- ÐẠI THỪA VÀ SỰ
LIÊN HỆ VỚI TIỂU THỪA
- Nguyên tác: Nalinaksha Dutt
PHỤ LỤC
Vấn đề các tập Prajnàpàramità
(Bát nhã Ba-la-mật)
Chúng ta đã thấy rõ tầm quan trọng của các tập Bát
nhã Ba-la-mật trong lịch sử văn học Phật giáo, và nhất là trong lịch sử
nguồn gốc và sự phát triển của Ðại thừa giáo. Từ một số khá lớn
các tập Bát nhã Ba-la-mật bằng tiếng Sanskrit, Hán tự và Tây tạng ngữ
(danh sách các tập này được ghi trong các tập Catalogue of the Chinese
Buddhist Tripitaka của Nanjio và tập Die Voelkommenheit der Erkenntuis của
Walleser), cho chúng ta thấy rõ trong một giai đoạn nào đó của Phật giáo,
các tác phẩm Bát nhã Ba-la-mật được xem là thiêng liêng và có giá trị
nhất trong các tác phẩm Phật giáo. Ngài Nàgàrjuna (Long thọ) xác nhận tầm
quan trọng này bằng cách soạn một luận sớ cho một tập Bát nhã Ba-la-mật
và Ngài Asanga (Vô trước) cùng một số luận sư khác đã để rất nhiều
thì giờ và công lao để tìm hiểu triết lý các tập này.
Tập Bát nhã
Ba-la-mật xưa nhất
Năm tháng các bản Hán dịch các tập
Bát nhã Ba-la-mật giúp chúng ta rất ít để xác chứng tập nào là xưa nhất.
Cho đến lý thuyết do một số học giả chủ xướng rằng tập nào súc
tích giản dị nhất là xưa nhất, lý thuyết này cũng không giúp được
bao nhiêu trong loại văn học đặc biệt này. Chúng ta được biết bản dịch
xưa nhất là bản Dasasàhasrika Prajaàpàramità (Bát nhã tập thiên tụng) do
Ngài Lokaraksà (Thế hộ) dịch vào khoảng 148 sau kỷ nguyên. Ðiều kỳ lạ
là bản dịch đặc biệt tập Bát nhã Ba-la-mật này không được các nhà
học giả Sanskrit biết đến. Tập Mahàvyutpatti (tr.65) chỉ nói đến 6 tập
Bát nhã (Satasahasrikà, Pancavimsátisá, Astasá, Phancasatikà, Trisatikà và
Satasàhasrikà) mà không nói đến tập này; ngoài ra Bendall, R.L, Mitra, và
H.P. Sástri phân loại nhiều bản thảo về Bát nhã Ba-la-mật nhưng không gặp
một bản thảo nào của tập Dasasàhasrikà; ngoài những sự kiện trên,
chúng ta cũng cần để ý rằng Sàntideva hay tác giả tập Lankàvatàra có
nhiều dịp đề cập đến tập Sata và tập Asta nhưng không bao giờ đề cập
đến tập Dasa. Cách giải thích độc nhất về sự im lặng của các học
giả Sanskrit, hoặc là tập Bát nhã Ba-la-mật này không xuất xứ ở Ấn Ðộ
hay tập này chỉ là một bản dịch của tập Asta. Nhưng một vấn đề lại
được đặt ra là vì sao trong các bản Hán văn lại có nhiều bản Hán dịch
dịch tập Asta. Một sự nghiên cứu tỷ mỉ các bản Hán dịch có thể
đem lại nhiều kết quả rõ ràng, nhưng đầu đề các chương trong các bản
Hán dịch không giúp chúng ta được bao nhiêu vì do các nhà dịch giả Trung
Hoa tự tạo ra chứ không dịch theo nguyên bản Sanskrit.
Nếu chúng ta chỉ y của theo truyền
thống Tây tạng thời chúng ta sẽ xem tập Asta là tập xưa nhất, vì tập
này do Maitreya (Di lặc), thuyết giảng đầu tiên. Thêm vào ý kiến của hai
học giả Nanjio và Walleser, xem hai tập Dasa và Asta là một, thì chúng ta có
thể xem tập asta là xưa nhất. Tuy vậy, truyền thuyết Népal xem tập Asta
là bản tóm tắt chậm nhất của nguyên bản Prajnàpàramità, tập này có
đến 125.000 bài kệ, các bản tóm tắt xưa nhất là tập Sata, rồi đến
Pancavimsati và tập Asta.
Chúng ta có thể đến gàn sự thật hơn
nếu chúng ta biết được nguyên bản mà Ngài Long thọ đã làm bản luận
sớ nổi danh Mahàprajnàpàramitasàstra. Rosenberg xem nguyên bản ấy là tập
Pancavimsati nhưng không nói rõ lý do xuất xứ. Ở Nhật Bản người ta xem tập
nguyên bản ấy là tập Prajnàpàramità có tên là Ðại Minh Ðộ kinh, và
theo Nanjlo, tập này là một bản dịch của tập Asta. Tập Ðại Minh Ðộ
kinh có đến 30 chương như một vài bản dịch của tập Asta và Dasa và rất
có thể là bản dịch của tập Asta. Tuy vậy khi đem so sánh thì bản dịch
không theo dùng nguyên bản Sanskrit hiện tại. Hơn nữa số chương ở nguyên
bản Sanskrit là 32, còn số chương trong bản Hán dịch là 30, và nếu bản
ấy là bản dịch của tập Asta, thời có thể bản dịch ấy là một bản
dịch khác biệt của đồng nguyên bản Sanskrit.
Các bằng chứng về
nội dung:
I- Quan điểm Ba thân
Cũng có một số bằng chứng về nội
dung chứng minh tập Asta sớm hơn và xưa hơn tập Sata và tập Pancavimsati,
những bằng chứng này phần lớn thuộc về quan niệm Sambhogakàya (Báo
thân) và 10 Bhùmi (thập địa).
Như chương III đã nói tới, các nhà
Yogàcàra chịu trách nhiệm về quan niệm ba thân và Ngài Long thọ trong tập
Mahàprajnàpàramitàsàstra chỉ nói đến hai thân, Sắc thân và Pháp thân,
không nói đến Báo thân. Sambhogakàya được đặc biệt nói đến trong tập
Pancavimsati, tập này được soạn lại, nhưng sự diễn tả về Báo thân tương
đương với quan điểm Pháp thân của các nhà Ðại thừa đầu tiên và Tự
thọ dụng báo thân của các nhà Duy thức về sau. Nay vấn đề được đặt
ra là quan điểm Sambhogakàya khi nào được phổ thông? Quan điểm đầu tiên
và rõ rệt nhất được tìm thấy trong tập Lankàvatàra(Nhập lăng gìa), nhưng
danh từ dùng không phải là Sambhogakàya mà chính là Nisyanda (Ðẳng lưu) hay
Dharmatànisyanda-Buddha (Pháp tánh đẳng lưu Phật). Tập Lankàvatàra không
được xem là tập xưa nhất và chắc chắn ra sau tập Satasàhasrikà và tập
này được tập Lankàvatàra nói đến đích danh từ (tr.8). Trong tập Sata,
danh từ Nisyandakàya hay Sambhogakàya không được dùng đến, nhưng có đoạn
diễn tả Sambhokàya của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Báo thân này được
gọi là Prakrtyàtmabhàva hay Àsecanakakàya (Vô yếm túc thân).
Ðoạn văn diễn tả Àsecanakakàya được
dùng như đoạn mở đầu (nidàna=Nhơn duyên) cho đoạn văn bàn về Bát nhã
Ba-la-mật. Tập Pancavimsati theo sát tập Sata gần như từng chữ một trong
đoạn văn này và như vậy không cần phải bàn đến. Tập Gadavyùha (Hoa
nghiêm) hơn cả tập Prajnàpàramità khi diễn đạt Buddhakàya (Phật thân)
và hình như trí tưởng tượng không thể vượt hơn những hình ảnh mà
tác giả tập Hoa nghiêm đã diễn tả. Ðoạn văn diễn tả Àsecanakakàya cũng
được tìm thấy trong tập Pháp Hoa, nhưng dè dặt và ít tưởng tượng
hơn. Ðiều kỳ lạ là đoạn văn diễn tả thân hào quang của đức Phật
chiếu khắp mười phương thế giới và làm mọi chúng sanh hoan hỷ, không
được tập Asta nói đến. Tập này đề cập ngay vấn đề Bát nhã Ba-la-mật,
và đề tài này được tập Sata nói đến trong chương hai và chương bốn
(Sata trang 504, 324, Asta trang.7 và 4). Sự im lặng của tập Asta về thân hào
quang của đức Phật chứng tỏ tập này xưa hơn tập Sata, Pancavimsati và
Gandavyùha, và được biên soạn trong thời gian khi quan niệm về
Sambhogakàya hay Àsecanakakàya chưa được đề cập.
II- Quan điểm về Dasabhùmi
Một bằng chứng nữa xác nhận tánh
cách kỳ cựu của tập Asta là quan điểm của tập này về 10 địa. Về sự
diễn tiến của quan điểm Bhùmi, chúng ta đã thấy tập Mahàvastu được
xem là xưa nhất, rồi đến tập Sata và pancavimsati, cuối cùng là tập
Dasabhùmikasùtra và các tập khác. Tập Asta không đề cập đến các Bhùmi
chút nào cả. Bằng chứng tiêu cực này có thể bị phản đối, nhưng nếu
so sánh tập Asta với tập Sata, thời đầu là những bằng chứng tiêu cực,
những bằng chứng này cũng đủ sức mạnh để xác chứng quan điểm của
chúng tôi. Ðọan văn diễn tả các Bhùmi thuộc chương mười tập Sata, và
được giới thiệu với đọan văn như sau: Katham Bodhisattvo mahàyana-samprasthito
bhavati (Như thế nào vị Bồ-tát được xem là bước vào con đường Ðại
thừa?) (Sata, tr. 1454; Asta, tr. 23). Ðoạn này được mở đầu bằng một
đoạn giải đáp khá tỷ mỷ về câu hỏi: "Thế nào là Ðại thừa?",
giúp tập Sata cơ hội đề cập đến tất cả các hạnh Ðại thừa mà một
vị Bồ-tát cần phải thực hiện. Chương kế tiếp chương các Ðịa, bàn
đến triết lý siêu hình Ðại thừa, thuyết Chơn không (Sùnyatà) được
đem so sánh với Àkàsa (Hư không). Tập Asta trả lời câu hỏi thế nào là
Mahàyàna-samprasthita bằng một chữ: "Pàramitàbhih samprasthitah". (Bắt
đầu bởi thực hành hạnh Ba-la-mật). Trước câu này là một câu trả lời
vắn tắt câu hỏi: "Thế nào là Ðại thừa?", tiếp theo là một
vài nhận xét về hình thái siêu hình của Ðại thừa, nhưng tuyệt nhiên
không đề cập đến các Bhùmi. Có người sẽ giải thích, chỉ vì muốn vắn
tắt mà tập Asta không đề cập đến nhiều vấn đề và các Bhùmi là một
trong những vấn đề ấy. Một câu chất vấn như vậy chỉ có thể trả lời
bằng một bằng chứng tiêu cực khác mà thôi. Tập Bát nhã Ba-la-mật thường
kể tất cả các hạnh tu và kể các tầng bậc thánh quả của một vị
Thanh văn, Bích chi hay một vị Bồ-tát và nêu rõ rằng các hạnh và tầng
bậc ấy không thật có hay các vị Bồ-tát thoát ly khỏi chúng và chúng chỉ
là mộng ảo được xem là chân thật bởi quần chúng mê muội. Không một
tập Bát nhã Ba-la-mật nào nói đến các Bhùmi (địa), dù các tập này có
đề cập đến các tầng bậc thánh quả Tiểu thừa trong các đoạn văn
ấy. Sự kiện này làmvững mạnh thêm ý kiến của chúng tôi xem quan điểm
Bhùmi không được các nhà Tiền Ðại thừa biết đến, và chỉ được tạo
ra và soạn tập vào các tập Bát nhã Ba-la-mật lớn hơn về sau, và không
đả động gì các đoạn văn ghi chép về các Thanh văn Ðịa (Sàta, tr. 14).
Với những bằng chứng về nội dung
như vậy, chúng ta có thể xác nhận chắc chắn là tập Asta sớm hơn các tập
Sata. Pancavimsati, cũng như các tập Lankàvatàra, Saddharma-pundarìka, Gandavyùha
và Dasabhùmikasùtra. Với những bằng chứng về Sambhogakàya và Bhùmi, chúng
ta có thể phân loại thứ tự trước sau như thế này:
1) Asata và Dasa.,
2) Saddharmapundarìka, Sata., và Pancavimsati (tập hiệu đính),
3) Gandavyùha và Lankàvatàra., và
4) Dasabhùmikasùtra.
Bản Hán dịch sớm nhất của tập
Dasabhùmikasùtra do Ngài Dharmaraksa (Pháp hộ) dịch vào thế kỷ thứ III và
chứng tỏ tập Sùtra này có mặt vào thế kỷ thứ II. Hai thế kỷ có thể
được xem là cần thiết để quan điểm Báo thân và các Ðịa được phát
triển và tập Prajnàpàramità được sưu tập dồi dào hơn. Do vậy, chúng
ta có thể chấp nhận tập Asta và Dasa được có mặt vào khoảng cuối thế
kỷ thứ nhất sau kỷ nguyên.
Sự liên hệ giữa
các tập Prajnàpàramità
Người ta thường tin rằng - và cũng
có một truyền thống tương tự - có một cố gắng tuần tự làm cho ngắn
lại tập Prajuàpàiamità nguyên thủy và do đó các tập luận như sau được
ra đời: Satasàhasnkà, Pancavimsátisà, Astadasasà, Dasasà, Astasà, Saptasátiká,
Ardhas Atikà, và cuối cùng là tập Ekàksarè. Thực sự các tập Bát nhã
Ba-la-mật này, trừ ba hay bốn tập đầu không phải là những tập tóm tắt
các tập lớn hơn, mà chỉ là những tập độc lập soạn thảo và biên tập
bởi nhiều tác giả sai khác trong những thời gian sai khác. Nội dung của mọi
tác phẩm dĩ nhiên là giống nhau, nghĩa là sự thiết lập triết thuyết mới
về Chơn không (Sùhyatà) và xác chứng với sự thực hành hạnh Bát nhã
Ba-la-mật mà thôi. Có nhiều vấn đề phụ thuộc được các tập Bát nhã
Ba-la-mật lớn vô tâm đề cập đến và trao lại cho các tập Bát nhã nhỏ
hơn, như 18 loại Sùnyatà, 118 Samàdhi (Ðịnh), các loại Caksu (Nhẫn) sai
khác, các loại Bodhi paksikadharma (các pháp Bồ đề phận). Theo ý tôi, các
tập Bát nhã Ba-la-mật lớn không phải chỉ là những tập nhỏ được bàn
luận rộng lớn hơn; và không gì quá đáng hơn nếu xem tập Vajracchedikà
(Kim cang kinh) chỉ là bản tóm tắt tập Sata., hay tập Ekáksari đề cập tất
cả những gì tập Bát nhã Ba-la-mật đã đề cập đến.
Trái với truyền thống cho rằng các
tập Bát nhã Ba-la-mật nhỏ là những tập tóm tắt các tập lớn, một số
học giả Ðông phương học lại có quan điểm trái ngược. Tiến sĩ Tucci
là một vị chủ trương quan điểm này. Trong bài giới thiệu tập
Saptasatikà, ông nói: "Trừ vài ngoại lệ hiếm hoi, các tập lớn chỉ
bàn luận rộng lớn hơn và nhấn mạnh thêm những quan điểm căn bản, cốt
tủy của tập Prajnàpàramità. Các quan điểm căn bản ấy được tìm thấy
một cách vắn tắt và không có lặp đi lặp lại quá đáng trong các tập
Bát nhã ngắn hơn. Tập Saptasatikà đề cập ngay đến vấn đề căn bản,
không lặp đi lặp lại, giải thích đề tài chính trong một cuộc đối
thoại mà các tham dự viên là đức Phật, Ngài Văn Thù và
Sàradvatiputra".
Giáo sư Tucci quên đi sự kiện là tập
Saptasatikà chỉ đề cập sơ qua một số vấn đề rộng lớn, được các
tập Bát nhã Ba-la-mật khác bàn đến, và không được xem là chỉ tóm tắt
một tập Bát nhã Ba-la-mật lớn khác. Nếu theo luận điệu của giáo sư
cho đến tột cùng, chúng ta có thể nói một câu rằng, Sùnyatà (Chân
không) là lời dạy của các tập Bát nhã Ba-la-mật và bao gồm nội dung của
tất cả nền văn học này. Quan điểm được giáo sư Tucci chấp nhận thật
sự là kết quả của một sự phê bình văn học Bà-la-môn. Trong một vài
trường hợp, các tác phẩm Bà-la-môn ban đầu rất ngắn và giản dị, sau
theo thời gian trở thành đồ sộ vì những trích dẫn và giải thích triết
học. Văn học Phật giáo đứng trên một chân đứng khác hẳn, và những
gì có thể đúng với văn học Bà-la-môn chưa chắc đã đúng hẳn với Phật
giáo. Trong trường hợp Phật giáo, chúng ta nhận thấy ngôn ngữ của những
tác phẩm cựu trào tuy giản dị hơn, nhưng văn cú đa ngôn hơn và rất nhiều
đoạn lặp đi lặp lại. Còn các tác phẩm về sau thì ít đa ngôn hơn và
ít đoạn trùng điệp hơn. Lại nữa các tập Bát nhã Ba-la-mật đầu tiên
sở dĩ lớn và dày là vì những đoạn trùng điệp, hơn là những đoạn
chú thích và biện luận triết học. Do vậy, sự liên hệ giữa các tập
Bát nhã Ba-la-mật lớn và nhỏ, cần phải xác định với một sự tìm hiểu
độc lập hơn là theo một quy tắc chung. Và sự xác định này chỉ có thể
thực hiện khi nào chúng ta có những tập Bát nhã Ba-la-mật đóng thành tập
sách tiện nghi sử dụng.
Do vậy hiện tại, chúng ta chỉ có thể
so sánh tập Asta., 12 (trong 72) chương của Sata., và bản nhuận đính của tập
Pancavimsati (tập này đang in). Sự liên hệ giữa tập Asta và tập Sata, khó
có thể xem là tập tóm tắt hay chú thích rộng hơn như có thể nói giữa
tập Sata và Pancavimsati. Tập Asta không đề cập một chữ nào về thân
hào quang chói sáng Buddhakàya (Phật thân) và những vấn đề khác của đoạn
văn Nidàna (Duyên khởi). Tập này bắt đầu ngay vấn đề Ngài Subhùti (Tu
bồ đề) có xứng đáng đứng ra giảng dạy giáo lý Ðại thừa không và
vấn đề này được đề cập trong chương II của tập Sata (Asta. Tr. 4 -
Sata, chương II). Trong chương I, tập Asta, bàn luận vấn đề khi nào một vị
Bồ-tát được xem là mahàsannàhasannaddhah (khéo mặc áo giáp tục), vấn đề
này được tập Sata đề cập trong chương VII. Rồi câu hỏi "Thế nào
là Ðại thừa?" được tập Asta trả lời ngay trong chương đầu thì tập
Sata đến chương XI mới đề cập tới. Những đoạn văn tương đồng, nhiều
khi hoàn toàn giống nhau, như các đoạn đã đề cập, có thể trích dẫn rất
nhiều để chứng minh tập Asta và tập Sata đề cập đến những vấn đề
giống nhau, nhưng vấn đề sắp đặt và nhấn mạnh trên một vài vấn đề
thời hoàn toàn khác nhau. Ngoài ra, tập Sata có thêm vào những vấn đề mới
như Bhùmi (Ðịa) và giải thích các vấn đề Sùnyatà (Chơn không), Samàdhi
v.v... những vấn đề này chỉ được tập Asta kê tên và đề cập sơ
qua, như vậy chúng ta có thể nói tập Sata dùng tập Asta chứ không phải
trái ngược lại. Lại nữa, một số tập Bát nhã Ba-la-mật là những bản
tóm tắt từ tập Sata. Tập Pancavimsati rõ ràng là tóm tắt từ tập Asta, bỏ
quên những đoạn kê danh và những đoạn lặp lại cách dùng những chữ
như Yàvad, peyyàlam hay ghi chép đầy đủ các danh từ tích cực và lược bỏ
các danh từ tiêu cực. Tóm lại, tập Pancavimsati cố gắng gìn giữ nguyên
bản một cách hết sức đúng mức.
Rất gần đây, một mảnh bản thảo
của một tập Bát nhã Ba-la-mật (18 tờ) được tìm thấy ở Trung Á và
được đăng ở tập "Memoirs of the Archaeological Survey of India" (số
32). Ông Bidyabinod, cho in mảnh bản thảo, tin rằng bản thảo nay thuộc một
thời đại trước kỷ nguyên 580 năm vì viết bằng chữ Gupta đứng. Ông cũng
nêu lên nội dung và cách hành văn của bản này rất giống với tập Sata
và bản thảo này có thể xem là một bản tóm tắt chương VII-XI của tập
Sata, đề cập đến các vấn đề như Ba-la-mật, Chơn không, Thiền định
và các Pháp Bồ đề phận, theo sát những đoạn văn tương đương trong tập
Pancavimsati, và có những sai khác nhỏ như Dharmebhyah thế cho dharmaih, hay bàhya
thế cho bahirddhàh. Mảnh bản thảo này có thể xem là bản sao của nguyên
bản tập Pancavimsati, nhưng những đoạn văn trong tập này rất là phổ
thông, và khó lòng xem đó chỉ là vản sao của tập Pancavimsati, chứ không
phải tập Astadasa hay tập nào khác. Tuy vậy, mảnh bản thảo này không thể
xem là bản sao của tập Sata, vì có nhiều đoạn thật sự là những đoạn
tóm tắt của tập Pancavimsati. Ở Tích Lan gần đây cũng tìm được một số
bia ký ghi chép những đoạn văn của tập Bát nhã Ba-la-mật (Ceylon Journal
of Science II) chúng tương đương với phần duyên khởi của tập Sata và tập
Pancavimsati; các điểm tương đồng tuy nhiều, nhưng không thể xem là hoàn
toàn giống nhau. Như vậy, hình như số bia ký cũng là những đoạn lấy từ
một bản hiệu đính hoặc của tập Pancavimsati hay của tập Astadàsa.
Sự so sánh các tập Sata., Pancavimsati
và Asta, xác chứng quan điểm của chúng tôi không chấp nhận suy luận về
vấn đề tóm tắt hay tán rộng của các tập Bát nhã Ba-la-mật. Sự thật,
mỗi tập Bát nhã Ba-la-mật phải được phê bình, dựa trên nội dung của
từng tập. Nếu chúng ta xem tạp Saptasatikà, được xem là xưa hơn các tập
được tán rộng ra, chúng ta sẽ thấy nhân vật chính là Ngài Văn Thù Sư
Lợi với Ngài Xá Lợi Phất chứ không phải là Ngài Tu Bồ Ðề với Ngài
Xá Lợi Phất, hai nhân vật phổ thông nhất của các tập Ðại thừa xưa
nhất. Có một loại văn học như loại Gandavyùha (Hoa nghiêm), trong các loại
này, Ngài Văn Thù Sư Lợi đóng vai chính. Như vậy tập Bát nhã Ba-la-mật
này có thể do một số tín đồ ái ngưỡng Ngài Văn Thù Sư Lợi tạo ra.
Khi đề cập đến vấn đề Niràlamba-bhaginì, sự cổ động tích cực một
ý tưởng trừu tượng, tập này có thể xem là ra đời sau các tập Bát
nhã Ba-la-mật lớn hơn.
Tánh chất của sự
trùng điệp
Chúng ta cố gắng tìm hiểu tánh chất
của sự trùng điệp được dùng trong các tập Bát nhã Ba-la-mật và lý do
của chúng. Trong thời buổi rất chú trọng tiết kiệm thì giờ và sức lực
này, người ta dễ chán ngấy khi phải đọc những đoạn trùng điệp một
cách máy móc được tìm thấy trong các tập Bát nhã Ba-la-mật. Tác giả
các đề tài triết học thường hay nhấn mạnh những tư tưởng ý kiến mới
mẻ mà mình muốn giới thiệu và được chấp nhận. Khi nào các vị này
thực hiện được như trên một cách biệt tài, không làm cho độc giả chán
nản, thời không ai phản đối gì sự nhiệt thành này. Chúng ta để ý đến
sự trùng điệp này trong các tác phẩm triết học Tây phương và Ðông phương,
cũng như trong các tác phẩm của các Ngài Long Thọ và Vô Trước. Ðể thực
hiện mục tiêu của mình, một tác phẩm triết học mới tự nhiên phải
mang gánh nặng khó khăn và không mấy thú vị là gột sạch trong tâm tưởng
người đọc, những tư tưởng thủ cựu nhiều khi đã được ăn sâu bám
rễ, để gieo vào những tư tưởng mới mẻ canh tân. Lại nữa, để ghi đậm
thêm ảnh hưởng, tác phẩm mới này phải đề cập vấn đề nhiều lần,
dưới những hình thức khác nhau để hướng dẫn người đọc đến quan
điểm mới một cách tự nhiên.
Văn học tối sơ đạo Phật, đặc biệt
là Văn học Bát nhã Ba-la-mật thiếu hẳn nghệ thuật lặp đi lặp lại, và
do vậy đọc rất dễ chán nản. So sánh với các tác phẩm triết học được
sáng tác trước hay đồng thời với các tập Bát nhã Ba-la-mật, những tập
này thiếu hẳn sự chính xác về tư tưởng diễn đạt và về hành văn,
những khuyết điểm được bổ cứu bằng cách lặp đi lặp lại. Ví dụ,
khi nói đến mọi vật là Sùnya (không thực có), người đọc có thể nghi
ngờ không hiểu một đức Như Lai hay các vô vi pháp như Hư không hay Niết
bàn có bị chi phối hay không. Cho nên các tập Bát nhã Ba-la-mật đặc biết
nhấn mạnh là pháp nào, dù là Như lai, Niết bàn hay Hư không, cho đến các
Sùnyatà (không) cũng đều Sùnya như Nhãn (Caksu) hay Nhãn thức
(Caksuvijnàna). Một độc giả hiện đại có thể than phiền về khuyết điểm
này khi phải đọc trong một thời gian ngắn cả một loại văn học khổng
lồ như vậy; nhưng các tác giả các tập Bát nhã Ba-la-mật có đủ thời
giờ và nhẫn nại để đọc và viết những tác phẩm như vậy.
Các tập Bát nhã Ba-la-mật, như các tập
triết học khác, phải đào thải nhiều tư tưởng cũ đã ăn sâu bám rễ.
Các tập này đặc biết nhắm vào các nhà Tiểu thừa đã có mặt từ trước.
Như chúng ta đã biết, các vị này đã ngự trị trên nền văn học Phật
giáo trong một thời gian khá dài, và đã xây dụng một gia tài văn học khá
phong phú về những giáo lý của mình, sự phân loại các pháp và các phân
tích tâm lý v.v... Các tập Bát nhã Ba-la-mật lựa những giáo lý và giáo
luật phổ thông nhất, và cố gắng nêu rõ dưới quan điểm mới của mình
mà các tập Bát nhã Ba-la-mật có trách nhiệm phổ biến, thời những giáo
lý và giáo luật ấy phải được xem như là danh xưng, không có thực tại.
Ví dụ: Một vị Bồ-tát trong khi thực hành hạnh Bát nhã Ba-la-mật không
tự xem là chấp trước hay không chấp trước một pháp nào, dù thuộc về
5 Uẩn, 6 Căn, 6 Xứ, 6 Thức, 4 Ðại địa, 12 pháp của lý Duyên khởi, 6
Ba-la-mật, 18 Không, 37 Pháp trợ đạo, các vô lượng pháp, Thiền định, các
Samàpatti (Ðẳng chí, thành tựu pháp), các àveni = kadharmas (Bất cọng
pháp), các bala (Lực), vaisàradyas (Vô sở úy), phala (Quả), Tathatà (Như tánh),
àtman (Ngã), Sukha (Lạc) v.v... Các vị này lặp đi lặp lại danh sách này
để nhấn mạnh rằng mỗi một pháp này không phải là Bồ-tát hay không
khác là Bồ-tát. Tóm lại, các tập Bát nhã Ba-la-mật, để thành lập
Sùnyatà, đã chứng minh rằng mọi pháp ở trên đời này không pháp nào
có thực tại cả. Các pháp mà chúng ta ý thức được chỉ là mộng huyễn,
vàtất cả 84.000 pháp vẫn đuợc xem là do đức Phật thuyết dạy đều chỉ
là thiện xảo phương tiện, do Ngài dùng để giúp đỡ các chúng sanh ngu
muội và mê mờ. Do đó, một vị Bồ-tát trong khi thực hành pháp Ba-la-mật
phải xem chúng như là bào ảnh, không có thực chất.
Tác dụng của
Bát nhã Ba-la-mật
Tác dụng của Bát nhã Ba-la-mật là
khiến chư vị Bồ-tát luôn luôn nhớ rằng các pháp Pàramità (Ba-la-mật),
Samàdhi (Thiền định), Samàpattis, Phala (Quả) hay Bodhipaksikadharma (Trợ bồ
đề pháp) mà vị ấy đang thực hành đều chỉ là phương tiện do đức
Phật bày ra giúp chúng sanh thực hiện lý tưởng. Khác với các pháp
Ba-la-mật khác, Bát nhã Ba-la-mật không được đem ra thực hành thật sự,
chỉ là một trạng thái tâm trí, chứng được nhờ thực hiện 6 pháp
Ba-la-mật và các pháp tu hành Phật giáo khác. Một vị Bồ-tát có thể thực
hành hạnh bố thí Ba-la-mật một cách hoàn hảo, nhưng vị ấy có thể chấp
hạnh Bố thí Ba-la-mật có thực tánh (Svabhàva), và như vậy có thể bị
chấp thủ (gràhya). Vị ấy có thể chấp người cho, người được cho và
vật đem cho. Chính vì để chống lại những quan điểm sai lạc này mà
Bát nhã Ba-la-mật được đề cập và vị Bồ-tát cố gắng tạo ra một
trạng thái tâm trí trong ấy bố thí Ba-la-mật hiện ra không có tướng
(alaksana), không có đời sống độc lập, và cũng diệt trừ luôn từ tâm
trí của mình những quan niệmvề người cho, người được cho và của
đem cho. Tóm lại, tác dụng của Bát nhã Ba-la-mật là làm cho vị Bồ-tát
tin rằng bố thí Ba-la-mật hay bất cứ pháp nào đều không có hình tướng,
không có căn nguyên, và không sai khác với Sùnyatà, Bát nhã Ba-la-mật dùng
như một vệ sĩ cho vị Bồ-tát, đã vượt trên các hạng người tầm thường,
đã chứng nhiều đức tánh tốt đẹp, nhưng có thể vẫn còn chấp thủ một
vài quan điểm có thể là cao thượng, trong sạch, nhưng vẫn trở thành một
đối tượng chấp thủ cần phải trừ diệt. Vì lý do này mà Bát nhã
Ba-la-mật được tán thán hơn các pháp Ba-la-mật hay các đức tánh khác
và được xem như là lãnh đạo (nàyikhà, phùrvan gamà) cho tất cả pháp
Ba-la-mật. Tập Astasàhasrika (Bát thiên tụng tr. 80-81) so sánh Bát nhã
Ba-la-mật như quả đất, trên ấy mọi pháp Ba-la-mật khác y cứ, trưởng
thành và tạo được quả Sarvajnatà (Nhất thế trí), và do đó, Bát nhã
Ba-la-mật tác thành các bậc Nhất thế trí, các đức Như Lai.
(Hết)
Mục lục
| 1.1 | 1.2
| 2.1 | 2.2
| 3.1 | 3.2 | 3.3 | 3.4 | 3.5 | 4.1 | 4.2 | 5