- Ðức Phật Lịch Sử
(The Historical Buddha)
- H.W. Schumann (1982)
M. O'C. Walshe dịch sang Anh ngữ (1989)
Nguyên Tâm Trần Phương Lan dịch Việt (1997)
Chương I (tt)
TẾ LỄ THEO KINH ÐIỂN VỆ-ÐÀ
Hiển nhiên đạo giáo chuyên tế lễ
thần linh của thế kỷ thứ sáu trước CN làm thất vọng bất cứ người
nào có tâm nguyện đúng đắn về đạo giáo. Niềm say mê tiên tri là điều
một ngàn năm trước đã khiến cho những nhà hiền triết Ấn Ðộ gốc
Ariyan nghe được tri thức (Veda) của thần linh tự trong tâm và chuyển
những gì đã nghe (Sruti) thành các khúc đạo ca, và niềm tự hào về
thơ văn thúc đẩy họ thâu thập các khúc đạo ca tạo thành bộ sách Vệ-đà,
"tri kiến thần linh", rồi tán tụng chúng theo những nhịp điệu
trang nghiêm trong lễ tế đàn, tất cả những thứ ấy không còn nữa.
Các khúc đạo ca vẫn còn được tán
tụng trong lễ tế đàn như trước, nhưng vào thời đức Phật, chúng chỉ
được xem như các loại thần chú trở thành máy móc. Các tế lễ ngày
càng trở nên phức tạp và kéo dài, các phẩm vật và phí tổn dành cho
các Bà-la-môn ngày càng quá đắt giá đối với người muốn tế lễ. Gánh
nặng các “công đức” quá máy móc ấy hầu như đã bóp nghẹt tính
cách thiêng liêng của thần thánh.
Sự phát triển từ các cách thờ
cúng do thần khải thời cổ sơ thành hệ thống tôn giáo đầy lễ nghi tế
tự của thế kỷ thứ sáu này có thể được thấy rõ ràng qua các kinh
điển. Ngoài số 1028 khúc Thánh ca của kinh Rg Veda là tài liệu
tối cổ của văn hóa Ấn Ðộ, (khoảng 1500 trước CN) chúng ta còn thấy
kinh Yajurveda, Sàmaveda và kinh Atharvaveda được xem là
Thánh điển về sau, lại có kinh văn Bràhmanas (khoảng 1000 trước CN)
giải thích rõ các lễ nghi, kinh Àranyakas và các bộ Upanisads tối
cổ (khoảng 700 trước CN). Các sách Upanisads (Áo Nghĩa Thư) tỏa ra tinh thần
cải cách về tâm linh và có thể được xem như một phần của phong trào
đi tìm tự do tôn giáo mà Thái tử Siddhattha Gotama, người sau này trở
thành đức Phật, cũng đã bị lôi cuốn vào.
Ðối với thời đại chúng ta, nhiều
hình ảnh thần linh trong Thiên giới Vệ-đà thật khó tưởng tượng ra, bởi
vì chúng kết hợp những đặc điểm thần linh với quan niệm về các hiện
tượng thiên nhiên theo một cách bất chấp tính hợp lý. Thông thường, các
đặc tính gán cho một vị thần nào đó lại tương phản nhau không thể
nào kết hợp chung được trong tư tưởng. Do vậy phần lớn các thần Vệ-đà
vượt ra ngoài định nghĩa trong một cảnh tranh tối tranh sáng, hay ba phần
tư bóng tối không thể nào quan niệm được.
Ngôi vị tối cao trong đền thờ Vệ-đà
do Indra Thiên Chủ ngự trị, vị thần có ngàn lực và là thần hộ
mệnh của dân tộc Ấn gốc Ariyan từ hướng Tây đến chiếm thung lũng sông
Hằng khoảng 1200 trước CN. Ngài là vị anh hùng đã có thời dùng gậy thần
giết Vrtra, con quỷ gây hạn hán và như vậy đã giải phóng các
dòng sông được quấn chặt trong thân rắn của nó. Ngài vung vẫy chiếc cầu
vồng chính là cây cung của ngài, phát ra sấm chớp bằng chiếc kim cang
chùy (vajra), ngài lao vùn vụt trên chiếc thiên xa từ trận chiến
này đến trận chiến khác để diệt bầy quỷ cố tìm cách ngăn cản ngài
ban bố những cơn mưa thuận gió hòa đem lại sự phong phú cho quả đất
đang khao khát nước ngọt.
Thức uống của ngài là rượu soma,
một thứ tiên tửu trộn với mật ong và sữa bò, mà các tín đồ dâng
lên ngài trong những lễ cúng rượu thật tràn trề để mong ngài tọai ý
và ban phước lộc. Thần Indra không chỉ là hiện thân của dũng lực và
nam tính, khuyến khích tư tưởng và hành động phát triển, mà còn là thần
tạo sự phong phú cho đám gia súc và ban tròn ước nguyện về vật chất
cho con người. Kẻ nào có thần Indra ở bên mình thì không thiếu món gì cả.
Một kẻ tôn thờ vị Thiên Chủ này cầu xin ngài ban phước theo cách
không biết ngượng ngùng của người bản xứ:
Indra hỡi, nếu ta là Thiên Chủ,
Ðấng phát ban mọi phẩm vật trên trần,
Thì kẻ nào ca tụng với tán xưng,
Sẽ chóng hưởng đàn trâu bò đẹp nhất!
Ta sẽ giúp người, tấu Trời Ðại Lực,
Vì kính người, nên ta sẽ phát ban
Cho những ai ca tụng hoặc tri ân
Nếu ta được làm Chúa đàn súc vật! (Rv. 8 . 14 . 1 - 2)
Kế tiếp thần Indra là thần Varuna
và Mitra. Varuna là hiện thân bầu trời trùm lên vạn vật, được tôn
thờ như vị thần bảo vệ chân lý (rta) và trật tự vũ trụ. Phận
sự thần này là bảo tồn sự điều hòa trong hướng đi của mặt trời,
sự thay đổi ngày và đêm, các tuần trăng và các mùa. Vị này cũng chứng
giám các lời cam kết và thề ước, vì không giữ lời thề ước là nói
dối, và vi phạm tính thiêng liêng của chân lý mà thần Varuna có phận sự
bảo vệ. Về sau theo kinh Vệ-đà, Varuna còn được xem là thần đại
dương và sông nước, nên thần trừng phạt những kẻ nuốt lời thề bằng
các căn bệnh phù thủng và giun chỉ là những bệnh rất thông thường ở
Ấn Ðộ. Một bệnh nhân như vậy thường van xin thần Varuna:
Cho con đừng tới nhà mồ,
Va-ru-na hỡi, thứ cho lỗi lầm,
Va-run phước đức thi ân,
Con như bong bóng nổ bùng lững lơ;
Thần đầy ân đức, thứ tha,
Vì con ngu xuẩn hóa ra chống ngài,
Thứ tha con, đội ơn trời,
Ðứng trong dòng nước, tôi đòi khát khao!
Thứ tha con, hỡi trời cao,
Dù loài người đã phạm bao lỗi lầm
Chống bề tôi của chư thần,
Nếu vì ngu xuẩn không tuân lệnh ngài,
Chúng con xin tấu lạy trời
Xin đừng thịnh nộ diệt nòi giống con. (Rv 7 . 89)
Varuna thường song hành với Mitra
và theo cách phối hợp này, Varuna chỉ bầu trời ban đêm, còn Mitra chỉ bầu
trời ban ngày và vầng nhật. Ở nơi khác Varuna lại được gọi là thần
đuổi bắt rất gắt gao những kẻ phạm pháp và Mitra (Bạn) là người đoàn
kết nhân loại.
Các thiên thể và hiện tượng tự
nhiên đóng vai trò nổi bật trong đền thờ Vệ-đà. Usas, thần Bình
minh, được thể hiện qua hình một thiếu nữ dịu dàng. Thần mặt trời
được gọi là Savitar hay Sùrya, được thờ như vị thần phát
sinh cây cỏ và súc vật, và cũng là vị thần xua đuổi sự ngu si. Các thần
Maruts là thần Bão tố mang lại gió mùa và mưa lớn, bạn của thần
Indra. Vàyu là tên thần gió, được xem là có năng lực làm trong sạch
con người và thổi tan tai họa. Parjanya là thần mưa tạo mầm sống
trong cây cỏ và mọi loài khác. Prthivì là nữ thần đất có bụng bự,
háng rộng và sinh sản nhiều.
Nhưng ta không làm sao dâng lễ tế
thần nếu thiếu thần lửa Agni, thần này dùng các chiếc lưỡi toàn
bằng khói lửa mang lễ vật lên trên trời và thỉnh cầu chư Thiên xuống
trần gian dự lễ tế đàn:
Agni cuộn quanh mình
Phẩm vật tế thần linh
Chỉ riêng mình thần lửa
Lên đến cõi Thiên đình.
Agni đầy uy lực,
Ðầy vinh hiển, tín thành
Xin nguyện cầu Thiên chúng
Ðưa xuống với quần sanh! (Rv I . 4 - 5)
Agni là thần của các Bà-la-môn tế
tự, và đó cũng là tế sư của chư Thiên. Với sức nóng, thần lửa tạo
điều kiện cho đời sống, nhưng thần lửa cũng là thần phá hoại. Tế lễ
cuối cùng con người đặt trên bàn thờ thần Agni chính là ngọn lửa
trên đàn tế. Sau đó Yama, thần chết hung ác sẽ khiêng xác chết
lên cõi trời.
Trong thời kỳ Vệ-đà sơ khai, tế
lễ được xem như yến tiệc mời thần linh. Từ “Àrya" mà dân
Ấn gốc Aryan dùng để miêu tả bản chất của họ, có nghĩa là "hiếu
khách" và vì Thiên thần cũng được bao gồm trong đặc tính hiếu
khách ấy, nên từ này cũng để chỉ tôn giáo của họ. Mắt phàm tục
không thể thấy được chư Thiên thần khi chư vị xuống dự lễ tế đàn
và an tọa trên đàn tế lộ thiên. Thiên thần được vị chủ tế dâng thực
phẩm, rượu soma bèn bày tỏ lòng hoan hỷ biết ơn qua các cách đáp lễ
như cho mặt trời mọc mỗi ngày, làm mưa rơi xuống và đem thắng lợi, an
cư lạc nghiệp, thành công, con đàn cháu đống, gia súc tăng trưởng, trường
thọ, cường tráng. Việc đáp lễ của chư Thiên này có thể xem là đáng
tin cậy được, miễn là đừng phạm lỗi lầm gì trong lúc cầu nguyện
và dâng yến tiệc lên "chư Thiên", nghĩa là "những vị
có hào quang".
Chính niềm lo sợ phạm lỗi lầm
khi tế lễ đã đưa đến sự thay đổi căn bản trong thái độ đối với
tế đàn. Vì nếu việc ấy không còn tùy ý nguyện của người chủ tế,
mà phải tuân theo đúng mọi lễ nghi chuẩn mực là điều tối quan trọng,
thì người chủ tế cần phải giao phó việc dâng yến tiệc lên chư Thiên
cho một vị chuyên môn. Những người này dựa trên sự thông thạo các lễ
nghi và am hiểu thần chú (brahman), đã đảm trách tế lễ theo sự
ủy thác của người khác. Với thời gian dần dần được xem là những vị
chuyên môn tế đàn và thông thạo lễ nghi thờ cúng, họ nhận được danh
hiệu, trước tiên là từ chỉ nghề nghiệp, sau dần trở thành từ chỉ
giai cấp Bà-la-môn (Brahmanas) và cũng vì quần chúng tin rằng vị tế
sư Bà-la-môn có thể làm hại người chủ nhà bằng cách hành lễ không đúng
nghi thức hoặc đọc sai Thánh ca, nên người nào muốn dâng tế đều rất
thận trọng chu đáo làm cho vị Bà-la-môn tế tự được vui vẻ bằng cách
hứa hẹn một món tiền hậu tạ và đãi một bữa ăn thịnh soạn.
Cũng vì các lễ nghi tế tự ngày
càng phức tạp, các tế sư Bà-la-môn trở nên kiêu ngạo không những đối
với các gia chủ hiến tế mà cả với thần linh nữa. Những lời nói như
"Thiên thần nhờ cậy tế lễ" (SBr 14. 6, 8, 9) rất thường
thấy trong các kinh Bà-la-môn, quả thật cái tư tưởng cho rằng chư Thiên
thần trông cậy vào tài năng của vị Bà-la-môn tế tự và không thể làm
gì được nếu không có sức mạnh tạo ra do tế đàn xuyên suốt nền văn
học Bà-la-môn. Rõ ràng: “Tế lễ bảo tồn trời đất, tế lễ dành
cho chư Thiên, tế lễ ngự trị trên chư Thiên" (TBr 6, 51, 8). Thần
chú tế lễ (Brahman) là một loại thần chú có tính tự động bắt
buộc chư thần linh phải làm theo ý muốn của vị Bà-la-môn tế tự. Thần
chú có tính vạn năng, người nào hiểu chú và tụng chú chính xác là người
cao trọng hơn tất cả mọi loài.
Ðiều đáng khen các Bà-la-môn là,
mặc dù họ sinh thói kiêu căng chưa từng có trước kia vì sự thông thạo
thần chú linh hiệu, chính họ cũng đã nỗ lực tìm ra những lý lẽ biện
minh thần lực này. Theo họ nhận thấy, chính chân lý nội tại (rta,
satya) tạo nên năng lực hiệu nghiệm của thần chú. Rta hay "chân
lý” ở đây không có nghĩa là sự thật phù hợp lý luận như chân
lý tuyệt đối, chân lý như thật. Nhưng vì thần chú "chân
chánh" (Brahman) chứa đựng mọi thực tại trong bản chất nó,
vì nó bao gồm mọi sự hiện hữu hoặc bất cứ điều gì có thể quan niệm
được, nên nó có khả năng làm bất cứ chuyện gì.
Dĩ nhiên, trung tâm tế lễ của
Kapilavatthu được bố trí phù hợp với kinh điển Bà-la-môn. Về phía tây
của sân đàn tế xây cao dùng làm nơi cúng lễ vật lên chư Thiên thần, nơi
đó được phủ cỏ mới cắt trước khi tế lễ, cùng với một ngọn lửa
chuẩn bị cho các món phẩm vật. Lửa tượng trưng mặt trời đem lại sự
sống, sinh hoa kết trái cho muôn loài, nên được đặt trong hỏa lò hình
tròn.
Về phía đông bàn thờ chư thiên
thần là một hỏa lò hình vuông theo hình thế giới được tưởng tượng
như chiếc dĩa phẳng chữ nhật: Phẩm vật cúng tế được đổ vào ngọn
lửa cháy tại đó để thần lửa Agni mang lên trời.
Cuối cùng về phía nam là ngọn lửa
thứ ba tượng trưng mặt trăng nên có hình bán cầu. Ngọn lửa này được
dùng để xua đuổi ma quỷ khỏi đến phá tế lễ. Một tế lễ đầy đủ
cần có ba tế sư và một vị sư quản tế. Vào lúc kết thúc buổi tế lễ
họ thường hô to: "svàhà" (cung nghênh!).
Ngoài các đại tế đàn theo yêu cầu
của gia chủ, còn có các tiểu tế và đủ loại lễ nghi không được xem
là “tế đàn", ví dụ những phép ảo thuật như làm mưa bằng cách rảy
nước, ăn tim lửa hổ để có can đảm, hoặc những lễ hội liên quan đến
ngày tháng trong năm, hoặc các lễ hội gia đình như kết hôn, sinh con, đặt
tên, mai táng v.v... Các lễ hội này cũng được linh nghiệm nhờ thần chú
(Brahman) mà chỉ riêng vị tế sư chuyên nghiệp mới có thể tán tụng
đúng âm luật.
Một người chỉ đạt đến chức
vụ tế sư Bà-la-môn sau khi đã làm môn đồ tại nhà một vị tế sư Bà-la-môn
suốt mười hai năm, hằng ngày chăm sóc ngọn lửa, học thuộc Thánh ca, thần
chú, lễ nghi và sống đời kiêng sắc dục để phát triển ưu thế đối
với mọi người. Chỉ khi nào việc học tập này kết thúc, vị Bà-la-môn
trẻ tuổi ấy mới được phép mang kiểu tóc đặc biệt của vị Bà-la-môn
chuyên nghiệp, gồm một chòm tóc kết bên phải đầu, và ba chòm nữa ở
các nơi khác. Nếu ta xét kỹ khoảng thời gian huấn luyện lâu dài và khó
khăn cần thiết để trở thành một tế sư Bà-la-môn thì ta có thể hiểu
tại sao chỉ một phần nhỏ trong những người thuộc giai cấp Bà-la-môn
theo huyết thống đã trở thành tế sư chuyên nghiệp.
PHONG TRÀO ÐI TÌM GIẢI THOÁT TRONG
ÐẠO GIÁO
Với một dân tộc mang đậm màu sắc
tôn giáo như người Ấn Ðộ, và lại hăng say đi tìm kinh nghiệm tâm linh,
thì phản ứng chống đối cách tế lễ của Bà-la-môn theo kinh Vệ-đà
trong hình thức suy tàn máy móc như vậy là điều không thể nào tránh khỏi.
Việc này bắt đầu vào thế kỷ thứ bảy trước CN, được thấy phổ biến
trong các đám thanh niên và đến thế kỷ thứ sáu, đã phát triển thành một
phong trào tư tưởng mạnh mẽ. Ðó không phải là một cuộc cách mạng,
vì nó vẫn giữ tính khoan dung, chỉ chống đối đạo giáo đầy tế lễ
ấy qua các cuộc tranh luận công khai. Ðó là một phong trào tư tưởng không
có tổ chức, tự rời bỏ tôn giáo truyền thống và đi tìm những cứu
cánh tâm linh mới, nên nó chấp nhận những con đường mới. Một số con
đường ấy sau một thời gian đã trở thành tà đạo không đưa đến đâu
cả, còn một số khác lại đưa đến những đỉnh cao chưa từng được
mơ tưởng trước kia. Vào thế kỷ thứ 6 trước CN, trí tuệ người Ấn
Ðộ đã đạt các đỉnh cao triết lý và đạo giáo vẫn còn giá trị cho
đến ngày nay.
Nhiều nhóm người tự giải phóng
ấy có thể được chia thành bốn loại người tầm cầu cứu độ:
1. Nhóm Aupanisadas (Áo Nghĩa Thư)
2. Nhóm Duy vật luận
3. Nhóm Khổ hạnh hành xác.
4. Nhóm du sĩ hành khất.
Thái tử Gotama đến tiếp xúc với
tất cả mọi nhóm này trong một thời gian dài hay ngắn tùy trượng hợp,
và mỗi nhóm không nhiều thì ít đều đóng góp phần nào vào hệ thống
giáo lý của ngài.
1) Nhóm đi sát với truyền thống
Vệ-đà nhất là các vị Aupanisadas, môn phái Áo Nghĩa Thư, xuất hiện
từ khoảng năm 700 trước CN cho đến mãi về sau. Giáo lý này xuất phát từ
kinh Vệ-đà và Bà-la-môn nhưng biểu hiện một sự phát triển có tính
sáng tạo mà các vị tư tưởng gia khai sinh chúng mong muốn đối lập với
phái chính thống. Vì vậy các môn đồ Áo Nghĩa Thư giữ bí mật các giáo
điều họ mới khám phá, đúng như tên các bộ kinh văn của họ nêu lên: Upa-ni-sad
nghĩa là "ngồi với ai" để bí truyền giáo lý cho kẻ ấy.
Tuy nhiên các kinh văn này không giữ
bí mật được lâu. Thông điệp chính yếu của chúng đã đến tai các tế
sư Bà-la-môn, các vị này chấp nhận một chiến thuật rất khôn khéo: khi
thấy rằng trào lưu tư tưởng đã thịnh hành không còn đàn áp được nữa,
họ liền mạnh dạn sử dụng các Áo Nghĩa Thư làm chúng trở thành thượng
tầng kiến trúc trong triết lý tế lễ của họ, rồi lại thêm các
"sách mật giáo" vào kinh điển Vệ-đà như một phụ lục (Vedànta
nghĩa là phần kết thúc Vệ-đà, Viên Thành Vệ-đà). Bằng cách này giáo
lý Áo Nghĩa Thư về vạn pháp nhất thể trở thành một phần truyền thống
Bà-la-môn.
Chỉ năm quyển Áo Nghĩa Thư có nguồn
gốc trước thời đức Phật: quyển đầu tiên là Brhadàranyaka và
quyển Chàndogya cũng xưa gần như vậy. Tiếp theo đó là các quyển
xuất hiện về sau như Taittirìya, Aitareya và Kausìtaki. Phần lớn
các sách này ghi chép các truyền thuyết dựa theo kinh nghiệm và chứa đựng
nhiều đoạn lý luận dài dòng về tính nhất thể theo kiểu kinh Bà-la-môn
nên chúng hoàn toàn không đem lại ánh sáng trí tuệ nào cả. Nhưng ở nhiều
chỗ, nhất là trong các đoạn truyện ký, bỗng nhiên có những tia sáng nhận
thức bừng lên gây niềm hoan hỷ, đó là những trực giác của trí tuệ
soi sáng vấn đề.
Không riêng một quyển Áo Nghĩa
Thư nào trình bày một triết lý toàn vẹn cả: mỗi quyển chỉ đóng góp
một phần. Chính sự phối hợp các lý luận xác đáng của toàn bộ Áo
Nghĩa Thư mới tạo thành hệ thống mang danh hiệu Vedànta (Viên thành
Vệ-đà) là đỉnh cao của tư tưởng Ấn Ðộ giáo. Hệ thống ấy được
tư tưởng gia Sankara triển khai thành một triết lý chính xác vào khoảng năm
800 sau CN rồi lại được một triết gia khác là Ràmàniya cải cách khoảng
năm 1100 sau CN.
Từ kinh Rg Veda đến bộ Áo Nghĩa
Thư Upanisads, ta có thể lần lượt thấy sự phát triển dần theo lịch sử
của từ brahman và sự biến đổi ý nghĩa của từ này. Trong kinh Vệ-đà,
từ Brahman chỉ thần chú tế lễ có công hiệu do chân lý nội tại
của nó. Trong bộ Áo Nghĩa Thư, nó trở thành hiện thân hoàn toàn của
chân lý, đồng nghĩa với chân lý "Danh hay bản thể của Brahman này
là Chân lý" (Ch. U 8.3,4) "Brahman (Thần ngã hay Phạm thể) là
Chân lý" (BAU 5.5). Hơn thế nữa, trong bộ Upanisads, Brahman trở thành
cái Tuyệt Ðối, "Chân Ðế", và các nhà Áo Nghĩa Thư đã nỗ lực
làm cho cái Tuyệt Ðối này bao hàm cái tổng thể và tự tại trong vạn vật
trở nên dễ hiểu qua ngôn ngữ. Họ dùng phương pháp điển hình của thuyết
thần bí, ký hiệu tượng trưng, và tính đồng nhất của mọi sự đối
nghịch, cùng cách miêu tả phủ định.
Brahman là nguyên nhân của vạn vật
(BAU 1.4.21), giống như vạn vật trong thế giới được bao gồm trong không
gian, không gian lại được bao gồm trong cái Bất Diệt là Brahman (BAU
3.8.8). Vì Brahman thấm nhuần vạn vật như cái tinh thần của vạn
vật, nên nó cũng ở cùng con người: thân xác là tòa nhà của
Brahman. Nó ở trong từng khoảng nhỏ nhất của tâm ta, cực tiểu, tuy
nhiên nó cũng vĩ đại như vũ trụ. Tất cả đều ở trong nó, gồm cả vạn
vật đang hiện hữu và mọi khả năng tiềm ẩn. Khi thân xác già và chết,
Brahman vẫn không già và chết (Ch U 8.1,1.5). Người nào biết Brahman bất
diệt chắc chắn sẽ được giải thoát sau khi chết (BAU 3.8.11). Phận
sự của người đi tìm giải thoát là trở thành người hiểu biết
Brahman.
Chủ thể hiểu biết là àtman, bản
ngã, chính ngã này thi hành các phận sự thấy, nghe, suy tư và hiểu biết
(BAU 3.5.1). Àtman này tạo nên các thế giới, các thần linh, và nhân loại
(BAU 2.1.23) và ngự trị trên vạn vật (BAU 4.4.24). Nó trú trong tâm
ta, nhỏ hơn hạt lúa mè, nhưng lại to hơn quả đất, vĩ đại hơn cả bầu
trời và các thế giới này (Ch.U 3.14.2.2-3). Thân này là nơi trú ẩn
của àtman, bản ngã trường tồn, phi vật chất (Ch.U 8.12.1) và thân
này chết ngay khi àtman lìa bỏ nó (Ch.U 6.11.3). Nhưng àtman lại không
sanh (vì nó trường cửu), không già, không chết, không hư hoại, bất diệt
(BAU 4.4.30). Bản ngã này chỉ có thể nói đến bằng ngôn từ phủ định
(BAU 4.4.27).
Quả thật, àtman là bản
ngã, linh hồn, nhưng nó không bị giới hạn vào cá thể, mà lại đồng nhất
với mọi àtman: "Àtman này của ngươi là àtman thường trú
trong tất cả". (BAU 3.4.1). Không có sự sai biệt giữa các linh hồn
của mọi chúng sanh, vì chúng đều là một. Mọi "tha nhân",
trong bản chất, chính là "tự ngã của ta".
Những lời khẳng định Brahman
và Àtman đi song song với nhau thật hiển nhiên, cho ta thấy Brahman,
cái Tuyệt Ðối, Linh Hồn của thế giới, và àtman, linh hồn của
cá nhân được xem là đồng nhất. Quả thực đây là sự công nhận rất
quan trọng và là thông điệp chính yếu của các bộ Áo Nghĩa Thư Upanisad,
như vậy, chúng tạo thành những kinh văn căn bản trong giáo lý nhất thể
của Ấn Ðộ. Sự tương quan giữa tính đa nguyên của thế giới thực
nghiệm và sự đồng nhất của cái Tuyệt Ðối là vấn đề mà tất cả
triết lý Ấn Ðộ tiếp theo sau đó, vẫn còn quan tâm cho đến nay.
Trong các bộ Áo Nghĩa Thư, sự đồng
nhất giữa Brahman và àtman vẫn được nhấn mạnh rất nhiều
lần: "Thực vậy, Àtman vĩ đại bất sanh, bất lão, bất tử, bất
hoại, bất diệt này chính là Brahman. Ví như lớp da rắn tàn tạ bị quăng
bỏ, có thể nằm trên tổ kiến, cũng vậy thân này nằm xuống sau khi chết.
Nhưng Àtman, bản ngã phi vật chất, phi sắc thân này, gồm toàn tri thức,
là Brahman vẫn tồn tại". (BAU 4.4.7) "Àtman này là
Brahman". (Ch.U 3-14.4). Sự đồng nhất giữa àtman và Brahman
hầu như rất dễ nhận ra trong lúc ngủ say không mộng mị. Khi ẩn mình
vào trong giấc ngủ như vậy, khi àtman tạm nghỉ ngơi, không hoạt động,
nó trở nên rõ ràng trong Brahman: "Ðó chính là àtman, đó là
cái bất tử, cái bất hoại, đó là Brahman" (Ch.U 8.11.1).
Nếu thuyết nhất nguyên bí nhiệm
này là một khám phá quan trọng của các tư tưởng gia Áo Nghĩa Thư (Aupanisadas),
thì giáo lý về luân hồi lại là một khám phá quan trọng khác nữa. Tư
tưởng cho rằng cá thể tồn tại sau khi chết dưới hình thức này hay
hình thức khác đã xuất hiện trong kinh Rg Veda và kinh Brahmanas.
Nhưng chính các nhà Áo Nghĩa Thư công nhận tính thiết yếu và thường xuyên
của sự tái sinh cùng vai trò quyết định của hành nghiệp trong sự tạo
thành kết quả. Một người chưa được giải thoát phải đi quanh quẩn
trong vòng luân hồi sanh tử (BAU 6. 2. 16) do động lực của dục tham (kàmayamana)
và do vô minh (avidyà) nghĩa là sự vô minh của àtman (BAU
4.4.10-13) thúc đẩy. Nếu kẻ ấy thực hành thiện nghiệp (Karma), sẽ
được tái sanh cõi tốt lành, nếu hành ác nghiệp, sẽ tái sanh cõi khổ
đau.
"Con người hành động cư xử
thế nào thì sẽ được tái sinh như thế. Người hành thiện sẽ tái sinh
thành người thiện, người hành ác sẽ tái sinh thành người ác ... Do đó,
có thể nói: Con người hoàn toàn do dục tham (Kàma) tạo thành. Tham dục của
người ấy như thế nào thì sự hiểu biết của người ấy cũng như vậy.
Người ấy hiểu thế nào thì hành như vậy. Và người ấy sẽ luân hồi
sinh tử theo nghiệp của mình (BAU 4.4.5).
Những kẻ ở đời này có thái độ
sống tốt đẹp mới có thể mong nhập thai tốt đẹp: như nhập mẫu thai
Bà-la-môn, Sát-đế-lỵ hoặc Vệ-xá. Còn những kẻ cư xử xấu xa có thể
phải nhập thai xấu xa như nhập thai bò cái, lợn nái hay một phụ nữ vô
loại (khốn cùng, không thuộc giai cấp nào cả). (Ch. U 5.10.7).
Sự giải thoát vòng luân hồi khủng
khiếp này, cái vòng luân hồi được quyết định theo luật tự nhiên hoạt
động rất máy móc dựa trên hành nghiệp mỗi người, là việc chỉ thực
hiện được do chính người ấy đã tận diệt được tham dục (Kàma)
và vô minh (avidyà). Một người được hoàn thiện như vậy thể nhập
vào Brahman, và àtman của người ấy hòa lẫn với Brahman.
Do sự đoạn tận này và thể nhập vào Brahman, người ấy được giải
thoát.
Rõ ràng sự nhìn nhận tính vạn vật
nhất thể và quan niệm tái sinh như hậu quả tất nhiên do hành nghiệp
gây nên, là hai trong những khám pháp về đạo giáo uyên thâm nhất của
nhân loại, nhưng chúng lại nảy sinh các vấn đề triết lý mới. Thuyết
nhất thể đã khắc phục được sự phân chia các cá nhân, nhưng nó lại
vạch một lằn ranh mới giữa Brahman / àtman trường cửu, tự tại với
bản chất của thực tại (prakrti). Sự phân chia theo đường thẳng
đã được thay thế bằng sự phân chia theo đường ngang. Ngay lập tức vấn
đề thực tế xuất hiện: Thế giới thực tại được xem như đối lập
với Phạm thể (Brahman), cái Tuyệt Ðối, thì thế giới này có thật
hay chỉ là trò huyễn ảo (màyà)? Rồi còn thêm nhiều vấn đề phát
sinh đối với tương quan giữa Brahman và prakrti: Cái gì khiến Brahman
tự tại trở thành hiện thực nhập thể trong thế giới luân hồi sanh tử
này? Và làm thế nào các hành nghiệp của một con người có thể trói buộc
linh hồn hay bản ngã (àtman) vào một thân xác trong khi chính àtman
có đầy đủ tự do nội tại? Những hệ tư tưởng hậu Áo Nghĩa Thư của
Ấn Ðộ đều cố thử giải đáp các vấn nạn trên.
2) Các nhà Duy vật luận khinh
khi bài bác mọi giáo lý giải thoát, họ xem mọi vật ngoài thế giới hữu
hình đều do trí tưởng tượng. Danh hiệu của họ là Thuận thế luận:
Lokayata (hướng đến thế giới hữu hình) đã biểu lộ thái độ này.
Một danh hiệu nữa dành cho họ là Càrvaka do tên một triết gia phái
này. Phái đối lập với họ nhạo báng gọi họ là các nhà phủ định luận
(nàstika).
Vì cách tư duy Ấn Ðộ thường có
khuynh hướng hệ thống hóa phần nội dung ý tưởng, nên có đủ loại sách
hướng dẫn mọi việc trên đời, các nhà Duy vật luận cũng đã cho hệ
thống hóa lý thuyết phản biện của họ vào một sách ở thế kỷ thứ
sáu gọi là Barhaspatisùtra. Tác phẩm này chỉ còn được biết qua vài
đoạn trích dẫn, nhưng ta có thể có vài ý niệm về quan điểm của các
nhà Duy vật luận nhờ những lý lẽ của những nhóm đối lập cố ra sức
bài bác họ. Ðoạn văn sơ lược sau đây về các quan điểm của phái
Lokàyata này dựa trên quyển "Lục Phái Lược Khảo" (Saddarsana-samuccay)
vào thế kỷ 8 CN, và "Nhất Thiết Bộ Phái Toát Yếu" (Sarvadarsanasamgraha)
của Màdhava, thế kỷ thứ 14.
Phái này tin rằng nhận thức trực
tiếp qua giác quan là nguồn kiến thức duy nhất của ta, như vậy không thể
có kiến thức dựa trên suy luận, trực giác, kinh nghiệm, giáo dục hay thần
khải cho nên các nhà tư tưởng Lokàyata đã phủ nhận sự hiện hữu của
linh hồn. Bất cứ vật gì không do các giác quan nhận thức đều không hiện
hữu, không có Thượng Ðế, không có cứu độ, không có linh hồn (àtman).
Pháp và Phi Pháp (Dhamma, Adhamma) đều không hiện hữu và thiện nghiệp
lẫn ác nghiệp đều không đưa lại quả báo trong đời sau. Một khi thân
xác được thiêu rụi trên dàn hỏa, kẻ ấy không còn tái sinh nữa.
Ta cũng không thể suy diễn sự hiện
hữu của linh hồn từ những chức năng hoạt động của loài hữu tình. Mọi
vật ở đời kể cả thân ta, đều là các tổng thể gồm tứ đại: đất
nước, lửa, gió, kết hợp đúng theo bản chất của chúng là những khuynh
hướng nội tại, để tạo thành từng hình thái riêng biệt. Mọi sinh hoạt
tâm lý chỉ là kết quả những tác động hỗ tương giữa tứ đại, và cứ
thế phát triển dần, giống như rượu nồng phát sinh do quá trình lên men
từ hỗn hợp cơm và mật mía.
Bất cứ ai từ chối các dục lạc
vì chúng đi kèm với khổ đau thì kẻ đó cũng hành động như người điên
ngu ngốc. Bởi ta có quăng bỏ hạt thóc chỉ vì nó bị vỏ trấu bao bọc
chăng? Vậy chỉ có một đường lối sống hợp lý là: Hãy sống hạnh
phúc bao lâu ta còn sống, và cứ ăn sữa lạc (loại sữa đông chua) thỏa
thích cho dù ta có vỡ nợ đi nữa! Ðiều duy nhất có giá trị trên đời
là làm bất cứ việc gì tăng thêm hạnh phúc:
Hướng về cái vô hình
Bác bỏ cái hữu hình,
Phái Càr-va-ka biết:
Chuyện điên khùng chúng sinh! (Saddarsanasamuccaya 9.6)
Trong những cuộc luận chiến chống
chủ nghĩa Duy vật của nền triết học Ấn Ðộ, rõ ràng phái Lokàyatas
không hề bị xem là phi đạo đức hay đối kháng xã hội. Tính bất tuân
truyền thống đạo giáo của họ chỉ giới hạn trong các vấn đề tâm
linh. Họ là những kẻ hoài nghi, theo chủ nghĩa thế tục và khoái lạc ở
đời, nhưng họ thích ứng với xã hội thị thành hay thôn quê thật dễ
dàng. Và đôi khi, những vị Bà-la-môn ra vẻ quá nghiêm khắc thì ngay những
tín đồ ngoan đạo cũng bày tỏ cảm tưởng của mình bằng cách đọc lên
vài câu phát biểu đầy phạm thượng của phái Lokàyatas này.
Ảnh hưởng của phái Lokàyatas
về phương diện triết lý cũng đáng kể. Họ sử dụng lối phê phán với
giọng lưỡi sắc bén và thái độ hoài nghi kiểu thế tục để nhạo báng
mọi yêu cầu của các phái theo thuyết lý tưởng, họ chống đối các cuộc
tìm kiếm triết lý viễn vông do trí tưởng tượng và lại có tác dụng
như liều thuốc chữa công hiệu để điều chỉnh các quan điểm trên.
3) Nhóm khổ hạnh: Chữ Phạn
"tapasvin", "khổ hạnh” thường được dịch là
"ăn năn hối cải” một cách sai lầm. Sự ăn năn hối cải là một cố
gắng bù đắp tội lỗi đã phạm, còn khổ hạnh theo nghĩa Ấn Ðộ là một
cố gắng tạo dựng tương lai. Nó dựa trên niềm tin rằng sự hành xác (tapas
là phương tiện) tạo ra nhiệt lượng (tapas là kết quả) nghĩa là một
thần lực tâm linh có thể được tích trữ để sử dụng vào mục đích
giải thoát. Ðiều kiện tiên quyết để thành công là tuyệt đối tiết dục.
Nếu người theo khổ hạnh bị nhục dục lôi cuốn, thần lực tapas
được tích trữ kia lập tức biến mất hoàn toàn.
Theo niềm tin được phổ biến giữa
nhiều người, nhà tu khổ hạnh chứng đắc thần thông do tích lũy ngày
càng nhiều thần lực tapas. Trong kinh Rg Veda ta đã biết rằng thần
Indra, Thiên Chủ, đạt ngôi cao trên thiên đình nhờ có tapas, nhưng mãi
đến các thế kỷ thứ bảy, thứ sáu trước CN, thuyết thần lực tapas
mới trở nên thực sự thịnh hành.
Trong văn học Ấn Ðộ hậu Phật
giáo, thuyết này đóng một vai trò quan trọng và chúng ta thường nghe nói
nhiều về các nhà tu khổ hạnh trở thành những địch thủ nguy hiểm của
thần linh nhờ năng lực tapas được tích trữ. Các Thiên thần, tìm
cách đối phó, liền phái một tiên nữ diễm lệ xuống trần quyến rũ vị
khổ hạnh và do đó phá hủy hết công lực của vị này.
Việc các tế sư Bà-la-môn phản đối
phong trào khổ hạnh là điều dễ hiểu. Không chỉ người khổ hạnh rời
bỏ gia đình, làng xóm làm giảm số khách cúng tế, mà vị khổ hạnh còn
thay thế cách dâng hiến lễ vật bằng cách hy sinh mọi lạc thú của
riêng mình, do đó chứng minh rằng có một con đường tự giải thoát cho mỗi
người, nên đã làm giảm giá trị của lễ giáo cổ truyền. Theo quan điểm
các Bà-la-môn việc chấp nhận đời khổ hạnh hoặc làm du sĩ khất thực
chỉ hợp lý trong trường hợp một người đến độ lão niên, đã hoàn
thành việc chăm sóc gia đình, đã thực hiện các phận sự của giai cấp
mình, và đã có con trai thay thế chức vụ ấy trong đời sống gia đình
và xã hội.
Những dấu hiệu bề ngoài của một
vị khổ hạnh là từ bỏ tài sản, gia đình, để tóc râu xồm xoàm và
thông thường là hoàn toàn lõa thể. Họ sống ẩn dật trong rừng rậm, hoặc
thành từng nhóm nhỏ trong các “khóm rừng khổ hạnh”, trong cả hai trường
hợp đó đều xa làng xóm thị thành để khỏi bị các gia chủ quấy rầy
hay bầy con gái họ khiêu khích dục tình. Nếu một vị khổ hạnh hành
trì giới luật khắc khe trong một thời gian dài, vị ấy được xem là
thánh thiện và làng xóm lân cận sẽ tự hào đến cung cấp cho vị ấy vài
nhu cầu tối thiểu.
Mục đích của một số vị hành
trì khổ hạnh khắc nghiệt đôi khi lại không cao thượng lắm đâu. Vì tục
ngữ có câu "Cái gì ta không cần thiết hiện nay sẽ được đền bù
gấp mười lần" nên cũng không ít vị khổ hạnh đã nhắm trực
tiếp đến lạc thú đời sau như mục đích tối hậu của các nỗ lực
cá nhân mà từ bỏ lạc thú hiện tại. Ðối với một số khác lại lấy
mục đích nửa vời làm động cơ phát triển các thần thông do tích trữ
công năng khổ hạnh, ví dụ bay như chim, đi trên nước, băng qua tường,
biết các vật ở xa hoặc dấu kín, đoán quá khứ, tương lai.
Những năng lực vượt các quy luật
tự nhiên hay giới hạn vật chất ấy vẫn thường được quần chúng gán
cho những nhà khổ hạnh tu tập lâu năm và được họ ngưỡng mộ dù
không có bằng cớ. Song đối với những vị có trí tuệ cao thâm thì mục
đích duy nhất xứng đáng tu tập khổ hạnh là sự giải thoát, cho dù giải
thoát được quan niệm như sự cọng trú với chư Thiên, hay hợp nhất với
một vị thần nào đó, hoặc liễu tri cái Tuyệt Ðối và thể nhập vào
trong ấy.
Mục đích của các nhà khổ hạnh
đều ít nhiều theo lề lối cũ, nhưng phương pháp thì không. Trình độ
cao từ những cách hành thiền tinh tế qua các phép thực hiện đặc biệt
kỳ dị xuống tận các kiểu tự hành xác thật khủng khiếp ghê tởm,
trong số ấy có hình thức phô trương lõa thể là rõ ràng nhất.
Giữa các hình thức kỳ quái hơn nữa
là vị khổ hạnh kiểu con bò và chó như trong Trung Bộ Kinh số 37* . Theo bản sớ giải, vị khổ hạnh kiểu con bò
mang sừng trên đầu và cột đuôi bò vào mình, rồi thích sống giữa đàn
gia súc, còn vị lõa thể theo hạnh con chó thường ngồi: ăn dưới đất,
sủa và ngủ cuộn mình lại như con chó!
Hình thức khổ hạnh sơ đẳng nhất
là nhịn ăn, đôi khi đến chết. Một số vị khổ hạnh chỉ ăn trái cây
hoặc những thứ mọc dưới đất, một số khác chỉ ăn chất lỏng. Một
ý kiến độc đáo hơn là nhịn ăn theo tuần trăng: vị khổ hạnh không
ăn gì cả vào tuần trăng non, sau đó cho đến tuần trăng tròn họ cứ ăn
một muỗng và tăng dần lên mỗi ngày, cuối cùng lại giảm ăn như vậy
cho đến tuần trăng mới.
Các tư thế nằm ngồi cũng trở thành
phép khổ hạnh. Một số vị đứng suốt ngày dưới nước đến tận hông,
một số vị khổ hạnh "kiểu con dơi" thích treo người trên cây
ngang qua đầu gối vài giờ mỗi ngày. Có vị luôn ngồi, có vị khác luôn
cong người lại, không bao giờ thẳng ra, có vị luôn đứng thẳng trên một
chân cho đến khi cây leo mọc quanh mình. Một số khác không hề ngủ, hoặc
chỉ nằm trên giường đinh và đống gai. Thỉnh thoảng lại có các vị khổ
hạnh “thờ năm ngọn lửa" ngồi theo thế hoa sen giữa bốn ngọn lửa
với mặt và đôi mắt đã mù từ lâu hướng về ngọn lửa thứ năm là mặt
trời.
Số người tự hủy hoại thân xác
rất nhiều: có kẻ cắt một tay hay chân, kẻ khác lại bẻ gãy nó rồi
cho nó mọc ra một góc kỳ quái. Rất thường thấy các người cố ý để
cho cánh tay hư nát bằng cách treo ngược lên, hoặc các phép khổ hạnh đi
kèm với lời nguyện im lặng, đôi khi rất nghiêm khắc đến độ người
ấy không thể đáp lại dù chỉ bằng dáng điệu hay gật đầu.
Tuy nhiên, quan trọng hơn các phép
khổ luyện thân xác này là những phép tu tập tinh thần tự chủ. Nhiều vị
thực hành các phép luyện hơi thở theo nhịp vào ra điều hòa và do đó tạo
nên tâm trạng an lạc. Vị ấy chuyên chú sâu vào nội tâm trong trạng
thái thiền định. Giai đoạn trầm tư mặc tưởng sâu nhất là một trạng
thái tâm nhập định được xem như giải thoát nhất thời.
4) Nhóm Du sĩ khất thực: Nhóm
thứ tư đông hơn các vị Aupanisadas, Lokàyatas và khổ hạnh kể trên
là số người du sĩ khất thực đi tìm sự cứu độ. Các nguồn kinh Phật
thường gọi họ là paribbàjakas (du sĩ khất thực) và Samanas
(Samôn, đạo sĩ, ẩn sĩ). Paribbàjakas là các du sĩ khất thực
gốc Bà-la-môn dù họ có theo truyền thống Bà-la-môn hay không, còn từ
Samanas để dành cho những vị ở giai cấp khác theo nhiều giáo pháp khác
nhau. Khoảng cuối đời ngài, đức Phật cố thu hẹp ý nghĩa từ “Sa-môn”
vào các vị du sĩ khất thực theo giáo lý bao gồm Bát Thánh Ðạo* (D.N, 16.5,27) hay nói cách khác là để dành riêng cho
chư Tỳ-kheo trong Pháp-Luật của ngài (Dhamma-Vinaya).
Ngày nay ta khó hiểu được điều
gì đã làm đời sống xuất gia có vẻ hấp dẫn đối với dân Ấn Ðộ cổ
đại, và điều gì khiến cho đời sống các vị du sĩ khất thực ấy trở
thành một phong trào rầm rộ như vậy. Nhưng ta cần phải hiểu rõ là vào
khoảng 600 trước CN trong xã hội nông nghiệp ở Bắc Ấn với thứ tôn
giáo tế lễ đa thần kia đã nổi lên một phong trào tìm đường lối thoát
ra khỏi cái khuôn khổ chật hẹp của đạo giáo lễ nghi và xã hội.
Trạng thái tâm lý đi tìm tự do
và kiến thức, nhu cầu hướng đến sự trưởng thành tâm trí đã lôi cuốn
thế nhân, thúc giục hàng ngàn người thuộc mọi tầng lớp bỏ hết công
việc, giao phó vợ con cho đại gia đình, từ giã túp lều tre, thôn làng,
thành thị để chấp nhận đời sống tu tập độc cư, du hành đây đó với
kỳ vọng đạt trí tuệ giải thoát.
Sự phá vỡ truyền thống, và đời
du hành khất thực là những điểm duy nhất tương đồng giữa các vị khổ
hạnh này: còn về tinh thần, chư vị theo các đường lối rất khác nhau.
Một số là những kẻ ngụy biện chuyên thói bài bác mà không truyền bá
một giáo lý có tinh thần xây dựng nào của riêng họ cả. Một số theo
thuyết định mệnh (Àjìvikas) chủ trương mọi sự, bao gồm luôn cả
sự giải thoát của mỗi người, đều do tiền định không thể biến cải
được. Nhưng phần đông các du sĩ là những nhà thí nghiệm giáo lý: lúc
thì gia nhập giáo phái này, lúc thì đi theo đạo sư nọ (guru).
Họ có thể gia nhập các vị Áo
Nghĩa Thư để tầm đạo trong một thời gian, hoặc hành trì khổ hạnh, hoặc
có lúc lại thí nghiệm một phương pháp riêng của họ để đạt trí tuệ.
Những cuộc tranh luận của họ với những người khác quan điểm thường
diễn ra tại các lâm viên hoặc ven các làng xã, là cách giải trí của thời
ấy, và đã thu hút nhiều người, trong đó có cả Thái tử của quốc vương
Sakiya ở thành Kapilavatthu.
M ục lục | Ia | Ib | Ic | Id | IIa | IIb | IIIa | IIIb | IIIc | IVa | IVb | IVc | IVd | Va | Vb | VIa | VIb | VII | VIII