ”
chỉ một trạng thái thiền định trong đó vị hành giả tỉnh thức nhưng
hướng sâu vào nội tâm. Phương pháp thiền định này là một điểm đặc
biệt của đạo sư Àlàra. Một đệ tử của ngài là Pukkusa về sau trở
thành đệ tử của đức Phật (DN 16.2.27)* kể
lại có một lần đạo sư Àlàra ngồi dưới gốc cây, hoàn toàn tỉnh thức
mà không hề chú ý đến năm trăm cỗ xe bò chạy ngang qua cạnh ngài vì
ngài nỗ lực chú tâm thiền định hướng nội rất sâu. Những dấu hiệu
ít ỏi này cho ta thấy hệ thống tu thiền của đạo sư Àlàra có thể là
một hình thái Yoga thuở ban đầu.
Còn khả năng hoạt động nghề
nghiệp của đạo sư Àlàra thì dễ nhận rõ hơn. Việc vị đạo sư này
đề nghị thái tử Siddhattha cùng điều khiển giáo phái của mình chỉ có
thể giải thích được là đạo sư xét rằng vị vương tử này vừa mới
đàm luận với Ðại vương Bimbisàra trước đây, chắc hẳn có liên hệ mật
thiết với triều đình nước Magadha, nên cũng hy vọng nhờ đó có thể
được quốc vương bảo trợ giáo phái và sẽ thâu nhận được nhiều đệ
tử hơn nữa.
Thái tử Siddhattha phản ứng lại
phù hợp với tính tình chánh trực và nỗ lực mong tìm giải thoát thực sự
của ngài: ngài từ chối lời đề nghị ấy. Ngài xuất gia sống đời khất
sĩ không phải để rồi bị một giáo chủ tầm thường phá hủy đại sự
của ngài như vậy. Chắc chắn ngài đã xem việc ở lại với đạo sư
Àlàra là phí thì giờ nếu ngài không thâu nhận được từ đạo sư này
một số chỉ dẫn về phương pháp hành thiền và về cách tổ chức một
hội chúng Sa-môn. Ðó có lẽ là lý do khiến ngài nghĩ đến đạo sĩ
Àlàra vài năm sau.
Mặc dù kinh nghiệm sống với đạo
sư Àlàra đã gây niềm thất vọng, lòng ngưỡng mộ của thái tử
Siddhattha đối với các bậc đạo sư vẫn chưa bị lay chuyển. Tin chắc lần
này đã gặp được minh sư, ngài đến một vị giáo chủ khác là Uddaka
Ràmaputta. Trong Trung Bộ Kinh số 26 và 36 (MN 26 &36) ngài miêu tả kinh
nghiệm sống với đạo sư Uddaka bằng những lời cũng gần tương tự như
lần trước với đạo sư Àlàra.
Chúng ta được biết rằng giáo lý
của đạo sĩ Uddaka Ràmaputta không phải do vị ấy khám phá, mà đã học
được từ sư phụ Ràma, đó là giáo lý đưa đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Xứ. Tuy thế, ta có thể suy diễn đôi điều về nội dung giáo lý này từ
nhận xét của đức Phật dạy vị Sa-di Cunda vài thập niên sau đó (Mahà
Cunda, DN 29.16)* cho biết rằng theo lời đạo
sư Uddaka, người phàm phu "thấy mà không thấy", ví dụ một dao cạo
sắc bén, ta có thể thấy lưỡi dao nhưng không thấy khía cạnh sắc bén của
dao vì nó quá tinh vi. Những người đọc Áo Nghĩa Thư sẽ liên tưởng đến
sự trùng hợp với kinh Chàndogya Upanisad (6.12) kể chuyện Uddàlaka Àruni bảo
con trai là Svetaketu chẻ đôi một hạt sung rồi bày tỏ cho con biết phần
tinh hoa của Vũ Trụ và Bản Ngã nằm trong cái tế nhị không thể thấy
được kia. Do vậy có thể chứng minh giả thiết rằng đạo sư Uddaka đã
giảng dạy tư tưởng Áo Nghĩa Thư, đó là giáo lý về Phạm thể (Brahman)
là cái Tuyệt Ðối thường trụ trong vạn pháp. Bất cứ tư tưởng Áo Nghĩa
Thư nào mà đức Phật đã hiểu biết và tiếp nhận vào giáo lý của
ngài, dù có phần giữ nguyên vẹn không thay đổi hay có phần ngài đã
bài bác phản biện, có lẽ ngài đã học được từ đạo sư Uddaka.
Khi thái tử Siddhattha chứng đắc
tri kiến mà sư phụ Ràma của Uddaka đã chứng đắc trước kia, đạo sư
Uddaka liền đề nghị ngài, không phải đồng lãnh đạo mà là chức vụ
lãnh đạo độc nhất của hội chúng. Vị đạo sư này nhìn nhận đệ tử
mình có đầy đủ khả năng tu chứng cao hơn thầy. Song thái tử lại từ
chối lời đề nghị ấy mặc dù nghe thật hấp dẫn. Ngài mong cầu giải
thoát khổ đau, chứ không phải lãnh đạo một giáo phái. Do vậy, khi giáo
lý của đạo sư Uddaka không làm ngài thỏa mãn và ngài lại chán ngán
thói tự kiêu của đạo sư Uddaka (SN 35. 103)*
, ngài liền rời bỏ vị này và tiếp tục du hành. Việc học tập của
ngài với hai đạo sư kia đã kéo dài không đầy một năm, có lẽ chừng
sáu tháng mà thôi.
NHÀ KHỔ HẠNH SIDDHATTHA
Khi rời am thất và hội chúng đạo
sư Uddaka Ràmaputta có lẽ ở gần thành Ràjagaha, thái tử Siddhattha du hành
về hướng tây nam cho đến gần Uruvelà (Ưu-lâu-tần-loa), một thị trấn
có thành lũy của quân đội thuộc Ðại Vương Magadha, ngài thấy "một
vùng đất tươi đẹp với khu rừng khả ái và dòng sông trong vắt rất
thích hợp để tắm mát và nghỉ ngơi, lại có làng xóm chung quanh để khất
thực”. (MN 26). Tại địa điểm này trên bờ sông Neranjarà
(ngày nay là Nìlajanà) hợp với sông Mohanà để tạo thành sông Phalgu,
ngài định trú chân và hành trì khổ hạnh. Trước kia, các giáo lý
Upanisad và Yoga đã chứng tỏ không thích hợp để ngài đạt tri kiến giải
thoát, nên có lẽ khổ hạnh là phương pháp đúng đắn. Về sau, ngài diễn
tả cho hội chúng Tỳ-kheo nghe đầy đủ chi tiết về những cuộc phiêu lưu
mạo hiểm trong suốt sáu năm ròng này.
Ðoạn trên miêu tả khu rừng thái
tử Siddhattha đã chọn là "khả ái" _ tuy nhiên, nếu
tưởng tượng ra một khung cảnh êm đềm thơ mộng trong rừng Ấn Ðộ
thì thực sai lầm. Vào thời đức Phật, các cây rừng bao phủ phần lớn
của tiểu lục địa này thay đổi tùy theo miền.
Ở vùng thuộc Bihàr ngày nay đất
trồng loại rừng cây hằng năm rụng lá, khô cằn thưa thớt vào mùa hạ
và chỉ xanh tươi vào mùa mưa. Loài cây nổi bật sừng sững là cây Sàla
(Shorea robusta), vài loại cao đến 30m. Còn các rừng thưa phủ đầy
thảm cây con và các khóm tre trúc mọc ven các bờ sông.
Ðộng vật rất phong phú đa dạng.
Các loài dơi và chồn bay đậu lủng lẳng hàng chục con thành từng đám
như những chiếc túi nhung đen mềm mại trên các cây cao được chúng ưa
thích. Bầy khỉ đen và nâu đỏ sẩm chuyền cành đuổi bắt nhau, hay một
gia đình linh dương màu nâu nhạt uyển chuyển bước đi nhẹ nhàng. Các
loài thú dữ ít hơn người ta tưởng, nhưng cũng đủ để làm người ta
lo ngại.
Không phải không duyên cớ mà nông
dân Ấn Ðộ hết sức nghi ngại rừng già, đó là nơi mà họ xem có đầy
ma quỷ ẩn náu và cái vẻ tranh tối tranh sáng khiến họ chỉ đi vào sâu
để kiếm củi hoặc bò dê đi lạc.
Thời gian đầu tiên ở rừng quả
thật rất khó khăn đối với vị thái tử Sát-đế-lỵ ba mươi tuổi từ
thành Kapilavatthu đến. "...Sự quạnh hiu của rừng già quả thật
khó chịu đựng, thật khó tìm an lạc trong đời độc cư. Ban đêm khi ta
ở lại những nơi đáng khiếp đảm kia, chỉ một con vật đi ngang qua, hay
một con công làm gãy cành cây hoặc gió thổi xào xạc giữa đám lá, ta cũng
đầy kinh hoàng hốt hoảng". Như ngài kể cho Bà-la-môn Jànussoni sau
này, phải cần nhiều thời gian ngài mới có thể khắc phục được nỗi
sợ hãi kia bằng tinh thần tự chủ. (MN 4)* .
Chúng ta có thể nhận ra nhiều giai
đoạn khác nhau trong quá trình hành trì khổ hạnh của thái tử. Ngài đã
thực hiện nhiều bước khởi đầu khác nhau và không phải khi nào ngài cũng
sống đơn độc. Các đoạn văn miêu tả thời kỳ này được đức Phật
trình bày cho Saccaka Aggivessana, vị cư sĩ theo đạo Kỳ-na và Sàriputta, đại
đệ tử của ngài, trong Trung Bộ Kinh (MN 36 và 12)**
.
Nhà khổ hạnh trẻ Siddhattha bắt
đầu tầm cầu chân lý bằng cách gắng sức buộc tâm mình phải đạt tri
kiến: "Ta nghiến rằng, chận lưỡi trên nóc họng, nhiếp phục tâm
ta, ta nỗ lực hàng phục tâm, chế ngự tâm ..." Kết quả là mồ
hôi đổ ra từ nách và ngài nhận thấy rằng tâm là một phương tiện có
thể làm cho thuần thục, nhưng cứu cánh và giác ngộ thì không thể đạt
được bằng cách ép buộc và thiếu trí tuệ.
"Hành thiền nín thở” cũng
không đem lại kết quả gì, đó là cách kiềm chế hơi thở lại càng lâu
càng tốt. Kết quả là không đạt được thiền định hay thắng trí nào
cả, mà chỉ nghe tiếng gào thét qua lỗ tai cùng những cơn đau nhức khủng
khiếp trong đầu, những cơn co thắt dạ dày và cảm giác nóng bỏng đốt
cháy toàn thân.
Hai lần thất bại vì các phương
pháp "hướng nội" kể trên khiến thái tử Siddhattha tìm đến các
phương pháp "hướng ngoại". Nếu ta phải tin theo kinh sách (MN 12)
thì thấy ngài đã thí nghiệm tất cả mọi phương pháp hành hạ thân xác
của đời khổ hạnh. Ngài sống lõa thể và không nhận các loại thức
ăn đem đến, nhưng phải đi khất thực các thứ rau quả ngũ cốc của riêng
ngài. Tại mỗi nhà, ngài chỉ ăn chừng một nắm tay, có khi lại hạn chế
ăn uống chỉ một lần trong bảy ngày. Những khi khác ngài lại ăn thứ cây
mọc hoang.
Vào mùa lạnh, ngài mặc áo quần
toàn giẻ rách, vải liệm tử thi, da súc vật khô, rơm cỏ hoặc vỏ cây.
Ngài không cắt râu tóc mà chỉ nhổ chúng ra. Ngài không ngồi, mà chỉ đứng,
dựa lưng hoặc chồm hổm trên gót chân. Nếu cần nằm thì chỉ nằm trên
gai nhọn. Ngài bỏ tắm rửa, cứ để mặc lớp đất bụi bám dày tự rụng
ra. Ðồng thời ngài lại thực hành từ bi cực độ, không làm hại sinh vật
nào và thương xót luôn cả giọt nước: "Mong rằng ta không làm hại
các sinh vật nhỏ trong ấy". Ngài chạy trốn đám người chăn bò,
cắt cỏ và kiếm củi lúc họ vào rừng và ẩn mình thật kỹ.
Về chốn ở, ngài sống suốt mùa
đông Ấn Ðộ từ tháng mười hai đến tháng giêng trong rừng thưa và ban
đêm, khi nhiệt độ chỉ gần điểm 0, ngài sống ngoài trời, còn mùa hạ
vào tháng năm, sáu ngài làm ngược lại là sống ban đêm trong rừng rậm
giữa làn không khí ngột ngạt oi bức, và ban ngày lại sống ngoài trời dưới
ánh nắng gay gắt. Ở đây, ngài thường sống trong các nghĩa địa thiêu
xác, bọn trẻ chăn bò khạc nhổ, tiểu tiện trên mình ngài, ném đất vào
ngài hoặc lấy cọng cỏ ngoáy lỗ tai ngài. Ðôi khi ngài còn ăn cả những
thứ không phải là thức ăn thông thường của người khổ hạnh. Khi bọn
mục đồng để đàn bò lại một mình, ngài đến kiếm ăn phân bê con và
có lúc lại ăn ngay cả phân của chính mình "nếu nó không tiêu hóa
hết".
Chúng ta không chắc chắn đọc được
các đoạn này đúng nguyên văn đến mức độ nào, nhưng chúng không thể
là hoàn toàn do bịa đặt. Nhất là việc ngài tập nhịn ăn có thể xem
là đúng sự thực. Ngài đã nhịn ăn đến độ chỉ còn dùng một nắm gạo
hay một trái cây mỗi ngày. Vì vậy ngài có vẻ sắp chết vì đói. Ngài
mô tả tình trạng này rất sinh động như sau:
"Vì ta ăn quá ít mỗi ngày,
nên cơ thể ta trở nên hết sức gầy yếu. Tay chân ta như các lóng tre
khô đầy khúc khỉu. Hai bàn tọa của ta trở thành giống như móng trâu, xương
sống với cột tủy lồi ra trông giống chuỗi hạt. Xương sườn ta lộ rõ
như rui cột của ngôi nhà đổ nát. Ðồng tử của ta nằm sâu trong hố mắt
thăm thẳm long lanh giống như ánh nước long lanh từ dưới giếng sâu. Da
đầu ta khô héo nhăn nheo như trái mướp đắng được cắt đem phơi nắng
khô héo nhăn nheo. Nếu ta muốn sờ da bụng thì ta đụng nhằm xương sống
vì hai thứ đã dính sát vào nhau. Nếu ta muốn đi đại tiện hay tiểu tiện
thì ta ngã úp mặt xuống đất. Nếu ta chà xát tay chân thì đám lông hư mục
rụng xuống trong tay ta". (MN 12.52 _ MN 36.21)
Lẽ cố nhiên việc hành trì khổ hạnh
khắc nghiệt đến như vậy khiến nhiều người thán phục. Ngoài đám gia
chủ ở Uruvelà ủng hộ, thái tử còn được nhóm năm nhà khổ hạnh ngưỡng
mộ, những vị đến đây từ quê nhà ngài dưới chân núi Tuyết sơn.
Kondaññà (Kiều-trần-như) từ vùng Donavatthu, cách đó ba mươi năm là một
trong tám vị Bà-la-môn đã cử hành lễ đặt tên cho thái tử hài nhi
Siddhattha Gotama: như vậy, ít nhất vị này cũng lớn hơn thái tử mười
lăm tuổi. Còn các vị Bhaddiya (Bạt-đề), Vappa (Bà-phả), Mahànàma
(Ma-ha-nam) và Assaji (Át-bệ hay Mã Thắng), là con của bốn vị Bà-la-môn
trong nhóm ấy. Cùng với Kondaññà, chư vị đã theo gót thái tử Gotama sống
đời khất sĩ sau khi ngài xuất gia và tính cách khắc nghiệt cực độ
trong các nỗ lực của ngài đã lôi cuốn chư vị gia nhập phương pháp
hành trì này. Chư vị đã đồng ý người nào trong nhóm đạt Giác Ngộ
Chân Lý (Dhamma) trước tiên sẽ bảo cho các người kia biết. Không một
ai trong nhóm ấy hoài nghi gì về khả năng thái tử Siddhattha sẽ là người
đầu tiên chứng đạo.
THÁI TỬ SIDDHATTHA GOTAMA THÀNH PHẬT
Song cả năm vị khổ hạnh kia đều
mất hết ảo vọng, vô cùng dao động và phẫn nộ vì thái tử Siddhattha,
người anh hùng gương mẫu của nhóm, đã không còn theo đuổi cuộc tầm cầu,
đã phá bỏ việc hành trì khổ hạnh và chấp nhận cách nuôi sống đúng
đắn thích hợp, đó là chén cơm đầy sữa! Có lẽ vương tử này muốn sống
lại đời sung túc chăng? Bất mãn, các vị xa lánh ngài, bỏ mặc ngài ở
lại một mình. Thái tử Siddhattha không còn là người hướng đạo, và cũng
không phải là bạn đồng tu hành với chư vị nữa. Thế việc gì đã xảy
ra vậy? Chúng ta nghe được lời giải thích từ chính miệng ngài:
"Bằng phương pháp này, theo đạo
lộ này, với khổ hạnh khắc nghiệt này, ta đã không chứng đắc tối
thượng cứu cánh của nỗ lực trượng phu, đó là tri kiến thù thắng của
bậc Thánh. Tại sao lại không? Ðó là vì ta đã không đạt trí tuệ
(pañña), là pháp cao thượng có khả năng hướng dẫn người thực hành
đoạn tận khổ đau (giải thoát luân hồi sanh tử)”. (MN 12.56)
"Bất cứ Sa-môn Bà-la-môn nào
từng có những cảm thọ đau đớn, khốc liệt, khủng khiếp, cũng không
thể vượt qua khổ thọ này của ta. Tuy thế với khổ hạnh vô cùng khắc
nghiệt này, ta vẫn không đạt được tối thượng cứu cánh của nỗ lực
trượng phu, đó là tri kiến thù thắng, trí tuệ của bậc Thánh. Vậy có
thể có đạo lộ nào khác đưa đến giác ngộ hay chăng?”. (MN 36.22)
Trong khi suy nghĩ sâu xa về đường
lối khác này, ngài nhớ lại một sự kiện thuở ấu thơ. Nhiều năm trước
kia, khi phụ vương ngài thân hành bước xuống cày ruộng, chính ngài, thái
tử Siddhattha, đang ngồi bên bờ ruộng dưới bóng cây đào*
và đột nhiên nhập vào một trạng thái ly dục ly bất thiện pháp, một
trạng thái thiền định (jhàna) đi kèm với tầm, tứ, hỷ, lạc. Có
thể nào cách quán tưởng này chính là con đường đưa đến giác ngộ chăng?
Và bởi vì một thân thể gầy gò bạc nhược phô bày đủ mọi dấu hiệu
kiệt quệ không thể là phương tiện tối ưu để mưu cầu giải thoát
tâm linh, nên chẳng bao lâu sau khi nhớ lại kinh nghiệm ấu thời ấy, thái
tử Siddhattha đã từ bỏ khổ hạnh, nhịn ăn và trở về một lối sống
quân bình hơn. Song nhóm năm vị khổ hạnh kia chỉ có thể thấy việc
ngài dứt bỏ phương pháp khổ hạnh cũ, chứ không thấy việc ngài chấp
nhận một phương pháp tầm cầu mới, nên từ đó đã xa lánh ngài.
Còn lại một mình trong rừng ở
Uruvelà, thái tử Siddhattha, nay không còn là nhà khổ hạnh nữa, mà là một
Sa-môn, khởi đầu một đạo lộ mới. Trong đường lối mới này, ngài
được hỗ trợ bằng kinh nghiệm thiền định mà ngài đã chứng đắc dưới
sự hướng dẫn của đạo sư Àlàra Kàlàma.
Phương pháp hành thiền chuẩn bị
căn bản cho bước đột phá đưa đến giác ngộ gồm bốn giai đoạn nhập
định (jhàna) thường được đề cập trong Kinh Ðiển. Pháp hành thiền
này không nhất thiết đưa đến giác ngộ, song cũng như mọi phương pháp
hành thiền khác, đó chỉ là phần thực hành để chuẩn bị. Nó khiến
cho tâm trí có khả năng đạt giác ngộ, song giác ngộ chính là một sự
kiện hiếm thấy, tùy thuộc vào nhiều nghiệp duyên thuận lợi và một nỗ
lực rất kiên định hướng đến trí tuệ.
Bốn giai đoạn nhập định ấy
được miêu tả như sau trong Trung Bộ Kinh (MN 36,25):
Giai đoạn 1: Sơ thiền là bước
đầu diệt dục và bất thiện pháp, đi kèm với tầm và tứ, một trạng
thái hỷ lạc do ly dục sanh.
Giai đoạn 2: Nhị thiền: diệt
tầm và tứ, phát triển nội tĩnh và nhất tâm, đó là một trạng thái hỷ
lạc do định sanh.
Giai đoạn 3: Tam thiền là diệt
hỷ để tránh mọi tác động, trú xả, chánh niệm tỉnh giác với một lạc
thọ về thân.
Giai đoạn 4: Tứ thiền là diệt
các cảm thọ lạc và khổ, ly hỷ và ưu, phát triển xả và niệm thanh tịnh.
Khi thái tử Siddhattha đã làm cho
tâm ngài (citta) trở thành định tĩnh và thanh tịnh như vậy, là
không còn cấu uế, thoát ly mọi lậu hoặc, nhu nhuyến, dễ sử dụng,
kiên cố, bất động, (MN 36,26) ngài hướng tâm hồi tưởng các tiền
kiếp (túc mạng trí).
"Ta nhớ lại nhiều kiếp quá
khứ mà ta đã trải qua: một đời, hai đời, ba, bốn, năm, hai mươi, ba
mươi, bốn mươi, một trăm, một ngàn, một vạn trong nhiều thành kiếp hoại
kiếp của thế giới ... Ta biết: Ta đã ở nơi kia, tên họ như vậy, gia tộc
như vậy, đẳng cấp như vậy, lối sống như vậy. Ta đã trải qua các sự
rủi may của số phận như vậy và mệnh chung như vậy. Sau khi thân hoại,
ta lại tái sanh nơi khác, với tên họ như vậy ... và rồi mệnh chung như
vậy. Bằng cách này, ta nhớ lại các đời sống quá khứ với nhiều đặc
điểm trong nhiều hoàn cảnh. Ta đạt được minh trí (vijjà) này trong canh
đầu đêm". (Khoảng 9 giờ tối đến nửa đêm) (MN 36.26)
Vào canh giữa, Sa-môn Siddhattha đạt
được minh trí thứ hai: là luật nhân quả về nghiệp (karma) theo đó
thiện nghiệp đưa đến tái sanh cõi thiện và ác nghiệp đưa đến tái
sanh cõi ác:
"Với thiên nhãn thanh tịnh,
siêu nhân, vượt tri kiến phàm tục, ta thấy cách chúng hữu tình sanh tử
như thế nào. Ta thấy rõ cao sang hay hạ liệt, thông minh hay ngu đần, mỗi
người đều được tái sanh cõi lành hay cõi dữ tùy theo hạnh nghiệp của
mình và ta biết rõ: "Những kẻ nào đã tạo ác nghiệp về thân, khẩu,
ý, sau khi thân hoại mạng chung sẽ tái sanh vào khổ cảnh, chúng sẽ vào
đọa xứ, địa ngục. Song những kẻ nào tạo thiện nghiệp về thân, khẩu,
ý sẽ được tái sanh cõi lành, sẽ lên thiên giới". (MN 36.27)
Sau cùng, vào canh cuối, khi chân trời
đã bắt đầu hiện rõ ở phương đông thành một làn ánh sáng trắng,
Sa-môn Siddhattha đột nhập vào tri kiến thứ ba, đó là tri kiến về "Khổ"
và "Tứ Thánh Ðế", tạo thành căn bản giáo lý của ngài:
“Ta hướng tâm đến Lậu Tận Trí,
đoạn tận lậu hoặc (àsavà) và biết như thật: "Ðây là Khổ
(Dukkha), đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt và đây là con đường đưa
đến Khổ diệt” và khi ta nhận chân điều này, trí ta được giải thoát
khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Rồi tri kiến khởi sanh trong ta:
“Sanh đã đoạn tận trong ta. Ta đã hoàn thành đời Phạm hạnh, những gì
cần làm đã được làm xong, ta không còn tái sanh nữa". (MN 36.28)
Ngài liền cất tiếng reo vang bày tỏ
niềm cực lạc:
“Giải thoát đạt vẹn toàn
Ðây là đời cuối cùng,
Không còn tái sanh nữa". (MN 36.21)
Ðêm ấy năm 528 trước CN, thái tử
Siddhattha Gotama ba mươi lăm tuổi, con của quốc vương thành Kapilavatthu đã
chứng quả Giác Ngộ (bodhi). Ngài đã trở thành đức Phật, một đấng
Giác Ngộ, tỉnh thức, và như vậy là được giải thoát khỏi vòng luân hồi
sanh tử (Samsàra).
Truyền thống Kinh Ðiển ghi sự kiện
này cũng như sự kiện đản sanh của ngài, vào ngày rằm trăng tròn tháng
Vesakha (khoảng tháng 4-5) và nêu địa điểm ấy gần Uruvelà (nay là Bodhi-gaya:
Bồ-đề Ðạo tràng) dưới một gốc cây đặc biệt là assatha (tên
khoa học: Ficus religiosa). Do vậy, ngày rằm tháng Vesakha là lễ hội
quan trọng nhất của giới Phật tử và cây assatha là linh thọ bồ-đề.
Ðây là sự kiện bắt nguồn cho một trường phái tư tưởng mới và tôn
giáo mới, nên đạo quả Giác Ngộ của đức Phật đáng được phân tích
về phương diện tâm lý. Do ảnh hưởng của Thiền phái Phật giáo (Zen),
các tác giả hiện đại thường sai lầm miêu tả sự Giác Ngộ này như một
"tia chớp" chợt loé bừng lên.
Theo lời tường thuật của đức
Phật Gotama trong kinh Trung bộ (MN 26), ta biết rằng sự kiện Giác Ngộ
kéo dài suốt ba canh (khoảng 9 giờ), do vậy, đó là một tiến trình tuần
tự. Ðiều này phù hợp với lời ngài tuyên bố khẳng định: "Giáo
lý của ngài theo tiến trình tuần tự, không có sự thể nhập đột ngột
tự phát của tri kiến (aññà); ví như bờ biển không đột ngột sâu xuống,
mà cứ tuần tự xuôi dần" (Ud 5.5)* .
Hơn nữa, tiến trình Giác Ngộ còn được chánh trí tuệ hướng dẫn như
đã thể hiện rõ ràng từ những lời được ngài lập lại ba lần: "Ta
hướng tâm đến túc mạng trí ... Ta hướng tâm đến thiên nhãn trí ... Ta
hướng tâm đến lậu tận trí...". Vì vậy ta có thể hình dung ra sự
Giác Ngộ của đức Phật Gotama như là một trạng thái hạnh phúc tối cao
kéo dài trong nhiều giờ khắc, với tâm trí cực kỳ minh mẫn, đã điều
động mọi khả năng trí tuệ của ngài và tập trung chúng lại vào cùng một
thời điểm, giống như một tấm kính nóng bỏng. Không có gì gọi là
"xuất thần" trong sự Giác Ngộ (bodhi) này cả, vì đó không
phải là một trạng thái ở ngoài tự thân hay mê mẩn tâm trí.
Cách tầm cầu trạng thái này của
đức Phật cũng không phải là sự mò mẫn mù quáng trong đêm tối. Ngài
biết thật chính xác những đối tượng nào cần hướng tâm đến. Vì
ngài đã từng quen thuộc với các tư tưởng về tái sanh của Áo Nghĩa
Thư (Upanisad) từ thời ngài còn ở lại với đạo sư Uddaka, nên
ngài có đủ khả năng hướng tâm thật sâu vào chủ đề này. Ðiều ấy
cũng phù hợp với sự chứng đắc "Tứ Thánh Ðế" mà ngài đã biết
rõ từ lý thuyết y học được phát triển cao và đã lưu hành ở Ấn Ðộ
vào thế kỷ thứ 6 trước CN. Theo đó, trước tiên ta hỏi về bệnh, rồi
nguyên do của bệnh, kế tiếp về khả năng tiêu diệt căn bệnh và cuối
cùng là thuốc chữa bệnh. Vậy sự chứng đắc giác ngộ của đức Phật
Gotama phần lớn bao gồm tri kiến phân giải lối tư duy đã có từ
trước.
Song sự Giác Ngộ ấy còn đi xa
hơn, vì đó cũng là tri kiến tổng hợp, nghĩa là tri kiến mở rộng
ra nhiều lãnh vực nhận thức mới. Tự thân chứng ngộ tri kiến phân
tích khiến ngài thốt tiếng reo chiến thắng đồng thời xuất hiện trực
quan sáng tạo hi hữu kỳ diệu đem lại cho ngài niềm cực lạc, trong ấy
các tư tưởng cổ truyền cùng tuệ giác tinh anh phối hợp ở nội tâm
ngài như những khối pha lê đúc kết thành một Giáo Pháp mới (Dhamma).
Trong ánh hào quang chói lọi của sự Giác Ngộ (Bodhi), một hệ tư
tưởng mới được tạo nên từ những yếu tố mới và cũ hòa đồng, giải
thích thế giới "như thật" (yathàbhùtam), nêu rõ con
đường từ khổ đau đến giải thoát, và cuối cùng đã vượt hẳn lên mọi
tri kiến cũ để trở thành Chân Lý phổ quát bao trùm vạn vật.
Chính yếu tố Giác Ngộ siêu việt
này phô bày những điều vượt thế giới hữu hình khiến cho giáo lý đức
Phật có năng lực thần kỳ điều động nhân loại, hướng dẫn con người
đến cái thiện. Do vậy không có gì mâu thuẫn trong khi một mặt đức Phật
tuyên bố giáo lý ngài như “một con đường xưa cũ đầy cây cỏ mọc
tràn, nay ngài đã khám phá lại lần nữa, con đường ấy xuyên suốt qua rừng
rậm đưa đến một kinh thành đã bị lãng quên từ lâu" (SN 12. 65)*, và mặt khác ngài nhấn mạnh rằng đó là điều
mới lạ “chưa từng được nghe trước kia". (Mv 1.6.23)
Ta cần phân biệt yếu tố hợp lý
của sự Giác Ngộ tạo thành nội dung Giáo Pháp (Dhamma) với ảnh hưởng
tâm lý của nó đối với bản thân ngài. Các tôn giáo Ấn Ðộ xưa nay vẫn
có niềm tin vững chắc rằng tri kiến hay tuệ giác có khả năng loại trừ
những yếu tố trói buộc người ta vào đau khổ và tái sinh. Ðức Phật cũng
chẳng bao giờ hoài nghi điều này. Vậy bằng cách nào ngài có thể chứng
minh được việc ngài phá bỏ mọi hành trì khổ hạnh? Bởi vì, ngài bảo,
“Chúng không đưa đến tuệ giác, mà tuệ giác này, khi đã chứng đắc,
sẽ đưa người thực hành đến đoạn tận khổ đau”. (MN 12.56)
Vô minh (Avijjà) trói buộc ta
vào vòng sanh tử, trong khi tri kiến (ñàna), minh (vijjà )
hay trí tuệ (paññà ) sẽ giải thoát ta khỏi vòng vây ấy: chúng
chính là các phương tiện giải thoát. Như vậy rõ ràng đối với đức Phật,
sự Giác Ngộ nhất định đã giải thoát ngài khỏi gánh nặng sanh tử
luân hồi, làm cho ngài được tự do: "Sẽ không còn phải tái sanh nữa
đối với ta!", đó là tiếng reo mừng của ngài sau khi đạt quả
Chánh Giác.
Hơn nữa, kinh nghiệm chứng ngộ
đem lại cho ngài cảm tưởng nay thành một vị Phật, ngài thuộc về một
hạng người khác, và chỉ có hình dáng bên ngoài giống như những kẻ
chưa được giải thoát mà thôi. Tối thắng tri kiến cho ngài hiểu rằng
từ nay khổ đau chỉ xúc chạm ngài trên thân thể chứ không thể tác động
lên tâm trí ngài nữa, và không điều gì có thể đảo ngược lại sự giải
thoát của ngài, tuệ giác ấy tạo nên một thái độ xả ly vượt lên
trên cuộc đời mà ngài luôn biểu lộ suốt bốn mươi lăm năm hành đạo
khi tiếp xúc với mọi giới: vua chúa, hành khất, bằng hữu hay những kẻ
đối nghịch ngài.
Truyền thống nguyên thủy xem sự
Giác Ngộ (Bodhi) như một kinh nghiệm trí tuệ hiển lộ trước đức
Phật tất cả mọi yếu tố căn bản của Giáo Pháp ngài dưới hình thức
trọn vẹn tột cùng. Nói cách khác, truyền thống nguyên thủy cho rằng sự
đắc quả Vô Thượng Giác Ngộ đã biến ngài từ một tư tưởng gia trở
thành người chứng đạt chân lý. Ðiều hy hữu là dòng tư tưởng sáng tạo
của đức Phật chứng tỏ vẫn tiếp diễn ngay cả sau khi ngài giác ngộ.
Ðối với cá nhân ngài, Giác Ngộ là cứu cánh của sự mưu cầu giải thoát,
song đối với Giáo Pháp ngài, đó chỉ là khởi đầu cho một tiến trình
phát triển liên tục.
Ðiều này có thể được thấy rõ
từ sự kiện là toàn thể Giáo Pháp biểu hiện qua những bài thuyết giảng
của bậc Ðạo Sư chứa đựng nhiều yếu tố chưa có mặt trong buổi đầu
Giác Ngộ. Rõ ràng điểm đặc sắc nhất trong toàn hệ thống tư tưởng
của ngài, và cũng là điểm đối nghịch với giáo lý Upanisads là giáo lý
Vô Ngã (an-attà), theo đó không thể tìm thấy một linh hồn trường cửu
(attà hay àtman), một bản ngã tồn tại ở một thực thể cá nhân nào sau
khi thân hoại mạng chung, và tái sanh là một quá trình diễn tiến do duyên
sinh kết hợp mà không cần có một linh hồn luân chuyển đầu thai. Hiển
nhiên giáo lý này thuộc về thời kỳ Hậu Giác Ngộ, khi đức Phật
còn trẻ tuổi này đang thiết lập thật chính xác các tri kiến bao la vừa
mới chứng đạt và bổ sung nhiều chi tiết để thuyết giảng giáo lý về
sau.
LINH THỌ BỒ-ÐỀ
Trong những bài đức Phật tường
thuật về sự Giác Ngộ của ngài (MN 26 và 36), không thấy đoạn nào nói
đến sự kiện Giác Ngộ diễn tiến dưới một gốc cây cả. Do vậy nhiều
học giả xem gốc cây đánh dấu nơi ngài giác ngộ chỉ là chuyện huyền
thoại phi lịch sử, và nêu ý kiến rằng phong tục thờ cây trước thời
đức Phật đã tìm cách len lõi vào đạo Phật ở điểm này. Song xét kỹ,
một khất sĩ không nhà cửa thì dù đi đâu, cũng vẫn thường ngồi dưới
gốc cây che chở sương giá ban đêm và nắng gắt ban ngày, há chẳng là
chuyện tự nhiên hay sao? Ta có thể xem chuyện Sa-môn Siddhattha ngồi nhập
định đưa đến Giác Ngộ dưới một gốc cây là lẽ dĩ nhiên. Trên thực
tế đó là cây assatha, rất dễ nhận ra nhờ chiếc lá hình quả tim
với đầu ngọn cong, mà thỉnh thoảng đức Phật có thể thường nhắc đến
với chúng đệ tử, nên ta cũng sẵn sàng chấp nhận đó là một sự kiện
lịch sử.
Cây bồ-đề (bodhi) đằng sau
tháp Ðại Bồ-đề cao 51 m tại Bồ-đề Ðạo tràng (vùng cổ Uruvelà) được
dựng khoảng thế kỷ thứ I CN, hằng ngày vẫn được hàng chục khách
hành hương chiêm bái. Song chỉ những người thực dễ tin mới tưởng rằng
đây là cây cổ thụ assatha nguyên thủy mà đức Phật đã ngồi dưới
gốc để đạt đạo cách đây 2500 năm. Ta có thể chứng minh rằng cây
này được thay thế nhiều lần theo thời gian, mặc dù nó vẫn là hậu duệ
của cây nguyên thủy. Như vậy cây hiện nay phát sinh chính tông từ cây
ngày xưa.
Cây bồ-đề xưa được đặt dưới
sự bảo trợ đặc biệt của vị Hoàng đế Phật tử Asoka trị vì Ấn Ðộ
với tư cách một vị vua yêu chuộng hòa bình từ năm 265 đến 232 trước
CN. Không những ngài truyền xây một tường đá quanh cây ấy (nay không
còn nữa) và đánh dấu vùng linh địa này với một trụ đá ghi sắc dụ
trên đầu có hình sư tử (nay cũng biến mất); ngài còn ban cho vua
Devànampiya-tissa của Ceylon (Tích lan), người đã được cải hóa theo đạo
Phật vào năm 242, một nhánh cây bồ-đề để trồng tại kinh đô
Anuràdhapura. Cây phát sinh từ nhánh này cùng đám hậu duệ đã liên tục
cung cấp các cây con hay hạt giống để thay thế cây bồ-đề ở Ấn Ðộ
sau nhiều lần bị hủy hoại.
Việc phá hủy cây bồ-đề nguyên
thủy tại Bồ-đề Ðạo tràng được xem là do Quý phi diễm lệ
Tissarakkhà của vua Asoka gây nên, người mà ngài đã tuyển vào cung bốn năm
trước khi băng hà. Vì hoàng đế dành nhiều thì giờ quan tâm đến cây
này hơn là chăm sóc bà, nên chuyện kể rằng (Mhv. 20. 4f) quý phi đã lấy
thứ gai nhọn mandu đâm vào cây mà bà tưởng có một tiên nữ bên
trong! Ðây là thứ gai mà dân Ấn tin có khả năng hủy diệt nguồn sống của
cây cối làm chúng phải héo khô. Câu chuyện này rõ ràng nhằm giải thích
việc cây chết vào cuối triều vua Asoka.
Việc phá hủy cây thay thế lần thứ
nhất đã được gán cho vua Sasànka xứ Ganda (Bengal) vì lý do tôn giáo. Vua
Sasànka, một người theo Ấn giáo cuồng tín và thù ghét Phật giáo, có lần
đi qua Bồ-đề Ðạo tràng vào đầu thế kỷ thứ bảy trong một chiến dịch
chống Kànya-Kubja (Kanauj). Theo ngài Huyền Trang kể lại, vua này đầy căm hận
không những truyền đốn cây thiêng ấy mà còn bảo đào gốc rễ lên đem
đốt cho tuyệt giống. Cây thay thế lần thứ hai lại được vua Pùrnavarman
trồng, đó là vị vua cuối cùng kế ngôi dòng Asoka ở nước Magadha.
Năm 1876, cây bồ-đề ở Bồ-đề
Ðạo tràng bị cơn bão làm bật gốc. Ðây có phải là cây của vua
Pùrnavarman hay một cây thay thế khác, điều đó không ai biết.
Có nhiều bản tường thuật trái
ngược nhau về các nguồn gốc của cây hiện nay mọc ở Bồ-đề Ðạo
tràng. Một số cho rằng cây mọc từ một nhánh chiết của cây ở
Anuràdhapura, một số khác bảo nó mọc lên từ rễ của cây trước đã bị
nhổ bật gốc. Dù thế nào đi nữa, cây hiện nay vẫn là cháu chắt ba đời
hoặc có lẽ đúng hơn là ngũ đại tằng huyền của cây assatha
nguyên thủy mà vào một đêm năm 528 trước CN, dưới gốc cây ấy nhà tu
khổ hạnh Siddhattha Gotama đã thành Phật.
M ục lục | Ia | Ib | Ic | Id | IIa | IIb | IIIa | IIIb | IIIc | IVa | IVb | IVc | IVd | Va | Vb | VIa | VIb | VII | VIII