- ÐẠI THỪA VÀ SỰ
LIÊN HỆ VỚI TIỂU THỪA
- Nguyên tác: Nalinaksha Dutt
Những lý do phải xem Sràvakayàna (Thanh văn thừa) là Tiểu
thừa
Dù cho thái độ hòa giải của tập
Saddharmapundarika, cố gắng nêu rõ các vị Nirvànagàmim (đã chứng Niết
bàn Tiểu thừa) cuối cùng sẽ thành Nhất thế trí (Sarvajnas) và Tiểu thừa
chỉ là một xảo phương tiện, điều rất rõ ràng là tập này cũng như các
tập Ðại thừa khác đều có một thái độ kẻ cả và cố gắng xác nhận
Ðại thừa cao thượng hơn Tiểu thừa rất nhiều.
Tập Sùtràlankàra nói rằng có bảy
đặc tính, mà Ðại thừa phải được xem là lớn: Một là nền tảng
(àlambana: duyên) là lớn vì kinh điển Ðại thừa rất sai biệt và vô số
lượng. Thứ hai quả chứng (pratipatti) của Ðại thừa là lớn vì Ðại thừa
thành tựu hai mục đích: Tự lợi và lợi tha. Thứ ba, kiến thức do Ðại
thừa giảng dạy là sâu kín vì đi sâu vào Không tánh (nairàtmyabhàva) của
cả nhân và pháp (pudgala và dharma). Thứ tư, Ðại thừa đòi hỏi nhiều khổ
hạnh lớn, vì Ðại thừa đòi hỏi sự tinh tấn tha thiết trải nhiều đời,
nhiều kiếp. Thứ năm Ðại thừa là lớn trong những vật liệu phương tiện,
vì người theo Ðại thừa không cần phải rời khỏi cuộc đời, miễn rằng
các vị này không bị ràng buộc vì đời. Thứ sáu Thành quả (Samudàgama)
của Ðại thừa là lớn, vì Ðại thừa đưa đến bala (lực), vaisàradya
(vô úy) và 18 àvenikadharmas (bất cộng pháp) (72). Thứ bảy và cuối cùng,
Ðại thừa là lớn trong sự thi hành những trách nhiệm của đức Phật,
nghĩa là trong sự trình bày về chứng quả Bồ đề (Sambodhi) và Ðại bát
niết bàn (Mahàparinirvàna) (73).
Danh từ Hìnayàna (Tiểu thừa) cũng đủ
nêu rõ địa vị thấp kém mà các nhà Ðại thừa dành cho Tiểu thừa. Danh
từ thường dùng trong văn học Ðại thừa là Sràvaka (Thanh văn) và
Pratyekabuddha (Ðộc giác). Những danh từ này không có màu sắc gì và những
người Tiểu thừa cũng dùng chữ Sàvaka hay Sràvaka trong những danh từ
Pakatisàvaka (Tự tánh Thanh văn), Aggasàvaka (Ðệ nhất Thanh văn), Sàvakasangha
(Thanh văn tăng già), Sàvika (Nữ thanh văn) v.v... Danh từ Pratyeka (Pacceka)
buddha (Ðộc giác Phật) cũng được các nhà Tiểu thừa thường dùng. Danh
từ Hìnayana được dùng để chỉ rằng các hàng Thanh văn và Ðộc giác Phật
là Hìnàdhimukta (hạ liệt) (74). Các vị này cũng được gọi là Pràdesika
(tạp thừa) vì tâm trí các vị này chỉ có một cái nhìn phiến diện
(pràdesika) chứ không tổng quát về sự thật (75).
Àsaya (khuynh hướng)
Tập Sùtràlankàra (Ðại trang nghiêm
kinh) phân tích nêu rõ rằng vì hàng Thanh văn là hìnàdhimukta và do vậy sự
tinh tấn, giảng dạy, công đức và thành quả của những vị này thấp
kém nếu so sánh với các vị Ðại thừa (76). Chính do bản nguyện của mỗi
người mà giáo pháp được giảng dạy, và chính do giáo pháp được giảng
dạy mà chúng ta tinh tấn tu trì. Chúng ta gặt hái công đức tùy theo sự
tinh tấn của mình và quả Bồ đề xứng lượng với công đức của chúng
ta, hoặc Sràvakabodhi (Thanh văn giác), Pratyekabodhi (Ðộc giác) hay Mahàbodhi
(Ðại bồ đề) (77).
Như vậy sự phân loại dựa lên trên
Àsaya (khuynh hướng) của từng cá nhân. Các hàng Thanh văn hay Ðộc giác bị
các nhà Ðại thừa khinh rẻ vì các vị này chỉ lo phần tự giác
(àtmaparinirvànàsaya) mà không hướng đến sự dắt dẫn người khác đến
Niết bàn, không kể đến tự thân. Vì các vị này chỉ hướng đến quả
vị A-la-hán mà thôi chứ không hướng đến quả vị Phật cứu độ cho muôn
loài, vì các vị này chỉ ao ước chứng được Dharmacaksu (Pháp nhãn) mà
thôi, nên các vị này là Hìnàdhimukti (nghĩa là khuynh hướng hạ liệt). Lý
tưởng tự giải thoát của các nhà Tiểu thừa đã bị tất cả học phái
Ðại thừa đả kích với những danh từ hết sức quyết liệt như ích kỷ
tâm linh (àdhyàtmika svàrthaparatva): Các nhà Ðại thừa, không có thiết thực
mấy đi nữa, cũng phải được tán thán bởi tâm nguyện Paràrtha, nghĩa là
hy sinh tự lợi để phục vụ lợi tha hay đặt phần tự lợi (78) dưới
phần lợi tha. Tập Sùtràlankàra (79) dùng một ví dụ rất quen thuộc để
chứng minh mục đích cao đẹp của Ðại thừa.
Yàtha punyam prasavate paresàm bhojanam
dadat.
Na tu svayam sa bhunjànas tathà punyamathodayah
(Như công đức tôn giáo được tác
thành nhờ cho kẻ khác đồ ăn chớ không phải nhờ ăn đồ ăn ấy, cũng
vậy các nhà Ðại thừa hưởng nhiều công đức hơn nhờ giúp ngư?i khác
chứng Niết bàn, chớ không phải chỉ lo Niết bàn cho chính mình như các
nhà Tiểu thừa).
Lý tưởng này của Ðại thừa được
tập Bhàgavata (80) đề cập đến khi Prahlàda nói rằng:
Pràyena devamunayah svavimuktikàmà
Maunam caranti vijane na paràrthanisthàt,
Naitàn vihàya krpanàn vimumuksa eko
Nànyam tvadasya saranam bhramato nupasye.
(Bạch Thế Tôn, nhiều khi các vị ẩn
sĩ muốn lo tự giác, theo hạnh im lặng trong rừng sâu, không dấn thân lo
đến lợi tha. Tôi không muốn chỉ lo phần tự giác mà bỏ quên những người
khác. Tôi không tìm thấy cho tự ngã khắc khoải của tôi một chỗ quy y
nào khác nơi Ngài).
Lý tưởng của các nhàÐại thừa chắc
chắn rất cao thượng và có sức hấp dẫn mọi người rất mạnh mẽ,
nhưng con đường thực hành để được giải thoát phải trải qua vô lượng
vô số kiếp, con đường ấy không thể hấp dẫn tất cả mọi người.
Các nhà Tiểu thừa không phủ nhận sự
phát nguyện thành Phật thật rất cao thượng, nhưng các vị này nghĩ rằng
đối với những người có công đức và khả năng kém xa các vị Bồ-tát
thời khuyên họ cố gắng tinh tấn để thành Phật thật là vô ích và
không thiết thực. Lời buộc tội các vị Thanh văn không có những hành động
lợi tha thật không chính xác. Câu kệ trong kinh Dhammapada (Pháp cú) (81):
Dhammadànam sabbadànam jinàti
(Bố thí pháp thắng hơn tất cả loại
bố thí),
và lời dạy trong tập Dìgha Nikàya
và trong Vinaya: (82)
"Caratha, bhikkahve, càrikam
bahujanahitàya bahujanasukhàya lokànukampàya atthàya hitàya sukhàya
devamanussànam"
(Hãy đi, này các Tỷ kheo, và truyền
thuyết chánh pháp, vì lợi ích cho số đông, vì hạnh phúc cho số đông,
vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chư thiên
và loài người).
Hai câu trên nêu rõ ràng các nhà Tiểu
thừa không phải ích kỷ như các nhà văn Ðại thừa miêu tả. Ðiều mà
các nhà Ðại thừa xem các vị Tiểu thừa là ích kỷ là vì các nhà Tiểu
thừa trước khi nghĩ mình có khả năng giải thoát cho các người khác, chỉ
sống trong phòng tu của mình mà lo phần tự độ. Chỉ sau khi chứng được
chánh tri kiến, các vị này mới tự xem là đủ khả năng để giúp đỡ
người khác chứng được trí tuệ tương tự. Nhưng trong khi các vị này
đang còn trong thời tu tập, nghĩa là trước khi chứng quả A-la-hán, các vị
này cũng đến thăm các nhà cư sĩ và giảng cho chúng những nguyên tắc cơ
bản của đạo Phật; và những vị trưởng thượng cũng thâu nhận và dạy
cho đệ tử tu tập những nguyên tắc cao siêu hơn về tôn giáo. Ðời sống
của các Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Chiên Diên, Ðại Ca Diếp
và các vị khác đã nêu rõ hành động vị tha (paràrthava) sau khi những vị
này chứng quả A-la-hán. Trong kinh Lohicca có nói rằng chánh pháp cần phải
được truyền bá, nếu không thì như vị vua tự thọ hưởng bao nhiêu bổng
lộc của quốc gia riêng cho mình (83).
Kinh Sùtràlankàra không bỏ lỡ cơ hội
này để chứng minh sự ích kỷ của các nhà Tiểu thừa. Tập này nói rằng
các hàng Thanh văn (Sràvaka) không dạy tín đồ phải phục vụ kẻ khác
(paràrtha) mà chỉ dạy làm thế nào cho tự thân chứng được nirvid (nhàm
chán thế tục), viràga (vô tham) và vimukti (giải thoát). Tập này kết luận
rằng một giáo lý dạy ích kỷ không thể trở thành lợi tha vì được dạy
cho kẻ khác, vì giáo lý ấy khuyến khích tự lợi, tự giải thoát. Do vậy,
giáo lý ấy là một yàna (thừa) ích kỷ (84).
Upadesa (giảng dạy)
và Prayoga (tinh tấn)
Như vậy tự nhiên Upadesa và Prayoga
tùy thuộc với Àsaya (khuynh hướng) (85). Một nhà Tiểu thừa không cần phải
phát triển Bodhicitta (Bồ đề tâm) và cố gắng tu các hạnh Ba-la-mật.
Các nhà Tiểu thừa không cần như các vị Bồ-tát phát nguyện đương chịu
sự đau khổ vô lượng kiếp ở địa ngục hay ở Yamaloka, làm con vật hay
con trùng để đưa tất cả chúng sanh đ?n nirupadhisesanirvànadhàtu (vô dư y
Niết bàn) (86). Sự điều hòa đời sống theo giới luật Pràtimoksa (giới
bổn), sự thực hành các bổn phận trong Bát chánh đạo và sự giác ngộ
lý Tứ đế và lý Duyên khởi là vừa đủ với các vị này. Sự nhận thức
thế giới không có tự ngã hay không có gì thuộc tự ngã là vừa đủ và
các vị này không cần phải tìm hiểu thực hành tánh của Sùnyatà (chơn
không), chân lý tối hậu.
Upastambha
(huân tập công đức)
Muốn trở thành một vị Bồ-tát, cần
phải có đủ công đức trong những đời trước. Trừ phi và cho đến khi
những công đức ấy đạt đến mức độ cần thiết do các nhà Ðại thừa
đòi hỏi, một chúng sanh không thể trở thành một vị Bồ-tát hay thu hoạch
được những lợi ích thiết thực của giáo lý Ðại thừa. Các nhà Tiểu
thừa có một quan điểm hoàn toàn khác hẳn. Theo tập Puggala Pannatti, người
nào phạm ngũ nghịch (ànantarika) thời không thể nào giải thoát được
(87), ngoài ra mọi người khác đều có thể giác ngộ, thời gian dài ngắn
tùy theo từng người. Do vậy nên không có đòi hỏi upastambha chất chứa
công đức trong phương trình giải thoát của Tiểu thừa. Tất cả mọi loại,
trừ năm loại ngũ nghịch trên, đều có thể giải thoát. Các nhà Tiểu thừa
đạt mục đích của mình bằng cách xa lánh các hoạt động thế tục, còn
các nhà Ðại thừa đạt mục đích trên bằng những hoạt động thế tục,
nhưng tâm trí luôn luôn không tham đắm thế sự.
Kàla (thời gian)
Vì các nhà Tiểu thừa không cần đến
upastambha và vì àsaya của những vị này chỉ là giải thoát chứ không phải
là thần lực đặc biệt của một đức Phật, nên thời gian (kàla) đòi hỏi
bởi một nhà Tiểu thừa để đạt mục đích tương đối ngắn hơn thời
gian của một vị Bồ-tát (88). Tập Sùtràlankàra gợi ý rằng một nhà Tiểu
thừa có thể đạt được mục đích trong ba đời. Ðây nói đến sự tin
tưởng của Tiểu thừa cho rằng trải qua bảy đời, có thể đạt được
mục tiêu, năm trong bảy đời này phải trải qua trong thánh quảDự lưu
(Srotàpanna) (89). Tập Sùtràlankàra trong khi tính đến số tái sinh để ra
ngoài bốn lần tái sinh dự bị cho giai đoạn Dự lưu cuối cùng. Cách
tính này đôi khi cũng được một số Tiểu thừa chấp nhận (90).
Sự sai khác giữa
Pratyekabuddha (Ðộc giác) với Sràvaka (Thanh văn) và Samyaksambuddha (Chánh đẳng
giác)
Dẫu cho các nhà Pratyekabuddha luôn
luôn được phân loại với các nhà Thanh văn là Hìnàdhimukta (hạ liệt),
các vị này được xem là trung phẩm (91). Các nhà Ðại thừa là thượng
phẩm, Uttama hay Srestha. Tập Pundarika nêu rõ địa vị tương đối của những
vị này như sau: "Các vị Thanh văn là những vị nghe theo lời dạy của
các người khác (paraghosàsravànugama), tự cố gắng để hiểu bốn sự thật
và chứng Niết bàn cho mình. Các vị Ðộc giác là những vị muốn tự kiềm
chế, muốn được an tịnh và trí tuệ nhưng không được sự giúp đỡ của
một vị tôn sư (anàcàryakam) và tự tìm Niết bàn cho mình sau khi hiểu
hetu (nhân) và pratyaya (duyên) nghĩa là lý nhân duyên. Các vị Ðại thừa
là những vị cố gắng đạt được Phật trí mà không cần đến một vị
tôn sư, tìm kiếm Phật lực để cứu tất cả chúng sanh, được giải thoát
an vui (92).
Tập Dasabhùmikasùtra đi sâu vào chi tiết
hơn và phân biệt ba hạng trên như sau: "Các vị Thanh văn là những vị
đã thành tựu viên mãn (paribhàvyamàna) mười thiện hạnh (Kusalakarmapatha)
nhờ trí tuệ của mình (prajnà), có một cìtta (tâm) chỉ có thể hiểu
được một phần sự thật, rất sợ hãi phải sinh trưởng trong ba giới
(dhàtu), tùy thuộc sự giáo huấn của người khác và không thể có lòng
đại bi (Mahàkarunà). Các vị Ðộc giác là những vị thanh tịnh hơn, thể
nhập sự thật không cần sự giúp đỡ của người khác, có thể hiểu
triệt để lý nhân duyên, nhưng các vị này cũng không có lòng đại bi. Các
vị Ðại thừa hay Bồ-tát là những vị thanh tịnh hơn nữa, đã thuần thục
phương tiện thiện xảo (Upàyakausalya), phát đại nguyện (mahàpranidhàna),
diệt trừ mọi phiền não, dùng Buddhajnàna (Phật trí) làm àlambana (y chỉ),
tự mình hoàn thiện trong các bhùmi (địa) và các hạnh Pàramita (Ba-la-mật),
đã chứng được tất cả 10 bala (Thập lực) và mọi quyền lực thuộc Phật
quả, và tâm Ðại bi được phát huy triệt để (93)".
Tập Madhyamakàvatàra và các tác phẩm
Ðại thừa khác cũng phân biệt giữa Thanh văn, Ðộc giác và Bồ-tát với
những đặc điểm như trên (94). Theo giáo sư Vallée Poussin, sự sai khác về
vấn đề hiểu biết lý nhân duyên giữa Thanh văn và Ðộc giác có tính
cách lý thuyết hơn là thực sự vì vấn đề này thuộc một phần của sự
thật thứ hai (Tập đế). Tập Abhidharmakosavyàkhyà (Câu xá luận thích) giới
thiệu sự sai khác một cách mới mẻ hơn. Giáo sư Poussin tóm tắt như sau:
"Vị A-la-hán, sau khi diệt trừ lòng vị ngã khỏi những tâm sở tác
thành bản ngã vị kỷ của mình, bắt đầu chú tâm đến công việc của
các người khác, sự chú tâm này phát sinh từ lòng từ bi và diệt tận mọi
khổ đau, người bậc trung (madhya), nghĩa là các vị Ðộc giác, chỉ mong sự
giải thoát, nghĩa là tận diệt mọi khổ đau, không phải hạnh phúc trong
đời sống luân hồi hiện tại, vì sự hạnh phúc tạm bợ này là cội gốc
của đau khổ. Vị thượng phẩm (Sretha), nghĩa là vị Bồ-tát muốn đem hạnh
phúc tạm bợ (àbhyudayika) cho người khác và cả sự diệt tận đau khổ
nghĩa là hạnh phúc tối thượng (nihsreyasa-svabhàva); hay vị này mong cầu
người khác được hạnh phúc tối thượng và hạnh phúc tạm bợ (sukham
àbhyudayika-naihsreyasikam) và cho mình sự diệt tận đau khổ nghĩa là Phật
quả như là một phương tiện để thực hiện hạnh lợi tha (95).
Tập Abhidharma-Kosa (Câu xá) nói về
tha tâm thông (para cittajnàna), tuyên bố rằng một vị Thanh văn thường chỉ
chứng được tha tâm thông khi các vị này ở trong hai sát-na của
darsanamarga (Kiến đạo), nghĩa là duhkhe dharmajnànaksànti (khổ pháp trí nhẫn)
và duhkhe dharmajnàna (khổ pháp trí), còn hàng Ðộc giác có thể biết thêm
sát-na thứ tám tức là Samudaye anvayajnàna (tri tùy sát tập hay tập loại
trí) (96). Hàng Ðộc giác có thể có một hay hai trí lực tương tự hơn một
vị Thanh văn nhưng quả vị (summun bonum) của cả hai đều giống nhau, đó
là lý do vì sao các nhà Ðại thừa xếp cả hai vị này vào trong một loại
tức là Tiểu thừa, các hàng Ðộc giác cũng là hàng Tiểu thừa nhưng thuộc
hạng trung phẩm.
Giáo sư Poussin, trong bài về Ðộc
giác (97) có nói lý do vì sao các hàng Ðộc giác có mặt trong văn học Phật
giáo. Theo giáo sư, đức Phật không ưa gì lắm đời sống ẩn dật của
những vị ẩn sĩ, những vị này sống đầy dẫy trong thời đại của Ngài.
Nhưng Ngài nhận thấy rằng những vị ẩn sĩ này có tất cả những đức
tánh của một vị A-la-hán, nếu không phải là nhiều hơn. Ðể thâu nhận
những vị này vào trong giáo hội Phật giáo, để đặt cho những vị này
một vị trí trong thế giới tâm linh của Phật giáo, quan niệm các vị Ðộc
giác được chấp nhận vào trong văn học Phật giáo. Những vị này được
xem là những Phật tử tân tòng nhưng không thể chứng quả A-la-hán khi
tôn giáo còn hoạt động; do vậy các vị này tiếp tục tiến bước trong
đời sống tu hành trí đức và kết quả là các vị này do tự lực đã
chứng được sự thật như đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chứng (98). Vì
đời sống cô độc của mình, vì không bao giờ có vị tôn sư hay vị hướng
dẫn (kalyànamitra), và rất chán ghét sự tiếp xúc với người đời, các
vị này không thể phát triển năng lực diễn giảng, năng lực này các vị
A-la-hán có thể chứng được đôi phần.
Quan niệm các vị Ðộc giác được nói
đến nhiều trong văn học Pàli về sau hơn là trong các tập Nikàya. Tập
Milindapanha (99) so sánh những năng lực của vị Ðộc giác với đức Phật
và nêu rõ địa vị trung dung của vị Ðộc giác giữa đức Phật và vị
A-la-hán. Tập Majjhima Nikàya và tập Lalitavistara nói đến các vị Ðộc
giác như những vị ẩn sĩ sống ngoài giáo hội Phật giáo, không phải
trong địa vị trung dung giữa vị A-la-hán và đức Phật (100). Tập
Puggalapannatti (101) nêu rõ rằng cả đức Phật và các vị Ðộc giác chứng
được sự thật, không nhờ một ai chỉ giáo nhưng các vị Ðộc giác
không chứng được toàn tri và không nhiếp phục các quả vị (phalas)
(102). Các nhà Tiểu thừa không phủ nhận địa vị tối thượng của đức
Phật trên các vị A-la-hán và Ðộc giác (103) về quyền lực khả năng,
nhưng một đức Phật chỉ ra đời sau rất nhiều kiếp (104), nên các vị
này không mấy chú tâm về năng lực của một đức Phật và vấn đề chứng
ngộ Phật quả. Tuy vậy, tập Milindapanha tả uy lực đặc biệt của một
đức Phật, với những danh từ tương tự của các nhà Ðại thừa, nhưng
tập này chỉ đề cập đến đức Phật Thích Ca Mâu Ni và một số đức
Phật khác được các nhà Tiểu thừa nói đến chớ không phải vô lượng
vô số chư Phật của các nhà Ðại thừa.
Sai biệt chủng
tánh (Gotrabheda): Nguyên nhân chính về chí nguyện sai khác giữa mọi người
Tập Sùtralankàra (105) trả lời câu hỏi
vì sao giữa những đệ tử của đức Phật lại có những người có chí
nguyện thượng, trung, hạ sai khác nhau. Câu hỏi này đưa đến sự bàn luận
về vấn đề gotrabheda, sự sai khác về thứ hạng và sự nghiên cứu lời
tuyên bố trong tập Aksaràsisùtra. Tập này nói rằng vì những phần tử
tác thành một cá nhân sai khác nhau nên có vô lượng dhàtu (giới) sai
khác. Tập này chia chúng sanh thành ba loại: Niyatagotra (định tánh),
aniyatagotra (bất định tánh) và agotra (vô tánh).
Hạng đầu gồm những vị, nhờ công
đức đời trước hay vì xu hướng nội tâm, sau này sẽ trở thành
Sràvakayànàbhisamayagotra (Thanh văn thừa loại tánh),
Pratyekabuddhayànà-bhisamayatotra (Ðộc giác thừa loại tánh) hay
Tathàgatayànà-bhisamayagotra (Như lai thừa loại tánh). Hạng thứ hai gồm những
vị còn ở lưng chừng và có thể trở thành Tiểu thừa hay Ðại thừa. Hạng
thứ ba gồm tất cả chúng sanh còn lại, và hạng này lại còn chia thành
hai loại (I) những vị không thể nào chứng được Niết bàn (atyantam), và
(II) những vị hiện tại (tatkàla) chưa có thể chứng Niết bàn. Trong những
vị Nigatagotrasthas (định tánh), chính những dhàtu (giới) quyết định về
adhimukti (phát nguyện), còn adhimukti quyết định pratipatti (quả chứng), và
chính tùy thuộc các bìja (chủng tử) mà kết quả trở thành hìna (hạ),
madhya (trung) và visista (thượng). Các hàng Thanh văn thấp thua hàng Bồ-tát
vì hàng Thanh văn không có những công đức xuất chúng, cũng không có một
loại công đức nào, vì các hàng thanh văn thiếu năm sức mạnh (bala) và
sáu vaisàradyas (vô úy) (107). Tuy vậy các công đức của các vị này không
được vĩnh viễn trường tồn vì các vị này chỉ mong cầu chứng được
anupàdisega-nirvàna (vô dư y Niết bàn). Các công đức lại không đưa đến
những kết quả to lớn vì các hàng Thanh văn không có phục vụ hoàn toàn
cho lợi ích của người khác (aparàrtnatvàt).
Tập Lankàvatàra (108) cũng nói đến các
gotra (tánh) và chia thành năm hạng người (abhisamayagotra) (phân loại hạng
người tùy theo kết quả giác ngộ), nghĩa là Sràvakayànà- bhisamayatotra,
Pratyekabuddhàyànà-bhisamayatotra, Tathàgatayànà-bhisamayagotra (109), Aniyatagotra
(bất định tánh) và Agotra (vô tánh). Các hàng Sràvakayànà-bhisamayagotra là
những người mê say bởi lời dạy về tính cách linh động của những phần
tử tác thành thân thể (skandhadhàtuyàyatanasvasàmànya-laksana) uẩn giới xứ
tự đồng tướng và cũng nhận thức được đặc tánh của sự vật liên
hệ đến lý Duyên khởi (pratityasamutpàda-vinirbhàga-laksanaparicaye). Trong khi
ở trong bhùmi (địa) thứ năm hoặc thứ sáu, những vị này giải thoát khỏi
những đau ốm về tương lai, nhưng không khỏi các vàsanà-klesa (phiền não
tập khí) (110). Các vị này đạt đến một địa vị không còn thối chuyển
và do đó, tuyên bố mình đã sống đời một vị thánh, chứng được tánh
vô ngã của cá nhân, đạt đến Niết bàn và không còn phải luân hồi
sanh tử.
Vị tác giả tập Lankàvatàra ở đây
nói thêm rằng có hạng Thanh văn tự cho đã đạt đến Niết bàn nhờ chứng
được tánh vô ngã của cá nhân, và một vài vị cho rằng nhờ hiểu được
lý nhân duyên chi phối sự vật, nhưng sự thật không thể nào có Niết
bàn nếu không chứng được tánh vô ngã của sự vật (dharmanairàtmya).
Các vị này xem đó là cửa giải thoát (nìryàna) nhưng sự thật không phải
vậy và do đó còn nắm giữ một phần trong nhiều tà kiến. Các vị
Pratyekabuddhayànàbhisamayagotras là những vị đã mê say khi nghe đến các
kinh nói đến sự giác ngộ đặc biệt của từng cá nhân, không ưa thân cận
với người khác, và rất thích thú các thần thông. Các vị
Tathàgatayànàbhisamayatora, theo tập Lankàvatàra, có ba hạng: (I) những vị
đã chứng ngộ tánh vô ngã của những loại gọi là hữu tình, (II) những
vị cho rằng sự giác ngộ sự thật chỉ xảy ra trong tự thân, và (III) những
vị đã chứng được sự vĩ đại của Phật sát (Buddhaksetra).
Các vị Aniyatagotra (bất định tánh)
là những vị theo một trong ba tánh kể trên khi được nghe giải thích.
Các vị này thật sự ở trong giai đoạn dự bị. Khi Àlayavijnàna (A lại
da thức) của những vị này được gội sạch mọi klesa (phiền não) và
Vàsanà (tập khí); các vị này trở thành Thanh văn hay Bồ-tát sau khi thọ
hưởng hạnh phúc tu thiền nhờ chứng được tánh vô ngã của sự vật.
Các nhà Tiểu thừa cũng chấp nhận sự phân loại này nhưng với một ý
nghĩa sai biệt. Tập Puggalapannatti và tập Kosa nói đến niyata và
aniyatapuggala (Ðịnh tánh và bất định tánh hữu tình), những theo hai tập
này, các hạng Niyata (định tánh) là hạng người vì phạm năm tội ngũ
nghịch nhất định phải có tà kiến hoặc những bậc đã chứng một
trong tám quả Thánh và nhất định sẽ đạt đến Niết bàn, còn các loài
hữu tình còn lại thuộc bất định tánh, nghĩa là đời sống của các hạng
này chưa được quyết định (111).
Danh từ Gotrabhù (Chuyển tánh) chiếm
một địa vị trọng yếu trong phương thức giải thoát của Tiểu thừa.
Danh từ này chỉ cho một người lần đầu tiên bước vào con đường dẫn
đến Niết bàn sau khi ra khỏi hàng ngũ phàm phu (puthujjana) (112). Sau khi tu
trì phần tâm linh, một người mới trở thành Gotrabhù, sau một sát-na bước
vào thánh đạo, nhận thức được khổ đế thứ nhất trừ diệt các nghi
vấn và sai lầm, thể nhận đư?c Niết bàn và bắt đầu thi hành những bổn
phận trong Bát chánh đạo. Vị này trở thành một vị Arya (Thánh) và đủ
điều kiện để chứng được quả vị cao nhất trong các bậc Thánh.
Chính trong ý nghĩa này mà tập Satasàhasrikà (thiên bách tụng) (113) cũng dùng
danh từ Gotrabhùrastamaka trong khi nói đến các thứ bậc tu hành, trong ấy
các loài hữu tình muốn đạt đến hạnh phúc hoàn toàn cần phải an trú.
Tiểu thừa bị Ðại
thừa công kích
Nay rõ ràng các nhà Ðại thừa xem
các nhàTiểu thừa như các tôn giáo và triết gia ngoại đ?o của các vị
Brahmavàda (tin theo Phạm thiên) và các vị Sàsvatavàda (thường kiến). Kinh
Brahmajàlasutta (Phạm võng kinh) tuyên bố một số người trở thành
Brahmavàda hay Sàsvatavàda, không phải vì tà kiến riêng nhưng bởi vì chúng
không có thể nghĩ gì cao hơn Phạm thiên hay xa hơn vài ngàn đời. Chính đức
Phật đã vượt qua giới hạn ấy và đã tìm ra những khuyết điểm của
chúng (114). Do vậy chúng ta thấy có một sự phát triển tiếp tục về tư
tưởng và những tân tư tưởng gia, những nhà Ðại thừa đã xem tất cả
những lời tuyên bố gán cho đức Phật dưới một ánh sáng hoàn toàn mới
lạ. Một khi một tư tưởng giới cao hơn đã đạt được, thời mọi lời
tuyên bố tự nhiên được giải thích từ tư tưởng giới cao ấy. Các
nhà Ðại thừa thương hại các nhà Tiểu thừa vì những hiểu lầm của họ
cũng như các nhà Tiểu thừa thương hại các nhà Brahmavàda hay Sàsvatavàda.
Theo các nhà Tiểu thừa, Niết bàn đánh
dấu một địa vị cao hơn địa vị của Phạm thiên (115). Còn theo các
nhà Ðại thừa thời Niết bà chỉ là một sự thử thách tạm thời, còn
Niết bàn chân thật thời cao thượng hơn trạng thái Niết bàn do các nhà
Tiểu thừa nhận thức, cho nên các nhà Tiểu thừa được các nhà Ðại thừa
thương hại vì quan niệm và lý tưởng thấp kém của họ. Theo quan niệm của
các nhà Ðại thừa, các vị Tiểu thừa giống như những đứa trẻ chơi với
các đồ chơi nhưng không có thể nhận thức được sự thật. Tập Kàsyaparivarta
(116) nói rằng giống như những người con trai của bà hoàng hậu với một
người nghèo không được xem là hoàng tử. Còn những người con trai của
một vị vua với bà hoàng hậu hay với một thị tỳ nào cũng được xem là
hoàng tử. Cũng vậy các nhà Tiểu thừa có thể là kết quả cùng một
pháp giới (117) như các nhà Ðại thừa nhưng không có thể được xem là
trưởng tử của đức Phật, giống như con trai của hoàng hậu với một
người nghèo không được xem là hoàng tử.
Tập Prajnàpàramità cũng lặp lại vấn
đề này và nói rằng trí tuệ của một vị đã hoàn thành Bát nhã Ba-la-mật
không thể so sánh với trí tuệ của một nhà Thanh văn đệ nhất. Tập
Lalitavistara (118), tập Kàsyapa parivarta (119) và các tập khác đều nhấn mạnh
về điểm một vị Bồ-tát phải phát triển Asprhà (không ham muốn) đối
với Tiểu thừa. Tập Bodhicaryàvatàra (120) nghĩ rằng: tất cả công đức
của các vị Thanh văn không có thể sánh bằng những công đức của một
vị Bồ-tát đã phát Phật tâm. Còn tập Siksàsamuccaya (121) xem là một
mùlàpatti (tội căn bản) nếu một vị Bồ-tát hoặc giao thiệp với một
vị Thanh văn, vì như vậy sẽ làm trí tuệ của vị này trở thành muội lược,
hay giảng Ðại thừa cho một người mà căn bản thiện pháp (kusalamùla)
không đủ để vị này có thể theo được giáo lý Ðại thừa (123) và vị
Bồ-tát này sẽ phạm một trọng tội nếu phát tâm hướng đến Thanh văn
địa hay Ðộc giác địa (123). Tập Gandvyùha (124) kể một danh sách rất
dài những khuyết điểm của một vị Thanh văn so sánh với một vị Bồ-tát
và nêu rõ rằng các nhà Thanh văn không hiểu rõ được những hành động
của đức Phật ở tại Jetavana (Kỳ viên). Những nguyên nhân đề cập đến
là vì trí tuệ của một đức Phật vượt ngoài tầm hiểu biết của các
nhà Thanh văn. Jnanacaksu (tuệ nhãn) của những vị này yếu ớt không thể
thấy được những hành động của đức Phật. Tập Prajnàpàramità (125)
và tập Siksàsamuccaya (126) xem các nhà Thanh văn như là ác hữu khác với
thiện hữu của những vị Bồ-tát vì các nhà Thanh văn khuyên các vị Bồ-tát
nên bỏ con đường Ðại thừa, một con đường giải thoát rất khổ cực
và không tưởng, đòi hỏi một thời gian quá dài và khuyên theo con đường
giải thoát Tiểu thừa là một một con đường thiết thực tốt đẹp hơn
và đòi hỏi một thời gian ngắn hơn nhiều. Tập Pundarika (Pháp hoa) (127) gọi
các nhà Tiểu thừa là Abhimànika (tự phụ) vì các vị này không tin các lời
tuyên bố của tập này.
Dù cho có sự cố gắng để chỉ trích
Tiểu thừa trong hầu hết các tác phẩm Ðại thừa, các tập này không thể
phủ nhận công trình của các nhà Tiểu thừa trên con đường tu hành, nhất
là sự tiến triển đạo đức. Theo tập Pundarika (128) trong một Buddhaksetra
(Phật sát) có vô lượng vô số Thanh văn và những vị này rất tinh tấn
và giống như những hòn ngọc không tì vết trong sự hộ trì giới luật.
Sự khinh miệt dharma của các nhà Thanh văn và các nhà Ðộc giác được
xem như là một tội căn bản (mùlàpatti) đối với một vị Bồ-tát (129).
Tập Siksàsamuccaya (130) và tập Bodhicaryàvatara (131) khuyên các vị Bồ-tát
phải kính trọng Thanh văn thừa và Ðại thừa ngang nhau.
Tập Bodhisattvabhùmi (132) xem là một tội
phạm nếu một vị Bồ-tát nghĩ rằng vị này không nên nghe, không nên học,
không nên thực hành những pháp liên hệ đến Thanh văn thừa. Chúng ta thường
thấy những vị Bồ-tát đến các vị Thanh văn (133) để nghe thuyết pháp.
Và điều rất kỳ dị là Subhùti (Tu Bồ Ðề) lãnh trách nhiệm thuyết giảng
triết lý Sùnyatà (chân không) trong những tập Prajnàpà ramità. Như vậy rõ
ràng rằng trong những giai đoạn đầu tiên của Ðại thừa, các nhà Thanh
văn rất được kính trọng. Ðiểm này cũng rất rõ ràng trong công thức
đảnh lễ mở đầu cho những tác phẩm Ðại thừa đầu tiên. Công thức
này nói đến đảnh lễ chư Phật, chư Bồ-tát và các vị Thanh văn nữa.
Trong một vài tác phẩm Ðại thừa về sau, công thức này được rút ngắn
đi. Các tập Satasàhasrikà, Saddharmapundarika và Lalitavistara có công thức như
sau: "Namah sarvatathàgata- pratyekabuddhàryasràvakebhyo v.v...." Công thức
này được rút ngắn trong tập Siksàsamuccaya, Sùtràlankàra và tập
Mahàvyutpatti như sau: "Namah sarvabuddhabodhisattvebhyah".
Như vậy các tác phẩm Ðại thừa đều
công nhận sự tiến bộ của các nhà Thanh văn trên con đường tu hành và
đời sống đạo đức của những vị này cũng được tán thán. Chỉ có
lý tưởng của vị Thanh văn và quan niệm kém siêu hình của những vị
này đối với sự vật không được các nhà Ðại thừa tán đồng và do vậy
những qui luật đao đức và quan điểm triết lý của những vị này được
các nhà Ðại thừa xem là thiếu sót và nông cạn.
-ooOoo-
CHÚ THÍCH CHƯƠNG HAI
1- Xem Vinaya, Mv; i.5. 17; Mtu; III, tr.331,
345
2- Sogen trong quyển Systems of Buddhistic
thought (trang 7 v.v...), xem Sarvam anitiyam, Sarvam anàtmam và Nirvànam sàntam như
là ba nền tảng mà cả Tiểu thừa và Ðại thừa dựa lên. Sự thật vô
thường và vô ngã không được quan điểm chân không và chân như của Ðại
thừa chấp nhận là sự thật tuyệt đối. Thật ra Sarvam tathàtvam đã thay
thế cả hai trong Ðại thừa.
3- M. Vr. Tr.521; Burnouf, Intro, tr. 519.
4- Itiv, tr.37; Ud, tr.80.
5- Sata; tr. 120: Nàmamàtram idam yaduta
Buddha iti.
6- Lankà tr.19: Alabdhàtmaka dharmàh
katame yaduta Sasakharostra - vàjisana- vandhyàputra prabhrtayo dharmàh.
7- Sata; trl118: rùpam được xem ở đây
nghĩa là dùng chữ nào thay cũng được. Trong tập pàncavimsati.
"Màyà" được dùng thế cho Sùnyatà trong công thức giống như trên.
8- M. Vr, tr.248.
9- Sùtra. tr.76. Trong tập
Vijnaptimàtratà Sùnyatà cũng là bhùta-tathatà.
10- Xem, Dìgha I, tr.118; Anesaki dùng chữ
Tathàgato thay vì chữ "Buddha" thật có ý nghĩa.
11- Lankà, tr.96:Catustaya-vinirmuktà
tathàgatànàm dharmadesanà yadutaikatvànyatvobhayànubhayapaksa-vivarjità
nàstyasti-samàropàpavàdavinirumktà.
12- M. Vr; tr.446-447: 14 vấn đề bất
khả thuyết được chú giải.
13- Xem Lankà; tr.96.
14- M. Vr; chương I và XXIV; xem infra. Chương
III (d).
15- Xem chi tiết Chương III (d).
16- Nàgàrjnuna cũng xem Pratìtyasamutpàda
như là Sùnyatà; xem M. Vr; tr.503, 542:yah pratìtyasamutpàdah sùnyatàm
pracaksmahe.
17- Majjhima, I, tr.191; Samyutta, III.
tr.120; Itiv; tr.92; Sad, San (J.P.T.S), 1890, tr.69; Mil; tr.71; Dìgha, II, tr.154:
Bodhic; tr.386; M Vr; tr.6, 160; Sàlistambasùtra, tr.70.
18- Asta; tr.3; Panca; tr.1; Bodhic; tr.430.
19- Xem Panca; tr.167a; Bodhic; tr.431. Cần
để ý rằng sự hoàn toàn trong Prajnàpàramità có nghĩa là sự chứng ngộ
được tuyệt đối qua sự thấu hiểu tánh không của mọi vật.
20- Sad.P; tr.46.
21- Ibid. tr.143.
22- Sad. P; tr.41 và xem Siksà; tr.95-96:
"Ta chưa bao giờ thuyết chánh pháp trong những hình thức phân biệt, một
cho Thanh văn, một cho Ðộc giác và một cho Bồ-tát".
23- Vallée Poussin trong bản dịch Pháp
ngữ tập Le Musé, VIII (N.S), tr.271: "Ce point est enseigné par (Nàgàrjuna)
notre maitre, quand il dit: "Le Granđ Véhicule la destruction; c’est la même
vacuité dans la sens de destruction et de non-naissance".
24- Sùtrà; tr.68-70.
25- Cf. Kàs . P. tr.116, 80; Kàrikà
(A.S.B. ms), tờ 2a Dharmadhàtor asambhedàt gotrabhedo nayujate. Àdheyadharmabhedàt
tu tad bhedah parigìyate.39.
26- Sùtrà; tr.69, v.54
27- Giáo sư Lévi sửa lại bản chính
"Anàtmanibaddhàsaya" thành "àtmani bhddhàsaya". Xem bản dịch
của Giáo sư, tr. 125 v.v...
28- Sùtrà; tr.70; tam avasthàtrayastham
samdhàyoktam Bhagavatà Srìmàlàsùøtre, sràvako bhùtvà pratyekabuddho bhavati
punas ca Buddha iti.
29- Lankà; tr.65, 243.
30- Lankà; tr.133:
Ekàyanamàrgàdhigamàvabodhah katamo yaduta gràhyagràhakavikalpa-
yathabhùtàvàsthànàd spravrtter vikalpasyaikayànàvabodhah. Cũng xem trang 155.
31- Xem bài của ông về Ðại thừa
trong tập Eastern Buddhist, I,II, tr.1 -2.
32- Quan điểm của các nhà học giả
Nhật Bản lấy từ bài của ông Amstrong: "Biện luận về nguồn gốc của
Ðại thừa Phật giáo" trong tập The Eastern Buddhist, IV, I.
33- Sùtrà; tr. 3, 4. Ðoạn này được
bản sớ giải Trung Hoa của tập Thành Duy Thức để chứng tỏ sự chính
xác của Ðại thừa.
34- Về bị chú vấn đề Anàgatabhayas,
xem bản dịch Pháp văn của ông Lévi, tập Sùtrà; tr. 6, 7 v.v....
35- Bodhic; tr. 431: Yac ca sùtré ‘
vatarati, vinaye ca samdrsyate, dharmatàm ca ca na vilomayati, tad Buddhavacanam nànyad.
36- Xem quyển Early History, tr. 207, về
một thảo luận đầy đủ chi tiết của sự phân loại các Tỷ kheo thuộc
một học phái.
37- Suzuki, Outlines of Buddhism, tr. 16.
38- Hiển nhiên ông Kimura đã đề cập
đến Chân đế và Tục đế.
39- Asta; tr.33.
40- Học phái thứ hai này không được
đề cập riêng biệt trong phân loại của Thiên thai tôn, T. Richard, New
Testament of Higher Buddhism, tr.41.
41- Xem T. Richard, tr.4; ở đây chữ
"Giáo lý" hay "Pháp" được dùng thay cho danh từ "Phật
giáo".
42- As. Res; XX, tr.399, 400.
43- Xem Tự phần Panca. Về thời gian của
tập Prajnàpàramità sớm nhất.
44- Sogen, Systems of Buddhistic Thought,
tr.l173.
45- Xem Eastern Buddhist, IV.
46- So sánh Hardy, Manual of Buddhism,
tr.312.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi đức Phật rằng
các hàng Thanh văn như mình có thể thành Phật không, đức Phật trả lời
không, nói rằng các hàng Thanh văn phải thành tựu các hạnh Ba-la-mật.
47- Sad. P, tr.64-5.
48- Sad. P, tr.36, 38, 60, 61; Sata; tr.502.
49- Sad. P, tr.65, 144, 148, 150, 152, 201.
Ngài Xá Lợi Phất, sau khi theo chánh
pháp của vô lượng Phật, đảnh lễ các vị này và thực hành hạnh Bồ-tát,
sẽ thành đức Phật Padmaprabhà, và ngự trị trên Phật sát tên là
Viraja...
50- Sad. P, tr.100, 101.
51- Sad. P, tr.186 v.v...
52- Ibid, tr.188.
53- Majjhima, I, tr.160 - 175; Dìgha II,
tr.36.v.v...
54- Xem chương III (d) về Tục đế và
Chân đế.
55- Majjhima, Àsayànusayam viditvàdhammam
deseti v.v...
56- Dìgha, I, tr.148; Vinaya I, tr.15
.v.v...
57- Kalpakasàya, Sattvakasàya,
Klesakasàya, Drstikasàya Àyukasàya. Sad. P; tr.31, 43.v.v...
58- Sad. P; tr.48; Dìgha, Brahmajàlasutta.
59- Theo Tiểu thừa: khổ, tập, diệt,
đạo là Sàmukkamsikà dhammadesanà (Xem Majjhima I, tr.350), nhưng theo tập Sad.
P; (tr.60) Buddhajnàna chính là Sàmutkarsikì dharmadesanà.
60- Sad. P; tr.55 - 57, 60.
61- Ibid, tr.59: Bahùni samdhàvacanchi
coktam durbodhyam etam hi asiksitehi.
62- Ibid; tr.19, 31, 70.
63- Sata; tr.121 - 2.
64- Sad, tr.71.
65- Nên để ý sự tương phản trong
nguyên bản. Tập này nay công nhận các hàng Thanh văn đầy đủ những đức
tánh, chính những đức tánh này mà các tác phẩm khác đã chỉ trích các
hàng Thanh văn là thiếu sót thua các vị Bồ-tát và không thể hiểu giáo
lý Ðại thừa.
66- Sad. P; tr.46.
67- Ibid; tr.124.
68- Ibid; tr.140.
69- Ibid; tr.55.
70- Thí dụ này cũng được nói đến
trong tập Lankà, tr.88.
71- Sad. P; tr.71 - 76.
72- Liệt kê xem Mvyut.7 - 9.
73- Sùtra; tr.171.
74- Trong tập Pug. P; tr.26, danh từ
Hìnàdhimutta chỉ cho một người bất thiện làm các hành vi ác độc và phụng
sự cho những hạng người tương tự. Danh từ trái lại là Panìtadhimutta,
nghĩa là một người có đạo đức làm các thiện sự và phụng sự cho những
người tương tự.
75- Xem Mvyut; tr.52; Dasa; tr.25.
76- Sùtra; tr.4.
77- Cf. Lal. Vis; P.34: àsayao
dharmàlokamukham Hìnayàna-sprhanatà-yai samvartate. Adhyàsayo dharmàlokamukham
udàrabuddhadharmà-dyàlambanatàyaisamvartate.
78- Siksà; tr.17.
79- Sùtra; tr.52.
80- Bhàgavata VII, IX, 44
81- Dh. P; tr.354.
82- Dìgha, II tr.45.
83- Dìgha, I tr. 229
84- Sùtra; tr.4.
85- Siksa; tr.4: những ai có Adhyàsaya
thanh tịnh thực hành các hạnh Ba-la-mật; những ai thực hành các hạnh
Ba-la-mật được an trú trong Ðại thừa.
86- Panca; tr.81b.
87- Tuy vậy có một vài trường hợp
rải rác nói rằng các vị phạm ngũ nghịch vẫn có thể giải thoát. So
sánh tập Divyà; tr.261: kẻ giết cha sẽ không được một vị Tiểu thừa
cho thọ giới nhưng được một vị Tỳ kheo thọ giới Bồ-tát cho phép thọ
giới. Siksa; tr.17-18 nói rằng không một ai phạm tội ngũ nghịch có thể
phát tâm hướng đến Thanh văn giác hay Ðộc giác.
88- Xem Kosa, III, d - 94a;
89- Về các chi tiết xem chương IV.
90- Sùtra, tr.4.
91- Sùtra; tr.4 và 168. Sách Sad. P;
tr.140.
92- Sad. P; tr.80.
93- Dasa; tr.25-26
94- M. Ava trong tập Le Muséum (N.S) VIII,
tr. 252.v.v...
95- E.R.E. II tr.740
96- Kosa Vii, 6.
97- E.R.E. X, tr.152-154.
98- E.R.E. X, tr.152
99- Mil; tr.160.
100- Majjhima III; tr.86.
101- Pul. P; tr.14 và 73.
102- So sánh Pug. P; tr.70. Ðoạn này
nói rằng Ngài Xá Lợi Phất, Mục kiền Liên và các vị khác được xem là
đã chứng sự thật từ trước, chưa từng được nghe vàdiệt tận mọi
khổ đau nhờ chứng ngộ chánh pháp.
103- Xem Samuyutta III; tr.65-66.
104- Dìgha II; tr.136 và tr.2.
105- Sùtra; Chương III
106- Ibid trang 10 v.v...
107- Xem chú thích của giáo sư Lévy về
những chữ này trong bản dịch Sùtra, tr.26-27 của ông.
108- Lanka; tr.63-65.
109- Ba loại này được gọi là
Niyata-gotra.
110- Vàsanà: những dấu vết để lại
trong tâm trí bởi các hành vị thiện hay ác, những hành vi này tạo ra khổ
hay lạc.
111- Pug. P; tr.13; Kosa, III. 44c,
tr.137-138.
112- Majjhima III; tr. 256.
113- Sata; tr.1263.
114- Dìgha I, tr.12 v.v... II, tr.251.
115- Dìgha I, tr.223.
116- Kàs. P; tr.116 (80).
117- Cf. Sutra; tr.68.
118- Lal, Vis; tr.34.
119- Kàs. P; tr.50 và 115.
120- Boddhic, tr.18 và 48.
121- Siksa; tr.54 và 59.
122- Boddhic; tr.146 -147.
123- Siksa; tr.17 và 50
124- Gandavyùha; tr.9d.
125- Sata; tr.1185 v.v... Kàs. P; tr.50.
126- Siksa; tr.54.
127- Sad. P; tr.43.
128- Ibid; tr.24, 282, 285, 320.
129- Siksa; tr.54 và 59. Boddhic; tr.146
-147.
130- Siksa; tr.92. Boddhic; tr.146.
131- Boddhic; tr.146.
132- Xem Revue de L’histoire des Religions;
1909; tr.3.
133- Trong tập Gandavyùba có nói đến
Ngài Sudhanu đến yết kiến rất nhiều vị Thanh văn để học những bổn
phận của một vị Bồ-tát.
Mục lục
| 1.1 | 1.2
| 2.1 | 2.2
| 3.1 | 3.2 | 3.3 | 3.4 | 3.5 | 4.1 | 4.2 | 5