- Lược giải Kinh Pháp
Hoa
- HT. Thích Thiện Siêu
Lời nói đầu [^]
Trong những ngày gần đây, Phật sự
ngày càng nhiều, công việc dịch thuật và hiệu đích Kinh tạng và phiên
dịch Luận tạng cho Đại Tạng Kinh Việt Nam càng trở nên cấp bách. Do đó,
mỗi khi được hầu Thầy, huynh đệ xa gần không khỏi suy nghĩ về sức
khỏe của Thầy! Chính vì vậy mà những lời dạy của Thầy lại càng trở
nên thân thiết và quí báu hơn bao giờ hết.
Năm nay, chúng tôi có dịp trở về
Chùa thăm Thầy. Sư đệ Nguyên Anh đã cho một số băng ghi về Kinh Pháp
Hoa mà Thầy đã giảng ở Nha Trang, Già Lam và Từ Đàm Huế. Sau khi trao đổi
với chư huynh đệ, chúng tôi quyết định tuyển thành tập: Trí Đức Văn
Lục tập 4.
Mong rằng đây là món quà tinh thần
đầu xuân Đinh Sửu-1997, xin gởi đến chư huynh đệ xa gần đúng như tinh
thần mà đức Phật đã dạy: "Các con hãy là người Thừa tự Pháp
không nên Thừa tự tài vật (Trung Bộ Kinh)".
- Xuân Đinh Sửu-1997
- Nguyên Vương-Nguyên Anh
LỜI GIỚI THIỆU [^]
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng
về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của
kinh.
Đây là kết mấy lần tôi giảng
cho Tăng Ni Phật tử khi hội đủ cơ duyên.
Pháp Hoa là kinh được phổ biến rộng
rải cả về mặt đọc tụng, lý giải, hành trì tại Trung Quốc, Nhật Bản,
Việt Nam xưa nay. Tuy nhiên cũng không tránh khỏi như xưa, sư Pháp Đạt đã
tụng kinh Pháp Hoa đến ba ngàn bộ mà còn bị Tổ Huệ Năng quở:
Một hôm, sư Pháp đạt đến đảnh
lễ Tổ Huệ Năng mà đầu không sát đất. Tổ quở: "Đảnh lễ là cốt
để dẹp tánh kiêu mạn, vậy mà nay ông đảnh lễ đầu không sát đất,
chắc trong lòng còn chứa điều gì?
Pháp Đạt thưa:
-Đã tụng ba ngàn bộ Pháp Hoa.
Tổ nói:
-Tụng Pháp Hoa mà có hành trì thì
sẽ cùng ta sánh vai mà đi, còn không thì đâu có ích chi.
Pháp Đạt nói:
-Nếu vậy thì từ nay tôi không tụng
nữa.
Tổ nói:
-Kinh có lỗi gì mà không tụng.
Như vậy ngày nay chúng ta nên tụng
kinh như thế nào đây cho khỏi bị quở?
Để giúp giải tỏa một phần nào
băn khoăn ấy, tôi xin gởi đến quý Phật tử tập "Lược Giải Kinh
Pháp Hoa" nầy do công của thầy Trung Hậu, Hải Ấn, Minh Thông sưu tầm
tập họp lại, đưa cho tôi sữa chữa lại trước khi in.
- Từ Đàm, Hạ 1997
- THIỆN SIÊU
ĐẠI CƯƠNG KINH PHÁP HOA [^]
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa,
kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng
rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông
Nhật Liên tại Nhật Bản. Các vị thiền sư Việt Nam đời Lý, Trần cũng
thường chú trọng trì tụng, giảng dạy kinh Pháp Hoa song song với kinh
Viên Giác, Kim Cang. Hai thiền sư Bảo Tính và Minh Tâm dưới đời Lý (khoảng
1034) suốt 15 năm trì tụng kinh Pháp Hoa chưa từng trễ nãi. thiền sư Thông
Biện, vị thiền sư thông thái đời Lý Thánh Tông, từng trả lời Phù
Thánh Cẩm Linh Nhân Hoàng Thái Hậu về các câu hỏi liên quan lịch sử
truyền bá Phật giáo tại Việt Nam. Ngài thường dùng kinh Pháp Hoa dạy người
sửa mình, nên người thời bấy giờ gọi Ngài là Ngộ Pháp Hoa. Thiền sư
Chân Không (tịch năm 1100) lúc 18 tuổi, tầm sư học đạo, nhân đến hội
giảng của Thảo Nhất tại chùa Tĩnh Lự núi Đông Cứu nghe giảng kinh
Pháp Hoa, bỗng nhiên tỏ ngộ. Sau đó, Ngài được vua Lý Nhân Tông mời
vào đại hội giảng kinh Pháp Hoa. Bấy giờ Thái úy Nguyễn Thường Kiệt
(tức Lý Thường Kiệt) và thứ sử Lang Châu là tướng quốc Thân châu
càng thêm kính trọng. Và ngày nay, trong hiện tại việc trì tụng kinh Pháp
Hoa rất lan rộng trong giới Phật tử, giúp họ rất nhiều trên bước tu tâm
hành thiện theo đạo giác ngộ. Trong kinh Pháp Hoa có một câu dạy rất đặc
biệt, nêu lên mục đích ra đời của mười phương chư Phật, câu đó là
"Các đức Phật chỉ vì một việc trọng đại duy nhất mà ra đời,
đó là vì khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật."
Như vậy kinh Pháp Hoa chính là kinh
nêu rõ mục đích ra đời của chư Phật, mà dưới đây là đại cương của
kinh.
Thiên kinh vạn quyển mà đức Phật
nói ra cùng với những pháp môn tu hành, trong đó có những pháp môn như:
Quán Sổ tức, quán Bất tịnh, Tham thiền, Trì trai giới, An cư kiết hạ...
đều đưa đến mục đích làm Phật. Có kinh đức Phật nói rộng, mà cũng
có kinh Ngài nói đơn giản, nhưng tựu trung chẳng có pháp môn nào dễ
dàng tu thành Phật ngay được cả. Pháp môn nào cũng khó vì phải dụng
công nhiều. quán Bất tịnh phải quán thật sâu xa, kỸ càng chứ không phải
quán qua loa mà thành được. Quán Sổ tức cũng không phải dễ, không cứ
chi thở vô thở ra vài hơi là xong. Tham thiền, Trì trai giới...các môn tu
khác cũng đều khó như vậy cả. Vậy mà theo kinh Pháp Hoa, thì việc thành
Phật quá dễ.
- "Nhược nhơn tán loạn tâm,
- Nhập ư tháp miếu trung,
- Nhất xưng Nam mô Phật,
- Giai dĩ thành Phật đạo."
Nghĩa là:
- "Hoặc người tâm tán loạn,
- Đi vào trong tháp Phật,
- Niệm một lần Mô Phật,
- Đều đã thành Phật đạo."
Hoặc chỉ chấp tay hay cúi đầu
trước tượng Phật, cho đến trẻ con chơi lấy cát đắp thành tháp Phật
mà cũng thành Phật được. Một quyển kinh Đại thừa cao nhất là Pháp
Hoa, rốt cục dạy một chuyện dễ dàng như vậy, thì hà tất phải Tham
thiền, giữ Giới, Kiết hạ, An cư...? Cho nên Ngài Thường Bất Khinh đã
chọn một cách đó để làm Phật. Ngài không quán Sổ tức, không nhập Định,
không quét nhà, làm đường, mà chỉ đi gặp ai cũng nói câu: "Tôi
không dám khinh ngài, vì ngài hành Bồ Tát đạo, ngài sẽ thành Phật."
ngài Thường Bất Khinh là một Bồ Tát Tỳ kheo, sống giữa chúng Tỳ kheo
tăng thượng mạn có thế lực dưới thời tượng pháp của đức Phật
Oai Âm Vương trong quá khứ. Ngài chỉ làm mỗi một việc là đến nơi mọi
người, chấp tay cung kính xướng câu: "Tôi không dám khinh ngài,...vì
ngài sẽ thành Phật." Tuy nhiên trong việc làm đơn giản đó, cần phải
có một lòng tin mãnh liệt rằng: "Tất cả chúng sanh đều là Phật"
thì mới làm nổi. Lòng tin ấy nếu không có trí tuệ của Bồ tát thì
không thể có được, đó là Bát nhã Ba la mật. Và Ngài làm việc ấy
không phải một hai lần mà làm thường xuyên, không phải đối với một
hai người mà đối với tất cả mọi người, đó là Tinh tấn Ba la mật.
Trong khi Ngài làm như vậy, có người thì hoan hỶ, vì cho đó là một lời
chúc tụng giá trị nhất, chúc làm Vua cũng không bằng. Nhưng cũng có người
dững dưng vì không hiểu Ngài muốn nói gì, rồi cũng có người nổi sân,
vì cho Ngài chọc tức mình, nên xua đuổi, đánh đập. Vậy mà Ngài vẫn
giữ một thái độ bình thản đối với cả ba hạng người ấy, đó là
Nhẫn nhục Ba la mật. Và mỗi khi đối trước ai ngài cũng nói lên câu:
"Tôi không dám khinh ngài..." là nói với một lòng kính cẩn tập
trung chứ không phải loạn tâm, hời hợt, đó là Thiền định Ba la mật.
Như vậy, chúng ta thấy một việc làm ngó đơn giản, song đã gồm đủ ý
nghĩa của Bồ tát hạnh và sức mạnh của một lòng tin kiên cố; tin mình
là Phật và tất cả chúng sanh đều là Phật. Chúng ta đã có ai dám tự
tin mình là Phật chưa, huống nữa tin người khác là Phật? Thật khó mà
tin nỗi một kẻ vừa nói láo vừa mắng chưởi cộc cằn kia là Phật được!
Phải như một vị đại lương y, đứng trước cơn bệnh có những triệu
chứng ghê gớm như thổ tả, mê sảng, sốt cao mặt đỏ gay...Nhưng khi bắt
mạch thấy rõ tim mạch nhảy đều mà biết được tánh mạng chưa hề gì,
và bảo con bệnh: "Ông không chết đâu." Sự quả quyết của lương
y tạo cho người bệnh một lòng tin tưởng, một sức mạnh, một niềm hy
vọng phấn khởi để vươn lên mà sống. Ngài Thường Bất Khinh nói với
chúng sanh: "Các Ngài là Phật" cũng trong ý nghĩa đó. Chúng sanh vì
tự thấy mình là chúng sanh, cam phận chúng sanh, nên cứ mặc tình trầm
luân tạo nghiệp. Vì đã là chúng sanh vô phương cứu chữa, thì tội gì
mà không trầm luân, tội gì mà không lăn lóc trụy lạc: "Thân lươn
bao quản lấm đầu!" (Đã làm thân con lươn thì có ngại gì cái đầu
bị lấm bùn lầy), đã thấy mình thấp thỏi tầm thường thì không còn
việc gì không làm, vì con người như thế, không tin rằng còn chút phẩm
giá nào để vươn lên toàn giác toàn thiện được. Bây giờ, khi nghe nói
rằng mình là Phật, thì trừ phi những người vô tâm, ai cũng phải mừng
rỡ, khi đó những thói xấu xa, cống cao, ngã mạn, nhỏ nhen, tầm thường...
khó mà nỗi lên được. Có bao giờ một người, khi tự thấy mình là Phật,
mà lại nhắm mắt sống theo thói ăn cắp, nói láo, kiêu mạn, tật đố, sân
si...? Cho nên tự tin mình là Phật thì ngay khi đó mình là Phật. Quán Kinh
dạy: "Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật." (Tâm đó là Phật,
tâm đó làm Phật) không có tâm nào khác hơn. Ngài Thường Bất Khinh thấu
hiểu lý ấy trong kinh Pháp Hoa, nên Ngài chỉ hành Pháp Hoa mỗi một cái hạnh
"Bất khinh" ấy, tức không khinh người và không tự khinh mình.
Lòng tin "Tất cả chúng sanh là
Phật" đó dễ kết hợp mọi người lại với nhau như nước tìm đến
nước. Trong tự nhiên nước với lửa mới chống trái nhau, còn nước với
nước thì dù ở bất cứ nơi nào, sông ngòi, ao hồ...dù trong, đục, sạch,
nhơ, đều tìm về bể cả. Tất cả mọi người có được lòng tin mình
là Phật cũng thế, cũng tìm về với nhau trong bể cả Đại giác. Đó là
điểm chính, là cốt tủy, cho nên trong kinh Pháp Hoa, Phật thọ ký cho tất
cả hàng Thanh Văn đều thành Phật là vậy. Trước đó đối với hàng
Thanh Văn, Phật chỉ nói pháp Thanh Văn như Tứ đế, 12 Nhân duyên. Đến hội
Pháp Hoa, Phật mới thọ ký cho hàng Thanh Văn thành Phật. Đây là điềm đặc
biệt của hội Pháp Hoa. Mặc dù có rất nhiều kinh điển khác cũng nói đến
Phật tánh, nói đến trí tuệ và mục đích ra đời của đức Phật,
nhưng chỉ nói chung chung, thọ ký chung chung: Như trong kinh Hoa Nghiêm, Bát
Nhã, đức Phật chỉ thọ ký cho hàng Bồ Tát, còn đối với hàng Thanh văn
thì dạy cho các pháp tu để chứng quả vị Bích Chi, La Hán, chứng nhập
Niết bàn. Những người này tu theo các pháp môn đức Phật dạy, được
chứng quả Thanh Văn liền cho rằng đã viên mãn, nên đến hội Pháp Hoa,
khi đức Phật sắp sửa nói thì Ngài lại muốn thôi, chính vì nghĩ đến
hạng tăng thượng mạn này: "Chỉ chỉ bất tu thuyết, Ngã pháp diệu
nan tư, chư tăng thượng mạn giả, văn tất bất kính tin." (Thôi thôi
chẳng nên nói, pháp Ta vi diệu khó lường, những kẻ tăng thượng mạn
nghe sẽ không kính tin.) Tôn giả Xá Lợi Phất phải năn nỉ cầu xin đến
lần thứ ba đức Phật mới dạy rằng: "ông đã ba phen cầu thỉnh chẳng
lẽ Như Lai không nói". Khi ngài sắp sửa nói thì 5000 Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni, nam nữ cư sĩ đảnh lễ đức Phật mà lui ra, vì cho rằng tất cả
pháp đức Phật mình đã tu đã đắc cả rồi, còn gì để nói, còn gì để
nghe nữa? Sau khi những người này bỏ đi, đức Phật dạy: "Lui ra
cũng tốt" (Thối diệu giai hỶ). Câu nói của đức Phật nghe tuồng
như phủ phàng, tuồng như đối với 5000 người này lòng từ bi của Ngài
không phổ cập đến. Trong khi ở hội Hoa Nghiêm chỉ có hàng Bồ Tát lãnh
hội được ý chỉ của đức Phật dạy, còn hàng Thanh Văn ngồi đó mà
như đui như điếc; vậy mà đức Phật không đuổi ra, họ cũng không bỏ
ra đi. Ở hội Pháp Hoa thì đức Phật nói: "Lui ra cũng tốt" có phải
phủ phàng xua đuổi không? Không phải, bởi vì ở hội Hoa Nghiêm những vị
Thanh Văn tuy không hiểu mà không có lòng tăng thượng mạn, không cho mình
đã chứng đắc, nên cứ ngồi đó. Ngồi mà không kinh, không khiếp, không
sợ. Còn ở hội Pháp Hoa, những vị Thanh Văn, này lại tăng thượng mạn,
chưa chứng đắc viên mãn mà tự cho đã chứng đắc viên mãn. Có tâm tăng
thượng mạn như thế, mà cứ ngồi lì như thế, đức Phật bảo "cứ
ngồi đó đi" thì thật không ích gì cho chính bản thân họ, mà còn
gây chướng ngại cho những người nghe Pháp. Và sở dĩ những người này
tăng thượng mạn là vì họ chưa tin nổi rằng: "Tất cả chúng sanh đều
là Phật", họ chỉ tin rằng mình đã đắc quả A La Hán và chẳng những
không tin chúng sanh là Phật, họ còn không tin nổi chính mình là Phật, do
đó mà họ đã bỏ đi ra, và đức Phật dạy rằng: "Họ lui ra cũng tốt."
Thành thử kinh Pháp Hoa có nghĩa
"Hội tam qui nhất, thọ ký thành Phật". Trước kinh Pháp Hoa, đức
Phật dạy nhiều pháp môn, mỗi pháp môn chứng một quả vị khác nhau, như
tu pháp Tứ đế đắc quả A La Hán, tu 12 Nhân duyên đắc quả Bích chi, tu
Lục độ làm Bồ tát...Đến hội Pháp Hoa khi sắp nhập Niết bàn, đức
Phật mới dạy bấy lâu chỉ là những phương tiện để bước lên quả vị
Nhất thừa. Trước kia Thanh Văn đã cho đó là pháp thật, quả thật, nên
chăm chỉ tu, chứng và chấp thủ các quả vị đã chứng. Bây giờ, đức
Phật mới nói rằng quả Nhị thừa, Tam thừa đều không thật, đều là
phương tiện, chỉ có quả Nhất thừa mới là thật, mới là cứu cánh.
Ngài Thiên Thai Trí Giả cho đó là
"Khai quyền hiển thật, khai cận hiển viển", mở phương tiện ba
thừa để hiển bày cái chân thật là Nhất thừa Phật đạo. "Khai quyền"
là chỉ rõ tất cả các pháp môn, mà đức Phật nói trước kinh Pháp Hoa,
đều chỉ là phương tiện để đi đến giáo lý Thật của Pháp Hoa rằng:
"Tất cả chúng sanh đều là Phật". Điều mà mười phương chư Phật
đều làm là: "Xuất hiện ra ở đời để khai thị cho chúng sanh ngộ
nhập Phật tri kiến". Điều ấy, đức Thích Ca Bổn sư cũng không làm
khác với chư Phật mười phương. Một mặt vì tất cả chúng sanh đều là
Phật, một mặt vì bản hoài của tất cả chư Phật ra đời chỉ vì một
mục đích duy nhất là khai thị ngộ nhập Phật tri kiến, một mặt vì
trí tuệ chư Phật thậm thâm đủ cả hai mặt căn bản trí và quyền trí,
thấu hiểu cùng tận được thật tướng các pháp, nên mới khai quyền hiển
thật được. Thật tướng đó là mười Như: "Như thị tướng, như thị
tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị
duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh" 2. Mười
Như này là tướng sai biệt của thật tướng các pháp. Ngài Thiên Thai lấy
10 Như đó phối hợp với 10 giới (gọi là thập pháp giới), với năm ấm,
hữu tình thế gian và khí thế gian mà làm thành "Bách Như"
"Thiên Như"... Thiên Thai tông có danh từ "Tam thiên nhất niệm,
nhất niệm tam thiên" là để chỉ cái lý chân thật mà chư Phật đồng
chứng như nhau, đó là ba điểm sau đây :
- 1. Thật trí, Quyền trí chư Phật đồng nhất.
- 2. Phật tánh, chúng sanh cũng đồng nhất.
- 3. Bản hoài chư Phật cũng đồng nhất.
Tóm lại đức Phật chỉ dạy là mỗi
một đạo lý duy nhất, đó là đạo Nhất thừa.
Nhưng trước khi khai thị để đưa
chúng sanh về Nhất thừa, đức Phật phải nói tuần tự từng Pháp môn phương
tiện, để đến Pháp Hoa, Ngài mới nói rõ bản hoài của chư Phật. Do đó
kinh Pháp Hoa là cao điểm của giáo lý Phật đà, nên mới gọi là Diệu
Pháp. Ngài Thiên Thai chia hai thứ "diệu" là tương đối diệu và
tuyệt đối diệu. Những pháp môn đức Phật dạy trước đấy tuy diệu
nhưng chưa tuyệt đối, như khi phân thành Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa
và Đại thừa, thì Đại thừa là diệu, nhưng chỉ diệu tương đối đối
với Thanh Văn, Duyên Giác nên chưa phải diệu thật sự tuyệt đối. Đến
hội Pháp Hoa thì không còn đối đãi với Thanh Văn, Duyên Giác mà gồm
chung Tam thừa vào Nhất thừa, nên mới thật là Diệu Pháp. Pháp Hoa nói thật
tướng các pháp, thật tướng đó là : "Tất cả pháp đều là Phật
pháp, tướng tánh bất nhị, thế gian tướng thường trú". Tất cả
pháp, bởi thế, đều là diệu pháp (nhứt sắc nhứt hương vô phi trung đạo).
Diệu pháp đó ví như hoa sen với những điểm :
1. Sanh ra trong bùn mà không nhiễm
mùi bùn.
2. Khi hoa nở thì tỏa hương thanh
khiết, nhẹ nhàng.
Nghĩa là những pháp mà đức Phật
nói ở trong Diệu Pháp Liên Hoa cũng phát xuất từ tam thừa pháp, ví như
hoa sen vẫn sinh từ bùn. Cái hoa diệu pháp từ trước bị vùi lấp trong
bùn kiến chấp của tam thừa, đến hội Pháp Hoa thì hoa sen từ bùn nở ra
mà không dính bùn, lại tỏa hương vi diệu.
Đạo Phật quả là đạo Hoa sen. Đức
Phật ra đời đi bảy bước cũng đi trên bảy hoa sen(.
Khi Thành Đạo, Ngài quán sát căn
cơ chúng sanh cũng bằng hình ảnh những hoa sen trong hồ: Có hoa đã vươn lên
khỏi mặt nước, có hoa còn chìm, có hoa chưa ra khỏi bùn, nhưng tất cả
đều là hoa sen và đều sẽ lên khỏi mặt nước tỏa hương khi gặp ánh
sáng mặt trời. Chúng sanh cũng vậy, ở trong đống bùn phiền não mà cũng
không dính bùn, vì chưa ra khỏi phiền não nên gọi là chúng sanh, đến khi
gặp được mặt trời diệu pháp của đức Phật soi đến thì cũng đều
nở. Ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh, trong lúc chờ đợi cấp giấy đi đường,
một đêm mộng thấy một ngọn Linh sơn giữa bể, Ngài nhảy xuống bể liền
có hoa sen đỡ, đưa Ngài lên núi. Và trước khi thị tịch, Ngài cũng mộng
thấy hoa sen. Nhưng đó là sen trong nước, còn thứ sen trong lửa của Thiền
sư Ngộ Ấn (1020-1088, Việt Nam) thì :
- "Diệu tánh hư vô bất khả phân
- Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
- Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
- Liên phát lô trung thấp vị càn."
Tạm dịch:
- "Diệu tánh rỗng không chẳng thể bâu (bám)
- Rỗng không tâm ngộ khó gì đâu
- Trên non ngọc đốt màu thường đẹp
- Sen nở trong lò ước chửa khô"
- (TUTA, Lê Mạnh Thát dịch)
Hay của Động Sơn Lương Giới, Sơ
Tổ phái Tào Động thì:
- "Lưỡng kiếm giao phong bất tu tị
- Hảo thủ do như hỏa lý liên."
Tam dịch:
- Hai kiếm giao nhau không cần tránh,
- Tay tài giống hệt sen trong lửa.
Ý nghĩa hai câu thơ trên ám chỉ rằng
ở trong cái thân Ngũ uẩn uế trược đầy lửa phiền não của chúng sanh,
hoa sen Phật tánh vẫn tươi như thường.
- Chân Nguyên thiền sư (Việt Nam) cũng có câu :
- "Trần trần sát sát Như Lai,
- Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen.
- Hoa là bản tánh trạm viên,
- Bao hàm trời đất dưới trên cùng bằng.
- Hậu học có biết hay chăng?
- Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời."
Kinh Pháp Hoa lấy dụ Hoa sen làm biểu
tượng là vậy.
NOĉ DUNG 28 PHẨM KINH PHÁP HOA [^]
Mỗi lần đức Phật định nói
pháp gì trước hết đều có nguyên do nên có phẩm Tựa mở đầu (p1). Kế
phần Tựa là phần Chánh tông, nói ra chánh pháp mà Ngài định nói và
pháp định nói ở đây là : "Khai quyền hiển thật" nên có phẩm
Phương tiện (sự khéo léo) (p2). Nhưng đối với Chánh pháp này chỉ có
hàng thượng căn như Tôn giả Xá-lợi-phất hiểu và được Phật thọ ký.
Còn hàng trung căn chưa thể vong ngôn hội pháp, họ cần nghe thêm thí dụ
mới hiểu, nên có phẩm Thí dụ (p3). Ví dụ nhàn lửa ba xe, hàng trung căn
nghe thí dụ liền tin nên có phẩm Tín giải (niềm tin vững chắc) (p4) và
thuật lại với đức Phật cái ví dụ "Cùng tử trốn cha" để trình
bày chỗ tín giải của mình, được đức Phật ấn chứng và Ngài nói tiếp
thí dụ "Một trận mưa khắp cây cỏ đều nhờ" nên có phẩm Dược
thảo dụ (thí dụ về cây thuốc) (p5). Đến đây hàng trung căn được thọ
ký, nên có phẩm Thọ ký (chứng thực) (p6). Nhưng còn hàng hạ căn thì vẫn
chưa ngộ phải chờ đức Phật kể lại nhân duyên quá khứ cho họ nhớ với
thí dụ Hóa thành, nên có phẩm Hóa thành dụ (thí dụ về thành phố ảo
hóa) (p7). Hàng hạ căn được ngộ và được đức Phật thọ ký, nên có
phẩm Ngũ bách đệ tử thọ ký (500 đệ tử thọ nhận lời chứng thực)
(p8) cho năm trăm vị thuộc hàng vô học hiển danh, và phẩm Thọ học, Vô
học nhân ký (lời chứng thực cho những người còn cần phải học và những
người không cần phải học) (p9) cho 2000 vị thuộc hàng học và vô học mật
hạnh vô danh khác. Như vậy qua ba lần thuyết là Pháp thuyết, Dụ thuyết,
Nhân duyên thuyết (hay gọi là tam châu thuyết pháp) thì ba hạng căn cơ
thượng, trung, hạ có túc căn thâm hậu được đức Phật hiện tiền thọ
ký. Còn bao nhiêu chúng sanh ít phước ở nơi khác thời khác không được
gặp đức Phật thì ai thọ ký cho? Nên biết hết thảy chúng sanh bất luận
ở đâu thời nào dù không gặp đức Phật mà gặp kinh và thọ trì giải
nói kinh Pháp Hoa cũng đều được thọ ký, nên có phẩm Pháp sư (vị thầy
dạy pháp) (p10) mà nội dung là tán thán công đức Pháp Hoa và người trì
kinh cùng phương pháp cho người muốn nói kinh Pháp Hoa đem lại nhiều lợi
ích.
Từ phẩm Tựa đến phẩm Pháp sư
cọng là 10 phẩm, trừ phẩm Tựa, 8 phẩm giữa là phần Khai quyền hiển
thật, phẩm Pháp Sư là để tán thán công đức Pháp Hoa và người thọ trì
đọc tụng hầu cho những chúng sanh vị lai vẫn được thọ ký.
Đạo lý khai quyền hiển thật là
thâm diệu lớn lao mà nay được đức Thích Tôn đã giảng nói, đức Phật
Đa Bảo trong quá khứ từng phát nguyện: Hễ ở đâu có nói kinh Pháp Hoa,
thì Ngài sẽ hiện đến, do đó tháp Đa Bảo từ lòng đất vọt lên, được
kể trong phẩm Hiện Bảo tháp (hóa hiện tháp báu) (p11), trước là để xác
chứng lời đức Thích Ca nói là không hư dối, sau để làm duyên khởi cho
việc khai cận hiển viễn sắp được nói đến ở phần sau. Nhưng sự xác
chứng rõ ràng mật thiết nhất chính là đức Thích Ca tự kể lại: Xưa
kia Ngài từng cần cầu nghe kinh Pháp Hoa và từng được Đề-bà-đạt-đa
nói cho nghe nhờ đó Ngài được thành Phật. Còn Đề-bà được thọ ký sẽ
thành Phật, cho đến Long nữ cũng nhờ Pháp Hoa được thành Phật rất mau
lẹ nên có phẩm Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) (p12). Sau khi nghe lời tán thán
công đức và khuyến khích trì kinh của đức Thích Ca và đức Đa Bảo
như vậy, các Bồ-Tát, Thanh Văn liền vâng mệnh thọ trì, nên có phẩm
Trì (nắm giữ chắc chắn) (p13). Song thọ trì giảng nói trong đời ngũ
trược ác thế làm sao tránh khỏi nguy nan nên có phẩm An lạc hạnh (p14),
chỉ bày phương pháp hoằng kinh được an lạc khi nhân hạnh đã đầy đủ
thì diệu quả ắt có. Các Bồ-tát từ lòng đất vọt lên nói trong phẩm
Tùng địa dũng xuất (từ đất nhảy ra) (p15) chứng minh điều đó để
khai cận hiển viễn, hiển bày cho thấy đức Phật đã thành Phật trãi
vô lượng kiếp nói trong phẩm Như Lai thọ lượng (tuổi thọ của đức
Như Lai) (p16). Phẩm Như Lai thọ lượng này nói hễ ai nghe được thì công
đức vô lượng, nên có phẩm Phân biệt công đức (p17). Tuy chỉ tùy hỶ
nghe và tùy hỶ người khác nghe vẫn được phước đức vô lượng, nên
có phẩm Tùy hỶ công đức (công đức về sự vui nhận) (p18), đó là hạ
phẩm công đức. Nếu nghe, thọ trì, đọc tụng, viết chép, giảng giải,
nói cho người nghe, thành tựu 6 căn công đức như phẩm Pháp sư công đức
(các công đức của vị pháp sư) (19) với năm hạng Pháp sư, đó là trung
phẩm công đức. Nếu thực hành Pháp Hoa Hạnh, thanh tịnh sáu căn như Bồ-tát
Thường Bất Khinh trong phẩm Thường Bất Khinh (p20) thì thuộc thượng phẩm
công đức. Mười phương chư Phật thấy chúng sanh trong quá khứ hay trong vị
lai nghe Pháp Hoa mà sanh tâm hoan hỶ thọ trì như vậy thì các Ngài càng rất
hoan hỶ nên hiện thần lực để tán dương hỗ trợ cho lòng tin và thực
hành thêm vững mạnh nên có phẩm Như Lai thần lực (thần lực của đức
Như Lai) (p21).
Trên kia đức Phật đã tán thán
kinh và người trì kinh, đến đây đức Phật phó chúc thọ trì, nên có phẩm
Chúc lụy (dặn dò) (p22).
Dược Vương Bồ-tát nhờ lãnh thọ
kinh giáo được lợi ích nên đã chịu khổ hạnh bằng cách thí xả thân
mạng tài sản để cúng dường báo ân, nêu ra một mô phạm cho sự phụng
mệnh hoằng kinh mà bản duyên này của Dược Vương được kể rõ trong phẩm
Dược Vương Bồ-tát bổn sự (chuyện về Bồ-tát Dược Vương) (p23).
Nhưng ở Dược Vương chưa nói rõ cách truyền thông Kinh Pháp. Đến phẩm
Diệu Âm Bồ-tát (24) mới nói rõ việc phân thân trong sáu đường để hoằng
Kinh lợi vật. Về phần chúng sanh những người muốn tín thọ thường gặp
trở nạn cần phải nhờ đức từ bi cứu tế mới vượt khỏi, nên có phẩm
Quán Thế Âm Bồ-tát (p25), và nhờ thần chú gia hộ nên có phẩm Đà-la-ni
(mật chú) (p26).
Người hoằng Kinh lợi vật là chơn
thiện tri thức của chúng sanh, dù ở trong nghịch cảnh nào họ cũng chuyển
được người bỏ tà về chánh, nên có phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương bổn
sự (chuyện về Vua Diệu Trang Nghiêm) (p27). Tu hạnh Nhất thừa Pháp Hoa,
truyền trì Pháp Hoa tức là tu hạnh Phổ Hiền, tức nhiên Phổ Hiền từ
phương xa đến ủng hộ khuyến khích, phát khởi nên có phẩm Phổ Hiền Bồ-tát
khuyến phát (sự khuyến khích của Bồ-tát Phổ Hiền) (p28). Đó là hết
hai mươi tám phẩm kinh.
Nói tóm tắt, 14 phẩm đầu kinh là
thuộc phần Tích môn (cũng gọi là phần khai quyền hiển thật, khai tam hiển
nhất, hội tam quy nhất, thừa phương tiện, thừa chân thật, thừa quyền,
thừa thật, tích môn tích hóa hay thùy tích). 14 phẩm sau là thuộc phần Bản
môn (cũng gọi là khai cận hiển viễn, khai tích hiển bổn, hội tích quy bổn,
thân phương tiện, thân chân thật, thân quyền thân thật, bản môn bản
hóa hay bản địa).
Chữ Môn ở đây không có nghĩa là
một bộ phận hay nơi chốn biệt lập, nó chỉ có nghĩa là "hoạt động
của đức Phật ở trong bản vị nguyên thủy" (bản địa hay bản môn
bản hóa) và hoạt động của đức Phật có biểu lộ lưu dấu tích (tích
môn tích hóa, thùy tích).
Phần Tích môn thì quy chiếu vào
giáo pháp của đức Phật, tức là chỉ vào pháp. Phần Bản môn thì quy
chiếu vào nhân cách của đức Phật, tức là chỉ vào người nói pháp.
Các đức Phật 10 phương chỉ có
Nhất thừa đạo và chư Phật ra đời đều duy nhất chỉ muốn dạy cho chúng
sanh Nhất thừa đạo chứ không có hai ba thừa, nhưng căn cơ chúng sanh
không thể một sớm một chiều lãnh hội được, nên đức Phật phải quyền
khai phương tiện để dẫn dắt.
Chữ "khai", "hiển"
trong "khai quyền hiển thật" ở đây có hai nghĩa:
1. Nếu đức Phật chỉ một mực dạy
thẳng đạo Nhất thừa thì không bao giờ chúng sanh lãnh ngộ được. Như
vậy đạo Nhất thừa chỉ ẩn lấp ở nơi đức Phật chứ không hiển
bày ra cho chúng sanh, nên đức Phật phải quyền khai ba thừa thì mới hiển
lộ được Nhất thừa.
2. Nhưng khi chúng sanh tiếp nhận
giáo lý ba thừa, họ lại tin chắc đó là thật mà không hiểu đó là đức
Phật chỉ quyền khai và như vậy thì đạo Nhất thừa vẫn bị khuất lấp
trong ba thừa không hiển lộ ra được. Đến khi đức Phật khai mỡ ra chỗ
khuất lấp đó bằng cách nói rằng "Ba thừa kia chỉ là phương tiện,
là quyền, chỉ có Nhất thừa mới là thật", như ở hội Pháp Hoa này
thì chúng sanh mới rời bỏ chấp tam thừa mà hướng đến nhất thừa.
Nghĩa khai cận hiển viễn cũng tương tợ như vậy.
Trong 14 phẩm thuộc Tích môn, thì
phẩm Tựa là phẩm mở đầu duyên khởi, còn chủ yếu chính là phẩm Phương
tiện với sự trình bày Thật trí, Quyền trí của chư Phật là đồng nhất,
thật tướng các pháp mà chư Phật chứng ngộ là đồng nhất và bản
hoài chư Phật ra đời độ sanh cũng đồng nhất. Những đồng nhất này gọi
chung là Phật tri kiến, và Phật tri kiến này mọi chúng sanh đều có, chỉ
vì bị vô minh, tham ái che lấp mà không hiển lộ ra được, nên nhân
duyên chư Phật ra đời là chỉ nhằm một đại sự duy nhất tức
"khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến", chứng Nhất thừa
đạo chứ không vì gì khác. Vì vậy dù trước đức Phật có quyền khai
ba thừa, cuối cùng đức Phật cũng chỉ dạy Nhất thừa.
Trong 14 phẩm thuộc Bản môn, mở
đầu duyên khởi là phẩm Tùng địa dũng xuất, nhưng chủ yếu chính là
phẩm Như Lai thọ lượng, khai thị cho thấy đức Thích Ca chỉ là thân ứng
hóa có sanh có diệt theo cơ cảm của chúng sanh trong đời ngũ trược ác
thế, mà đã là thân ứng hóa tức nhiên phải xuất từ thân Phật bản hữu
vốn đã thành Phật vô lượng vô biên kiếp.
Ngoài hai phẩm ở Tích môn và hai
phẩm ở Bản môn vừa nói trên đây, các phẩm còn lại, hoặc để quảng
diễn bổ túc, hoặc tán thán khuyến khích thọ trì, giảng nói, hoặc nêu
sự hoạt dụng của Pháp Hoa, để làm trọn vẹn lý nghĩa Quyền, Thật, Tích,
Bản, vạn thiện đồng quy bình đẳng đại huệ và chúng sanh đều thành
Phật mà trong hội Pháp Hoa chủ tâm nói đến vậy.
http://buddhismtoday.com/viet/kinh/dt/036-phaphoa1.htm
Chân thành cảm ơn Thầy
Thích Pháp Chơn, Director, Lieu Quan Buddhist Cultural Center, đã gởi tặng
bản điện tử. ĐPNN, 1-12-2000.
| 1
| 2 | 3
| 4 | 5
| 6 | 7a
| 7b | 8a
| 8b | 8c
| 8d |