- ÐẠI THỪA VÀ SỰ
LIÊN HỆ VỚI TIỂU THỪA
- Nguyên tác: Nalinaksha Dutt
CHƯƠNG BỐN
NHỮNG GIAI ÐOẠN TRÊN CON ÐƯỜNG TIẾN TRIỂN TÂM LINH
Sự sai biệt giữa Tiểu thừa và Ðại thừa, như đã
được xem, xoay xung quanh quan điểm đệ nhất nghĩa đế. Theo Tiểu thừa,
đệ nhất nghĩa đế là Pudgala-sùnyatà (Nhân không), còn theo Ðại thừa,
thì cả Pudgalasùnyatà và Dharma-sùnyatà (Pháp không). Sự sai khác này cũng
rất rõ ràng trong những giai đoạn trên con đường tu hành do hai học phái
này vạch ra. Các nhà Tiểu thừa công nhận có bốn giai đoạn gọi là
Sotàpatti (Dự lưu), Sakadàgàmi (Nhất lai), Anàgàmi (Bất lai) và Arahatta
(A-la-hán) và nêu rõ những quả chứng một người tu hành thành đạt, khi
đi từ giai đoạn này đến giai đoạn khác, và cuối cùng chứng được toàn
tri mà theo các nhà Tiểu thừa giống với toàn tri của chư Phật. Các nhà
Ðại thừa cũng vậy, công nhận có 10 giai đoạn (theo Bzdohisattvabhùmi, Bồ-tát
địa) trên con đường tiến triển tâm linh, mà một vị Bồ-tát phải trải
qua để giải thoát hoàn toàn và thành Phật.
Vì các nhà Ðại thừa chủ trương phải
quán Dharmasùnyatà mới giác ngộ hoàn toàn và quán Pudgalasùnyatà sẽ đưa
người tu hành đến những quả chứng cao hơn và cuối cùng chứng được
Pháp không. Vì vậy các nhà Ðại thừa chia những giai đoạn tu hành của
mình thành hai phần. Phần đầu gồm có sáu địa đưa người tu hành chứng
được Nhân không. Phần thứ hai, gồm bốn địa sau giúp chứng được Bồ
đề cứu cánh tức là Pháp không hay Pháp bình đẳng tánh (Dharmasamatà). Như
vậy, phần đầu thỏa mãn chí nguyện của vị Tiểu thừa và tương
đương với 4 giai đoạn tu hành Tiểu thừa, còn phần thứ hai vượt ngoài
tầm các nhà Tiểu thừa vì các vị này không chấp nhận Dharmasamatà.
Ðây là vị trí tương đương giữa
Tiểu thừa và Ðại thưa về những giai đoạn trên con đường tiến triển
tâm linh của hai học phái. Nhưng chúng ta cần thêm vào nhiều đặc tánh
sai biệt khác mà các nhà Ðại thừa nhắc đi nhắc lại nhiều lần, vì mục
đích của các nhà Ðại thừa không phải chỉ lo hạnh phúc và giải thoát
cho mình mà còn phải giúp vô lượng chúng sanh đau khổ được hạnh phúc
và thoát khỏi mọi đau khổ thế gian dù phải hy sinh thân mạng và công đức
tu hành của mình. Do vậy, khi giải thích chi tiết các quả chứng cần thiết
cho một địa (bhùmi), các tác phẩm nêu rõ những tiến triển mà một vị
Bồ-tát chứng được về Àsaya (khuynh hướng), Upadesa (Luận nghi), Prayoga
(Tạo tác), Upastambha (chỉ trì), và Kàla (thời gian), cũng như về Àhàra
(thực), Linga (Căn tướng) và Nimitta (tướng) (Bodhisattvabhùmi, tr.2) Nếu những
đặc tướng thêm vào của Ðại thừa về sáu địa đầu để ra ngoài, thời
chúng ta có thể xem sự diễn tả 6 bhùmi đầu chỉ là một hình thức phạm
ngữ hóa của những đoạn văn Pàli nói đến các Thánh quả. Do vậy, Ðại
thừa thiết thực thêm vào chỉ có bốn địa sau, tức là Dùrangamà (Viễn
hành địa), Acalà (Bất động địa), Sàdhumati (Thiện huệ địa) và
Dharmameghà (Pháp vân địa).
Văn
học về vấn đề này
Nói đến văn học về vấn đề này,
văn học Pàli không có tác phẩm nào đặc biệt nói đến những giai đoạn
đưa đến Thánh quả. Vấn đề được đề cập đến rải rác trong kinh
điển Pàli cũng như trong một vài tác phẩm Sanskrit của Nhất thế hữu bộ.
Ngài Buddhaghosa trình bày những thứ bậc tu hành trong tập Visuddhimagga.
Ngài chia thành ba đoạn, đoạn thứ nhất nói về Sìla (giới), nhờ giữ
giới một cách hoàn toàn mà chứng được hai giai đoạn Sotàpatti và
Sakadàgàmi (Dự lưu và Nhất lai). Ðoạn thứ hai nói đến Citta (tâm) hay
Samàdhi (Ðịnh), nhờ tu định mà chứng giai đoạn thứ ba là Ànàgàmi (Bất
lai); Ðoạn thứ ba nói đến Pannà (Huệ) đưa người tu hành chứng được
Thánh quả cuối cùng là A-la-hán quả hay giải thoát hoàn toàn (Vis. M. tr.
6). Vasubandhu đề cập đến những "giai đoạn" trong tập
Abhidharmakosa (VI, tr.34) và phần lớn như chúng ta sẽ thấy sau, ủng hộ những
đoạn văn của tác phẩm Pàli.
Trong văn học Ðại thừa, rất ít có
tác phẩm đặc biệt nói đến những thứ bậc tu hành, nhưng có rất nhiều
đoạn văn đề cập một cách ngẫu nhiên những giai đoạn tiến triển tâm
linh trong những tác phẩm phần lớn nói đến những Bhùmi (Ðịa). Tác phẩm
quan hệ nhất và rõ ràng nhất là tập Dasabhùmikàsàstra (Thập địa kinh
luận), một trong chín tác phẩm kinh điển được Phật giáo Nepal công nhận.
Các tác phẩm quan trọng thứ hai là quyển Bodhisattabhùmi và
Madhyamakàvatàra, cả hai đều theo tập Dasabhùmikàsàstra với một vài sai
khác nho nhỏ. Về những tác phẩm đề cập đến các Bhùmi một cách gián
tiếp, chúng ta nói đến các tập Lankàvatàra, Sùtràlankàra và những tác
phẩm tương tự. Tập Prajnàpàramità (Bách thiên tụng và Nhị vạn ngũ bách
thiên tụng) để một chương hoàn toàn nói đến các bhùmi nhưng cũng không
quên tuyên bố về phương diện Ðệ nhất nghĩa đế, các Ðịa này cũng
không thật có và chỉ thuộc Tục đế. Tập Nhị vạn ngũ bách thiên tụng
có một đặc tánh riêng. Khi nói đến các phương pháp tu hành mà một vị
Bồ-tát phải tu tập theo Prajnàpàramità (Bát nhã Ba-la-mật), có đề cập
đến nhiều quả chứng bằng cách dùng nhiều danh từ phổ thông giữa các
nhà Tiểu thừa như Kulankula (Hữu thượng phẩm), Ekavìcika (Ðoạn nhất
quan), Sotàpanna (Dự lưu).
Tập Satasàhasrikà (Bách thiên tụng)
nói đến một danh sách mười Ðịa tiểu thừa, không thấy dùng trong các
tác phẩm Pàli. Các địa ấy như sau: Suklavipasyanà hay vidarsanà bhùmi (Càn
huệ địa), Gotrabhùmi (Tánh địa), Astamakabhùmi (Bát nhân địa), Darsanabhùmi
(Kiến địa), Tanubhùmi (Bạc địa), Vìtaràgabhùmi (Ly dục địa); Krtàvìbhùmi
(Dĩ biện địa). Pratyekabuddhabhùmi (Chi phật địa), Bodhisattvabhùmi (Bồ-tát
địa) và Buddhabhùmi (Phật địa). Những danh từ nêu rõ những thứ bậc
chứng đạt được. Hai địa đầu nói đến Tiền dự lưu. Ðịa thứ ba,
thứ tư nói đến Dự lưu đạo và Dự lưu quả, nghĩa là khi người tu hành
còn trong Darsanamàrga (Kiến đạo vị). Ðịa thứ năm nói đến Sakadàgàmi
(Nhất lai), trong ấy ràga, dvesa và moha (tham, sân, si) được giảm thiểu tối
đa (tanutva). Ðịa thứ sáu nói đến Bất lai, khi ba phiền não trên được
trừ diệt hoàn toàn. Ðịa thứ bảy nói đến giai đoạn A-la-hán, khi người
tu hành đã làm những gì phải làm, do vậy một vị A-la-hán còn được
xem là vị đã làm những việc phải làm (Sở tác dĩ biện: Krta Krtya). Ðịa
thứ 8, thứ 9 và thứ 10, nghĩa đã tự rõ không cần phải giải thích.
Chúng ta cần phải để ý, các địa
trong các tập Bát nhã Ba-la-mật giản dị hơn tập Dasabhùmikasùtra và rất
có thể đại diện cho một giai đoạn trong lịch trình tiến hóa của quan
niệm Bhùmi, đứng giữa tập Mahàvastu và Dasabhùmikasùtra. Ðoạn văn nói về
Bhùmi trong tập Mahàvastu hình như là sớm nhất, các tên được dùng chưa
được mọi người chấp thuận. Từ những danh từ được trong tập
Bodhisattavabhùmi, hình như các tác giả viết về Bhùmi xem tập này như là
một biệt tài văn chương đã tạo ra những danh từ nêu rõ những đặc tánh
một vị Bồ-tát đã chứng được trong một giai đoạn đặc biệt. Ðoạn
văn diễn tả các địa trong tập Mahàvastu rất sơ lược và không chứa những
chi tiết quan hệ và cần thiết theo quan điểm Ðại thừa. Trái lại, tập
này có đề cập đến những giới cấm luật tạng mà một vị Bồ-tát cần
phải gìn giữ, nếu không thì không thể tiến bộ và đưa đến sa đọa vào
giai đoạn thấp kém hơn. Trong những đoạn nói đến ba địa đầu có tìm
thấy một vài dấu tích diễn tả trong tập Dasabhùmikasùtra, nhưng trong bảy
địa kế tiếp, nhất là trong bốn địa sau, thật không có gì đặc biệt
trừ những tên các đức Phật và các vị Bồ-tát đã chứng ngộ các thứ
bậc ấy. Như vậy rõ ràng tác giả Mahàvastu còn có một quan niệm rất mơ
hồ về bhùmi, vị này muốn điền vào các khoảng trống những đời sống
ly kỳ của các vị Bồ-tát và những tên tưởng tượng của các đức Phật.
Ðể tiện so sánh giữa các giai đoạn
Tiểu thừa và Ðại thừa, chúng ta sẽ theo tập Dasabhùmikasùtra, và nêu
rõ trong nhiều chỗ, những đoạn dị đồng với tập Bokhisattvàbhùmi và
Madhymakàvatàra, và chú thích thêm những đoạn văn ở tập Mahàvastu và
Prajnàpàramità. Trong những giai đoạn Tiểu thừa, chúng ta dựa vào những
danh từ Pàli và bổ túc vào nếu cần thiết với những đoạn trong tập
Kosa.
NHỮNG GIAI ÐOẠN
TIỀN BHÙMI
Tiền
Bồ-tát hay tiền Dự lưu vị
(Prthagjana đến Àrya = Phàm phu vị đến Thánh vị)
Bổn phận khó khăn nhất của một
người tu hành Tiểu thừa và Ðại thừa là sự thành tựu những điều kiện
để đi từ địa vị Prthagjana (phàm phu) đến địa vị một Àrya (bậc
Thánh). Các vị Ðại thừa đòi hỏi phải phát Bodhicitta (Bồ đề tâm), trước
khi được phép bắt đầu thực hành các Bhùmi, còn các nhà Tiểu thừa chủ
trương phải hiểu Tứ đế và tin tưởng vào giáo lý đức Phật. Nói một
cách khác, cần phải thành tựu 15 Sát-na của Darsanamàrga (Kiến đạo) để
có thể nhập theo giòng suối hướng đến Thánh quả tức là Bát chánh đạo.
Về giai đoạn tiền Bồ-tát vị,
chúng ta không gặp trong tập Bát nhã Ba-la-mật hay các tác phẩm Ðại thừa
khác, một ý kiến tổng quát nói rằng một chúng sanh đã làm nhiều thiện
nghiệp (avaropitakusalamùla), hầu hạ nhiều đức Phật quá khứ
(pùrvajinakrtàdhikàra), và có nhiều kalyànamitras (Thiện hữu tri thức) thời
thế nào cũng chứng Bồ đề. Hơi sai khác một chút, tập Sùtràlankàra
nói rằng một chúng sanh phát Adhimukti (tín, nguyện) trải qua nhiều kiếp,
làm rất nhiều công đức tràn đầy như nước biển đại dương, đã được
thanh tịnh nhờ giữ Bồ-tát giới, trở thanh đa văn nhờ học các Sàstra
(luận), khiến cho tâm nhu nhuyến và uyển chuyển, một chúng sanh như vậy
có quyền tinh tấn tu bhàvana (thiền quán) và thọ hưởng lợi ích những lời
dạy của đức Phật.
Adhimukticaryàbhùmi:
Niệm hành địa
Chính trong tập Madhyamakavatàra mà
chúng ta tìm thấy một giai đoạn tiền Bồ-tát gọi là Adhimukticaryàbhùmi
được đề cập đến. Tập Madhyamakàvatàra trích dẫn kinh Ratnameghasùtra
nói rằng địa của một vị Bồ-tát tương lai được đặt trước Bhùmi
thứ nhất và gồm rất nhiều adhimukti (phát nguyện). Vị ấy là Bồ-tát tương
lai vì chưa phát Bồ đề tâm. Cho nên vị này đuợc xem là ở trong
Adhimukticaryàbhùmi (Niệm hành địa), nghĩa là nguyện thành Phật nhờ theo
giáo lý Ðại thừa. Sau khi nghe thuyết pháp hay những lời tán thán và diễn
tả những uy lục của một đức Phật, vị này thoáng qua phát nguyện
thành Phật. Trừ phi và khi nào lời nguyện này an trú vĩnh viễn trong nội
tâm, vị này chưa có thể xem là có Bồ đề tâm và trở thành một vị
Thánh, một vị Bồ-tát.
Tập Bodhisattvabhùmi laị càng nói rõ
hơn về tiền Bồ-tát địa này; danh từ chuyên môn được dùng là
Prakrticaryà (Bổn tánh hành), giai đoạn này được chia làm hai, Gotravihàra
(Tánh trú) và Adhimukticaryàvihàra (Niệm hành trú). Hai giai đoạn này không
thể gọi là Bhùmi (Ðịa). Vì vậy tập Dasabhùmi kasùtra và các tập khác
bàn về địa không nói đến hai giai đoạn này trong danh sách Bhùmi của
chúng. Chúng nói đến các đặc tánh cần thiết trong giai đoạn tiền Bồ-tát
nhưng không gọi hai giai đoạn này là tiền Bhùmi như tập Bodhisatvtabhùmi.
Sotravihàra (Tánh trú) được tả như
sau trong tập Bodhisativabhùmi: một người được gọi là gotra stha, nghĩa là
tự tánh thuộc về một quý tộc chúng sanh, đầy đủ đức tánh mục đích
cao đẹp và thiện phát của một vị Bồ-tát. Các đức tánh được biểu
hiện ngay qua cử chỉ hồn nhiên của vị này. Vị này bắt đầu làm những
hạnh lành một cách tự nhiên, không cần ai khuyên nhủ, một cách khá
sáng suốt và với lòng từ ái. Vị này đầy đủ chủng tử về
Buddhadharma (Phật pháp) và không thể làm điều ác, chứ không nói đến các
vô gián tội (ànantanya). Sotravihàra làm căn nhân (hetumàtra) cho 11 vihàra
khác, giúp người tu hành tinh tấn để đạt các bhùmi khác nhưng không thể
đưa xa hơn nữa.
Adhimukticaryàvihàra là tên ghi cho những
sự cố gắng đầu tiên của một vị Bồ-tát để phát Bồ đề tâm. Tại
địa này, vị Bồ-tát mới thật sự bắt đầu đi trên con đường tới
Tathàgatavihàra (Như lai trú), còn trong gotravihàra thì chỉ mới sơ phát tâm
mà thôi. Khi làm xong bổn phận của Adhimukticaryà, vị này được xem là đã
làm xong những bổn phận chuẩn bị cho Ðịa thứ nhất là Pramudità (Hoan kỷ
địa). Trong Adhimukticaryàvihàra, một Bồ-tát thực hành Bhàvanà (Tu chỉ
quán) một cách có giới hạn và không thể gìn giữ những gì tu chứng
được. Vị này chỉ cố gắng để tu Nirnimitta-bhàvanà (Vô tướng quán tưởng).
Vị này chứng được Pratisankhyànabala (Trạch lực) và cố gắng làm bổn
phận một vị Bồ-tát với Pratisam-khyàna-prajnà (Trạch huệ), chứ không
phải với Tanmàyatà (thể nhập). Chưa có Bodhisattvabhàvanà (Bồ-tát quán tưởng),
khiến cho an trú và bất thối, chưa vượt khỏi năm sự sợ hãi về mạng
sống, phỉ báng, chết, ác thú và đại chúng chỉ trích. Với Pratisamkhyà
(Trạch lực), vị này cố gắng làm thiện sự cho các loài hữu tình, chứ
không phải do lòng từ bi hồn nhiên. Ðôi khi, vị này giải thích một
cách sai lạc, làm những hạnh không được thích nghi và quá chú tâm về
các món cúng dường. Vị này có thể có lòng tin (sraddhà) nhưng không có
trí huệ nội tâm, có srutamayì và cintàmyì prajnà (Văn huệ và Tư huệ) một
cách có giới hạn, nhưng nhiều khi cũng lệch lạc. Vị này theo Bồ-tát đạo
hết sức khó khăn, với độn huệ (dhandha-abhijnà) và không phát tâm Bồ
đề một cách mạnh mẽ. Ðôi khi, vị này quên những chánh phương tiện
để tu hành và quên cả lời Phật dạy. Nhiều lúc, vị này thuyết pháp một
cách cẩu thả và không được kết quả như ý muốn. Nhiều khi, vị này
quên hướng tâm về Bồ đề và mất hết tinh tấn giữ Bồ-tát giới và
phụng sự chúng sanh. Thỉnh thoảng, chỉ biết tìm hạnh phúc cho mình, dù
cho sau khi suy tư, cũng lại tìm hạnh phúc cho kẻ khác. Nhiều lần tự nhận
thấy khuyết điểm của mình nhưng thiếu nghị lực để cải tiến. Vị này
ưa giảng dạy Bồ-tát pháp nhưng nhiều khi phát sợ hãi trước trách nhiệm
vô lượng vô biên của chúng. Vị này không đầy đủ tất cả
Bodhipaksika-dharma (Pháp trợ đạo). Ðó là những đặc tánh khiến chúng ta
có thể phân biệt những ai đã vào được trong Adhimukticaryàbhùmi (Niệm
hành địa).
Ý chính trong giai đoạn chuẩn bị này
là sự hiện diện của những chúng sanh có đầy đủ những Kusalamùlas
(thiện căn) để có thể thành Phật. Những chúng sanh này được gọi là
gotrasthà. Cũng như những người con vua khác người con thường dân vì những
đặc tánh, cử chỉ và sở nguyện của mình, cũng vậy những chúng sanh
nào có Phật chủng sẽ được biết nhờ những bản tánh cao thượng đặc
biệt của mình.
Tập Dasbhùmikasùtra (tr.11) cho chúng ta
nhiều chi tiết về giai đoạn tiền Bồ-tát có khác nhiều với tập
Bodhisattvabhùmi. Một vài chi tiết ấy như sau: Các vị ấy phát Bồ đề tâm;
sau khi chất chứa nhiều công đức, thực hành những hạnh đã được quy
định, kính lễ nhiều đức Phật, đầy đủ những đại nguyện thanh tịnh
và cao thượng, và luôn luôn duy trì tâm niệm từ bi. Các vị này luôn
luôn chứng được Phật trí, mười lực, bốn vô số úy (Vàisàradyas), chứng
được bình đẳng tánh của mọi pháp, cứu tất cả chúng sanh thoát khỏi
khổ đau, chứng đạt mọi loại trí tuệ và làm cho trong sạch các
Buddhaksetra(Phật sát).
Những đoạn trích dẫn này diễn tả
tâm niệm phân vân của một người muốn phát Bồ đề tâm. Chính do sự
phát Bồ đề tâm mà một người thoát khỏi phàm phu tánh và trở thành bậc
Thánh trên giòng sông hướng đến giải thoát. Bodhicitta (Bồ đề tâm) tóm
lại là lời tâm nguyện của một chúng sanh muốn trở thành Phật và chứng
được mọi đức tánh và nguyện lực của một đức Phật. Tập Bodhicaryàvatàra
chia Bồ đề tâm thành hai phần, Bodhipranidhicitta (Bồ đề nguyện tâm) và
Bodhiprasthànacitta (Bồ đề trú tâm) (?). Tâm đầu chỉ là một tâm nguyện
muốn thành Phật cứu khổ chúng sanh, nhưng không nghĩ đến một cách chín
chắn những hy sinh cao cả và những đức tánh cần thiết khác. Tâm thứ
hai thuộc về đại nguyện gìn giữ Bồ-tát giới và cố gắng tạo nhiều
thiện quả. Tâm đầu có thể so sánh với một bộ hành nghĩ đến việc
đi sang một nước khác, còn tâm thứ hai ví như một bộ hành đã bắt đầu
lên đường để đi đến mục tiêu của mình. Khi nào một ai phát Bồ đề
tâm, người ấy có quyền làm những bổn phận thuộc về Bhùmi (Ðịa) thứ
nhất.
Quan
niệm Tiểu thừa về giai đoạn tiền Dự lưu
Chúng ta tìm thấy trong những tác phẩm
Tiểu thừa một sự diễn tả tỉ mỉ về những đức tánh cần thiết để
chuyển từ phàm phu vị qua Thánh vị. Như những lời tuyên bố đại
cương trong tập Prajnàpàramità về những thiện căn quá khứ củ các vị
Bồ-tát, chúng ta tìm thấy trong các tác phẩm Pàli nhiều đoạn về công
đức quá khứ của một người muốn xuất gia hay tinh tấn tu hành. Phần
nhiều, những đoạn này được đề cập đến trong những đoạn khi đức
Phật giáo hóa chúng sanh, khi Ngài tìm hiểu thiện căn của những vị nào
mà Ngài muốn hóa độ. Ðoạn thường nói đến như sau: "Satthàpaccusakàle
lokam volokento imassa kulaputtassa upabissayam addasa (đức Thế Tôn, buổi sáng sớm,
nhìn xung quanh thế giới và thấy thiện căn của người ấy). Câu này
nghìa là sự ích lợi thiết thực của bài thuyết pháp không phải ai cũng
thọ hưởng được. Chỉ có những ai mà thiện nghiệp đưa họ lên một
giai tầng khá cao mới có thể hưởng được những lợi ích của các bài
thuyết pháp. Có rất nhiều trường hợp trong các tác phẩm Pàli, nói đến
những thiện căn cần phải có trước mới khiến một người chứng được
Dự lưu sau khi chỉ nghe một bài thuyết pháp. Cũng có những chúng sanh trở
thành Nhất lai, Bất lai, A-la-hán hay Ðộc giác vì những thiện nghiệp chất
chứa đời trước. Hàm ý trong những trường hợp này là những vị này
trong đời quá khứ đã từ trần, sau khi chứng được quả Thánh hay những
đức tánh tương đương, đã xảy ra trước những quả chứng được trong
đời này. Các nhà Tiểu thừa chủ trương rằng một Puthujjana (phàm phu) phải
có một số thiện căn trước khi mong được thành một bậc Thánh (àrya),
ví dụ như Srotà-panna (Dự lưu).
Một Puthujjana được định nghĩa
trong tập Majjhima Nikàya như một vị còn bị mê lầm chi phối, tưởng rằng
có "Ngã" và "Ngã sở", và nghĩ rằng mình có rùpa (sắc),
vedanà (thọ) v.v... Vì không biết chánh pháp, người này khỏi tham ái đối
với sự vật cần phải xa tránh và do vậy tạo ra vàtăng trưởng các
àsavas (lậu hoặc) về Kàma (Dục), Bhava (Hữu) và Avijjà (Vô minh) (tr.7,
239). Tập Puggala pannatti (tr.12) chỉ nói một phàm phu là một người chưa
trừ được ba samyojana (kiết sử) hay không cố gắng trừ chúng. Tập
Patisambhidàmagga (I, tr.63, 64, 94) nói rằng các puthujjana đang cố gắng trở
thành bậc Thánh, muốn thản nhiên đối với các Sankhàrà (Hành) bằng
cách xem chúng là vô thường, khổ và vô ngã, nhưng sự thản nhiên này
không được lâu dài trong tâm trí và nhiều khi trở thành khó chịu cho
các vị ấy.
Giai đoạn thứ hai của Puthujjana là
Gotrabhù (chuyển tánh), nhiều khi tương đương với gotravihàra của tập
Bodhisattvabhùmi. Gotrabhù đaiï diện cho giai đoạn cuối cùng của một
puthujjana, vì một người trở thành gotrabhù khi vị này xứng đáng bắt đầu
làm những bổn phận để trở thành vị Thánh. Tập Patisambhidàmagga (K,
tr.66-8) xem Gotrabhù không những là một giai đoạn tiền Dự lưu mà còn chỉ
cho một hạng người đang hướng đến A-la-hán quả và có thể đã chứng
được một trong tám Magga và Phala (Ðạo và quả). Cũng vậy tập
Abhidhamatthasangaha (Comp. of Phi, tr.67-71) đặt giai đoạn Gotrabhù sau
Patipadànànadassanavisuddhi (hành tri kiến thanh tịnh) và Vutthànagà-
minivipassanànànam (khởi xuất chỉ quán trí) và xem Gotrabhù thành một bậc
Thánh nghĩa là một Sotàpattimaggattha. Trong hai tác phẩm kể sau cùng,
Gotrabhù chỉ cho những người trên con đường chứng được A-la-hán quả
và như vậy là chứng được một trong ba vị Dự lưu, Nhất lai, Bất lai.
Tuy vậy tập Anguttara Nikàya (IV, 378) và Puggalapannatti (tr.14) không xem
Gotrabhù là bậc Thánh và như vậy xem Gotrabhù là một giai đoạn tiền Dự
lưu.
Những vị ở giữa Gotrabhù và
Sotàpanna (nghĩa là Sotà-pattiphalapatipanna: Dự lưu quả hướng) được chia
làm hai hạng gọi là Saddhànusàrì (Tùy tín hành) và Dhammànusàrì (Tùy
pháp hành). Cả hai vẫn còn thực hành Darsanamàrga (kiến đạo). Theo tập
Kosa, hạng đầu thuộc về độn căn, hạng thứ hai thuộc về lợi căn. Tùy
tín hành là những vị theo chánh pháp, do lòng tin vị đạo sư hướng dẫn
hay nói một cách khác, các vị này tu các niệm xứ v.v, và cố gắng chứng
Tuệ, nhờ có người khác dắt dẫn, khuyên bảo. Còn các vị Tùy pháp
hành là những vị tự tu các pháp Trợ đạo nhờ học hỏi kinh điển (dvàdasàngà
= 12 bộ kinh). Tập Pugglapannatti chỉ nói trong những vị tu hành để chứng
quả Dự lưu, những vị nào có Tín căn thù thắng thì gọi là Tùy tín
hành; những vị nào có Tuệ căn thù thắng thì gọi là Tùy pháp hành. Hạng
thứ nhất, khi chứng được quả Dự lưu, được gọi là Saddhàvimutta
(Tín giải thoát) và hạng thứ hai được gọi Ditthippatta (Kiến đắc nhân).
Sự sai khác độc nhất giữa hai hạng này là hạng đầu trừ diệt được
một vài àsava (lậu hoặc) nhưng không nhiều bằng hạng thứ hai. Vì rằng,
trên con đường tiến tới Niết bàn, có:
I) hai Dhuras (hành, trách nhiệm): -
Saddhà (Tín) và Pannà (Huệ),
II) hai Abhinivesa (Chấp trì): - Samatha (chỉ) và Vipassannà (Quán), và
III) hai Sìsas (đầu): - Ubhatobhàgavimutta (Câu phần giải thoát) và
Pannàvimutta (Huệ giải thoát).
Những vị thực hành theo Pannàdhura
và Samathàbhinivesa được gọi là Dhammanusàr trong giai đoạn Dự lưu đạo
(Sotàpattimagga), Kàyasakkhì (Thân chứng nhân) trong sáu giai đoạn kế tiếp
và Ubhatobhàgavimutta trong giai đoạn A-la-hán; những vị thực hành theo
Pannadhura nhưng trừ Vipassanàbhinivesa được gọi là Dhammànusàri trong giai
đoạn Dự lưu đạo, Ditthippatta trong 6 giai đoạn kế tiếp và Pannàvimutta
trong giai đoạn A-la-hán; những vị thực hành theo Saddhàdhura và
Samathàbhinivesa được gọi là Saddhànusàrì trong giai đoạn Dự lưu đạo;
Kàyasakkhì trong sáu giai đoạn kế tiếp, và Ubhatobhàgavimutta trong giai đoạn
A-la-hán; những vị thực hành theo Saddhàdhura, trừ Vipassanàbhinivesa, được
gọi là Saddhànusàrì trong giai đoạn Dự lưu đạo, Saddhàvimutta trong sáu
giai đoạn kế tiếp và Pannàvimutta trong giai đoạn A-la-hán.
Những vị được gọi là Tùy tín
hành hay Tùy pháp hành đạt giai đoạn thứ hai của Thánh đạo được gọi
là Sotàpattiphala (Dự lưu quả), và cũng gọi là Sattakkhattuparama (Cực thất
phản sanh). Cũng được nói đến những đặc tánh cần phải có để trở
thành một vị Dự lưu. Trong tập Samyuttanikàya, Ngài Xá Lợi Phất hỏi
Ngài A Nan: "Bao nhiêu pháp cần phải bỏ đi và bao nhiêu pháp cần phải
chứng đạt để trở thành một Sotàpanno avinipàtadhammo viyato
sambodhiparàyano (một vị Dự lưu không còn thối đọa và nhất định chứng
được Thắng tuệ)". Ngài A Nan trả lời cần phải vững tin Tam bảo,
đầy đủ các giới luật được các bậc có trí tán thán và ưa thích. Những
đặc tánh ấy gọi là Sotàpatiyangas (Dự lưu chi). Một người có được bốn
Dự lưu chi (Sappurisasamsavà=Thiện sĩ thân cận, Saddhammasavanam=Chánh pháp
thính văn, Yoniso manasikàro=Như lý tác ý, Dhammànudhammapatipatti=Pháp tùy
pháp hành) sẽ thoát khỏi năm ác nghiệp là sát sanh, thâu đạo, tà dâm,
nói láo và uống rượu. Tập Samyutta Nikàya cũng nói khi một Ariyasàvaka
(Thánh đệ tử) biết được vị ngọt, sự nguy hiểm và con đường thoát
khỏi các căn (indriya), nghĩa là lạc, khổ, hỷ, ưu và xả, vị ấy thành
một Dự lưu. Trong một bài kinh liên hệ đến Anàthapindika (Cấp cô độc)
bị đau bệnh, có nói rằng một phàm phu cũng phải cố gắng thực hành
Bát chánh đạo cộng thêm Sammànàna (Chánh trí) và Sammàvimutti (Chánh giải
thoát), kể cả 4 Dự lưu chi.
Sự thật, các Dự lưu chi chỉ là
giai đoạn chuẩn bị dù rất cần thiết, để thật sự bắt đầu những
hạnh đưa đến Dự lưu quả. Các bổn phận phải làm sau các Dự lưu chi
là cần tăng trưởng pìti (hỷ), pàmojja (hoan duyệt), passaddhi (khinh an),
samàdhi (định) và sự thực hành sáu vijjà (hay nibbedha) - bhàgiyadhammà
(minh phần pháp), tức là quán niệm (anupassanà) về:
I) tánh vô thường của pháp hữu vi,
II) khổ vì tánh vô thường,
III) vô ngã của sự vật,
IV) đoạn,
V) vô tham, và
VI) diệt (nirodha).
Các tập Nikàyas không đi sâu vào chi
tiết về sự cố gắng của người tu hành trong giai đoạn Dự lưu để hiểu
tánh vô thường, khổ và vô ngã hay bốn Thánh đế. Trong tập Dìghanikàya,
chỉ nói một cách sơ lược có bốn trí về Khổ, Tập, Diệt và Ðạo. Tập
Patisambhidàmagga có giải thích bốn Trí này và nói một người: "biết
tìm tòi, nghiên cứu, hiểu rõ, phân tích v.v... cả bốn sự thật này mới
được xem là hiểu hết bốn sự thật. Vấn đề này được tập Kosa đặc
biệt nghiên cứu và có thể tóm tắt ở đây. Có hai Màrgas (Ðạo ),
Darsana (Kiến) và Bhàvanà (Tu). Tu đạo bắt đầu với giai đoạn cuối cùng
của kiến đạo. Kiến đạo có đến 16 Ksana (sát-na) biết sự thật, phân
ra như sau:
1) Duhkhe dharmajnànaksànti (Khổ pháp
trí nhẫn)
2) Samudaye (Tập pháp trí nhẫn)
3) Nirodhe (Diệt pháp trí nhẫn)
4) Màrge (Ðạo pháp trí nhẫn)
(Do tín mới biết sự vật ở Dục giới
là đầy Dukkha, bị Samudaya và Nirodha chi phối, và cũng có con đường Màrga
đưa đến sanh và diệt của sự vật).
5) Duhkhe dharmajnàna (Khổ pháp trí)
6) Samudaye (Tập pháp trí)
7) Nirodhe (Diệt pháp trí)
8) Màrge (Ðạo pháp trí)
(Thật sự đã chứng được sự vật
ở Dục giới là đầy Dukkha, bị Samudaya và Nirodha chi phối, và cũng có
con đường Màrga đưa đến sanh và diệt của sự vật).
9) Duh khe anvayajnàna ksànti (Khổ loại
trí nhẫn)
10) Samudaye (Tập loại trí nhẫn)
11) Nirodhe (Diệt loại trí nhẫn)
12) Màrge (Ðạo loại trí nhẫn)
(Do trí mới biết sự vật ở Sắc giới
và Vô sắc giới là đầy Dukkha, bị Samudaya và Nirodha chi phối, và có con
đường Màrga đưa đến sanh và diệt của sự vật).
13) Duhkhe anvayajnàna (Khổ loại trí)
14) Samudaye (Diệt loại trí)
15) Nirodhe (Diệt loại trí)
16) Màrge (Ðạo loại trí)
(Thật sự đã chứng được sự vật
ở Sắc giới và Vô sắc giới là đầy Dukkha, bị Samudaya và Nirodha chi phối,
và cũng có con đường Màrga đưa đến sanh và diệt của sự vật).
Tập Kathàvatthu nêu rõ những giai đoạn
tiến triển tương tự của một Srotàpattiphala-pratipannaka trong khi vị này
đang ở trong Darsanamàrga (Kiến đạo):
Nhờ Dukkhadassana, vị này bỏ một phần
nào, chưa được hoàn toàn, thân kiến, nghi và giới cấm thủ và những
phiền não liên hệ.
Nhờ Samudayadassana, vị này hoàn toàn
bỏ thân kiến, nhưng nghi và giới cấm thủ và các phiền não liên hệ chưa
được bỏ hoàn toàn.
Nhờ Nirodhadassana, vị này hoàn toàn bỏ
nghi nhưng chưa bỏ hoàn toàn giới cấm thủ và các phiền não liên hệ.
Cả ba giai đoạn trên, vị này chưa
thật là một vị Dự lưu hay Sattakhattuparama (Cực thất phản sanh) hay
Kolankula (Gia gia) hay Ekabìgi (Nhất chủng).
Nhờ Maggadassana, vị này hoàn toàn
bỏ giới cấm thủ và một phần nào các phiền não.
(Nay vị ấy là Dự lưu).
Tập Kosa cho chúng ta biết, một vị
tu hành, trên con đường tiến triển theo các Ksana này được gọi là
Sraddhànusàrì (Tùy tín hành), Dharmànusàri (Tùy pháp hành) hay
Srotàpattiphalapratipannaka (Nhập Dự lưu quả hướng) cho đến Sát-na thứ
15. Trong Sát-na thứ 16, vị này được xem là đã an trú vào (sthita) trong Dự
lưu quả và như vậy được xem là đã chứng được Catuhsatyàbhisamaya (Tứ
đế hiện quán). Sự chứng quả này, hay một cách khác, sự thành tựu
Darsanamàrga (Kiến đạo) khiến người tu hành thoát khỏi phiền não
Avastuka (tức là Thân kiến v.v...) và trở thành một vị Thánh (Àrya), nghĩa
là một người có khả năng trôi theo giòng Thánh vị Bát chánh đạo. Vị
ấy không còn gọi là Tùy tín hành hay Tùy pháp hành, và được gọi là một
vị Dự lưu.
Tiền Thánh vị, sự thật, định đoạt
con đường tu hành về sau. Nếu chỉ mong moksa (giải thoát) và Niết bàn
và chất chứa các thiện căn không cao thượng lắm như các nhà Tiểu thừa
đã làm, người tu hành là một Sravaka (Thanh văn). Nếu tha thiết chứng
được Phật quả để cứu độ thế giới, nghĩa là phát Bồ đề tâm và
chất chứa thiện căn của một vị xuất chúng, người tu hành ấy được
gọi là một Bodhisattva (Bồ-tát).
Pramudita
(Hoan hỷ địa)
Người tu hành, khi tâm trí đạt được
những đức tánh nói trên, đã vượt khỏi địa vị phàm phu và chắc chắn
trở thành một vị Bồ-tát. Nay vị ấy được xem là thuộc gia đình của
Như Lai, trở thành Anavadya (không còn bị chỉ trích) về tàn tích trong sự
thọ sanh (sarva jàtivàdena), chấm dứt các đời sống thế tình, hướng đến
các đời sống xuất thế, an trú vào bình đẳng tánh của vị Bồ-tát
(Bodhisattvadharmatà), thiện trú trong vị trí của vị Bồ-tát, hiểu được
tánh bình đẳng, sẽ được nhận vào gia đình Như Lai trong tất cả thời,
và cuối cùng sẽ thành Phật. Vị Bồ-tát như vậy, khi còn trong địa này
có pràmodya (hân hoan), pra-sàda (tín), prìti (hỷ), utplàvanà (thượng hỷ),
udagrì (cực hỷ), usi (hương thơm), utsàha (tinh tấn), và trở thành
asamrambha (không có mạn), avihimsà (bất hại) và akrodhà (vô hận). Các vị
jinapùtras (Phật tử) trở thành hoan hỷ khi nghĩ đến các đức Phật, giáo
pháp, những Bồ-tát hạnh và các hạnh Pàramità (Ba-la-mật). Các vị này
hoan hỷ cũng vì tự biết mình ra ngoài các thế tình, gần Phật địa, Jnànabhùmi
(Trí địa) và đoạn trừ những đời sống ở địa ngục và ác thú. Các
vị này trở thành những ý chỉ cho mọi loài chúng sanh, luôn luôn ở trong
tầm nhãn quan của Như Lai và loại trừ mọi sự sợ hãi vì không có tham
ái cho mình và đối với sự vật. Các vị này không mong một ai giúp đỡ
mình, trái lại sẵn sàng giúp đỡ tất cả chúng sanh. Vì không có quan niệm
về ngã, nên không sợ chết, vì biết rằng mình có chết cũng luôn luôn hầu
cận chư Phật và chư vị Bồ-tát.
Rồi các vị Bồ-tát, với chí nguyện
cao thượng và với tâm niệm Ðại bi lên hàng đầu, cố gắng tinh tấn làm
thêm các thiện sự. Vì các vị này có nhiều Sraddhà (tín), prasàda (tịnh),
adhimukti (thắng giải), avakalpanà (thực giải), krpàkarunà (từ bi),
mahàmaitri (Ðại từ), và với một tâm trí kiên trì với hrì (tàm),
apatràpya (quý), qsànti (nhẫn), sàvraty (trọng hậu), thán phục giáo lý và
nhờ thiện trí thức ủng hộ, các vị này được an trú trong Ðịa thứ
nhất. Rồi các vị này có những đại nguyện như sau:
1) Kính lễ chư Phật dưới mọi hình
thức và hết sức trang trọng;
2) Bảo trì và gìn giữ giáo lý đức
Như Lai;
3) Chứng kiến Phật xuất hiện trong
mọi thế giới và theo hầu chư vị Bồ-tát trong đời sống sau cùng của
những vị này, từ khi xuống cung trời Ðâu suất cho đến khi nhập Niết
bàn.
4) Thực hành tất cả Bhùmi (Ðịa) với
các hạnh Ba-la-mật;
5) Giúp chúng sanh được thuần thục
và chứng toàn giác;
6) Làm cho thanh tịnh mọi Phật sát bằng
cách viếng thăm các chỗ ấy;
7) Hiểu hết sự sai biệt vô lượng
giữa sự vật trong mọi thế giới;
8) Khuyến khích các vị Bồ-tát phát
triển mọi đại nguyện và góp nhặt công đức từ đại nguyện ấy, chứng
một căn bản duy nh?t và đồng nhất cho tất cả Bồ-tát, hầu hạ tất cả
đức Phật, chứng kiến Phật xuất thế khi nào cần thiết, trải qua mọi
hình thức của sự sống với tự thân của mình, thâm hiểu và truyền bá
giáo lý Ðại thừa.
9) Làm phận sự của một vị Bồ-tát,
làm các hạnh lành về thân, khẩu và ý, chứng ngộ Phật pháp một lần
và tất cả, đoạn trừ các đau khổ với lòng tin, được một thân như
Ðại y vương (Mahà bhaisa-jyaràjà) hay giống như viên ngọc như ý và nói
được những lời nói không bao giờ vô ích; và
10) Chứng được chánh đẳng giác
trong mọi thế giới, sanh ra như một người thường nhưng không bước xa
chánh đạo một sợi tóc, xuất gia bỏ thế tục, làm các thần thông, chứng
Bồ đề dưới cây Bồ đề, chuyển Pháp luân và cuối cùng chứng Ðại
bát Niết bàn.
Trong khi còn ở trong HOAN HỶ ÐỊA,
các vị Bồ-tát phát vô lượng đại nguyện, trong đó có 10 đại nguyện
chính. Các vị này thương xót vô lượng chúng sanh bị tà kiến dắt dẫn
sai lạc, bị vô minh dục vọng v.v... làm mờ ám, tiếp tục tái sanh trong
ba giới, và theo luật nhân quả, tăng trưởng sự đau khổ cho chính mình.
Các vị Bồ-tát cố gắng an trú trong Niết bàn, hạnh phúc tối thượng.
Khi ở trong địa thứ nhất, các vị
này tăng tấn lòng từ bi và thực hành hạnh Mahàtyàga (Ðại xả), từ bỏ
của cải, con, vợ v.v... tìm sự vật thế gian và xuất thế gian và như vậy
trở thành tinh thông các bộ Sàstra (luận) và do vậy có thể phân biệt
cái gì thiện và bất thiện cho chúng sanh. Các vị này trở thành Lokajnà
(thế gian trí giả). Nhờ luôn luôn cúng dường và tôn trọng sàsana (giáo
pháp), các vị này thành tựu được 10 thiện tánh cần thiết để thanh tịnh
10 Ðịa: Sraddhà (Tín), Karunà (Bi), Maitri (Từ), Tyàga (Xả), Khedasahisnutà
(Nhẫn chịu khổ cực), Sàstrajnatà (Tinh thông luận bộ), Lokajnatà (Thế
gian trí), khiêm nhường, tàm quý, kiên trì, và khả năng đảnh lễ Như
Lai. Các vị này thấy rất nhiều đức Phật, cúng dường với những lễ
vật cần thiết, đảnh lễ chư vị tăng già và hồi hướng các công đức
để chứng vô thượng giác, có khả năng nhiếp hóa chúng sanh nhờ bố
thí và ái ngữ (priyavadya) và adhimukti (đại nguyện). Ngoài ra còn kể hai
nhiếp pháp khác (samgrahavastu) cũng được thành tựu nhưng chưa chứng Nhất
thế trí. Trong 10 Ba-la-mật, bố thí Ba-la-mật là đệ nhất. Một vị Bồ-tát
chứng Ðịa thứ nhất có khả năng làm vua xứ Diêm phù đề (Sambudvìpa),
trở thành vị lãnh đạo lấy chánh pháp trị nước, luôn luôn hướng về
Tam bảo, Bồ-tát hạnh và vô thượng trí. Muốn trở thành vị lãnh đạo
chúng sanh, vị Bồ-tát xuất gia thọ giới, và trong một sát-na nhập 100
thiền định, diện kiến 100 đức Phật và thực hành những hành vi kỳ diệu
khác.
Tương
đương giữa Bhùmi (Ðịa) với Magga (Ðạo) và Phala (Quả)
Hệ thống Tiểu thừa không có gì tương
đương với địa thứ nhất của Ðại thừa, vì không dính với Bồ đề
tâm, Nguyện, Từ, Bi và 10 đức tánh cần cho một vị Bồ-tát để mạnh
tiến trên 10 Ðịa.
Chính từ Ðịa thứ hai, hệ thống Tiểu
thừa mới có những giai đoạn tương đương với hệ thống Ðại thừa. Tập
Bodhisattvabhùmi và Madhyamkàvatàra chú ý đến điểm này trong khi đề cập
đến các Bhùmi.
Trong hệ thống Tiểu thừa, về các vị
thứ tu hành, thường nói rằng một vị tu hành sẽ trở thành một Dự lưu
và Nhất lai nhờ theo giới Adhisìla (thắng giới), một vị Bất lai nhờ
theo định Adhicitta (thắng định) và một vị Bồ-tát nhờ theo huệ
Adhipannà (thắng tuệ). Nếu nay chúng ta so sánh với các Ðại thừa Ðịa
như đã được gọi trong Bodhisattvabhùmi, sự liên hệ giữa các Ðịa tiểu
thừa với các Ðịa đại thừa trở thành rõ ràng. Như vậy chúng ta cũng
có thể đặt tên cho các vị thứ tu hành Tiểu thừa như (1) Puthujjana trừ
Gotrabhù (Phàm phu trừ Chuyển tánh), (2) Adhisìla (Thắng giới), (3) Adhicitta
(Thắng định), và (4) Adhipannà (Thắng tuệ). Nay nếu chúng ta đem so sánh với
những vị thứ tu hành Ðại thừa như đã ghi trong tập Bodhisattvabhùmi, thời
sự liên lạc giữa các Ðịa tiểu thừa và đại thừa trở thành rõ
ràng. Các Ðịa ấy như sau:
1) Gotravihàra (Tánh trú)
2) Adhimukticaryà vihàra (Niệm hành
trú)
3) Pramudità vihàra (Hoan hỷ trú)
4) Adhisìlavihàra (Thắng giới trú)
5) Adhicittavihàra (Thắng định trú)
6), (7) và (8) Adhiprajnàvihàra (Thắng
tuệ trú)
9)
Sàbhisamskàra-sàbhoga-nirnimitta-vihàra (Hữu hành hữu lực vô tướng trú)
10) Anàbhoga-nirnimitta-vihàra (Vô lực
vô tướng trú)
11) Pratisamvid-vihàra (Vô ngại biện
trú), và
12) Parama-vihàra (Vô thượng trú)
Trong 12 vihàras này, chúng ta đã nói
đến 2 vihàras đầu, các Ðịa dự bị, thường không được ghi trong danh
sách các Ðịa thông thường và tương đương với Tiểu thừa phàm phu Ðịa,
hay Tiền dự lưu Ðịa. Do vậy, nếu để ngoài hai Ðịa này, chúng ta có
danh sách 10 Ðịa. Rõ ràng 5 Ðịa (4-8 của tập Bodhisattvabhùmi và 2-6 của
tập Dasabhùmikasàstra) tương đương với 4 vị thứ Tiểu thừa. Các tuệ
và quả vị cao hơn mà các vị Bồ-tát tự xem chỉ mình có, và theo các
nhà Ðại thừa là vượt ngoài khả năng của các nhà Tiểu thừa, chỉ
được chứng ngộ trong bốn Ðịa sau cùng.
Vimàla hay Adhisìla
(Vô cấu hay Thắng giới)
Một vị Bồ-tát đã thực hành Ðịa
thứ nhất một cách chính xác và muốn chứng Ðịa thứ hai, cần phải tu
tập thêm 10 Cittàsayas (Tâm hướng): Rju (chánh trực), Mrdu (nhu nhuyến, mềm),
karmanya (kham năng), Dama (điều phục), sama (tịch tịnh), kalyàna (thuần thiện),
asamsrsta (bất tập), anapeksa (vô cố luyến), udàra (quảng quyết) và
mahàtmya (đại tâm).
Khi mười àsayas này được thành tựu,
vị Bồ-tát chứng được Ðịa thứ hai, Vimalà (Vô cấu địa). Vị này tự
nhiên không còn pranàtipàta (sát sanh), adattàdàna (thâu đạo), kàmamithyàcàra
(tà dâm), anrtava=cana (vọng ngữ), pisunavacana (lưỡng thiệt), arusavacana (ác
khẩu), sambhinnapralàpa (ỷ ngữ) và trở thành anbhidyà (không hà tiện),
avyàpannacitta (không sân hận) và thành tựu được samyagdrsti (chánh tri kiến).
Vị Bồ-tát liền nghĩ rằng mọi chúng sanh khổ đau chỉ vì không tránh 10
nghiệp bất thiện (akusalakarmapathas). Do đó, vị Bồ-tát phải khuyên chúng
sanh theo chánh hạnh, và với mục đích ấy, vị Bồ-tát trước hết phải
tự mình thực hành chánh hạnh.
Vị Bồ-tát suy nghĩ rằng loài người
được phân loại theo thiện nghiệp của mình và các hành động khác, do vậy
trở thành loài người, chư thiên, Thanh văn, Ðộc giác, Bồ-tát và đức
Phật. Vị này cũng suy nghĩ rằng do làm các hành bất thiện mà loài người
sanh trong địa ngục, súc sanh, dạ xoa, hay loài người với đời sống chết
yểu và nhiều bệnh tật. Do vậy, vị Bồ-tát quyết định làm 10 điều
thiện và khuyến khích các người khác làm. Vị này khởi lòng từ bi thương
xót mọi loài chúng sanh, tự xem mình có bổn phận làm một bậc thầy, một
vị hướng dẫn, chuyển tà kiến của chúng sanh thành chánh kiến. Vị Bồ-tát
nhận thấy chúng sanh vì phẫn nộ, hà tiện, tham ái, hận thù, si mê, ám
chướng, không tinh tấn v.v... nên phải trôi lăn trong làn sóng dục ái, hữu
ái, vô minh, bị trói buộc trong tham sân, ưa ghét và bị chi phối bởi ảo
tưởng có Ta và cái của Ta. Do lòng từ bi, vị Bồ-tát phát tâm cứu độ
chúng sanh ấy và hướng chúng đến cõi thanh bình tịnh lạc.
Khi ở trong Ðịa này, vị Bồ-tát có
thể thấy nhiều đức Phật, kính lễ Ngài và hồi hướng công đức ấy
đến chứng quả Bồ đề. Vị Bồ-tát đón nhận các thiện nghiệp từ những
đức Phật ấy, trải nhiều kiếp cố gắng tu hành, diệt trừ màtsarya
(xan tham) và thực hành hạnh bố thí. Trong 4 nhiếp pháp, vị Bồ-tát tăng
cường priyavadya (ái ngữ), và trong 10 Ba-la-mật, thực hành nhiều nhất giới
Ba-la-mật, chứ không phải các Ba-la-mật khác. Nếu một vị Bồ-tát, sau
khi chứng Ðịa thứ hai, muốn được giàu sang phú quý, có thể trở thành
một vị Chuyển luân thánh vương với bảy món châu báu v.v...
Chúng ta thấy rõ, với bản tường
thuật trên, Ðịa thứ hai rất giống với Adhisìla (Thắng giới) của Tiểu
thừa, lẽ dĩ nhiên phải bỏ ngoài các adhyàsayas của các vị Bồ-tát.
Trong tập Visuddhimagga, có tuyên bố rằng sự thực hành các giới hạnh
đưa đến thanh tịnh giới phẩm và làm căn bản chứng quả Dự lưu và Nhất
lai. Trong chương đầu tập Visuddhimagga, Ngài Buddhaghosa nói nhiều về các hạnh
tu hành của các vị tại gia, cư sĩ, nam tu sĩ, nữ tu sĩ, và thêm vào chương
thứ hai về 13 hạnh Ðầu đà (Dhutanga) mà Ngài xem là rất cần thiết để
thành tựu các giới hạnh một cách viên mãn. Các tập Nikàyas nói đến Sìla
(giới) tức nói đến 10 giới và 250 căn bản giới. Do thành tựu viên mãn
các Sìlas và một ít Samàdhi (Ðịnh) và Pannà (Tuệ), người tu hành trở
thành một bậc Dự lưu và Nhất lai. Chúng ta biết một vị Dự lưu giải
thoát khỏi ba Samyojanas (kiết sử) và hai Anusaya (tùy miên), tà kiến và
nghi. Nhờ làm cho nhẹ bớt (tanutta) ba kiết sử ràga (tham), dosa (sân) và
moha (si), nhờ đoạn sạch các anusayas (tùy miên), kàmaràga (dục ái) và
patigha (sân) và nhờ tu hành thêm một ít Ðịnh và Tuệ, người tu hành trở
thành một vị Nhất lai. Trong tập Patisambhidàmagga (tr.96), có nói rằng một
người tu hành trong Dự lưu quả, Nhất lai hướng v.v... chứng được
Annindriya (Tuệ căn) và các pháp đã sẵn có được biểu lộ, và những tư
tưởng mới khởi lên trong tâm được trong sạch, siêu thế và hướng đến
Niết bàn. Một vị Dự lưu cũng trừ diệt hoàn toàn ditthàsava (kiến lậu)
và cả ba lậu khác đưa đến địa ngục, còn một vị Nhất lai diệt trừ
dục lậu thô tháo và một phần hữu lậu và vô minh lậu. Ngoài những quả
vị phải đạt được trong Dự lưu hướng, vị tu hành phải nghĩ đến sự
vô thường và vô ngã của năm thủ uẩn.
Có hai giai đoạn giữa Dự lưu và Nhất
lai được gọi là kolamkola (kulankula=gia gia) và ekabìjì (ekavìcika=Ðoạn nhất
gian). Ai diệt trừ ba kiết sử (samyojàna), thành tựu các giới hạnh
(sìla) và thực hành một ít Ðịnh và Tuệ thường được gọi là một vị
Dự lưu. Vị ấy cũng được gọi là sattakhattuparama (tối đa bảy lần) vì
phải sanh bảy lần làm người hay chư Thiên trước khi chứng Niết bàn. Vị
này không bao giờ phải rơi vào địa ngục và thế nào cũng chứng được
Niết bàn sau khi đoạn trừ thêm hai avarabhàgiya (orambhàgiya=hạ phần kiết
sử), tức là kàmacchanda (Dục ái) và Vyàpàda (Sân) và năm urdhvabhàgiya
(uddhambhàgiya: cao hơn) Thượng phần kiết sử, tức là rùparàga (sắc
tham), arùparàga (vố sắc tham), auddhatya (trạo cử), màna (mạn) và moha
(si).
Một vị Dự lưu trở thành một
kulankula sau khi đoạn trừ phiền não thứ ba và thứ tư ở Dục giới và
chứng được các căn thanh tịnh hơn so sánh với các phiền não. Vị này sẽ
sanh lại hai hay ba lần giữa các chư Thiên, khi ấy được gọi là
Devakulankula, hay giữa các loài người, khi ấy được gọi là
manusyakulankula (Kosa, II, 34). Các tập Nikàyas không có phân biệt rõ ràng Dự
lưu và Kolamkola. Tập Visuddhimagga có sự phân biệt giữa hai quả vị này,
nói rằng các vị Kolamkolas có vipassanà (quán) và indriya (căn) thuộc loại
trung phẩm, còn các vị Dự lưu thuộc loại hạ phẩm.
Giai đoạn kế tiếp Ekabìjì
(Ekavìcika) được các tập Pàli đặt sau Kolamkola và trước Nhất lai (VI,
35-36). Theo các tập Pàli, các vị Ekabìjì hơn các vị trước vì có phát
triển Ðịnh và Tuệ nhiều hơn, nhưng không thể thành tựu một cách hoàn
toàn. Tập Visuddhimagga thêm rằng các vị này có lợi căn (tikkhìndriya), nhờ
vậy những vị này chỉ phải sanh có một lần giữa loài người (mànusakam
bhamam) trước khi chứng Niết bàn. Một vị Nhất lai được diễn tả
tương tự, chỉ có không nói rõ là phải tái sanh giữa loài người hay
chư Thiên, các tập chỉ nói imam lokam àgantvà, nghĩa là phải tái sanh ở Dục
giới và Dục giới gồm cả chư Thiên và loài người. Dù thế nào đi nữa,
các vị Nhất lai giảm trừ đến mức tối đa các phiền não ràga, dosa và
moha.
Tập Kosa nói rằng một vị Nhất lai
đoạn trừ các phiền não (klesa) đến phiền não thứ sáu. Sau khi đã sanh
giữa các chư Thiên, vị này sẽ được tái sanh giữa loài người, giảm
trừ ràga, dvesa và moha đến mức tối đa và chỉ còn ba phiền não thấp
nhất cuối cùng là mrdvadhimàtra (cực độn), mrdumadhya (trung độn) và
mrdumrdu (độn độn). Các vị Ekavìcika được phân biệt khác các loại
khác vì đã diệt trừ phiền não thứ bảy hay thứ tám và chứng được các
indriyas (căn) đối lập các phiền não ấy. (Kosa, VI, 36 nói rằng vìci nghĩa
là gián cách, các vị này gián cách Niết bàn chỉ còn một lần tái sanh
mà thôi. Theo Pàli, bìja có nghĩa là hột giống, khác hẳn với nghĩa của
Câu xá).
Sự phân biệt Dự lưu thành ba loại
cũng được tập Lankàvatàna (Lăng già) nói đến. Theo tập này, các vị Dự
lưu có ba hạng: hìna (hạ), madhya (trung) và visìsta (thượng). Các vị ở hạ
phần phải tái sanh bảy lần, các vị trung phần ba hay năm lần và các vị
thượng phần (ekavìcika) chỉ có một lần thôi. Các kiết sử thân kiến,
nghi và giới cấm thủ thuộc về độn, trung hay lợi tùy theo các hạng Dự
lưu. Một vị Dự lưu, sau khi trừ diệt ba kiết sử, không còn có tham,
sân, si. Ở đây tập Lankà (tr.119) khác với các tập Tiểu thừa, các tập
này xem Nhất lai làm giảm thiểu tham, sân, si đến mức tối đa. Khi nói đến
các vị Nhất lai, tập Lankàvatàra chỉ nói đến các vị này cần phải
tái sanh một lần nữa để diệt trừ khổ đau. Giai đoạn tiếp theo Nhất
lai là Anàgàmi (Bất lai), tương đương với Ðịa thứ ba của các nhà Ðại
thừa.
Mục lục
| 1.1 | 1.2
| 2.1 | 2.2
| 3.1 | 3.2 | 3.3 | 3.4 | 3.5 | 4.1 | 4.2 | 5