- Ðức Phật Lịch Sử
(The Historical Buddha)
- H.W. Schumann (1982)
M. O'C. Walshe dịch sang Anh ngữ (1989)
Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch Việt (1997)
Chương II (tt)
CHÍNH THỐNG GIÁO Ở BENARES ÐỐI LẬP
PHONG TRÀO SA-MÔN KHẤT SĨ
Ngay thời đức Phật tại thế,
Benares đã lừng danh là nơi đặc biệt nhiều ân sủng cho những ai đi tìm
cứu rỗi dù không bằng với mức độ như sau này ở thời Ấn giáo. Nhiều
người tin rằng lễ tắm ở sông Hằng tại Benares đặc biệt mang tính cứu
độ linh thiêng, và các người chết được hỏa thiêu trên các bến sông
(ghats) trong thành phố sẽ đi thẳng lên thiên giới tạo cho nơi này
một bầu không khí thần thánh.
Danh từ Vàrànasì hay Bàrànasì, từ
đó phát xuất tên Banàras hay Benares ngày nay, là do tên hai con sông Varunà
(Barnà) và Asi, về mùa khô, sông Asi chỉ là một dòng nước nhỏ. Thành phố
Benares nằm giữa hai miệng sông trên tả ngạn (bờ tây) sông Hằng. Hữu
ngạn (bờ đông) sông Hằng ở Benares trước tiên chảy từ nam ra bắc, rồi
rẽ hướng đông bắc, là vùng không trồng trọt, chỉ là một dãi đất rộng
đen xám bị nước vùi sâu vào thời gió mùa. Người ta tin là ai chết
trên bờ đông con sông đối diện thành phố này sẽ tái sanh làm con lừa!
Truyền thống cho rằng Benares xưa là
kinh đô thật ít mang tính thuyết phục. Thành phố này có vẻ đã phát triển
từ một giang cảng chuyển tàu thuyền mọc lên ở góc sông Varunà và sông
Hằng giao lưu, phía đông bắc cầu Malavìya ngày nay, nơi đó hàng hóa được
tháo ra từ các ghe xuồng nhỏ trên sông Varunà đưa đến các thuyền lớn
trên sông Hằng. Tại đây và Bến Hoàng Gia (Ràj Ghàt) kế cận, các
nhà khảo cổ đã khám phá di tích nhiều tòa nhà đá tối cổ của thành
phố, từ thế kỷ thứ sáu trước CN, đúng vào thời đức Phật. Trung tâm
thương mại của thành phố nằm khoảng 2km phía tây nam trên một ngọn đồi,
tương ứng với vùng Chauk (Chowk) ngày nay. Ðồi này cao khoảng 40km trên mực
nước sông và bảo vệ dân chúng khỏi bị nạn lụt mà phần lớn thành
phố dọc các bờ sông phải chịu đựng hằng năm.
Ngay từ thời cổ đại, Benares đã
nổi tiếng về các loại gỗ tốt. Vải vóc, tơ lụa tinh xảo và hạng
thêu gấm dày thường dệt chen sợi vàng rất lừng danh và được khách
hàng ưa chuộng khắp tiểu lục địa này. Người nào có sáng kiến cần
thiết trong thương mại và một số vốn để đầu tư, ứng tiền trước
mua vải sợi và cung cấp mẫu thời trang cho đám thợ dệt làm ra hàng mới
rồi lo việc xuất cảng bán sản phẩm có thể làm giàu to. Ðiều này chắc
hẳn là cách phụ thân chàng Yasa đã trở thành vị phú thương xưa kia.
Một vài ngành kỹ nghệ và kinh
doanh có liên hệ đến vai trò tôn giáo của thành phố này là việc sản
xuất các thứ bình bằng đất và đồng dành cho lễ rảy nước thánh, việc
buôn hương trầm và nhiên liệu dành cho lễ tế thần lửa, lễ hỏa
thiêu, cùng các súc vật hiến tế và làm tràng hoa. Một số lớn dân
chúng Benares (có lẽ khoảng 120.000 người thời ấy) đã sinh sống bằng
cách cung cấp các dịch vụ liên hệ việc hành hương như làm tế sư ở các
tế đàn hay hỏa táng, hướng đạo của đoàn lữ hành, gia nhân quán trọ,
hoặc bọn lừa đảo chuyên rình rập đám người hành hương. Quanh thành
phố trong một địa bàn rộng lớn lại có những "nhân viên quảng
cáo" đủ loại luôn miệng hùng hồn tuyên bố các đặc tính của
thành phố thiêng liêng này và giá trị của nó trong sự cứu rỗi linh hồn.
Mặc dù Benares với nếp sinh hoạt
nhộn nhịp bên bờ sông là một thành phố phồn thịnh thời đức Phật,
chúng ta cũng phải hình dung đó là một thành phố khá khiêm tốn về phương
diện kiến trúc. Những hình dáng mà chúng ta thường nghĩ tới ngày nay khi
nói về Benares thật sự vào thời ấy chưa có. Ngày xưa không có nhiều
ảnh tượng hay đền đài vì các tế lễ Vệ-đà chỉ diễn ra ngoài trời.
Không có các bậc đá đưa xuống sông, mà chỉ có các bờ đất sét, và cũng
không có quang cảnh thành phố nguy nga tráng lệ, mà chỉ có các dãy nhà gạch
hoặc đất sét, và thậm chí chúng cũng không mang được sắc thái điển
hình của Ấn Ðộ như ta thường thấy ngày nay.
Lãnh vực văn hóa lại càng nghèo
nàn hơn nữa: ta phải hình dung một nước Ấn Ðộ chưa có các thiên anh
hùng ca như Ràmàyana, Mahàbhàrata, Bhagavadgìtà, các truyện thần thoại
cổ điển chỉ mới ở thời kỳ non trẻ, và thần Siva, mà kinh thành
Benares trở thành nơi thờ thần sau này, thời ấy chỉ là một tiểu thần
thứ yếu, còn phong tục thờ bò thiêng cũng chưa phát triển. Và cũng như
bây giờ, thời ấy không có một giới thẩm quyền nào điều hành vấn đề
tế lễ: mọi việc cúng tế không do một nhóm người hay cộng đồng nào
thực hiện, mà chỉ do cá nhân. Mỗi người tự thi hành, hoặc nhờ người
khác thi hành các thủ tục lễ nghi mà vị ấy xét cần thiết cho mình.
Vậy thì Benares như thế nào thời
đức Phật? Quả thực đó là linh địa của tri thức Upanisad, nơi mà những
tư tưởng về tái sanh còn mới mẻ và quy luật thưởng phạt tự nhiên
đang được thảo luận rồi thông qua; nhưng còn hơn thế nữa, đó là
trung tâm tế đàn theo kinh Vệ-đà vốn nằm trong tay một tập đoàn
Bà-la-môn chuyên nghiệp và cũng là trung tâm hỏa táng, một thành phố mời
mọc mua bán một đời sau trên thiên đàng! Rõ ràng là những kẻ đang kiếm
nhiều lợi nhuận béo bở nhờ các dịch vụ này không thể nào thân thiện
được với phong trào Sa-môn tìm cầu giải thoát lại khinh thường mọi tập
quán tế lễ từ xưa ấy.
Do vậy đa số dân thành Benares đều
tỏ ra lạnh nhạt và thù ghét đối với các du sĩ khất thực cắm lều
ở ngoại thành với số lượng nhiều đáng lo ngại như thế và lại thuyết
giảng các tư tưởng phi truyền thống. Nếu có vị nào liều lĩnh vào
trung tâm thành phố thì bình bát khất thực của vị ấy có thể chẳng nhận
được gì mà bản thân vị ấy còn bị nhục mạ nữa. Vì thế đa số
Sa-môn chỉ ở ngoại thành và tránh tiếp xúc với dân nội thành.
Ðức Phật cũng đã làm như vậy.
Trong bốn mươi lăm năm hành đạo, ngài chỉ an cư mùa mưa một lần duy nhất
gần Benares, đó là vào năm 528 trước CN, năm ngài thành đạo và thiết lập
Tăng đoàn, mùa an cư ấy tại Lộc Uyển ở Isipatana (Chư Thiên Ðọa Xứ),
tức Sàrnàth. Sau đó, ngài đã ở lại Isipatana hai ba lần nữa, có lẽ
trên đường về Kosambì, song ngài giới hạn việc du hành vào trung tâm
Benares đến mức tối thiểu. Nếu ngài không được gia đình tôn giả Yasa
cúng dường thực phẩm, ngài cũng không đi khất thực ở trong thành phố,
mà chỉ đến chợ gia súc ở ngoại ô (AN 3. 126). Ngài rất ít liên hệ với
dân chúng theo chính thống Vệ-đà và tập tục tế lễ của họ.
Thực ra, đức Phật ủng hộ mọi
quan điểm bị đám tín đồ Bà-la-môn theo kinh Vệ-đà thù ghét: ngài xem
(1) việc rảy nước rửa tội và (2) tế thần lửa đều là vô ích; (3)
ngài công khai chỉ trích việc hiến tế súc vật và (4) đối với lễ tế
đàn theo kinh Vệ-đà, ngài nêu quan điểm là mọi tế lễ đều có thể
được loại bỏ vì không cần thiết.
1) Lễ tắm nước: Niềm tin
tưởng nước có thể rửa sạch cho con người không chỉ các chất dơ bẩn
mà còn tẩy sạch hậu quả các tội lỗi như phá bỏ lễ nghi, vi phạm luật
giao tế giữa các giai cấp xã hội v.v... là niềm tin tưởng thông thường
ở Benares cũng như các nơi khác. Ngoài sông Hằng còn có nhiều sông thiêng
khác nữa. Dòng nước sông được xem là có khả năng thanh tịnh lớn hơn
nước ao hồ. Nước biển được cho là không chỉ vô hiệu quả trong việc
thanh tịnh tâm linh mà còn rất nguy hiểm vì nó làm hại phần tinh hoa con
người.
Những Bà-la-môn thông thái hơn không
hoàn toàn tin tưởng ngây ngô như vậy về tính cách thanh tịnh hóa của nước
sông. Ðối với họ, nước chỉ tiêu hủy tội lỗi của con người khi kẻ
ấy không những đã tẩm đầy mình bằng nước rửa tội, mà còn ý thức
rõ rệt về tính cách thiêng liêng của lễ "tẩy trần" này, vừa
phối hợp lễ nghi với một thái độ tinh thần đúng đắn. Chính thái độ
tâm linh này mới phân biệt được thánh lễ rửa tội với việc tắm rửa
chỉ nhằm tẩy sạch chất bẩn. Tuy nhiên, yêu cầu này thường bị bỏ
qua, cho nên việc rửa tội đối với đa số dân chúng chỉ là những hình
thức bề ngoài hoàn toàn trống rỗng.
Một tín đồ điển hình của việc
tôn thờ nước thánh là Bà-la-môn Sundarika-Bhàradvàja: khi đức Phật viếng
thành Sàvatthi, Bà-la-môn này bất chợt hỏi ngài không tắm sông Bàhulà gần
đó sao, vì sông ấy đem lại giải thoát, đó là nguồn công đức có thể
thanh tịnh hóa con người khỏi ác nghiệp (MN 7.39). Ðức Phật bác bỏ ý
kiến sai lầm ấy, vì không một cách tắm rửa nào có thể tẩy sạch các
hậu quả của ác nghiệp do người phạm tội gây nên. Con người chỉ có
thể thanh tịnh bản thân bằng các nghiệp thanh tịnh đem lại an bình cho mọi
loài.
Ngài cũng thuyết giảng như vậy với
Bà-la-môn Sangàrava, vị này tắm rửa sáng chiều với ý định rõ ràng là
tẩy sạch mọi tội lỗi đã phạm suốt đêm ngày (SN 7.21). Ðức Phật giảng
cho vị ấy hiểu: Giáo Pháp ngài là cái ao, Giới Luật là bến tắm,
và bất cứ ai đến tắm mình tại đây đều có thể qua bờ bên kia, đó
là giải thoát. Ngài cũng phát biểu tương tự nhân dịp lễ Astaka
ở Gayà Sisà (Tượng Ðầu Sơn) khi ngài thấy một nhóm du sĩ khổ hạnh
bện tóc (jatila) đang hành lễ rửa tội bằng nước:
"Những người tắm rửa tại dòng sông
Không tẩy sạch mình bởi nước trong,
Chân chính, công bằng: thanh tịnh đó,
Người này đích thực Bà-la-môn."
(Ud 1. 9)
Giới tại gia và Tỳ-kheo đôi khi cũng
biểu đồng tình với thái độ đức Phật khinh chê lễ rửa tội bằng nước
ấy. Khi có người đến nhắc nhở vị đại thần Nandaka đi tắm lễ chiều
đang lúc vị này, là người của bộ tộc Licchavi, từ Vesali đến nghe đức
Phật thuyết Pháp, vị ấy đáp: "Thôi đủ rồi, này hiền hữu! Ðừng
lo tắm rửa bề ngoài - tắm rửa nội tâm là đủ cho ta rồi, đó là việc
ta làm đệ tử bậc Giác Ngộ". (SN 55. 11.3)*
Ðề tài này cũng được nhắc đến
nhiều lần trong các vần kệ của Punna (Punnikà) con gái của một nữ tỳ
tại nhà trưởng giả Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc), một thí chủ hào phóng
hộ trì đức Phật, vị này đã trả tự do cho nàng vì nàng đã thuyết phục
Bà-la-môn Sotthiya quy y Phật Pháp. Sau khi trở thành một Tỳ-kheo-ni, Punnà
liền ngâm bài kệ nêu những lý luận nàng đã dùng để cảm hóa Sotthiya:
Ta nay gánh nước làm công,
Dù đông hàn phải xuống sông hằng ngày,
Hãi kinh vì chủ đọa đày,
Sợ nhiều hình phạt lòng này bất an.
Sợ gì hỡi vị La môn,
Chịu bao giá lạnh tay chơn run hoài?
- Nàng ôi, đã biết rạch ròi,
Nàng còn muốn hỏi đây người thiện chân,
Trẻ già làm việc bất lương,
Muốn tìm giải thoát: tắm trường giang đây.
- Kẻ nào bảo thật ngu thay,
Ngâm mình xuống nước sạch ngay tội người!
Vậy là ếch nhái, đồi mồi,
Bao loài thủy tộc lên trời cả ru?
Kẻ làm ác nghiệp nhỏ to:
Bẫy mồi, săn bắn, mổ bò, ngư ông,
Cùng phương trộm cắp, sát nhân,
Muốn tiêu trừ nghiệp tắm dòng nước sông!
Ví dòng nước rửa tội xong,
Thì dòng nước cũng cuốn công đức ngài.
Thế là mất hết cả hai,
Chỉ còn để lại mình ngài trống trơn!
(Thìg. 236-243)
Lý luận này cũng dễ hiểu, nhưng
chỉ ứng dụng cho những ai tin tưởng một cách máy móc vào việc tẩy sạch
tội lỗi bằng nước sông thiêng.
2) Tục thờ lửa: Về việc
thờ lửa, thái độ đức Phật vẫn không biểu lộ quá rõ ràng như vậy.
Ðối với Bà-la-môn Sundarika - Bhàradvàja nói trên là người tin tưởng vào
việc thanh tịnh bản thân nhờ lửa cũng như nhờ nước, ngài tuyên bố:
Bà-la-môn, đừng tin nhờ đốt lửa
Sẽ đạt niềm thanh tịnh giữa trần ai,
Kẻ nào tìm các phương tiện bên ngoài,
Người trí bảo không thể nào thanh tịnh.
Ta bác bỏ củi dâng bàn thần thánh,
Ngọn lửa ta nhen nhóm ở trong tâm,
Ngọn lửa ta luôn cháy, mãi sáng bừng,
A-la-hán, ta theo đời thanh tịnh.
(SN 7.1.9)
Việc thi hóa các vần kệ thuộc về
đời sau, nhưng chắc chắn cũng đã phản ảnh trung thực ý nghĩa lời ngài
dạy.
Tục thờ lửa có nhiều hình thức
ở Ấn Ðộ cổ đại. Hình thức quan trọng nhất là tế đàn lửa thiêng
của Bà-la-môn theo kinh Vệ-đà do các Bà-la-môn chuyên nghiệp thực hiện,
tuân hành những lễ nghi thờ cúng thật công phu để cho thần lửa Agni
mang lễ vật lên Thiên chúng. Một số người khác thờ thần lửa nỗ lực
thanh tịnh tâm hồn họ bằng cách đốt cháy các tội lỗi qua ngọn lửa
thiêng. Trong đám ấy có các vị khổ hạnh bện tóc (jatila), một số
đã theo đức Phật như tôn giả Nadikassapa (Ca-diếp ở bên Dòng Sông) là một
vị lãnh đạo các nhà khổ hạnh Jatila, sau khi trở thành một Tỳ-kheo,
đã tự trách mình trước kia tin tưởng vào hiệu lực của việc thờ ngọn
lửa thiêng:
Bao lễ vật xưa ta cúng dàng
Ðổ vào trong ngọn lửa thiên đàng.
"Thế là thanh tịnh!" ta thầm nghĩ,
Tục tử phàm phu thật rõ ràng.
(Thag 341)
3) Hiến tế súc vật: Mặc
dù lễ rửa tội bằng nước và thờ lửa không có giá trị đạo đức
dưới mắt đức Phật, ít ra chúng cũng không làm hại ai. Còn các tế lễ
bằng máu lại khác hẳn. Ở Ấn Ðộ cổ đại mỗi năm các tế lễ này
làm thiệt mạng vài người cùng vài ngàn súc vật. Ta phải công nhận một
thành tựu văn hóa của đạo Phật là nhờ đó sự giết người sống để
tế lễ không còn nằm trong các phong tục thông thường ở Ấn và tế lễ
bằng súc vật ngày nay chỉ còn thấy ở Bengal, nơi đó nữ thần Kàli
(nữ Hắc thần) của Ấn Ðộ giáo được xem là đòi hỏi việc ấy.
Ðối với đức Phật, súc vật là
mọi loài chúng sanh có toàn quyền sống và lòng từ bi (mettà-karunà)
của ngài trải rộng đến chúng không kém gì đối với loài người. Ngài
không thích việc giết chúng để làm thức ăn cho người, mặc dù ngài là
người có đầy đủ óc thực tiễn để thấy rằng chế độ dinh dưỡng
toàn rau quả là điều không thể áp đặt chung cho mọi người. Song ngài
xem việc giết súc vật để tế lễ là điều sai lầm, nhất là vì nhiều
người tin tưởng rằng việc giết lễ vật sống diễn ra càng chậm lại
càng tăng hiệu quả tế đàn. Thông thường bầy súc vật - trâu
bò, ngựa dê - đều bị bóp cổ. Mãi cho đến nay vẫn còn một nơi trên bờ
sông Hằng tại Benares được gọi là Dasàsvamedhaghàt, Bến Tế Mười
Ngựa, để kỷ niệm một lễ tế đàn của hoàng gia.
Sự kiện các súc vật vô tội phải
hiến mạng sống cho các mục đích tín ngưỡng của loài người không những
làm động lòng trắc ẩn của ngài mà còn xúc phạm cả ý thức về công
bằng của ngài nữa. Ngài tin rằng mọi loài đều phải trả nghiệp của
chính mình, không thể hối lộ mua chuộc thần linh cũng như không thể chuyển
hậu quả ác nghiệp (kamma) của mình cho ai khác - như việc đền tội
thay bằng con vật hiến tế.
Bất cứ khi nào có dịp thuận tiện
đưa đến, ngài đều chống đối các tư tưởng ấy, dĩ nhiên không phải
trên cương vị một nhà tiên tri đe dọa hình phạt thích đáng, mà là một
bậc hiền nhân với tâm bình đẳng giảng giải và gợi ý chứ không cố
tình bắt buộc người khác chấp nhận Giáo Lý của ngài. Như ngài tự nhận
xét ngài không tranh chấp với đời (SN 22-94). Tính hợp lý của tư
tưởng ngài và vẻ kỳ diệu của nhân cách ngài là tất cả những gì
ngài muốn bày tỏ trước công luận.
Ngài phản đối các đại tế lễ
bằng máu theo kinh Vệ-đà bằng cách nêu rõ sự vô dụng của chúng. Khi
vua Pasenadi nước Kosala chuẩn bị đại tế đàn gồm 500 bò mộng, 500 bò
đực, 500 bò cái, 500 dê và 500 cừu cùng bắt buộc đám nô tỳ đi thâu
góp đám súc vật này từ các chủ buôn, có lẽ là không trả tiền, đức
Phật bình luận rằng không có tế lễ bằng người hay vật nào đem lại
kết quả gì cả. Bậc trí tránh xa các đại tế đàn có bầy dê, bò
trâu, v.v... bị giết. Trái lại, các tế đàn không đẫm máu và không hao
tốn nhiều sẽ giúp đỡ người cúng tế và làm vui lòng chư Thiên. (SN
3.1.9)
Bà-la-môn Kùtadanta, một phú gia ở
Khànumata dự định mở một tế lễ còn trọng đại hơn với 700 súc vật
mỗi loại, nhưng đức Phật đã can gián vị này khỏi làm việc ấy. Bằng
cách kể một câu chuyện theo kiểu chuyện Tiền Thân đức Phật (Jàtaka)
ngài thuyết phục Bà-la-môn Kùtadanta rằng thường xuyên cúng dường các
Sa-môn, xây tinh xá, quy ngưỡng Phật Pháp và giữ ngũ giới (kiêng sát
sanh, trộm cắp, tà hạnh trong các dục, nói láo và uống rượu) cùng hành
thiền là những cách tế lễ không những dễ thực hiện hơn mà còn có
nhiều công hiệu, thực sự đem lại nhiều lợi ích nhất trong các loại tế
đàn. (DN 5.22.7)
Ngài dùng thêm nhiều lý luận bài
bác tế lễ bằng máu khi được một số Bà-la-môn chuyên nghiệp hỏi
ngài thời này - (tức thế kỷ thứ sáu trước CN) còn có các Bà-la-môn sống
theo giới luật cổ sơ chăng. Ngài phủ nhận điều này, và mô tả các
Bà-la-môn thời thượng cổ là những vị độc cư không có tài sản gì,
chỉ sống hoàn toàn bằng cách khất thực, không cho phép giết trâu bò,
mà xem chúng như những thân hữu tối ưu cung cấp chư vị đủ hương liệu,
dầu xoa, thực phẩm, dõng lực, hảo tướng và an lạc (SNip 295). Về sau
các Bà-la-môn lạc tà đạo vì theo gương các vua chúa sống xa hoa nên đã
xúi giục vua chúa tế lễ bò ngựa và cả người sống nữa, nhờ đó họ
có thể đòi lệ phí hành lễ. Thế rồi vua chúa truyền giết hàng trăm ngàn
gia súc với đao kiếm, ngay cả thần linh cũng xem việc này là tội lỗi.
Do việc giết hại các sinh linh vô tội, các tế sư đã đọa lạc xa rời
chánh đạo và người có trí cùng quần chúng có đủ lý do đúng đắn khiển
trách các gia chủ dâng tế lễ quá hao tài tổn mạng đến như vậy. (SNip
299 - 313)
4)Một việc nữa khiến phe chính thống
Bà-la-môn chống lại đức Phật là thái độ đối lập lễ nghi của ngài.
Không phải ngài phản bác mọi giới luật tập quán, vì trong Giáo hội Phật
giáo cũng có nhiều giới luật tập quán. Nhưng điều ngài bài bác
chính là tư tưởng cho rằng lễ nghi luật lệ rất quan trọng đối với
việc giải thoát - thậm chí ta có thể đòi hỏi sự giải thoát
nhờ nghi lễ. Ngài công khai xem giới cấm thủ (tuân hành một số nghi lễ
giới luật) là một trong mười kiết sử (samyojana) phải được phá bỏ,
và đó là một trong bốn sự chấp thủ (upàdàna) theo Giáo Lý của ngài.
Ngày nay ta cũng dễ hình dung được cảm tưởng của các Bà-la-môn chuyên
nghiệp sinh sống bằng cách làm các vị tế sư tinh thông các nghi thức
hành lễ và pháp thuật tế đàn thời ấy, khi nghe nói đến các điều lệ
trong Giới Luật của đạo Phật đi ngược lại với quyền lợi của hội
chúng họ như vậy.
AN CƯ MÙA MƯA ÐẦU TIÊN Ở
ISIPATANA
Biết rằng dân chúng Benares không
ưa thích ngài, dầu cho họ có chú ý đến ngài đi nữa, cũng không mong
tìm được nhiều người công nhận Giáo Pháp ngài ở Benares ngoại trừ những
thân bằng quyến thuộc của tôn giả Yasa, đức Phật cùng hội chúng Tỳ-kheo
ít ỏi của ngài an cư mùa mưa năm 528 trước CN tại Vườn Nai ở Isipatana
(Chư Tiên Ðọa Xứ) (nay là Sàrnàth). Lúc ấy chưa có một tinh xá thích hợp.
Nơi cư ngụ duy nhất gồm vài thảo am hoặc khả quan hơn cả là các lều
tre mái sậy mà các Tỳ-kheo dựng lên để bậc Ðạo Sư và chư vị ở tạm.
Thời kỳ gió mùa không chỉ có mưa
lớn. Ðó là cả sự biến đổi người ta thường chờ đợi từ tháng Tư
- Năm trở đi như một cách xoa dịu khí hậu cứ diễn tiến chầm chậm từng
bước một. Hiện tượng thiên nhiên báo trước thời gió mùa là cây cỏ
nở rộ hoa, mặc dù có nhiều loài hoa tô điểm thêm phong cảnh Ấn Ðộ
ngày nay do các nhà hàng hải người AÂu mang đến. Về phương diện sinh thái,
nước Ấn thời đức Phật không phong phú như thời này. Nhưng các chòm
hoa màu cam nghệ rực rỡ của cây Kadamba (Nauclea cordifolia), cây
Campaka (Michelia Champaka) nở hoa vàng thơm ngát, cây hoa phượng vĩ (Butea
frondosa) đỏ ối trong rừng, cây hoàng hậu (Lagerstroemia flos-reginae)
với các hoa hình lồng đèn xanh nhạt, cây kim điệp (Cassia fistula) với
những chuỗi hoa vàng lộng lẫy, cây hoa san hô đỏ chiếu lấp lánh (Erythrina
indica) và cây Asoka (Vô ưu: Saraca indica) với những hoa hình cầu
đổi màu từ cam đến đỏ. Tất cả phong cảnh này hẳn đã đủ làm
thích thú người Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ sáu trước CN.
Tiếp theo sau cảnh sắc rực rỡ của
thời nở hoa là thời rụng lá ngắn ngủi, các cành cây chỗng lên trời
khao khát như những bộ xương khô. Từ trước đến giờ sương rơi xuống
ban sáng làm cho cây cỏ thấm ướt phần nào nay không còn nữa. Ðồng ruộng
xám ngắt dưới mặt trời gay gắt oi nồng. Mặt đất giống như vũng lầy
khô cằn lộ ra những đường nứt nẻ thật sâu. Nhiều nơi khí nóng cuộn
lên thành hình xoắn ốc như cái phểu hút bụi từ đồng ruộng tung lên
không.
Vài ngày sau, được bầy chim ưng và
quạ bay đi trốn báo hiệu, một cơn bão bùng ra - lều tranh mất mái, cây
cối gãy đổ nhưng cơn bão cũng qua đi thật nhanh như lúc đến. Rồi cuối
cùng, khoảng giữa tháng sáu, cơn mưa thời gió mùa được mong đợi từ lâu
đã bắt đầu. Từ các đám mây khổng lồ từng giọt nước rơi xuống càng
lúc càng đều dặn hơn rồi bỗng nhiên cùng với sấm chớp vang dội, trận
mưa như thác đổ dần dần trở thành mưa liên tục. Ðám trẻ con trần
truồng thích thú chạy quanh các vũng nước mưa đọng và ngay cả người lớn
cùng vui vẻ chường mặt ra ngoài chốc lát để hưởng bầu không khí mát
rượi làm tươi tỉnh.
Sau thời kỳ mưa liên tục, các đám
mây thỏa hiệp với mặt trời, mỗi thứ lần lượt thay phiên nhau thống
trị giang sơn vài giờ. Trong các khoảng thời gian giữa những cơn mưa rào,
phong cảnh cỏ cây đầy hơi nước, rồi làn không khí oi bức lại đến
thay thế cái nóng nực trước đó không lâu.
Phong cảnh đổi thay thật lớn lao
mau chóng lạ thường. Các dòng sông lờ đờ trước kia bỗng trở nên các
nguồn nước lũ rộng lớn màu nâu chảy ồ ạt đe dọa các vùng ở trên
bờ với làn nước dâng cao rất nhanh, đường sá chìm ngập bùn lầy khó
đi lại. Nhiều nhà bằng đất tan rã khiến cho các mái (cũng không phải
là không thấm nước) đổ ụp xuống đám người trong nhà. Thế giới
loài vật cũng phô bày một cảnh tượng khác thường: rắn rít, bọ cạp
bò ra khỏi lỗ vì ngập nước, những con nhái bén tí ti nhảy ra đường và
tiếng cóc ồm ộp kêu to. Trong nhà, tắc kè chạy quanh tường, trên trần
tìm ăn muỗi mòng, sâu mọt đến căng phồng cả bụng.
Bầu không khí của thời kỳ gió
mùa đến cùng mọi vẻ biến đổi do nó mang lại đã gây nhiều cảm hứng
sau này cho biết bao thi sĩ theo đạo Phật, thì dĩ nhiên bậc Ðạo Sư và
các đệ tử ngài cũng nhận thấy quang cảnh thiên nhiên này trong Vườn
Nai tại Isipatana ấy. Song mùa an cư đầu tiên năm 528 này phần lớn dành
vào việc tu học của chúng Tỳ-kheo. Ngoài các bài thuyết giảng "Chuyển
Pháp Luân" (Dhammacakka-ppattana) và Vô Ngã Tướng (Anatta
Lakkhana) (Mv1.6), còn ba bài khác nữa dành cho các tuần lễ này đều
được bảo tồn trong Kinh Tạng. Qua một bài Pháp (Mv1.13; SN 4.1.4, ngài khuyến
giáo chư Tỳ-kheo - mặc dù chư vị đều được ngài xem là đã đắc quả
A-la-hán - cần phải suy tư đúng như thực hay như lý tác ý (yoniso
manasikara), đó là điều kiện ngài tuyên bố đã đưa ngài đến Giác
Ngộ. Trong bài thứ hai (Mv1.11; SN 4.1.5) ngài tuyên bố
ngài cùng chư Tỳ-kheo đều thoát khỏi mọi kiết sử của nhân giới cũng
như thiên giới; và trong bài thứ ba (AN 3.15) ngài dạy
chư vị bài kinh Dụ Người Ðóng Xe phải làm hai bánh xe cho vua Pacetana - một
vị vua trong thần thoại cổ. Một bánh xe được làm cẩn thận trong gần
sáu tháng ròng, nên đứng vững vàng sau khi chạy thử và sức đẩy đã hết,
còn bánh kia chỉ được làm trong sáu ngày, nên lảo đảo rồi ngã nhào
vì có nhiều khuyết điểm trong vành xe, nan hoa và trục. Cũng vậy, chư Tỳ-kheo
phải đoạn trừ các khuyết điểm và lỗi lầm trong thân nghiệp, khẩu
nghiệp và ý nghiệp để tránh ngã nhào ra khỏi Pháp - Luật của ngài.
Kinh Tạng Pàli còn có thêm bốn
bài kinh do đức Phật thuyết tại Isipatana, tất cả đều ghi dấu vài ba
cuộc du hành của ngài đến nơi ấy về sau. Ðiều này có thể được thấy
rõ qua sự kiện thính giả ở đấy gồm những người chỉ gia nhập hội
chúng của ngài sau năm 528.
Khoảng cuối mùa mưa, đức Phật
thuyết hai bài Pháp rất quan trọng đối với việc phát triển Giáo hội tương
lai. Ngài quyết định không giới hạn việc truyền bá Chánh Pháp cho riêng
ngài, mà đưa cả chư Tỳ-kheo vào trọng trách này nữa. Do vậy, ngài gọi
các đệ tử tụ họp lại và dạy bảo chư vị đi làm sứ giả truyền
Pháp:
"Này các Tỳ-kheo, hãy ra đi, vì
lợi ích và an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời,
vì lợi ích, an lạc và hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại. Ðừng đi
chung hai người cùng đường. Này các Tỳ-kheo, hãy thuyết Pháp (Dhamma)
hoàn thiện ở phần đầu (sơ thiện), hoàn thiện ở phần giữa (trung thiện),
hoàn thiện ở phần cuối (hậu thiện), cả về ý nghĩa lẫn văn cú, hãy
truyền bá đời Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Có những người
nhiễm bụi ít trong mắt sẽ đọa lạc nếu không nghe Pháp. Song nếu chư vị
ấy nghe Pháp, chư vị sẽ được giải thoát. Còn chính ta, này các Tỳ-kheo,
ta sẽ đi đến thành lũy Uruvelà (Ưu-lâu-tần-loa) để thuyết Pháp". (Mv
1.11.1)
Chư Tỳ-kheo ra đi như đã được
huấn thị, và chẳng bao lâu sứ mạng của chư vị đạt nhiều thành quả
tốt đẹp. Chư vị đưa nhiều người từ bốn phương về Isipatana để
xin thọ giới. Tuy nhiên, chư vị chưa hoan hỷ về điểm đức Phật đã
dành quyền truyền giới cho riêng ngài, và chư vị cũng thỉnh cầu ngài
cho phép chư vị có quyền ấy. Bậc Ðạo Sư không dễ gì ban ngay ước
nguyện ấy cho chư vị. Trước tiên ngài xem xét riêng vấn đề ấy, rồi
ngài thảo luận với chúng Tăng cuối cùng ngài quyết định:
"Này chư Tỳ-kheo, ta cho phép chư
vị khi ở trong những xứ sở, thôn làng xa xôi có quyền truyền tiểu giới
xuất gia (pabbajà) (làm Sa di) và đại giới xuất gia (upasampadà) (làm Tỳ-kheo).
Việc ấy phải thực hiện theo cách này: Trước tiên hãy cho giới tử cạo
sạch râu tóc, đắp các y vàng và phủ vai bên trái với thượng y; rồi
khi vị ấy đến đảnh lễ chân vị Tỳ-kheo truyền giới (như một dấu
hiệu của bổn phận đệ tử), hãy cho phép vị ấy quỳ xuống cung kính
nghiêng mình trước giới sư với hai tay chắp lại. Sau đó vị ấy phải
được dạy bảo lập lại câu: "Ðệ tử xin quy y Phật, đệ tử xin
quy y Pháp, đệ tử xin quy y Tăng". Câu này phải được lập lại ba lần.
Này chư Tỳ-kheo, ta cho phép chư vị truyền tiểu giới xuất gia và đại
giới của một tân thọ Tỳ-kheo bằng cách nhận Tam Quy này". (Mv
1.12.3-4)
Bằng cách cho phép chư Tăng truyền
giới xuất gia, đức Phật đã cắt cuống nhau liên kết Tăng chúng và vị
sáng lập Ðạo Pháp, khiến cho Tăng chúng có thể sống đời độc lập của
mình. Về sau, việc truyền giới đã được tổ chức thành nghi lễ
(Mv1.28.3-5) và bổ sung nhiều tiết mục đặc biệt liên hệ đến giới tử
và giới sư.
Năm 528 trước CN là một năm đầy
kết quả mỹ mãn đối với đức Phật và ngài đã trở thành vị lãnh đạo
một trường phái trong phong trào Sa-môn khất sĩ. Bấy giờ mùa mưa cùng thời
kỳ ngưng hoạt động trong năm đã trôi qua. Rừng núi, đồng ruộng đều
xanh tươi mơn mởn và lúa mạ được trồng từ giữa tháng sáu nay đã
nhô lên vài tấc trên mặt nước đồng. Mọi giếng và ao hồ tràn đầy
nước, đường sá đi lại được như cũ, và làn không khí oi bức ngột
ngạt của thời gió mùa đã nhường chỗ cho những ngày ấm áp và đêm
mát dịu. Như ngài đã tuyên bố, đức Phật còn trẻ tuổi rời Vườn Nai
ở Isipatana và lên đường đi Uruvelà.
TRỞ LẠI URUVELÀ
Lý do đức Phật muốn viếng thăm
nơi ngài thành Ðạo một lần nữa là đến thuyết Pháp cho những gia chủ
đã có lòng cúng dường ngài thực phẩm khi ngài còn là nhà tu khổ hạnh.
Kinh Tạng Pàli (Mv 1.14) tường thuật một cuộc hành trình tuyệt đẹp của
ngài trên đường trở lại nơi ấy, chuyện này được xem là đã diễn tiến
trong khu rừng Kappàsiya.
Trong khi đức Phật ngồi nghỉ dưới
một gốc cây, một đám thanh niên nhốn nháo, rõ ràng thuộc giai cấp sang
trọng, chạy đến hỏi ngài xem ngài có nhìn thấy một nữ nhân chạy
ngang qua đó chăng. Ðám ấy giải thích rằng họ gồm ba mươi người đến
khu rừng này cùng các cô vợ để vui chơi. Một người trong bọn còn độc
thân, đã mang theo một kỹ nữ. Bọn họ đuổi theo tìm nàng ấy vì nàng
đã trộm tài vật của họ và chạy trốn mất.
Ðức Phật hỏi: "Này các nam tử,
chư vị nghĩ thế nào? Ði tìm nữ nhân ấy và đi tìm chính mình, việc gì
tốt hơn?
Các nam tử đáp: Bạch Thế Tôn,
đi tìm chính mình tốt hơn.
Ðức Phật bảo: Vậy này các nam tử,
hãy ngồi xuống đây và ta sẽ thuyết Pháp cho chư vị".
Sau đó ngài thuyết Pháp thuận thứ
và giảng bày Tứ Thánh Ðế cho chư vị. Ðược Phật Pháp cảm hóa, ba mươi
thanh niên ấy thỉnh cầu được thọ giới Tỳ-kheo và đức Phật lập tức
nhận lời.
Câu chuyện ly kỳ này có lẽ mang
tính lịch sử; chỉ riêng phần cuối hình như được các vị kiết tập
Kinh Tạng Pàli "tô điểm" thêm cho hoàn mãn. Vì cả ba mươi thanh
niên đầy đủ mọi lạc thú ở đời lại trở thành - không phải cư sĩ
tại gia - mà là Tỳ-kheo, để cho hai mươi chín cô vợ trẻ trung phải trở
về làng làm các "sương phụ của chư Tăng" là chuyện khó tin vậy.
Ngoài tính cách lịch sử của câu
chuyện trên, phương thức truyền giới mà bậc Ðạo Sư sử dụng cũng cần
được lưu ý. Ðó không phải là Tam Quy như đức Phật đã chỉ dạy, mà
là câu " Hãy đến đây, Tỳ-kheo!" (Ehi, Bhikkhu!) như ngài đã
dùng khi ngài nhận tôn giả Kondañ ñ a (Kiều-trần-như) làm vị Tỳ-kheo đầu
tiên ở thế gian (Mv1.6.32). Hình như cách truyền giới này chỉ được vị
Giáo chủ tối cao sử dụng mà thôi.
Ðại Phẩm (Luật Tạng) còn kể
nhiều sự kiện xảy ra trên đường đức Phật trở lại Uruvelà với
tính cách giáo dục khô cứng và cố ý biến mọi việc thành các phép thần
thông cả. Chúng ta cần theo sát các câu chuyện ly kỳ này để có thể
tìm ra vài chi tiết lịch sử trong ấy.
Gần Uruvelà có ba anh em dòng họ
Kassapa sống đời đạo sĩ khổ hạnh bện tóc (jatila) thờ lửa và nước.
Mỗi vị lãnh đạo một giáo phái. Ðạo sĩ Uruvela-Kassapa (Ca-diếp ở Ưu-lâu
-tần-loa) có năm trăm đệ tử, đạo sĩ Nadì-Kassapa (Ca-diếp ở Bên Dòng
Sông) có ba trăm đệ tử và đạo sĩ Gayà-Kassapa (Ca-Diếp ở Tượng Ðầu
Sơn) có hai trăm đệ tử, dù các con số này cũng không được xem là
chính xác.
Vì mùa đông Ấn Ðộ đã bắt đầu
và nhiệt độ ban đêm không quá âm điểm, đức Phật đến am thất của
đạo sĩ Uruvela-Kassapa và xin nghỉ qua đêm trong am thất thờ lửa mà các vị
đạo sĩ jatilas đang đốt cháy. Vẻ tự tin và nhân cách của người
khách lạ đã chinh phục giáo chủ Uruvela-Kassapa khiến vị này không dám chối
từ, song bảo rằng căn lều thờ lửa có một con rắn độc khổng lồ.
Tuy nhiên đức Phật cũng không cảm thấy hãi kinh mà rút lui, và ngài nghỉ
qua đêm bình an trong căn lều "nhờ thần lực của ngài".
(Mv1.15)
Ngài ở lại thêm vài đêm nữa
trong khu rừng gần am thất đạo sĩ Uruvela-Kassapa và khu rừng quanh ngài chiếu
sáng rực lên ba lần. Ðạo sĩ Kassapa mời đức Phật đến thọ thực buổi
sáng trong am thất mình và hết sức cảm phục khi nghe đức Phật đã được
chư Thiên đầy hào quang đến thăm viếng các đêm trước: đêm đầu tiên
ngài được Tứ Ðại Thiên Vương viếng, đêm thứ hai được Sakka (Indra)
Thiên Chủ viếng và đêm thứ ba được Brahmà Sahampati (Phạm Thiên Ta-bà
Chủ) viếng (Mv1.16.18). Ðặc điểm lịch sử của câu chuyện này có thể
là đức Phật đã đốt lửa ban đêm để chống lạnh và các loài dã
thú.
Trong lúc ấy, một đại tế đàn sắp
được tổ chức hằng năm tại am thất đạo sĩ Uruvela -Kassapa, mong đợi
khách hành hương đến chiêm bái từ khắp quốc độ Magadha và đất nước
Anga ở phía Ðông. Sợ rằng đức Phật có thể lôi cuốn đám người ủng
hộ phái du sĩ jatilas về phía ngài, đạo sĩ Kassapa thầm cầu nguyện
đức Phật đừng đến dự lễ tế đàn. Biết được tâm tư của đạo
sĩ Kassapa, đức Phật khéo léo tránh xa thảo am của vị này vào ngày tế
lễ. Vị này kinh ngạc vì đức Phật Gotama có thể đọc được tư tưởng
người khác nhờ tha tâm thông. (Mv 1. 19)
Sau khi đức Phật đã quan sát giáo
chủ Uruvela-Kassapa và đám môn đồ một thời gian, ngài thừa cơ hội vị
đạo sĩ già nua này tuyên bố khoác lác để hạ vị này xuống đất. Nói
thẳng vào lương tâm vị này, ngài bảo: "Này hiền giả Kassapa, hiền
giả không phải là một vị A-la-hán và cũng không phải là vị đang đi trên
con đường đưa đến A-la-hán quả. Lối sống của hiền giả không phải
là cách đưa hiền giả đến chứng đắc A-la-hán, thậm chí cũng không thể
nhập A-la-hán Ðạo!".
Giáo chủ Kassapa, người mà trước
kia chưa một ai từng nói như vậy thẳng mặt, bấy giờ đã hoàn toàn thảm
bại. Vội quỳ xuống chân đức Phật, vị ấy xin được gia nhập Giáo
đoàn của ngài (Mv 1. 20. 17).
Ðức Phật tỏ ra rất công bằng
khi ngài không chấp nhận ngay lập tức sự quy phục của đạo sĩ Kassapa,
mà ngài bảo vị ấy phải xét kỹ hậu quả của bước tiến này với đám
môn đệ: "Này hiền giả Kassapa, hiền giả là vị lãnh đạo trường
phái 500 vị khổ hạnh jatilas. Hãy thảo luận với cả hội chúng để chư
vị có thể làm việc gì thích hợp!". Ðạo sĩ Kassapa nghe lời khuyên
này, với kết quả là tất cả môn đồ đều cùng vị ấy quy thuận gia
nhập trường phái của đức Phật. Chư vị đều cắt bỏ sạch các cuộn
tóc bện kia, ném bỏ các đòn gánh và dụng cụ thờ lửa xuống sông
Nerañjarà. Rồi đức Phật truyền giới Tỳ-kheo cho chư vị gia nhập Giáo
hội ngài. (Mv 1. 20. 17)
Khi các cuộn tóc bện và các dụng
cụ bằng gỗ trôi bồng bềnh xuôi dòng Nerañ jarà ngang qua am thất của
Nadì-Kassapa, vị này lo sợ có tai nạn gì đó đã xảy ra cho trưởng huynh
mình. Vị này đến thảo am vị kia và Uruvela-Kassapa giải thích cho bào đệ
mọi lợi ích khi gia nhập Giáo đoàn đức Phật, và vị này cũng xin gia nhập
Hội chúng Tỳ-kheo cùng với tất cả ba trăm môn đồ. (Mv 1. 20. 20f)
Việc trên cũng xảy ra với đạo
sĩ Gayà-Kassapa, vị này cũng đi xem thử bào huynh có bình an chăng khi thấy
các vật thờ trôi bồng bềnh ngang qua thảo am. Rồi vị này cũng gia nhập
giáo đoàn Tỳ-kheo với tất cả hai trăm môn đồ (Mv 1. 20. 22f)
Cùng với đám môn đồ mới thu nhận
đông đảo như vậy (cho dù có thể không đến con số một ngàn vị) gồm
toàn các vị khổ hạnh bện tóc jatilas trước kia, giờ đây ngài đã
truyền giới làm Tỳ-kheo tại Uruvelà, đức Phật tiến về Gayà không xa
là bao, nơi đó cả đoàn dựng lều trên một ngọn đồi cách hướng tây
nam thành phố khoảng gần một dặm, tên gọi là Gayàsìsa (Tượng Ðầu Sơn,
nay là Brahmayoni). Tại đây đức Phật thuyết bài Pháp với đề tài ám chỉ
tập tục thờ lửa của nhóm khổ hạnh jatilas. Ðó là bài Thuyết Giảng
Về Lửa (Àdittapariyàya Sutta, Mv1.21; SN 35.28) bắt đầu bằng những lời
nói lừng danh: "Tất cả đều đang bốc cháy!". Bài kinh
này dựa trên lý thuyết của đức Phật về nhận thức, theo đó không chỉ
có năm mà là sáu giác quan: ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi và thân là xúc
giác, còn có tâm (Manas) hay đúng hơn, là cơ quan suy tưởng. Tương ứng sáu
giác quan này là sáu ngoại xứ đối với con người: sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp (dhamma) hay đối tượng của tư tưởng. Ngay khi một giác quan
nhận thức (ví dụ: mắt) và ngoại xứ tương ứng (vd: các sắc) tiếp
xúc với nhau, thì nhận thức (vd nhãn thức) sanh khởi. Bằng cách này một
đối tượng được đưa vào ý thức và được người ta nhận thức. Mọi
thực tại bên ngoài đều do sáu giác quan đưa đến cho ta: chính sáu giác
quan này tạo nên thế giới riêng tư của mỗi người.
Tiếp theo đó là cách chúng ta nhìn
đời tùy thuộc vào bản chất các giác quan của ta, và tùy thuộc vào
cách chúng mang hình ảnh của đối tượng vào ý thức của ta mà không
làm sai lạc màu sắc chân thật của đối tượng. Nếu giác quan của người
nào bị tham sân si chi phối thì tất cả nhận thức của người ấy sẽ bốc
cháy vì chúng làm sanh khởi thêm nhiều tham dục và sân hận trong tâm người
ấy: đối với người ấy toàn thế giới đang bốc cháy. Song nếu người
nào chế ngự được lục căn thì sẽ giải thoát khỏi tham dục, cấu uế
và sẽ được giải thoát sanh tử luân hồi.
Nghe nói về lửa trong ý nghĩa triết
lý thâm áo như vậy chắc hẳn đã gây ấn tượng sâu sắc trong tâm chư Tỳ-kheo
trước đây là các đạo sĩ thờ lửa theo cách cổ truyền.
M ục lục | Ia | Ib | Ic | Id | IIa | IIb | IIIa | IIIb | IIIc | IVa | IVb | IVc | IVd | Va | Vb | VIa | VIb | VII | VIII