- Lược giải Kinh Pháp
Hoa
- 8a
PHÂN TÍCH PHẨM
PHƯƠNG TIỆN
I. BỐ
CỤC
Phật xuất Định liền tán thán
hai trí và thật tướng các pháp:
1. Tán thán hai trí và nguyên do
thành tựu hai trí của chư Phật 10 phương: "Nhĩ thời Thế Tôn tùng
tam muội an tường nhi khởi... ý thú nan giải."
2. Đức Thế Tôn tự tán thán hai
trí và nguyên do thành tựu hai trí của mình: "Xá-lợi-phất, ngộ tùng
thành Phật dĩ lai... vị tằng hữu pháp Phật tất thành tựu."
3. Tán thán thật tướng các pháp (đối
tượng của hai trí) "Chỉ Xá-lợi-phất, bất tu phục thuyết... như thị
bổn mạt cứu cánh đẳng."(Dĩ thậm thâm cố chỉ)
Phần kệ:
1. Lặp lại hai trí vì quá sâu thẳm
hàng tam thừa không thể hiểu thấu và khuyên nên khởi lòng tin kiên cố
đối vối lời Phật dạy: "Nhĩ thời Thế Tôn dục trùng tuyên thử
nghĩa nhi thuyết kệ ngôn:
-Thế Hùng bất khả lường... Nhất
tâm cộng tự cầu, diệc phục bất năng tri."
2. Khuyên nên tin Diệu Pháp mà chư
Phật đồng chứng đồng nói, đó là Tam thừa chỉ là quyền khai: "Hựu
cáo, Xá-lợi-phất, Vô lậu bất tư nghì... dẫn chỉ linh đắc xuất.
Đại chúng nghi, Xá-lợi-phất ba lần
thỉnh Phật nói:
1. Nhân Phật tán thán trí phương
tiện rồi bảo nên thôi không nói, khiến tứ chúng sanh nghi (đồng chấp
sanh nghi) Xá-lợi-phất bèn thưa hỏi Phật lý do đó:
"Nhĩ thời đại chúng trung hữu
chư Thanh Văn... thậm thâm vi diệu nan giải chi pháp".
2. Kệ lặp lại lời thỉnh trên:
"Nhĩ thời Xá-lợi-phất dục trùng tuyên... Dục văn cụ túc đạo".
(kệ)
3. Nhân Xá-lợi-phất thỉnh, lần
thứ hai Phật lại bảo nên thôi không nói, vì sợ trời, người nghe kinh
nghi: "Nhĩ thời Phật cáo Xá-lợi-phất chỉ chỉ... giai đương kinh
nghi."
4. Xá-lợi-phất lần thứ hai nêu
lý do là trong chúng nhiều người có trí tuệ sẽ sinh lòng kính tin để cầu
Phật nói: "Xá-lợi-phất trùng bạch Phật ngôn: Thế Tôn duy nguyện
thuyết... Hữu năng kính tín giả" (kệ)
5. Lần tứ ba Phật lại bảo nên
thôi không nói, vì sợ hàng Tỳ-kheo tăng thượng mạn bị đọa lạc:
"Phật phục chỉ Xá-lợi-phất, nhược thuyết thị sự... văn tất bất
kính tín."
6. Xá-lợi-phất lần thứ ba lại
nêu lên lý do để cầu Phật nói: "Nhĩ thời Xá-lợi-phất trùng bạch
Phật ngôn:... tắc sanh đại hoan hỶ" (kệ)
Phật hứa nói:
1. Sau ba lần Xá-lợi-phất thỉnh,
Phật hứa nói: "Nhĩ thời Thế Tôn cáo Xá-lợi-phất, nhữ dĩ ân cần
tam thỉnh ... ngô đương vị nhữ phân biệt giải thuyết."
2. Lúc Phật sắp nói, thì 5,000 người
tăng thượng mạn lễ Phật lui ra: "Thuyết thử ngữ thời, hội
trung... Thế Tôn mặc nhiên nhi bất chế chỉ".
3. Khi này Thánh chúng đã thuần nhất,
Phật sắp nói, Xá-lợi-phất nguyện nghe: "Nhĩ thời Phật cáo Xá-lợi-phất,
ngã kim ư thử chúng... nguyện nhạo dục văn".
Phật chính thức nói:
1. Vì đương cơ Phật chính thức
phân biệt giải nói Diệu Pháp và khuyên phát tâm tin chắc: "Phật cáo
Xá-lợi-phất, như thị Diệu Pháp,... ngôn bất hư vọng".
2. Chính thức chỉ thật ngay nơi
quyền, bởi chư Phật chỉ vì đại sự duy nhất là khai thị chúng sanh ngộ
nhập Phật tri kiến nên chỉ dạy pháp nhất thừa, chứ không có hai, ba thừa:
"Xá-lợi-phất, chư Phật tùy nghi thuyết pháp, ... thập phương chư Phật
pháp diệc như thị".
3. Dẫn cách thuyết pháp và bản
hoài của Phật ba đời để thấy cách thuyết pháp và bản hoài của đức
Thích Tôn hôm nay đồng nhau: "Xá-lợi-phất, quá khứ chư Phật,... nhất
Phật thừa phân biệt thuyết tam."
4. Chê quở hàng nhị thừa để
khuyên nên tin chắc nhất thừa: "Xá-lợi-phất, nhựợc ngã đệ tử...
Vô hữu dư thừa, duy nhất Phật thừa.
Kệ có 12 đoạn:
1. Việc 5,000 thối tịch và chúng
thuần nhất: "Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hữu hoài tăng thượng mạn... duy hữu
chư trinh thật".
2. Nói chính vì thật mà khai quyền:
"Xá-lợi-phất thiện thính... dĩ cố thuyết thị kinh".
3. Nay vì đại căn nói Đại thừa
hiển thật: "Hữu Phật tử tâm tịnh... giai thành Phật vô nghi".
4. Kết thúc việc hiển nhất thừa
là thật: "Thập phương Phật độ trung... Thuyết Phật trí tuệ cố".
5. Chư Phật ra đời cốt chỉ nói
nhất thừa: "Chư Phật xuất ư thế... giai linh nhập Phật đạo".
6. Nhưng Phật ra đời gặp ngũ trược
ác nên phải khai quyền để hiển thật: "Nhược ngã ngộ chúng sanh, tận
giáo dĩ Phật đạo... chư Phật ngữ vô dị, duy nhất vô nhị thừa".
7. Chư Phật quá khứ đạo đồng,
ngoài khai chánh phương tiện còn khai dị phương tiện để hiển nhất thừa:
"Quá khứ vô số kiếp vô lượng diệt độ Phật... nhược hữu văn
pháp giả giai dĩ thành Phật đạo".
8. Chư Phật vị lai đồng khai quyền
hiển thật: "Vị lai chư Thế Tôn, kỳ số vô hữu lượng... Đạo sư
phương tiện thuyết".
9. Chư Phật hiện tại đạo đồng
khai quyền hiển thật: "Thiên nhơn sở cúng dường... tuỳ ứng phương
tiện thuyết".
10. Đức Thích Ca đạo đồng khai
quyền hiển thật: "Ngã kim diệc như thị, an ổn chúng sanh cố... ngã
kim diệc như thị, thuyết vô phân biệt pháp".
11. Cực lạc tán thán nhất thừa
khó gặp để củng cố lòng tin của hàng nhị thừa: "Chư Phật hưng
xuất thế vô Thanh Văn đệ tử".
12. Phú chúc bảo hộ Diệu pháp nhất
thừa, nên cẩn thận giảng cho đúng cơ: "Nhữ đẳng Xá-lợi-phất,
Thanh Văn cập Bồ-tát... tự tri đương tác Phật".
II GIẢI THÍCH [^]
Chữ phương tiện có hai nghĩa:
Nghĩa hẹp và nghĩa rộng.
a) Về nghĩa hẹp: Phương là phương
pháp; tiện là thuận tiện, thích đáng. Phương pháp thuận tiện thích đáng
để dẫn đến một mục đích, một ý muốn gọi đó là phương tiện.
b) Về nghĩa rộng: Trong kinh điển
tả về cảnh giới giác ngộ của đức Phật thậm thâm vi diệu, duy chứng
tự tri- chỉ có chứng mới biết được - Ngoài ra tất cả những cách thức
trình bày thuyết giảng, dùng đến ngôn ngữ, sắc tướng... thậm chí cả
đến sự ra đời của Phật cũng đều là phương tiện. Hay nói rộng hơn
tất cả việc làm của Phật từ khi giáng sanh tại vườn Lâm-tỳ-ni... cũng
là phương tiện. Đức Phật ra đời, một tay chỉ lên trời một tay chỉ
xuống đất và nói: "Thiên thượng thiên hạ duy Ngã độc tôn"
hình tướng đó, lời dạy đó cũng là phương tiện. Nếu ngay lời nói đó
chúng sanh ngộ được thâm ý Phật muốn nói, tức nhiên có thể ngay đó
là một bài pháp mà Phật đã dạy quá đầy đủ. Nhưng, căn cơ chúng sanh
không phải chỉ dùng chừng ấy đã ngộ được mà cần phải dẫn dụ
thêm. Cho nên đức Phật mới trải qua những giai đoạn tu hành, thành đạo,
thuyết pháp... và tùy căn cơ chúng sanh mà Phật thuyết có ba thừa... Tất
cả những thứ đó đều là phương tiện. Và nếu khi nào chúng sanh chưa
hiểu hết mục đích của Phật, cảnh giới giác ngộ mà đức Phật muốn
trao cho, chỉ dạy cho, thì tất cả những pháp môn mà Phật chỉ dạy đó
đều là những pháp môn phương tiện. Trong kinh có hai câu để chứng minh
lời dạy của Phật là phương tiện:
1. "Nhất thiết Tu-đa-la như tiêu
nguyệt chỉ" : Tất cả kinh giáo Ta dạy như ngón tay chỉ mặt trăng.
Ngón tay là phương tiện, mặt trăng là chân lý, là thật tướng mà Phật
đã chứng ngộ (kinh Viên Giác, Lăng Nghiêm).
2. "Ngã sở thuyết pháp như phiệt
dụ giả, pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp": Pháp Ta nói như chiếc
bè qua sông, Pháp còn phải bỏ huống chi là phi pháp (kinh Kim Cang).
Đó cũng để nói lên rằng giáo
pháp Phật cũng chỉ là phương tiện. Ví dụ này trong Nikàya có ý rằng đức
Phật dạy giáo pháp cốt để tu hành, đạt đến chỗ giải thoát giác ngộ
giống như chiếc bè đưa qua sông, người có chiếc bè mà đem cất đi không
dùng để qua sông, như vậy người đó là người ngu si không biết cách
dùng bè. Thứ đến, khi qua sông rồi nghĩ rằng chiếc bè này, giúp ta qua
sông vậy ta hãy mang nó theo, người ấy cũng là người ngu si không biết
dùng bè. Kinh Kim Cang nói nghĩa sau vì kinh Kim Cang cốt phá tướng. Nikàya nhấn
mạnh nghĩa trước vì nhằm vào sự thực hành. Với hai ví dụ đó nên
chúng ta biết rằng tất cả lời Phật dạy và việc làm của Phật trong
khoảng trời gian trước Pháp Hoa đều là phương tiện để đưa chúng sanh
đạt tới cảnh giới giác ngộ mà Phật đã thành tựu.
Nhưng đức Phật đã khéo dùng phương
tiện như vậy mà có chúng sanh thành tựu được, có chúng sanh không thành
tựu được, phải chờ đến hội Pháp Hoa, một lần cuối cùng Phật khai
thị mới giác ngộ. Cho nên trong hội Pháp Hoa, trước khi chúng sanh được
chánh thức giác ngộ, được thọ ký, thì Phật đã thuyết pháp, phóng
hào quang, hiện các thụy tướng..., tất cả các việc mà trong phẩm Tựa
đã trình bày cũng là phương tiện. Nếu trong việc phóng hào quang của Phật,
mà chúng sanh ngộ được, chắc Phật khỏi phải nói thêm phẩm Phương Tiện.
Nhưng không ngộ được, Phật phải phương tiện dùng ngôn thuyết để giảng
nói đạo lý, cảnh giới mà chúng sanh cần chứng ngộ. Trong đạo đức
kinh có nói: "Đạo khả đạo phi thường đạo". Đạo mà nói ra
được, đạo đó không phải là đạo đích thực nữa. Đây nghĩa cũng vậy.
Cho nên tất cả ngôn thuyết của Phật đều là phương tiện, gọi là đạo
nhưng là đạo phương tiện chứ không phải là đạo đích thực. Phương
tiện là vậy, mà chánh trong phẩm Phương Tiện này là phẩm đức Phật dùng
ngôn ngữ để nói thẳng điều Ngài muốn nói, nhưng trước kia chưa nói.
Nên phẩm này gọi là phẩm Phương Tiện. Trong đó Phật nhắc đi nhắc lại
nhiều lần câu: "Ta dùng vô số Phương tiện, chư Phật 10 phương dùng
vô số phương tiện để khai đạo chúng sanh."
Phẩm này rất dài , hơn cả 28 phẩm
trong kinh Pháp Hoa, lý nghĩa trùng điệp, thâm sâu, nên phân khoa đại
cương như phẩm Phương Tiện để cho dễ hiểu.
III. KINH VĂN [^]
Kinh văn: Lúc bấy giờ đức Thế Tôn
từ chánh định ung dung mà xuất, bảo Xá-lợi-phất rằng: "Trí tuệ của
chư Phật thậm thâm vô lượng, trí tuệ môn đó rất khó hiểu, khó vào,
tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật không thể biết được. Vì sao? Bởi
vì các đức Phật từng thân cận trăm ngàn vạn ức vô số các đức Phật
khác và đã tận hành vô lượng đạo pháp của các đức Phật, dũng mãnh
tinh tấn, danh xưng cùng khắp, thành tựu được pháp thậm thâm vị tằng
hữu và tùy nghi nói pháp ý thú khó hiểu".
Giải thích: Đoạn này tán thán hai
trí và nguyên nhân thành tựu hai trí của chư Phật. Sở dĩ đức Phật Thích
Ca tán thán trí tuệ của chư Phật để đối chiếu lại trí tuệ của
mình mà Ngài từng dùng trí tuệ đó thuyết pháp độ sanh. Hai trí tuệ đó
là Thật trí và Quyền trí. Trí tuệ thậm thâm vô lượng, đó là chỉ về
thật trí. Trí tuệ môn khó hiểu, khó vào đó là chỉ Quyền trí.
Thật trí là trí chứng được thật
tướng, chứng chơn như. Đó là trí tự nội chứng của Phật, nên trí
này cũng gọi là căn bản trí.
Quyền trí hay phương tiện trí là
trí đức Phật dùng để thuyết pháp, giáo hóa độ sanh, trí đó cũng rất
khó hiểu khó vào.
Thật trí thậm thâm vô lượng. Thậm
thâm là rất sâu, không thể dùng tâm phân biệt mà dò biết được. Vô lượng
là rất rộng, không làm sao biết được ngằn mé.
Đối với hàng Thanh Văn nhị thừa
và ngoại đạo chúng sanh không thể hiểu, không thể vào, không đo lường
được nên gọi là trí tuệ thậm thâm vô lượng. Nhưng đó là trí tuệ tự
nội chứng. Còn phương tiện trí, trí tuệ dùng để thuyết pháp, giáo
hóa, tùy theo căn cơ chúng sanh nữa. Trí tuệ ấy cũng không phải tầm thường
nên trong kinh nói khó biết, khó vào.
Ví như một vị lương y biết được
bệnh lý, biết rõ dược tánh, phương thang đó là thật trí. Biết rõ nhưng
đứng trước một bệnh nhân, vị lương y ấy phải biết hạ phương thang
như thế nào...? Nếu không có quyền trí, không có trí ứng cơ thì chắc
chắn không làm sao bốc thuốc trị bệnh được. Hoặc có thể hạ phương
thang bốc thuốc trị bệnh nhưng mà không trúng bệnh, không lành bệnh thì
cũng không thể gọi là ứng cơ được.
Quyền trí rất khó được như vậy,
cho nên có vị Tổ đã nói:
"Nhiên quân giảng đắc thiên
kinh luận
Nhất cú lâm cơ hạ khẩu nan".
Hai câu trên ý là: Tha hồ ông có
giảng nói được ngàn kinh luận, nhưng khi lâm cơ một câu mở miệng nói
được chẳng phải dễ.
Điều này chắc ai cũng đã có lần
gặp phải. Có những việc đến với mình mà không biết phải mở miệng
như thế nào cho được lợi ích, cho đúng, mặc dù ngày thường thì thao
thao bất tuyệt. Cũng lắm khi đặt bút viết một câu văn mà cả giờ vẫn
chưa đặt bút được, hay có người văn chương lỗi lạc nhưng nhờ viết
dùm cho một cái đơn đi kiện thì chẳng biết viết làm sao! Như vậy là
có thật trí mà không có quyền trí. Thật trí là trí biết nguyên lý sự
vật, quyền trí là trí biết phương tiện trình bày tùy cơ vào tướng sai
biệt của sự vật để ứng đối, ứng dụng.
Hai trí đó đức Phật đã thành tựu
viên mãn, cho nên suốt 45 năm giáo hóa, đức Phật tùy theo căn cơ của chúng
sanh mà Ngài thuyết pháp. Trí tuệ môn đó hàng nhị thừa, Bồ-tát không
thể thấu được nên nói nan giải, nan nhập. Chữ Môn: Môn là cửa, môn
để chỉ cho quyền trí. Nhờ giáo pháp Phật nói ra làm cửa ngỏ để chúng
sanh đi vào cảnh giới thật trí chứng ngộ của Phật nên gọi là trí tuệ
môn.
Hai câu đó là tán thán hai trí của
Phật. Nói rộng ra, sở dĩ nó thậm thâm là bởi lẽ trí đó gồm đủ những
tánh cách sau đây:
1. Thể tánh của trí tuệ: Là chân
như thật tướng, mà đã là chân như thật tướng thì ly ngôn tướng.
2. Nghĩa tướng của trí tuệ: Tức
căn bản trí và hậu đắc trí, toàn là những trí tuệ vô lậu. Sau khi chứng
nhập được lý Duyên khởi, nhân quả, tánh tướng của sự vật, thành tựu
viên mãn được.
3. Trợ bạn của trí tuệ: Là lục
độ vạn hạnh. Không có lục độ vạn hạnh thì không thành tựu trí tuệ
được.
4. Nhân của trí tuệ: Là giải và
hành hay nói cách khác là phải trải qua Văn, Tư, Tu, có được như vậy trí
tuệ mới thâm sâu.
5. Cảnh giới của trí tuệ: Cảnh
giới đó hoặc không, hoặc hữu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, hoặc hữu lậu,
hoặc vô lậu và tất cả pháp là cảnh giới của trí tuệ.
Trí tuệ gồm đủ năm nghĩa rộng
như vậy cho nên trí tuệ đó gọi là trí tuệ thậm thâm. Thậm thâm cũng
có 5 nghĩa:
a) Tự thể thậm thâm: Tự thể ly
ngôn tuyệt tướng là thậm thâm.
b) Nghĩa tướng thậm thâm: Bởi vì
đó là căn bản trí và hậu đắc trí.
c) Nội chứng thậm thâm: Trí tuệ
đó là cái nội chứng của Phật.
d) Y chỉ thậm thâm: Trí tuệ đó y
chỉ nơi pháp giới, pháp tánh.
e) Vô thượng thậm thâm: Vô thượng
có hai nghĩa:
- Phật vô thượng: Siêu xuất tam
giới.
- Pháp vô thượng: Tướng tịch diệt.
Thật tướng tất cả pháp đều bất
khả thị, không thể chỉ bày từng cái, dù nói gì thì tướng vạn pháp vẫn
như thị, nó không biến đổi theo lời nói, gọi là tướng tịch diệt.
(Thị pháp bất khả thị ngôn từ tướng tịch diệt).
Trí đó đến địa vị Phật quả,
vô đẳng đẳng chánh giác mới thành tựu được, nên gọi vô thượng thậm
thâm.
Đó là tán thán hai trí thậm thâm,
mà nguyên do thành tựu hai trí đó là nhờ Phật đã từng thân cận vô lượng
vô số ngàn vạn ức đức Phật và tận hành vô lượng pháp môn của Phật
pháp một cách dũng mãnh tinh tấn mà danh xưng đã lan khắp, thành tựu được
pháp vị tằng hữu và tùy nghi thuyết pháp, ý thú nan tín nan giải. Đó
là nguyên do thành tựu hai trí trên. Điều này ý nói rằng muốn thành tựu
được hai trí không phải trong khoảnh khắc chỉ dụng công đơn sơ mà có
thể thành được, mà phải thân cận vô số các đức Phật, thực hành
vô lượng đạo pháp của các đức Phật một cách tinh tấn dũng mãnh.
Nói rộng ra, có bốn nguyên tắc cho người học đạo:
1. Thân cận thiện hữu: Trong kinh
nói thân cận chư Phật, đức Phật cũng là bậc Đại thiện hữu và còn
những bậc thiện hữu khác nữa. Người học đạo bước đầu tiên là phải
thân cận thiện hữu để học hỏi Chánh pháp.
2. Thính văn Chánh pháp: Nghe lời dạy
vẽ Chánh pháp của thiện hữu.
3. Như lý tác ý: Tác ý đồng
nghĩa với tư duy, tư duy đúng như lý, hợp như lý. Tư duy xong phải thực
hành, đó là pháp tùy pháp hành.
4. Pháp tùy pháp hành: Thật hành
pháp và tùy pháp. Pháp tức là pháp môn ta đương thực hành. Tùy pháp là
pháp hỗ trợ cho pháp môn ta đương thực hành đó. Ví dụ đối với lục
độ Ba-la-mật, ta tu về hạnh trì giới Ba-la-mật, thì trì giới Ba-la-mật
là pháp mà năm hạnh kia (bố thí, tinh tấn...) là tùy pháp...Nói rộng ra
là tất cả những pháp môn hỗ trợ cho pháp môn chính mà ta đang tu đó gọi
là tùy pháp.
Bốn điều trên đây là đầu mối
để thành tựu trí tuệ, cũng là cửa ngõ để đi vào đạo quả giải thoát.
Bốn điều này là bốn điều chủ yếu. Không những kinh văn Đại thừa mà
cả kinh văn Nguyên thủy cũng thường nói đến. Đức Phật thành tựu được
hai trí cũng nhờ bốn điều này, tức nhờ vào thân cận các đức Phật,
nghe giáo pháp, tư duy và tận hành đạo pháp của các đức Phật một cánh
tinh tấn, dõng mãnh. Nhờ tinh tấn như vậy, nên đức Phật thành tựu được
pháp vị tằng hữu, tức nhiên thành tựu thật trí, trí tuệ thậm thâm
và quyền trí là trí tuệ tùy nghi nói pháp cho chúng sanh, ý thú khó hiểu,
lời gần ý xa.
Một hôm đức Phật đi ngang qua rừng
Simsapa, Ngài cầm một nắm lá trong tay rồi hỏi các Tỳ-kheo rằng: Lá
Simsapa trong tay Ta nhiều hay là giữa rừng nhiều? Các tỳ-kheo thưa rằng: Lá
trong tay Ngài ít, còn là giữa rừng nhiều, không tính đếm được. Đức
Phật dạy rằng: Pháp mà Ta chứng ngộ nhiều như lá giữa rừng, còn điều
mà Ta đem ra dạy cho các đệ tử như lá trong tay.
Qua câu chuyện trên để biết rằng
trí tuệ thật chứng của Phật thậm thâm vô lượng, còn những pháp đem
ra để giáo hóa thì ít. Thứ nữa, đó là phương tiện thì khi nào cũng là
phương tiện, mà phương tiện thì không bao giờ nói hết được thật tướng,
không bao giớ nói thẳng đến được. Nó chẳng qua chỉ là một cánh thức
để diễn đạt thật tướng chứ nó không thể nói đúng thật tướng.
Ngoại đạo cho rằng ngôn ngữ có
thể chứng đắc thật tướng, có thể nói được tự tướng của vạn vật
cho nên kinh Vệ-đà họ cho là Thánh ngôn, mỗi chữ là mỗi sự thật.
Trong kinh đức Phật dạy, ngôn ngữ chỉ là phương tiện chỉ sự thật chứ
ngôn ngữ không phải là sự thật. Nếu ngôn ngữ là sự thật thì khi nói
lửa chắc là bị cháy miệng, nhưng nói lửa vẫn không bị cháy miệng, như
vậy, ngôn ngữ không phải là sự thật, nó chỉ là phương tiện, mà đã
là phương tiện thì nói mấy cũng không hết, cũng không đến được thật
tướng, nên trong kinh nói rằng: "Chư Phật trí tuệ thậm thâm vô lượng
nan giải nan nhập".
Trí tuệ thậm thâm khó hiểu, khó
vào như vậy mà đức Phật đã thành tựu được là bởi Phật đã trãi
qua bao nhiêu công phu trong số kiếp. Phật nói điều này cũng vì để đối
phó, để dắt dẫn hàng nhị thừa và cũng chính nói cho họ biết rằng
trí tuệ Phật là như vậy và muốn thành tựu được là phải trãi qua nhiều
công phu trong vô lượng kiếp, tận hành đạo pháp của vô lượng các đức
Phật. Và, đây cũng là một cách cốt phá tâm tăng thượng mạn của nhị
thừa mà ở một đoạn kinh sau sẽ thấy rõ hơn.
Kinh văn: Này Xá-lợi-phất, Ta từ
khi thành Phật đến nay đã từng dùng các thứ nhân duyên các thứ thí dụ,
rộng diễn ngôn giáo, và vô số phương tiện dẫn đạo chúng sanh khiến
xa lìa các chấp trước. Sở dĩ làm vậy vì phương tiện tri kiến Ba-la-mật
Như Lai đều đã đầy đủ. Này Xá-lợi-phất, tri kiến Như Lai rộng lớn
sâu xa, vô lượng, vô ngại lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát,
tam-muội, sâu vào không có ngằn mé, thành tựu tất cả những pháp chưa từng
có. Này Xá-lợi-phất, Như Lai hay phân biệt, khéo nói các pháp, ngôn từ mềm
dịu, vui đẹp lòng chúng. Này Xá-lợi-phất, lấy cốt yếu mà nói, vô lượng
vô biên pháp vị tằng hữu, Phật đều thành tựu.
Thôi Xá-lợi-phất, không nên nói nữa,
vì sao? Vì Phật đã thành tựu được pháp khó hiểu hy hữu đệ nhất, chỉ
có Phật cùng với Phật mới rõ thấu cùng tột tướng chân thật của
các pháp, đó là: Như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị
lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị
báo, như thị bổn mạt cứu cánh đẳng.
Giải thích: Các thứ nhân duyên là
sao? Đức Phật nói những pháp môn tùy theo căn cơ của chúng sanh, căn cơ
đó có bản nhân như vậy và cần nhờ duyên của giáo pháp Phật như vậy
sẽ được giác ngộ giải thoát.
Như đối với chúng sanh có căn cơ
của hàng nhơn thiên tức "Nhơn", Phật dạy về pháp ngũ giới, thập
thiện, các thiền định để làm duyên cho họ được an lạc. Hoặc có
chúng sanh có căn cơ Thanh Văn (Nhân Thanh Văn) Phật nói pháp Tứ đế làm
duyên để họ phát triển trí tuệ vô lậu giải thoát, hoặc chúng sanh có
căn cơ Duyên Giác, Phật nói pháp Thập nhị nhân duyên, có căn cơ Bồ-tát,
Phật nói lục độ, vạn hạnh, Tứ vô lượng tâm, Tam tam-muội..., không bỏ
sót một căn cơ nào. Gọi đó là các thứ nhân duyên.
Một Tỳ-kheo ở xứ Bạt Ký đến
bạch Phật: "Con phải tu tập tới 250 học pháp và cứ mỗi nữa tháng
tụng đọc một lần, con không thể nào theo nổi". Phật hỏi:
"Ông có thể chỉ tu học ba học pháp là Giới học, Định học, Huệ
học không? Tỳ-kheo kia đáp, Bạch Thế Tôn, dạ được. Vậy là ông chỉ
tuân thủ ba học pháp ấy cho đến khi chứng quả...
Hoặc cũng có nghĩa chỉ về nhân
duyên của mỗi người khi xuất gia học đạo... Mỗi người đến với đạo
đều có "Nhân" "Duyên" khác nhau. Bản nhơn nơi tự tâm và
gặp duyên như thế nào để đi vào đạo đó là nhân duyên. Ví dụ như
trường hợp theo Phật xuất gia của ngài Tôn-đà-la Nan-đà chẳng hạn, Phật
dựa vào duyên để hướng dẫn ông, gọi đó là nhơn duyên.
Nếu có những căn cơ cần phải nói
thí dụ mới hiểu được thì Phật dùng thí dụ (các thứ thí dụ). Như
trong kinh Pháp Hoa Phật dùng thí dụ: Nhà lửa, cùng tử, hóa thành..., hoặc
như nói, kinh Phật như chiếc bè qua sông, như ngón tay chỉ mặt trăng... hoặc
như muốn chỉ rõ tánh chất của ngũ uẩn là không thật thì Phật dạy sắc
như bọt nước (sắc như tụ mạc). Thọ như bong bóng nước (thọ như thủy
thượng bào), Tưởng như sóng nắng (tưởng như dương thời diệm), các
hành vi như cây chuối (chư hành như ba tiêu), thức ấm ví như trò huyễn
(chư thức pháp như huyễn)...
Đức Phật dùng các nhân duyên,
các thí dụ với vô số phương tiện dẫn đạo chúng sanh xa lìa cấu uế.
Nên biết rằng, mỗi chúng sanh đều có mỗi chấp trước, chấp trước về
thân tâm, chấp trước về cảnh giới, chấp trước về sự nghiệp, chấp
trước về tri kiến... mang thân tâm gì thì chấp trước theo thân tâm ấy.
Ở cảnh giới nào thì chấp theo cảnh giới ấy, chúng sanh dục giới chấp
trước dục giới... thậm chí chúng sanh ở địa ngục cũng có sự chấp
trước ở địa ngục, chấp trước về căn thân, về khí giới... Cho nên,
tuy những điều rất nhỏ nhưng khi chấp trước thành thói quen rồi, thì
muốn quên ngay cũng không được. Như tiền thân đức Thích Tôn, có một
kiếp làm người trồng cải, sau bỏ nghề đi tu, nhưng cứ mỗi khi thiền
quán, thân tâm vừa an tịnh thì lại thấy cái cuốc và hạt cải hiện ra,
bao nhiêu phen mà tâm không định được. Ngài phải trở về nhà lấy cây
cuốc và nắm hạt cải đi ra bờ sông, đứng nhắm mắt tay cầm cuốc và
hạt cải tung vãi cho bay mất đi, sau đó mới yên tịnh tu hành được. Để
cứu chúng sanh ra khỏi mọi ràng buộc của chấp trước đó, nên đức Phật
dùng các thứ nhân duyên, các thứ thí dụ để đưa họ ra khỏi vậy.
Sở dĩ đức Phật dùng được vô
số các nhân duyên, thí dụ để dẫn dắt chúng sanh là nhờ Phật thành tựu
được tri kiến Ba-la-mật. Tri kiến Ba-la-mật là gì? Đó là tri kiến Như
Lai rộng lớn sâu xa, rốt ráo, về bốn Vô lượng, bốn Vô ngại, Thập lực,
bốn vô sở úy, tứ Thiền, Bát định, bát Giải thoát và Tam tam-muội. Đó
là những pháp môn, những tri kiến mà đức Phật đã thành tựu. Những
pháp môn này chính là những pháp tu quán. Chữ "Vô lượng" trong
kinh tức chỉ cho Tứ vô lượng tâm: Từ, Bi, HỶ, Xả. Chúng sanh vô lượng,
Phật phát tâm từ bi hỶ xả cũng vô lượng, thương xót..., cùng khắp
không chừa một ranh giới nào, nên gọi là vô lượng. Bốn Vô ngại tức
là bốn Vô ngại giải hay bốn Vô ngại biện. Thập lực, "Lực"
có nghĩa là trí, tức chỉ cho trí của Phật. Trí của Phật kiên cố, vững
chắc không bị lay chuyển, không bị phá hoại nên gọi là lực. Đại hùng,
Đại lực, Đại từ bi tức là đại dũng, đại trí và đại từ bi, tức
Bi-Trí-Dũng. Thập lực gồm có:
1. Tri xứ phi xứ trí lực: Xứ, có
nghĩa là đạo lý. Phật có trí lực biết như thật nhân duyên quả báo như
thế là đúng đạo lý hay không đúng đạo lý. Biết rõ sự kiện có xảy
ra là có xảy ra, sự kiện không xảy ra là không xảy ra. Ví như biết
A-la-hán là không còn tái sanh luân hồi là không tái sanh luân hồi. Phàm
phu còn tái sanh luân hồi là có tái sanh luân hồi.
2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực:
Có trí lực biết như thật nghiệp báo ba đời của chúng sanh.
3. Tri chư thiền giải thoát tam-muội
trí lực: Có trí lực biết như Thật các thiền định, Bát giải thoát,
Tam tam-muội.
4. Tri chư căn thượng hạ trí lực:
Có trí lực biết như thật các căn tánh cao thấp của chúng sanh.
5. Trí chủng chủng dục lực: Có
trí lực biết như thật tất cả mọi chí hướng, ham muốn của chúng
sanh.
6. Tri chủng chủng giới trí lực:
Đối với các cảnh giới của chúng sanh ở thế gian không đồng nhau,
nhưng Phật có trí lực đều biết rõ như thật cùng khắp.
7. Tri nhất thiết chí xứ đạo trí
lực: Có trí lực biết như thật rằng nếu thật hành 5 giới, tu điều
thiện (đạo) thì đạt đến (chí) nhơn thiên (xứ). Thật hành Bát chánh
đạo, vô lậu (đạo) thì đưa đến (chí) Niết-bàn giải thoát (xứ).
8. Tri biên nhãn vô ngại trí lực:
Có trí lực thiên nhãn thấy như thật sự sanh tử, nghiệp duyên của
chúng sanh mà không bị chướng ngại.
9. Tri túc mạng vô lậu trí lực:
Có trí lực biết như thật các đời trước của mình và chúng sanh.
10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực:
Có trí lực biết như thật đối với tất cả vọng tưởng, tập khí, lậu
hoặc đã hoàn toàn đoạn trừ không sanh trở lại.
TƯٍ
VÔ SỞ ÚY [^]
1.Nhất thiết trí vô sở úy: Đức
Như Lai ở giữa đại chúng tuyên bố rằng: "Ta là bậc nhất thiết
trí, không còn e sợ ai có thể chỉ trích một cách đúng pháp rằng: Như
Lai không phải bậc nhất thiết trí".
2. Lậu tận vô sở úy: Đức Như
lai ở giữa đại chúng tuyên bố rằng: "Ta đã đoạn tận tất cả
phiền não lậu hoặc, không còn e sợ ai có thể chỉ trích một cách đúng
pháp rằng: Như Lai chưa đoạn hết các lậu hoặc".
3. Thuyết chướng đạo vô sở úy:
Đức Như Lai ở giữa đại chúng nói các dục phiền não là pháp chướng
đạo, không còn e sợ ai có thể chỉ trích một cách đúng pháp rằng:
"Các dục phiền não là pháp không chướng đạo mà Như Lai lại nói chướng
đạo"
4. Thuyết tận khổ đạo vô sở
úy: Đức Như Lai ở giữa đại chúng nói về giới, định, tuệ là con
đường diệt khổ, không còn e sợ ai có thể chỉ trích một cách đúng
pháp rằng: "Giới, Định, Tuệ không phải là đạo giải thoát mà Như
Lai nói là đạo giải thoát."
Chính nhờ thành tựu bốn pháp
này, Như Lai tự nhận cho mình địa vị Ngưu vương, rống tiếng rống con
sư tử ở giữa đại chúng.
BAٔ
GIẢI THOÁT HAY BÁT BỘI XẢ [^]
1. Nội hữu sắc quán ngoại sắc
giải thoát: Đối với nội thân còn có sắc tưởng của nhiều tham ái, muốn
dứt trừ tham ái đó không thể tự quán bất tịnh tự thân mà phải nhờ
quán bất tịnh nơi thân người khác mà được giải thoát tham ái nơi tự
thân mình.
2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại
sắc giải thoát: Đối với tự thân ngũ uẩn không còn tham ái chấp trước,
nhưng để cho tâm giải thoát tham ái đó được kiên cố và giải thoát
tâm tham ái đối với thân người khác, nên cần phải tiếp tục quán bất
tịnh nơi thân người khác, nơi xác chết..., nhờ đó mà tâm giải thoát
tham ái được bền vững.
3. Tịnh giải thoát thân tác chứng
cụ túc trí: Qua giai đoạn thứ ba này tâm tham ái về sắc thân đã dứt
trừ, đến đây không còn phải quán bất tịnh nữa, nhưng lại quán tịnh
sắc để luyện tập tâm, dù thấy tịnh sắc, tâm vẫn giải thoát không
khởi tham ái.
4. Không vô biên xứ giải thoát.
5. Thức vô hữu xứ giải thoát.
6. Vô sở hữu xứ giải thoát.
7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải
thoát.
8. Diệt Thọ Tưởng Định Thân
tác Chứng Cụ túc trú: Đây là Định cao nhất trong chín định thứ đệ.
Nhập vào định này thì hành giả dứt cả thân hành (hơi thở ra vô không
còn) dứt cả ngũ hành (không còn tầm và tứ) và bỏ luôn tâm hành (tức
dứt trừ tâm sở thọ và tưởng).
Đức Phật nhờ tu Tứ vô lượng tâm,
Tứ vô ngại biện..., thành tựu đầy đủ tri kiến phương tiện Ba-la-mật,
cho nên, đức Phật mới thành tựu quyền trí, tùy căn cơ chúng sanh rộng
diễn nói pháp, dẫn dắt cho ra khỏi mọi chấp trước.
Đây là đức Phật Thích ca tự
tán thán trí tuệ của mình. Trí tuệ đó thậm thâm vi tế, càng đi sâu
vào càng không biết ngằn mé chỗ nào.
Đức Phật thành tựu được pháp
vị tằng hữu, vị tằng hữu tức nói về thật trí.
Đoạn kinh: "Như Lai dùng các thứ
phân biệt, khéo nói các pháp, ngôn từ nhu nhuyển, làm vui đẹp lòng
chúng", là tán thán quyền trí. Quyền trí tức trí thuyết pháp độ
sanh, dùng ngôn từ nhu nhuyến, làm đẹp lòng chúng sanh để dẫn dắt họ.
Trong lúc Phật đang tán thán thì nửa
chừng thì Ngài bỗng nói: "Thôi, Xá-lợi-phất, không nên nói nữa".
Vì sao? Vì pháp đệ nhất nan giải Phật thành tựu đó chỉ có Phật với
Phật mới cùng tận được thật tướng các pháp.
Mở đầu phẩm Phương tiện, có ba
lần Phật bảo với Tôn giả Xá-lợi-phất "Thôi" (Chỉ), đây là
lần thứ nhất. Lần thứ nhất Ngài bảo "thôi" không nói.
"Thôi" này có ý nghĩa rằng, thật tướng các pháp là thậm thâm,
quyền trí và thật trí của Phật là thậm thâm. Sự thậm thâm đó chỉ
có trí tự giác, tự ngộ thân chứng chứ không thể dùng ngôn ngữ để
trình bày, để nói ra được cho nên Phật nói "thôi".
"Thôi" cũng có ý bảo rằng
những lời Ngài sắp nói ra đây cần phải ly ngôn tự chứng chứ không thể
cứ vin theo những câu những lời của Phật mà có thể chứng ngộ được.
"Thôi" vì giáo nghĩa, vì thật tướng thậm thâm, trí tuệ thậm
thâm cho nên Phật nói ngang đó rồi ngài bảo "thôi". Vì sao? Vì
điều đó chỉ có Phật với Phật mới cứu cánh chứng ngộ được thật
tướng các pháp, chưa phải Phật, càng nói ra, chúng sanh càng chấp trước
theo ngôn từ y văn giải nghĩa..., thì không làm sao giải thoát được.
Các pháp thật tướng. Thế nào là
các pháp thật tướng? Đó là như thị tướng, như thị tánh, như thị thể,
như thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị quả,
như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh đẳng. Pháp thật tướng là
pháp ly ngôn, ly tứ cú tuyệt bách phi, nhưng mà thật tướng ly tứ cú tuyệt
bách phi cũng không phải ngoài hiện tượng các pháp này mà có. Cho nên có
thể bằng vào hiện tượng và dùng ngôn ngữ để diễn đạt thật tướng
đó qua các nghĩa tướng của nó, mà chỉ ngay trong các pháp hiện trước mắt
(hiện tướng) để chỉ thật tướng. Tất cả mỗi pháp tự nơi nó đều
có 10: Tướng như vậy, tánh như vậy...
Tướng: Là hình dáng hiện ra bên
ngoài, thấy, sờ mó được, nó hiển hiện. Pháp gì cũng có tướng như vậy.
Tánh: Pháp nào tự nó cũng có thật
tánh bên trong không biến chuyển, không thấy được.
Thể: Tánh và tướng hợp nhất thành
ra cá thể.
Lực: Tánh, tướng, thể thành ra một
pháp, thì pháp đó có năng lực.
Tác: Có năng lực thì có sự tạo
tác, tác dụng.
Nhơn: Chính pháp đó có thể làm nhơn
cho cái khác.
Duyên: Có thể làm duyên cho cái
khác.
Quả: Tự nhơn duyên của mình và
cái khác mà thành ra quả. Nhơn đưa đến quả.
Báo: Sự thù đáp lại nhơn và
duyên trước đó.
Bản mạt: là chỉ từ như thị tướng
đến như thị báo cứu cánh đẳng... Từ tướng đến báo, từ bản đến
mạt, đều rốt ráo bình đẳng như nhau, bình đẳng trên thật tướng, nên
gọi "Cứu cánh đẳng".
Đi sâu vào trong 10 như thị, thì
có hai như thị là quả và báo cần phải rõ thêm.
Sao có "quả"mà lại có
"báo"? Thường hay nói quả báo, như vậy là gồm cả hai chứ
không phải một. Vừa đẳng lưu vừa dị thục. Tất cả pháp, pháp nào từ
nhơn đến quả cũng có hai khía cạnh, một khía cạnh đẳng lưu, một khía
cạnh dị thục. Nhưng hai khía cạnh này không phân ly (bất phân ly).
Đẳng lưu nhân quả: Từ nhân đến
quả, quả lưu xuất một cách bình đẳng với nhân. Quả với nhân cùng một
tánh, cùng một loại: Như nhân xoài quả xoài, nhân mít quả mít, nhân
lành quả lành, nhân dữ quả dữ.
Dị thục nhân quả: Từ nhân đến
quả có sự biến đổi, quả khác với nhân, quả và nhân không cùng một
loại, không cùng một tánh, như nhân hạt mít thành cây mít, nhân lành hoặc
dữ mà thành quả Vô ký. Ví dụ: Hạt mít trồng lên cây mít, ở đây ta
thấy có hai khía cạnh.
1. Mít trồng lên mít, trước sau nhân
quả vẫn là mít, chứ không phải xoài ổi... Đó là đẳng lưu nhân quả.
2. Hạt mít trồng lên cây mít, thì
cây mít không giống hạt mít, cây là cây mà mít là mít, mặc dù cây từ
mít mà mọc lên. Đó là dị thục nhân quả.
Hoặc ví dụ, đất sét nắn thành
bình đất, thì đất là đất, mà bình đất cũng là đất, chứ không là
bình đồng, đó là đẳng lưu nhân quả. Nhưng bình đất không phải là đất,
bình đất dùng đựng, có thể vỡ, đất không vậy. Như vậy bình đất
(quả) khác với đất (nhân), đó gọi là dị thục nhân quả.
Hai loại nhân quả ở loài hữu
tình thì:
Nhân thiện thành quả thiện, nhân
ác thành quả ác, gọi là đẳng lưu nhân quả.
Nhân thiện ác thành quả vô ký gọi
là dị thục nhân quả.
Vì sao nhân quả lại mâu thuẫn
nhau như vậy?
Nên biết dị thục nhân quả này
không phải tách riêng đẳng lưu nhân quả mà có cái thể riêng, nhưng mà
nó có tánh cách riêng. Như nghĩ lành, nói lành, làm lành (thiện nghiệp
nhân) cái nhân thiện đó luôn luôn tạo ra kết quả nghĩ lành, nói lành,
làm lành (thiện nghiệp quả), đó là nhân quả đẳng lưu. Vậy càng làm
thiện chừng nào thì thiện tâm càng lớn, càng vững chắc. Đó là nhân
thiện, quả thiện thuộc đẳng lưu nhân quả. Nghĩ ác, nói ác, làm ác cũng
vậy.
Nhưng nhân thiện, nhân ác đồng thời
lại đưa đến kết quả thọ báo thân cõi trời, cõi người, địa ngục,
thọ quả báo khổ, vui... thì chính tự thân khổ vui hay thọ báo thân loài
trời, loài người lại không có tánh lành hay tánh dữ mà là vô ký.
Báo thân người, báo thân trời...
hay thọ khổ, thọ vui tự nó là vô ký, chứ không thể bảo thân người
thân trời là thiện hay ác, thọ khổ là ác, thọ vui là thiện, mặc dù
thân người, thân trời, khổ vui cũng từ nghiệp nhân thiện ác đưa đến.
Cho nên thọ khổ, thọ vui thuộc dị thục quả. Trong khi thọ khổ mà ác
tâm nghiệp của ngày trước vẫn còn lưu tục, ác tâm ác nghiệp đó tạo
thành ác tâm ác nghiệp ngày hôm nay, ác vẫn là ác (đẳng lưu). Thiện tâm
thiện nghiệp (nhân) của ngày trước đưa đến thiện tâm thiện nghiệp
(quả) ngày hôm nay. Thiện vẫn là thiện (đẳng lưu). Nhưng thiện và ác
phối hợp lại, hoặc là thiện nhiều ác ít hoặc ác nhiều thiện ít mà
thành ra quả báo thân cõi trời, cõi người... hay hình thành ra báo thân
con người thọ khổ hay thọ lạc, thì báo thân thọ khổ, thọ lạc đó
không phải là thiện, không phải là ác, khổ không phải là thiện, không
phải là ác; lạc không phải là thiện, không phải là ác. Thiện ra thiện,
ác ra ác là đẳng lưu quả. Còn khổ và vui, làm lành được vui, làm ác bị
khổ, khổ vui đó chính tự bản thân nó là vô ký. Mặc dù, cái khổ, cái
vui đó chính từ ác nghiệp, thiện nghiệp gây ra, cũng như đất nắn thành
bình, mà bình không giống đất, nên gọi là dị thục, nghĩa là biến đổi
đưa đến thành thục, quả không cùng một loại với nhân.
Đẳng lưu là sao? Trồng giống
xoài, giống xoài đó từ đầu nó diễn tiến lên, tiền niệm hậu niệm tương
sanh, trước xoài giữa cũng xoài và sau cũng xoài. Như vậy gọi là đẳng
lưu.
Dị thục là sao? Cây xoài, từ cái
hột, rồi lên cây, sanh ra trái, như vậy nó vẫn là xoài, nhưng phải trải
qua bao nhiêu giai đoạn khác nhau, cây xoài không giống xoài, như bình không
giống đất, như vậy gọi là dị thục, mà dị thục này thuộc về vô
ký...
Trong kinh dùng chữ quả và báo có
khác nhau ở chỗ đó. Quả chỉ đẳng lưu, báo chỉ dị thục. Không phải
hai nơi, hai thể mà chính từ một cái mà có hai khía cạnh khác nhau. Có những
con người trong khi thọ vui, họ sung sướng lắm (dị thục), nhưng chưa chắc
họ thiện (đẳng lưu). Sự sung sướng đó là kết quả thiện nghiệp
ngày trước, cái sướng đó, cái lạc báo đó thuộc về vô ký. Nhưng mà
giờ đây, chính trong họ đang mang nghiệp ác từ trước lưu lại, đó là
đẳng lưu, nghiệp đó thiện tánh, ác tánh, không gọi vô ký. Thành ra,
trong khi đẳng lưu thì vẫn là ác mà họ thọ sướng, cái sướng đó dị
thục vô ký.
Tóm lại: Thiện tánh sanh thiện
tánh là đẳng lưu. Thiện tánh cộng thiện nghiệp thành thiện báo, dị thục.
Về thập như thị, ngài Thiên Thai
còn diễn giải thành ra "nhất tâm tam quán" và "nhất niệm tam
thiên" như sau:
Tam quán là Giả quán, Không quán
và Trung đạo quán. Sở dĩ có Tam quán là bởi vì chính từ mỗi pháp,
pháp nào cũng có ba sự thật hay chân lý ba mặt gọi là "đế". Đế
là sự thật, là chân lý. Ba sự thật đó là:
1. Giả đế: Giả tức nhiên nó là
vô thường, là do hòa hợp mà thành, nó không thật. Mỗi pháp đều do nhân
duyên kết hợp, vô thường biến đổi, gọi là giả. Giả đó cũng là một
sự thật không chối cãi nên gọi là "đế".
2. Không đế: Bản tánh mọi vật vốn
là giả, không thật, mà không thật nên không có tự tánh độc lập ngoài
các duyên nên gọi nó là không, không đó cũng là một sự thật không chối
cãi được nên gọi là Không đế.
3. Trung đạo đế: Giả, Không
không phải nằm tách riêng biệt ngoài Giả có Không, ngoài Không có Giả
mà chính Giả là Không, Không là Giả. Đó cũng là một sự thật nên gọi
Trung đạo đế.
Chúng ta không nhìn thấy được
Trung đạo là vì chúng ta chỉ nhìn có một khía cạnh, hoặc khi thì nói
không, khi thì nói có, chứ không thấy được có trong không, không trong
có.
Vậy thì, mỗi pháp tự nó có ba
tánh cách thật: Giả cũng thật, Không cũng thật, Trung đạo cũng thật. Với
ba sự thật đó làm sao nhận biết được. Nếu đem tâm thông thường không
thể thấy được nên phải quán, và khi quán về mặt Giả thì gọi là Giả
quán, quán về mặt Không thì gọi là Không quán, quán về mặt Trung đạo
thì gọi là Trung đạo quán, mà ba quán đó cũng từ ở một tâm này mà
thành tựu được chứ không phải ngoài tâm mà có. Trong một tâm mà quán
được viên mãn ba thứ nên gọi là nhất tâm tam quán. Với "thập như"
này ngài Thiên Thai lại biến chuyển ra ba cách đọc mà thành ra ba quán:
Khi đọc: Như thị tướng, Như thị
tánh... (Tướng là như vậy,...) Đó là Giả quán. Đó là lối chỉ ngay hiện
tượng mà nói, hiện tượng giả tướng là như vậy, tánh là như vậy...
Tức là theo sự giả của sự vật mà chỉ bày ra, nhìn về mặt hiện tượng
gọi là Giả quán.
Khi đọc: Tướng thị như, Tánh thị
như,... đó là Không quán hay Chơn quán. vì dù là tướng, là Tánh..., nhưng
tướng vẫn nằm nơi Như, tướng không ly Như, tướng không nằm ngoài thật
tướng, ngoài như như, ngoài chân như, tánh vẫn là Như, tướng vẫn là Như.
Khi đọc: Tướng như thị, Tánh như
thị... Tướng như vậy, như vậy là như vậy, Như thị là pháp nhĩ như thị,
nó là nó, nó là như thế, như thế là như thế, đó là Trung đạo quán.
Không thiên Hữu, không thiên Vô, không thiên Giả, không thiên Không gọi
là Như thị.
Tóm lại, thập như thị này, mỗi
thứ đều có ba cách nhìn, cách đọc thành ba sự thật. Ba cách nhìn, cách
đọc đó thành ba cách quán mà ba quán vốn từ nhất tâm nên gọi là
"Nhất tâm tam quán", đó là lý chỉ yếu của Tông Thiên Thai.
"Nhất niệm tam thiên". Một
niệm ba ngàn là thế nào? Ba ngàn đây không phải là ba ngàn theo ý niệm
thời gian. Ba ngàn đây là: Hữu tình (chúng sanh) thế gian thì có chia ra 10
bậc, gồm Tứ Thánh và Lục phàm. Tứ thánh: Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát,
và Phật. Lục phàm: Địa ngục, ngạ quỶ, súc sanh, thiên, nhơn, a-tu-la.
Mười cấp bậc của loài hữu
tình như vậy gọi là thập pháp giới hay thập giới. Nhưng nói thập pháp
giới như vậy là phân biệt đại thể chứ mỗi giới như vậy cũng mang
đủ tánh cách của chín giới kia. Nói địa ngục không chỉ hẳn địa ngục
mà trong ấy có cả Phật, Bồ-tát... ngạ quỶ, súc sanh nữa. Vậy thì mỗi
giới có đủ tánh cách của chín giới kia, nên 10*10 là 100 giới, mà mỗi
giới, giới nào cũng đủ 10 như thị (100 * 10 = 1.000) tức là bách giới
thiên như. 1000 như, nhân với ba loại thế gian là: Hữu tình thế gian, ngũ
ấm thế gian, khí thế gian, thành ba ngàn như. Nhưng ba ngàn như này không
ngoài một niệm của chúng sanh, không ngoài một niệm có ba ngàn, thành thử,
chính ba ngàn là một niệm, một niệm là ba ngàn. Tức là tánh cách từ nơi
bản tánh một niệm mà đủ ba ngàn.
Cho nên, ngài Thiên Thai có dùng thuyết
"Tánh Khởi". Tánh khởi là từ nơi bản tánh một niệm mà có đủ
ba ngàn, rồi nó gặp duyên như thế nào nó khởi lên như thế ấy. Gặp
duyên địa ngục khởi lên địa ngục, gặp duyên thiên nhơn khởi lên
thiên nhơn...
Nhất niệm tam thiên này có thể
nói theo nghĩa của kinh Hoa Nghiêm là: "Vô biên sát hải tự tha bất
cách ư mao đoan".
Tóm lại, thập như thị trong kinh
Pháp Hoa là điều chủ yếu để nói về thật tướng các pháp nên ngài
Thiên Thai đã dùng thập như đó mà diễn ra bằng ba cách quán và thành tam
thiên. Đó là hai lý chỉ yếu của Tông Thiên Thai vậy.
| 1
| 2 | 3
| 4 | 5
| 6 | 7a
| 7b | 8a
| 8b | 8c
| 8d |