- ÐẠI THỪA VÀ SỰ
LIÊN HỆ VỚI TIỂU THỪA
- Nguyên tác: Nalinaksha Dutt
Prabhàkarì (Phát quang) hay Adhicitavihàra (Thắng tâm trí)
Một vị Bồ-tát sau khi thành tựu Ðịa
thứ hai và muốn bước lên Ðịa thứ ba cần phải biết 10 cittàsayas như
sau: suddha (thanh tịnh), sthira (kiên trì), nirvid (nhàm chán), aviràga (bất
tham), anivrta (bất thối), drdha (mạnh mẽ), uttapta (tinh tấn), atrpta (không
bao giờ thỏa mản), udàra (cao thượng), và màhàtmya (đại, lớn).
Trong khi ở Ðịa thứ ba, vị Bồ-tát
chứng được sự vật là vô thường, đầy đau khổ, sanh diệt trong từng
sát-na, vô thủy vô chung và bị lý nhân duyên chi phối. Vị Bồ-tát hiểu
sự đau khổ và chán chường phát sanh từ tham đắm sự vật hữu vi, do vậy
chú tâm chứng ngộ cho được Như lai trí (Tathàgatajnàna) (B.Bh. tr. 12-13),
trí này không thể nghĩ nghì, vô lượng, vượt ngoài mọi khổ đau, sợ hãi,
và chỉ chứng Như lai trí mới cứu độ được các chúng sanh. Rồi vị Bồ-tát
lại tu tập thêm 10 cittàsayas (10 tâm y).
Chứng hiểu tình trạng này, vị Bồ-tát
lại phát tâm tinh tấn cứu độ mọi chúng sanh. Ngài nghĩ đến mọi
phương tiện để cứu độ chúng và thấy rằng chỉ có
Anavaranavimoksajnàna (Bất chướng giải thoát trí), và trí này chỉ chứng
được nhờ nghe và thực hành Dharma (Pháp). Do vậy, vị Bồ-tát hướng tâm
tự mình tu hành trong chánh pháp, cương quyết hy sinh mọi tài sản thế
gian và mọi sự thọ hưởng và đương chịu mọi sự khổ cực. (Mtu I.
91-95, vị Bồ-tát sẵn sàng hy sinh tất cả, cho đến sinh mạng, để nghe một
câu kệ). Nay Ngài thấy ngữ nghiệp và thân nghiệp thanh tịnh chưa đủ, và
cần phải thực hành các Dharmas (pháp) và Anudharmas (Tùy pháp). Với mục đích
ấy, vị Bồ-tát tu hành các dhyànas (Thiền định, thiền-na), bốn Brahmavihàras
(Vô lượng tâm tức là từ, bi, hỷ, xả) và chứng các Abhijnàs (Thắng
trí) tức là rddhividha (Thần túc thông), divyasrota (Thiên nhĩ thông),
paracittajnàna (Tha tâm thông), pùrvanivàsànusmarana (Túc mạng thông), và
divyacaksu (Thiên nhãn thông).
Vị Bồ-tát thấy nhiều đức Phật,
nghe thuyết pháp và vâng theo lời chỉ giáo của chư Phật. Vị ấy biết mọi
pháp là không sanh, không diệt, chỉ chịu sự chi phối của lý nhân duyên.
Các kiết sử của Kàma (dục), Rùpa (sắc), Bhava (hữu) và Avidya (vô minh)
trở thành yếu ớt, những kiết sử do tà kiến đã được đoạn trừ. Vị
này đoạn trừ tham, sân, si, và những àsayas sau này được thanh tịnh: ksàntisauratya
(nhẫn nhục thuần hậu), akhilyamàdhurya (ngọt ngào không chướng ngại),
akopya (không sân hận), aksubhita (không trạo cử), alubhita (không tham),
anunnàmàvanàma (không thích thú, không chán nản),
sarvakrtapratikrtànamniskànksà (không tham lợi tức những công việc mình
làm), asàthyamàyàvità (không lừa dối), và agahanatà (không bí mật che dấu).
Trong 4 nhiếp pháp, vị này hết sức thực hành arthacaryà (lợi hành) và
trong mười hạnh Ba-la-mật, tu hạnh nhẫn nhục Ba-la-mật, chứ không tu
các hạnh khác.
Trong sự diễn tả Ðịa thứ ba này,
chúng ta nhận thấy các vị Bồ-tát, ngoài những đặc tánh hy hữu riêng
biệt của mình, bắt đầu thực hành tám Dhyànas (Thiền-na), 4 vô lượng tâm
và sáu thắng trí. Các kiết sử liên hệ đến Kàma (Dục), Rùpa (Sắc),
Bhava (Hữu) và Avidyà (Vô minh) trở thành yếu ớt và kiết sử liên hệ đến
tà kiến đã được đoạn trừ. Tham, sân và si hoàn toàn được trừ diệt.
Trong hệ thống Tiểu thừa cũng vậy,
một nhà tu hành, sau khi thành tựu các Sìla (giới), cố gắng tiến lên
các cấp bậc cao hơn bằng cách tu hành thiền định để phát triển tâm
trí. Tập Visuddhimagga (chương II) nói đầy đủ các chi tiết những phương
pháp tu hành được phân loại vào Samàdhi (Thiền định). Ðó là 4 Thiền sắc
giới (rupajhàna), 4 vô sắc thiền (arupajhàna), 10 Anussatis (tùy niệm), và 6
abhinnàs (Thắng trí). Tất cả như chúng ta sẽ thấy, đều được nằm vào
trong Ðịa thứ ba. Tập Visuddhimagga cũng nói cho chúng ta được biết, một
người tu hành, sau khi tu các thiền định, sẽ trở thành một vị Bất
lai, nghĩa là một vị không còn sanh vào Dục giới. Vị này đoạn trừ 5
orambhàgiyas: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, ái và sân, đoạn trừ hoàn
toàn tham, sân, si, dứt hẳn Dục lậu và một phần Hữu lậu và Vô minh lậu
(Patis. M, tr.118). Vị này sẽ được hóa sanh và chứng Niết bàn.
Các vị A na hàm (Bất lai) được phân
loại thành năm hạng như sau:
1 - Antaràparinibbàyi (Trung bát Niết
bàn) = Những vị tu hành để diệt trừ 5 thượng phần kiết sử liền khi
mới sanh và trước khi đến nửa tuổi đời.
2 - Upahacca (Sanh bát Niết bàn hay Tổn
hại bát Niết bàn hay Upapadya của Kosa) = Những vị tu hành để diệt trừ
5 thượng phần kiết sử sau khi nửa tuổi đời cho đến trước khi gần
chết.
3 - Asankhàraparinibbàyì (Vô hành bát
Niết bàn) là những vị chứng Niết bàn bằng cách diệt trừ các phiền
não không nhiều khó khăn và không nhiều cố gắng. Tập Kosa giải thích
là những vị chứng Niết bàn không nhiều cố gắng vì những vị này
không tinh tấn (VI, tr.211). Tập Anguttaranikàya (Tăng nhất bộ kinh) giải thích
khác hơn. Tập này xem rằng những ai thành tựu Thiền thứ tư, tu hành 5 lực
và 5 căn, và chứng Niết bàn trong đời này gọi là asankhàraparinibhàyì.
(II, tr.156).
4 - Sasankhàraparinibbàyì (Hữu hành
bát Niết bàn) là những vị chứng Niết bàn bằng cách diệt trừ các phiền
não một cách nhiều khó khăn và nhiều nỗ lực (Vis. M. tr. 453). Tập Kosa
giải thích là những vị chứng Niết bàn không bao giờ sao nhãng sự thực
hành vì những vị này rất tinh tấn. Tập Anguttaranikàya giải thích là những
vị xem thân thể là asubha (bất tịnh), đồ ăn là gớm ghiếc và mọi
pháp hữu vi là ghê tởm. Các vị này suy tư trên tánh vô thường của sự
vật và của sự chết và khiến tâm trí được kiên trì. Các vị này tu tập
5 lực và 5 căn (Anguttara, II, tr.156. Kosa VI, tr. 212). Các vị A na hàm (bất
lai) hạng 1 và 4 có căn, hạng 2 và 3 có độn căn, hạng 3 và 4 tu Thiền định,
còn hạng 1 và 2 thời không nói đến tu Thiền định.
5 - Uddhamsota Akanitthagàmì (Thượng
lưu sắc cứu cánh thiên hành) là những vị A la hàm chưa chứng Niết bàn
khi còn ở trong Aviha (Vô phiền thiên), tu dần lên cao cho đến khi chứng sắc
cứu cánh thiên và từ đấy nhập Niết bàn (xem Kosa - VI, 37, tr. 213 về hai
hạng Thượng lưu Ùrdhvassotas: Akanisthagà và Naivasamjnànàsamjnàyatanagà).
Như vậy chúng ta thấy A na hàm Tiểu
thừa tương đương với Ðại thừa Ðịa thứ ba.
Sự thực hành các Ðịa thứ tư, thứ
năm và thứ sáu tương đương với sự tu hành Adhipannà (Thắng tuệ) của
Tiểu thừa. Trong tập Bodhisattvabhùmi, ba Ðịa đặt trong Adhipannàvihàra (Thắng
tuệ trú), lý do vì vị Bồ-tát chứng Prajnà (Tuệ) bằng ba phương tiện
khác nhau: các pháp Bồ đề phận, Tứ đế và lý Duyên khởi. Cho nên
vihàra này được chia làm ba:
1-
Bodhipaksyapratisamyuktàdhiprajnàvihàra: Bồ đề phận tương ứng thắng tuệ
trú. Sự tu hành trí tuệ theo các pháp Bồ đề phận.
2- Satyapratisamyuktàdhiprajnàvihàra: Ðế
tương ứng Thắng tuệ trú. Sự tu hành trí tuệ theo các pháp Tứ đế.
3- Pratityasamutpàdapratisamyukàdhiprajnà:
Duyên khởi tương ưng Thắng tuệ trú. Sự tu hành trí tuệ theo Duyên khởi.
Arsismatì (Diệm huệ)
hay Bodhipaksyapratisamyuktàdhiprajnàvihàra (Bồ đề phận tương ứng Thắng tuệ
trú)
Một vị Bồ-tát đi từ Ðịa thứ ba
qua Ðịa thứ tư sau khi chứng 10 Dharmàlokàs (Pháp quang), nghĩa là sau khi chứng
hiểu sattvadhàtu (chúng sanh giới), lokadhàtu (thế giới), dharmadhàtu (pháp
giới), àkàsadhàtu (không giới), vijnànadhàtu (thức giới), kàmadhàtu (dục
giới), rùpadhàtu (sắc giới), àrùpyadhàtu (vô sắc giới),
udàràdhyàsa-yàdhimuktidhàtu (cao thượng ý nguyện giới) và
màhàtmyàdhyàsayàdhimuktidhàtu (đại ý nguyện giới).
Vị này trở thành một phần tử thuần
túy trong đại gia đình Như Lai, nhờ thành tựu những đặc tánh sau này:
tám nguyện bất khuất, tín tưởng chân thành vào Tam bảo, nhận thức rõ
ràng tánh sanh diệt của các pháp hữu vi, thực hành bất sanh của sự vật,
khứ lai của thế giới, của luân hồi và Niết bàn, hành động của các
chúng sanh trong mọi giới.
Vị Bồ-tát thực hành 4 Nhiếp pháp,
cố gắng tạo nhiều công đức hơn nữa, gìn giữ các công đức đã tạo
tác và không làm các ác hạnh, thực hành các thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác
chi và 8 đạo. Ở địa này, vị Bồ-tát từ bỏ thân kiến và các tâm sở
tương ứng và chỉ làm những hạnh đưa tới chánh giác.
Khi vị Bồ-tát chứng được các đặc
tánh của Ðịa này, tâm trí trở thành uyển chuyển hơn, các nguyện mạnh
mẽ hơn, lòng từ đối với chúng sanh lớn hơn và kết quả là vị Bồ-tát
càng ngày càng tinh tấn. Các nghi vấn được tiêu trừ và các cittàsayas trở
thành vô lượng.
Nay vị Bồ-tát thọ giới, các
Kusalamùlas (căn bản thiện) càng ngày càng trong sạch. Trong 4 Nhiếp pháp, vị
này phát triển Samànàthatà (Ðồng sự), và thực hành Vìryapàranimità
(tinh tấn Ba-la-mật) của 10 Ba-la-mật.
Sudubjàya hay
Satyapratisamyuktàdhiprajnàvihàra (Nan thắng địa hay đế tương ứng thắng
tuệ trú)
Vị Bồ-tát đi từ Ðịa thứ tư đến
Ðịa thứ năm bằng cách tu tập cittàsayavisuddhisamatà (thanh tịnh bình đẳng
tâm nguyện), liên hệ đến 10 vấn đề như sau: giáo lý của chư Phật quá
khứ, hiện tại và tương lai, giới, định, đoạn trừ tà kiến và nghi,
hiểu hết chánh đạo và tà đạo, thực hành các phẩm Bồ đ? giác chi và
bổn phận nâng cao đời sống giới hạnh của chúng sanh.
Trong Ðịa này, do sự thực hành liên
tục các pháp trợ đạo khác, sự chứng đắc một tâm ý còn thanh tịnh hơn
sự giác ngộ chơn như tánh (tathàtva) của mọi pháp vàsự tăng trưởng
nguyện lực của mình, lòng từ bi v.v..., vị Bồ-tát hiểu lý Tứ đế và
trở thành tinh luyện trong sự hiểu biết về:
- Samvrti (Tục đế), nhờ lo lắng đến
sự ao ước mong mỏi của các chúng sanh khác;
- Paramàrtha (Chơn đế), nhờ chỉ thực
hiện một con đường (Màrga=Ðạo);
- Sự thật về tướng (laksana), nhờ
chứng được những đặc tánh di động và đặc biệt của sự vật (svasàmànyalaksana);
- Sự thật về phân tích (vibhàya), nhờ
biết sự chia chẻ các pháp;
- Sự thật về đoạn trừ (nistìrana),
nhờ biết điều kiện các uẩn, xứ, v.v...
- Sự thật về sự vật (vastu), nhờ
để thân tâm chịu đựng mọi phiền não;
- Sự thật về sanh khởi (prabhava), nhờ
các thọ sanh;
- Sự thật về diệt và bất sanh
(ksayànutpàda), do sự đoạn diệt hoàn toàn mọi sự đau khổ;
- Sự thật về hiểu biết con đường
(màrgajnànàvatàra= Ðạo trí nhập); và
- Sự thật về sự tập khởi Như lai
trí (Tathàgatajnànasamudaya), nhờ giác ngộ thực trí trong mọi chi tiết và
nhờ theo Bồ-tát địa (bodhisattvabhù mis).
Nhờ biết sự thật, vị Bồ-tát
giác ngộ được mọi pháp hữu vi là vô ngã, không thật có, thương xót
chúng sanh ngu xuẩn, phải chịu luân hồi sanh tử và khổ đau vì không biết
sự thật. Vị Bồ-tát phát nguyện hồi hướng tất cả công đức của mình
cho hạnh phúc, sự tu tập và sự giải thoát cuối cùng cho mọi loài chúng
sanh.
Trong Ðịa này, vị Bồ-tát trở
thành smrtimàn, nghĩa là không bị hoang mang; matimàn, vì có thanh tịnh trí;
gatimàn, vì hiểu một bản kinh được thuyết vị mục đích gì, hrìmàn, tự
bảo trì cho mình và cho người khác; dhrtimàn, vì thực hành các giới luật,
và buddhimàn, vì tinh luyện trong việc xác chứng cái gì thích hợp hay
không thích hợp và nhiều sự việc khác nữa. Lòng ao ước và chí nhiệt
thành muốn được thêm công đức càng ngày càng mãnh liệt hơn. Vị Bồ-tát
làm mọi người hoan hỷ bằng cách thực hành 4 nhiếp pháp, hiện diện bằng
sắc thân, bằng thuyết pháp về các hạnh Ba-la-mật, về Ðại tánh của
Như Lai, về các ác hạnh của thế giới, về công đức thành tựu Phật
trí và về làm các thần thông. Muốn tuyên dương Phật pháp, vị Bồ-tát
cũng học các thế pháp như toán học, y học, thi văn, kịch nghệ, kỹ thuật
làm sắt, thiên văn học v.v...
Vị Bồ-tát diện kiến các đức Phật,
nghe các Ngài thuyết pháp, từ bỏ thế tục và trở thành một vị
Dharmabhànaka (thuyết pháp). Trong 10 Ba-la-mật vị Bồ-tát ưa nhất Thiền
Ba-la-mật.
Abhimukhì (Hiện tiền
địa) hay Pratiyasamutpàdapratisamyuktàdhiprajnàvihàra (Duyên khởi tương ưng
thượng trí trú)
Vị Bồ-tát, sau khi thành tựu các
Màrgas (Ðạo), bước qua Ðịa thứ sáu và chứng 10 bình đẳng tánh, nghĩa
là các pháp đều bình đẳng vì các pháp là:
1) animitta (vô tướng),
2) alaksana (vô tánh),
3) anutpàda (vô khởi),
4) ajàta (vô sanh),
5) vivikta (thoát lý),
6) àdivisuddha (thanh tịnh từ ban đầu),
7) nisprapanca (vô hý luận),
8) ànyùha-niryùha (bất thủ, bất xả),
9) màyàsvapnapratibhasapratisrutkopamrà (giống như huyễn mộng, vọng thanh),
10) bhàvàbhàvàdvaya (phi hữu phi vô).
Nhờ quán sát sự vật như vậy, vì Bồ-tát,
nhờ thâm tín, lên được Ðịa thứ sáu, nhưng chưa chứng
anutpattikadharmaksànti (vô sanh pháp nhẫn=tin sự vật tự tánh là bất sanh).
Vì nặng lòng Ðại từ, vị Bồ-tát thương xót các chúng sanh, vì vô minh
che lấp, xem sự vật ở đời là có sanh, có diệt và có ngã. Vì không hiểu
sự thật, chúng theo tà đạo, bị thiện và bất thiện chi phối, và do vậy
có những abhisamskàras (hành). Tâm chủng tử (cittabìja) do hành tạo ra trở
thành lậu nhiễm (sàsrava), đầy những chấp thủ (upàdàna), và tạo ra
sanh, lão tử và tái sanh. Rồi do thức thuộc về karmaksetra (Nghiệp điền),
tức là vô minh và ái, một lưới tà kiến được dệt vào, và từ đó
sinh ra nàmarùpa (danh sắc); từ danh sắc, tiếp tục khởi lên 5 giác quan,
xúc, thọ, thụ hưởng (abhinandana), tương ưng với trsna (ái), upàdàna (thủ)
bhava (hữu), và 5 uẩn phân chia theo 5 loại chúng sanh (gatipancaka). Các chúng
sanh này rồi rơi vào lão, ưu bi khổ não v.v... Vị Bồ-tát hiểu rằng
không có người tạo ra những điều trên, vì mọi sự vật tự tánh không
được tạo sanh bởi sức mạnh nào hết (anàbhoga, sàntilaksana), rồi diệt
mất và không có ai diệt chúng. Vị Bồ-tát lại chứng ngộ, không hiểu sự
thật tối thượng là vô minh và vô minh là nhân phát sinh hành (samkàra),
hành phát sinh tâm thức (citta-vijnàna), đầu tiên câu hữu với 4 thủ uẩn
(upàdàna- skandha), từ đấy sanh ra danh sắc (nàma-rùpa) và dắt dẫn đến
khổ uẩn. Cây đau khổ khởi lên, không có người tạo tác hay thọ hưởng
(kàrakavedakasahita). Cho nên vị Bồ-tát chứng ngộ ba giới là duy thức
(cittamàtram yad idam tràidhàtu kam).
Do hiểu lý nhân duyên từ mười vị
trí, và vì tin tưởng không có người làm hay người thọ hưởng, không
có vị tạo chủ (asvàmika), và mọi sự vật đều bị lý nhân duyên chi phối,
không có thực chất, xa lìa tất cả và tự tánh không hiện hữu, vị Bồ-tát
chứng được sùnyatà-vimoksamukha (thoát lý khỏikhông tánh). Do hiểu được
các bhavangas (những móc nối trong dây chuyền nhân duyên) tự tánh là đoạn
diệt (svabhàva-nirodha), vị Bồ-tát không phân biệt dharmanimitta (pháp tướng)
nào và như vậy chứng được animitta-vimoksamukha (vô tướng giải thoát).
Cuối cùng, nhờ hiểu được sùnyatà (không tướng) và animittatà (vô tướng)
của tất cả bhavangas, vị Bồ-tát thật tình không thấy sự giải thoát
gì (vimoksa), dù hình như tỏ ra đang làm như vậy vì lòng thương xót vô lượng
chúng sanh; nhờ vậy, vị này chứng được apranihita-vimoksamukha (vô nguyện
giải thoát). Luôn luôn đề cao lòng đại từ, vị Bồ-tát thành tựu viên
mãn các phẩm trợ đạo còn lại, và tin tưởng các samskàras được tác
thành bởi những phần tử mà tự tánh là bất sanh bất diệt, vị Bồ-tát
hướng tâm về Asangajnàna (vô tham diệu trí), gọi là Prajnàpàramitavihàra
(Bát nhã Ba-la-mật trú) và tu tập phát triển trí ấy một cách mạnh mẽ.
Nay vị Bồ-tát tu hành mọi loại thiền định về sùnyatà (hư không),
animitta (vô tướng) và apranihita (vô nguyện) và tu tập 10 àsayas để tiến
dần lên các quả vị cao hơn và khỏi có thể rơi vào Thanh văn hay Ðộc
giác. Trong 10 Ba-la-mật, vị Bồ-tát tu tập Bát nhã Ba-la-mật.
Một vị Bồ-tát nhờ đi ngang qua các
Ðịa này, chứng được mọi đặc tánh của vị A-la-hán, ngoài những đặc
tánh cần thiết cho một vị Bồ-tát. Nay vị Bồ-tát trở thành một vị
A-la-hán, vì như tập Lankàvatàra (nhập Lăng già) đã nói, vị Bồ-tát đã
thoát khỏi mọi vọng tưởng (vikalpa) về dhyàna (thiền), dheya (đối tượng
của thiền), samàdhi (định), vimoksa (giải thoát), bala (lực), abhijnà (thắng
trí), klesa (phiền não) và Dukkha (khổ).
Theo các nhà Tiểu thừa, người tu hành
khi thành tựu các hạnh Bát nhã, trở thành một vị A-la-hán. Ngài
Buddhaghosa dành 20 chương cuối của tập Visuddhimagga để giải thích mọi vấn
đề liên quan đến Pannàbhùmi (Bát nhã địa). Trong Ðịa này (Vis,
tr.443-587) người tu hành được xem là phải nghiên cứu, phân tích 5 uẩn,
12 xứ, 20 căn, 4 đế và 12 nhân duyên. Ðây chỉ là bước đầu của sự
tu tập về Pannàbhùmi. Nhờ các pháp môn này, người tu hành thành tựu
viên mãn Bhàvanàmàrga (Tu đạo vị). Chúng ta đã thấy, tu đạo vị bắt
đầu từ sát-na thứ 16, nghĩa là sát-na cuối cùng của Darsana-màrga (Kiến
đạo vị) khi người tu hành trở thành bậc Dự lưu (srotàpanna). Như vậy
người tu hành, trong khi tiến dần qua các vị trí giải thoát, thành tựu
viên mãn giới thanh tịnh và định thanh tịnh và một phần tuệ thanh tịnh.
Các Visuddhis (thanh tịnh vị) này như được phân loại trong tập
Visuddhimagga (tr. 443, 587 v.v...) và tập Abhidhammatthasangaha (Comp. Of Phil. Tr.65
v.v...) gồm có Ditthivisuddhi (Kiến thanh tịnh), Kankhàvitaranavimsudhi (Ðoạn
nghi thanh tịnh: 16 loại nghi thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai đều được
diệt trừ), Maggàmagganànadassanavisudbhi (Ðạo phi đạo tu kiến thanh tịnh:
Thanh tịnh do tri kiến phân biệt rõ ràng chánh đạo và phi đạo), Patipadànàna
dassanavisuddhi (Hành đạo tri kiến thanh tịnh = Tri kiến thanh tịnh trong khi
hành đạo) và nànadassanavisuddhi (Tri kiến thanh tịnh) (Ngài Buddhaghosa gọi
5 visuddhi này là sarìra (thân) và sìla và cittavisuddhi là mùla (căn bản),
Vis. M. tr.443).
Trong giai đoạn A-la-hán, vị tu hành
đoạn trừ 5 thượng phần kiết sử còn lại, mọi phiền não (kilesas), lậu
hoặc (àsavas) và cuối cùng hiểu rõ chân ý nghĩa của 4 Ðế, nghĩa là
được giác ngộ, tâm trí hoàn toàn giải thoát. Vị Bồ-tát không còn phải
tái sanh và sẽ chứng Niết bàn. Sự giải thoát này của các vị A-la-hán
cũng được các tác phẩm Prajnàpàramità và các phẩm Ðại thừa khác xác
nhận. Ðoạn văn được tả đại khái như sau: một vị A-la-hán là
ksìnàsrava (lậu hoặc trừ), Nisklesa (phiền não đoạn), Vasìbhùta (tự điều
tự phục), Suvimuktacitta (tâm trí giải thoát), Suvimuktaprajnà (trí tuệ giải
thoát), àjàneya (khó được tác thành), Kstakrtya (đã làm những việc đáng
làm) Apahrtabhàra (đã hạ xuống gánh nặng 5 uẩn), Anupràptasvakàrtha (thành
tựu viên mãn mục đích đời sống) và Pariksìnabhavasamyojana (giải thoát mọi
kiết sử tái sanh).
Tương đương với hai hạng Dự lưu gọi
là Saddhànusàrì (Tín hành) và Dhammànusàrì (Pháp hành), các vị A-la-hán cũng
được chia thành hai hạng: Ubhatobhàgavimukta (Song phần nhập tâm giải
thoát) và Pannàvimutta (Huệ giải thoát). Hạng đầu là những vị đã
thành tựu 8 giải thoát và diệt trừ các lậu hoặc nhờ trí tuệ (Pannà).
Hạng thứ hai là những vị chưa thành tựu 8 giải thoát nhưng đã đoạn
trừ các lậu hoặc nhờ trí tuệ.
Hình như tất cả các vị A-la-hán
không chứng được Patisambhidàs (Vô ngại giải), còn vị Bồ-tát thành tựu
pháp này cùng với các pháp khác, vào địa thứ chín. Chúng ta cũng thường
tìm thấy một vị A-la-hán chứng được Patisambhidàs thường được đặc
biệt diễn tả là Sahapatisambhidà arahattampàpuni (thành tựu A-la-hán quả với
vô ngại giải).
Với địa thứ sáu, sự so sánh giữa
các vị thứ Tiểu thừa và Ðại thừa của chúng ta được chấm dứt. 4
Ðịa còn lại không liên hệ gì với phương pháp tu hành Tiểu thừa và
các quả vị mà một vị Bồ-tát cố gắng thực hành các công hạnh thuộc
4 Ðịa này không được các nhà Tiểu thừa biết đến. Từ Ðịa thứ bảy
trở đi, thật sự bắt đầu sự cố gắng của vị Bồ-tát để chứng
Dharmasùnyatà (Pháp không). Nirnimittatà (Vô tướng) của sự vật do chúng ta
nhận thức. Và bốn địa sau cùng chỉ nêu rõ sự phát triển tuần tự
trí tuệ của vị Bồ-tát cho đến khi chứng được Tathàgatabhùmi (Như lai
Ðịa). Ở Ðịa này, vị Bồ-tát trở thành đức Như Lai viên mãn và đồng
nhất với các đức Như Lai khác. Các vị Tiểu thừa lẽ dĩ nhiên đặt đức
Phật lên địa vị tối cao với những thần lực và siêu tánh đặc biệt,
một số thần lực và siêu tánh này được tìm thấy trong 4 Ðịa cuối
cùng.
Dùrangamà (viễn
hành địa) hay Sàbhisamskàrasàbhoganirnimitavihàra
Một vị Bồ-tát, sau khi thành tựu Bồ-tát
đạo, bước vào Ðịa thứ bảy. Vị này bắt đầu bước vào một con
đường khác biệt, cao thượng hơn và được 10 loại Upayaprajnàjnàna (Phương
tiện Bát nhã trí) (B. Bh, tr.19) như sau: Vị Bồ-tát:
I- (a) Chứng được một tâm trí
thành thực tự quán chơn không, vô tướng, vô nguyện; (b) tỏ ra như đã
thành tựu vô lượng công đức và trí tuệ.
II- (a) Hiểu vô ngã tánh của mọi
pháp; (b) không từ bỏ 4 vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả.
III- (a) Lựa chọn những công đức thù
thắng nhất; (b) không bám vào bất cứ pháp nào.
IV- (a) an trú thoát ly khỏi ba giới;
(b) nêu rõ những việc mình làm trong ba giới.
V- (a) Tự giải thoát hoàn toàn mọi
phiền não; (b) làm mọi hạnh nghiệp cần thiết để loại trừ tham sân của
mọi chúng sanh.
VI- (a) Chứng được tánh bất nhị
(advaya) của mọi sự vật như là bào ảnh, tiếng vọng; (b) nêu rõ những
hoạt động sai khác, những phân biệt và vô lượng đại nguyện của mình.
VII- Phát triển một tâm trí ý thức
được bình đẳng tánh của mọi Phật sát.
VIII- (a) Thể nhập vào pháp thân của
mọi đức Phật; (b) cũng hiện sắc thân với các tướng sai biệt.
IX- Chứng được tiếng nói của Như
Lai; và
X- (a) Trong một sát-na, phân biệt được
quá khứ, hiện tại, vị lai (ekaksanatryadhvànubodham); (b) hiện thân trải
qua nhiều kiếp để cứu độ mọi loài.
Cho đến một sát-na, không bao giờ rời
khỏi màrgaabhinirhàra (hành động hệ thuộc về con đường) và
jnànàbhinirrhàra (hành động hệ thuộc về trí). Vị Bồ-tát thành tựu mọi
Ba-la-mật và 4 nhiếp pháp, bốn adhisthànas (Tứ đức xứ) và 37 Bồ đề
phận: Vị Bồ-tát thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp thanh tịnh, liên hệ
với Bồ-tát nguyện, 10 thiện hạnh các đức Phật và làm mọi thế sự
liên quan đến nghệ thuật và công nghệ (silpasthàna-karmasthàna) đã được
thành tựu trong Ðịa thứ năm. Nay vị Bồ-tát trở thành Ðạo sư cho ba giới,
và không ai có thể sánh bằng về àsaya (hướng), prayoga (tinh tấn), lẽ
dĩ nhiên trừ các vị Bồ-tát ở các Ðịa cao hơn. Vị Bồ-tát này có trước
mặt mình tất cả dhyànas (thiền), samàdhis (định), samàpattis (thành tựu
pháp), abhijnàs (thắng trí), và vimoksas (giải thoát), các pháp này sẽ được
vị Bồ-tát thành tựu trong các Ðịa kế tiếp. Nay vị Bồ-tát tu hành nhiều
thiền định (samàdhi), vượt khỏi các Thanh văn Ðịa và Ðộc giác Ðịa,
và tiến gần đến Prajnàjnànavicàranabhùmi (Bát nhã trí biện sát địa)
(Dasa; tr. 60)
Vị Bồ-tát chứng Nirodha (Diệt) trong
Ðịa thứ sáu, và trong Ðịa thứ bảy, vị này nhập vào và xuất ra
Nirodha, nhưng đừng tưởng lầm vị ấy bị Nirodha chi phối, vì đã vượt
lên trên Vitarkadosa (Tầm quá = suy tầm sai lạc) của vị Thanh văn nghĩa là
xem Nirodha (Diệt) như là samskrtàtyantà vyupasama (sự đoạn diệt rốt ráo
các pháp hữu vi). Ðây là một ưu điểm của các vị Bồ-tát là những vị
này đạt tới và an trú trong Bhutàkotivihàra (Trú ư chân tế: trạng thái
cuối cùng cóthể có được của loài hữu tình), nhưng không bao giờ bị
Nirodha chi phối.
Ðầy đủ với Ðại lực, thiền định
và phương tiện trí, vị Bồ-tát hiện ra ở đời, nêu rõ đại nguyện của
mình hướng đến Niết bàn, và luôn luôn có một số lớn đệ tử bao vây,
nhưng vị Bồ-tát thoát ly tất cả, không bị chi phối ảnh hưởng gì. Do
nguyện lực (pranidhàna) của mình, vị Bồ-tát hiện ra trong ba giới
(tri-dhàtu) để cứu khổ chúng sanh, nhưng không bị nhiễm ô bởi thế
tình. Dù có Phật trí, vị Bồ-tát tự tỏ như mình thuộc Thanh văn thừa
hay Ðộc giác thừa cho đến như bị lưới màra bao vây và bị ngoại đạo
chi phối, hoặc tự ly khai chánh pháp, theo lễ nghi thế tục hay hưởng những
lạc thú nhân thiên.
Vị Bồ-tát diện kiến nhiều đức
Phật, nghe pháp và vâng theo lời chỉ dạy của các Ngài. Lòng tin của vị
Bồ-tát vào Gambhìradharmaksànti (thâm pháp nhẫn) được thanh tịnh. Vị này
thực hành hạnh Upàyakausalya pàramità (Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật).
Acalà (Bất động
Ðịa) hay Anàbhoganirnimitta-vihàra (Vô quán vô tướng trú)
Một vị Bồ-tát, sau khi thành tựu bảy
Ðịa, làm cho Màrga (Ðạo) thanh tịnh nhờ trí và phương tiện chất chứa
công đức, phát đại nguyện, an trú vào bốn adhisthàna: Tứ đức xứ
(satya, tyàga, upasama và prajnà= chân, thí, tịch và trí) v.v..., vị Bồ-tát
hiểu mọi pháp là bất sanh, bất diệt, bất tăng, bất giảm, tự tánh
không thật có, chủng thỉ bổn mạt đều giống nhau. Tóm lại, vị Bồ-tát
hiểu được Tathatà (như thực tánh) của mọi vật. Vị này vượt qua mọi
biến kế sở chấp do tâm và thức cấu tạo, biết được mọi pháp giống
như hư không và nhờ vậy an trú vào Anutpattikadharmaksànti (Vô sanh pháp nhẫn)
(B. Bh. Tr.21. Mtu; tr.136); khi chứng được Ksànti (nhẫn), vị ấy an trú vào
Ðịa thứ tám (Acalà) và vượt ngoài mọi thọ hưởng. Vị Bồ-tát chứng
các pháp là Anàbhoga (Bất tư duy, vô quán niệm), do vậy không có âu lo,
vì sự vật liên hệ đến thân, khẩu, ý đều giải thoát khỏi mọi biến
kế sở chấp và an trú trong Vipàka-dharma (Dị thục pháp). Sự thật, vị Bồ-tát
không thực hành giới pháp của chư Phật, chư vị Bồ-tát và Thanh văn.
Nay chư Phật bảo vị Bồ-tát phải
thành tựu 10 lực, 4 vô sở úy từ trước chưa chứng đắc và để ý đến
trạng thái bất an, si mê, phiền não về tâm trí của chúng sanh. Rồi vị
Bồ-tát được nhắc lại một trong những đại nguyện xưa của mình là
Pháp tánh (Dharmatà, tánh bất sanh, bất trú, bất diệt của các pháp),
không phải chỉ riêng cho đức Như Lai, mà các vị Thanh văn, Ðộc giác đều
phải chứng ngộ. Chư Phật lại khuyên vị Bồ-tát cố gắng để được
như các Ngài vô lượng thân, trí, thế giới, hào quang, âm thanh và tứ chi
thanh tịnh, pháp giới, Phật sát, chúng sanh và vô lượng vô số pháp khắp
mười phương thế giới. Sự chứng đắc những pháp "vô lượng"
như vậy, rất có giá trị, thắng xa mọi công đức và trí đức chứng
được trong 7 Ðịa trước, vì mọi công đức và trí đức từ trước chứng
được là do sự tinh tấn dụng công (sàbhoga-karmanà), còn trong Ðịa này,
các công đức và trí đức tự nhiên chứng được.
Vì chứng được một cách tự nhiên
thiện xảo phương tiện trí (upàyakausalyajnàna) và tùy thuộc kết quả sự
cố gắng để chứng nhất thế trí, vị Bồ-tát biết được như thế nào
và khi nào một thế giới được tác thành, tiếp tục tồn tại rồi hoại
diệt và nghiệp nào chịu trách nhiệm kết quả ấy. Vị Bồ-tát biết
được như thế nào và khi nào một thế giới được tác thành, tiếp tục
tồn tại rồi hoại diệt và nghiệp nào chịu trách nhiệm kết quả ấy.
Vị Bồ-tát biết được mọi chi tiết lớn nhỏ của 4 Ðại: địa thủy
hỏa phong, các loại chúng sanh và nghiệp quả của chúng. Sự hiểu hết
chi ly như vậy rất cần cho vị Bồ-tát, vì vị này phải hiện ra giữa
các chúng sanh, thật giống một loại chúng sanh để cho các chúng sanh cảm
thấy vị ấy là một loại với chúng và mỗi chúng sanh đều cảm thấy có
thể thành Phật.
Vị Bồ-tát phát triển 10 vasitàs (tự
tại) đối với àyu (tuổi thọ), cetas (tâm trí), pariskàra (tài vật), karma
(nghiệp), upapatti (sanh), adhimukti (giải thoát), pranidhànà (nguyện), rddhi (thần
thông), dharma (pháp) và jnàna (trí).
Vị Bồ-tát trong giai đoạn này được
xem như chứng được vô lượng, vô biên, vô tỷ trí tuệ và hạnh nghiệp
bao giờ cũng trong sạch. Nay vị Bồ-tát thành tựu được các pranidhànas
(nguyện), adhisthànas (đức trú), pàramitas (Ba-la-mật), mahàmaitri (Ðại từ),
mahà karunà (Ðại bi), dhàranà (tổng trì), pratibhàna (biện tài) v.v...Tóm lại,
tất cả các pháp thành tựu một đức Phật. Do vậy, địa này được gọi
là Acalà (Bất động) và vị Bồ-tát không thể thối lui địa này
(avivartyabhùmi). Nay vị Bồ-tát trở thành một đơn vị trong gia đình Như
Lai, và có thể được xem thuộc gia tộc đức Phật. Từ nay, vị Bồ-tát
luôn luôn được chư thiên và thần kim cang hầu cận.
Sàdhumatì (Thiện
tuệ) hay Pratisamvidvihàra (Vô ngại biện trú)
Vị Bồ-tát sau khi thành tựu và phát
triển vô lượng trí, các tổng trí, thiền định, thượng trí, hiểu biết
chi ly các thế giới, lực, và các vô sở úy của đức Như Lai đã nói
trong Ðịa trước, nay bước vào Ðịa thứ chín. Trong giai đoạn này, vị
Bồ-tát biết đúng đắn các pháp là thiện, bất thiện hay vô ký, thanh tịnh
hay không thanh tịnh, thế tục hay siêu việt, tưởng tượng hay không thể
tưởng tượng, định pháp hay bất định pháp, hữu vi hay vô vi. Vị Bồ-tát
biết những bổn phận của Thanh văn, Ðộc giác, Bồ-tát và Như Lai Ðịa.
Nhờ thông minh như vậy, vị Bồ-tát biết một cách đúng đắn những tập
tục hay đặc tánh tư tưởng của chúng sanh, những phiền não, hạnh nghiệp,
căn, nguyện, giới (dhàtu), ao ước và ý định (àsayànusaya), tái sanh tùy
theo ước muốn (vàsanànusandhi) và những ràsis (gotra=chủng tộc) của những
chúng sanh này. Vị Bồ-tát biết tánh sai biệt của các tâm trí, phiền
não và nghiệp v.v...
Vị Bồ-tát trong Ðịa này đã có thể
biết một cách tỷ mỉ mục đích và những đức tánh của mỗi một
chúng sanh và có thể quyết định phương pháp hướng dẫn một chúng sanh
đến đích. Do vậy, vị Bồ-tát thay đổi phương pháp giáo huấn của
mình tùy theo sự nhận xét của mình.
Vị Bồ-tát cũng đóng vai một vị
Dharmabhànaka (giảng pháp sư) để gìn giữ lời dạy của bậc Ðạo sư. Vì
vô lượng trí tuệ của mình, vị Bồ-tát giảng pháp theo nhiều phương pháp
và áp dụng 4 pháp vô ngại biện. Nhờ dùng 4 pháp biện tài này và hoạt
động như một Pháp sư, vị Bồ-tát trở thành một kho tàng gìn giữ lời
dạy chánh pháp. Ðầy đủ những dhàranis (tổng trí) và pratibhànas (thuyết
pháp), vị Bồ-tát thuyết pháp cho chúng sanh trong mọi thế giới và phương
pháp giảng dạy rất linh động và khác biệt.
Cũng trong Ðịa này, vị Bồ-tát vẫn
tu tập trên con đường tiến triển tâm linh và không bao giờ ra khỏi tầm
mắt của chư Phật. Vị Bồ-tát tu tập hạnh balapàramità (lực Ba-la-mật).
Nếu muốn, vị Bồ-tát này có thể trở thành Mahà-Brahmà (Ðại phạm
thiên).
Dharmamehgà (Pháp
vân địa) hay Parama-vihàra (Tối thượng trú)
Vị Bồ-tát, khi thành tựu các bổn
phận trong Ðịa thứ chín, bước vào Ðịa thứ mười. Nay vị Bồ-tát điêu
luyện trong vô số thiền định, và nhờ vậy, một hoa sen huy hoàng và to lớn
hiện ra, và vị Bồ-tát tự thấy mình ngồi trên đài sen ấy, với thân
hào quang sáng chói và nhập định Sarvajnàjnàna Visesàbhiseka (Nhất thể
trí tri), xung quanh có vô số Bồ-tát còn ở trong chín Ðịa trước bao vây
và hướng nhìn đến mình. Hào quang tự thân chiếu sáng và khiến mọi
chúng sanh hoan hỷ. Khi vị Bồ-tát ngồi trên tòa sen, hào quang từ các đức
Như Lai chiếu đến và tấn phong vị Bồ-tát thành Samyasambuddha (chánh đẳng
giác), đầy đủ nhất thế trí và do vậy, Ðịa này được gọi là
Abhisekabhùmi (Quán đảnh địa).
Nay vị này biết rõ ràng thế giới
các pháp thế gian sanh diệt như thế nào, vô lượng hạnh của một đức
Phật, vô lượng giải thoát môn của vị Bồ-tát (Bodhisattva-vimoksa mukha),
các thiền định và các chú thuật dharani v.v... Nay vị ấy được cụ túc
Smrti-kausalya (Niệm thiện xảo) nên có thể thâu nhận tất cả mây pháp
(Dharmamegha) do vô lượng Phật thấm nhuần. Vị này có thể vận dụng mọi
loại thần thông. Ở trong Ðịa này, vị Bồ-tát phát huy jnâna-pàramita
(Trí Ba-la-mật).
Chính sau Ðịa thứ mười mà một vị
Bồ-tát trở thành đức Như Lai (Tathàgata), và do vậy tập Lankàvatàra (Nhập
lăng già) gọi Ðịa này là Tathàgatabhùmi (Như lai Ðịa). Tập
Satasàhasrikà (Bách thiên tụng tạng 1472) cũng ghi nhận một vị Bồ-tát
ở địa thứ 10 được gọi là Tathàgata (Như lai).
Ở văn học Tiểu thừa, không có đề
cập đến 4 địa sau cùng. Quan niệm một đức Phật đến với các nhà Tiểu
thừa còn rất mơ hồ, vì quan niệm vị Bồ-tát chỉ được văn học Tiểu
thừa chấp nhận một cách rất chậm trễ, và rất có thể là bị ảnh hưởng
của các tư tưởng Ðại thừa. Các nhà Tiểu thừa cẩn thận tránh xa tất
cả quan điểm hình nhi thượng học của các nhà Ðại thừa về các vị Bồ-tát
và chư Phật. Tuy vậy các nhà Tiểu thừa không giữ được cùng một thái
độ đối với các mẩu chuyện thần thoại, thuần tín ngưỡng cùng tin về
các đời sống củachư vị Bồ-tát. Các nhà Tiểu thừa, trung thành với
triết thuyết của mình, chỉ chấp nhận vào trong văn học các vị này, một
đời sống đức Phật, bắt đầu bằng một mẩu chuyện ngắn của đời
sống tiền thân của vị Bồ-tát, dươi nhan đề Dùrenidàna và
Avidurenidàna (Viễn nhân duyên và cực Viễn nhân Duyên), hay Nidàna này chỉ
là tóm lược các mẩu chuyện rất phổ thông trong hàng Ðại thừa. Và có
những bằng chứng vay mượn mô phỏng, dù rất thô sơ. Ngoài những danh từ
như Buddhabija (Phật chủng tử) và Abhinirhàna (Thành tựu, viên mãn), có đoạn
Bà-la-môn Sumedha (Thiện tuệ) nói rằng "tôi không cần đến Niết bàn
do diệt trừ các phiền não. Như đức Phật Dipankara (Nhiên Ðăng), tôi sẽ
chứng vô thượng chánh đẳng giác, và nhờ Pháp thuyền làm phương tiện,
tôi sẽ hướng dẫn chúng sanh vượt khỏi biển sanh tử và chứng Niết
bàn". Câu này có vẻ rất Ðại thừa hay ít nhất cũng là bán Ðại thừa.
Nhưng các nhà Tiểu thừa không những bác bỏ những phiếm luận siêu hình
mà cũng bác bỏ luôn những danh sách quen thuộc các hạnh Ba-la-mật của Ðại
thừa. Tập Jàtaka (Tiền thân) và tập Mahàbodhivàmsa (Trang 25 và 9) tuyên bố
các pháp tác thành Phật (Buddhakàraka) chỉ có 10 Ba-la-mật; dàna (thí), sila
(giới), nekkhamma (ly dục), pannà (tuệ), viriya (tinh tấn), khanti (nhẫn nhục),
sacca (chân đế), adhitthana (thọ trì), mettà (từ) và upekkhà (xả).
Về những thần thông đặc biệt của
một đức Phật, các nhà Tiểu thừa nói đến rất ít. Các tập Nikàya có
chép các đức Phật (kể cả các vị Bích chi) tự mình chứng vô thượng
giác, nhờ theo những pháp môn chưa từng được nghe. Một vị vô thượng
giác diễn giảng chánh pháp, trở thành vị sáng lập một tôn giáo, một bậc
thiên nhân sư. Ngài là bậc toàn tri (Sabbannu) và tri giác của Ngài về bất
cứ vấn đề gì không cần Ngài phải chú tâm đến (àvajjanà). Ngài có đủ
10 lực và 4 Vesàrajja (Vô sở úy). Trong tập Kathàvatthu (III, 1, 2) có một
cuộc thảo luận về vấn đề này. Vấn đề một Như lai có những năng lực
tương tự như vị Thanh văn hay không, một điểm được học phái Andhaka
đặt thành vấn đề, dựa theo đoạn văn của tập Anuruddha samyutta (V. tr.
304). Trong những thần thông của đức Phật đã được đề cập đến, thật
không có gì rất đặc biệt, trừ một vài thần thông đã nói đến, và
câu hỏi của học phái Andhaka đã làm cho các nhà Thượng tọa bộ khó chịu.
Trong văn học của các nhà Tiểu thừa, các vị này cố gắng chứng minh đức
Phật là một nhân vật hy hữu, siêu việt các loài người và chư thiên,
nhưng các vị này cũng nêu rõ không có sự khác biệt gì giữa một vị
A-la-hán và một đức Phật, ngoại trừ đức tánh đức Phật là vị sáng
lập và một bậc đạo sư của một tôn giáo (Xem chương II và bản dịch
Dìgha Nikàya, II, 1-3, III, 6).
Mục lục
| 1.1 | 1.2
| 2.1 | 2.2
| 3.1 | 3.2 | 3.3 | 3.4 | 3.5 | 4.1 | 4.2 | 5