- Lịch Sử Ðức
Phật Tổ Cồ Ðàm
- Maha Thongkham Medhivongs
THIÊN THỨ NHỨT
CHUYỂN PHÁP LUÂN
-ooOoo-
Sáng ngày mười bốn tháng sáu Âm
lịch năm Dậu, đức Thế Tôn ngự đi khất thực về thọ thực xong. Ngài
mới ngự đi vườn Lộc Giã để thuyết pháp độ năm vị Kiều Trần
Như. Ngài phải ngự đi bộ mười tám do tuần. Chư Phật lúc quá khứ, khi
ngự đi thuyết pháp lần đầu tiên đều dùng thần thông bay đi, chỉ có
đức Thế Tôn của chúng ta hiện tại ngự đi bộ; vì Ngài trông thấy
duyên lành của một người ngoại đạo tên Upakàjivaka nên Ngài nghĩ rằng:
Nếu Như Lai dùng thần thông bay thì người ngoại đạo nầy sẽ không được
gặp Như Lai; để tìm hiểu giáo pháp của Như Lai, thì sau nầy sẽ không
có duyên lành để xuất gia đúng theo Chánh pháp; thôi ta cần gì phải bay
đi, đi bộ cũng được. Ta mà thực hành Ba la mật cũng vì thương hại chúng
sanh.
Khi ấy Ngài đang ngự đi với hào
quang sáu màu sáng tỏ. Người ngoại đạo tên Upakà trông thấy tướng mạo
và hào quang của đức Thế Tôn lấy làm lạ, phân vân không biết chư Thiên
hay Phạm Thiên hoặc chi chi, nên kính cẩn đến gần, lễ phép hỏi: "Nầy
thầy, lục căn của thầy thanh tịnh, trong người của thầy có hào quang
sáu màu chiếu sáng. Thầy tên chi? Xuất gia với ai? Ai là Thầy của thầy?"
- Nầy Upakàjivakha , tâm của Như
Lai không còn ham mê trong trần cảnh, dứt bỏ tất cả các ác pháp, không
còn ái dục và chấp ngũ uẩn. Ta là người cao cả hơn tất cả chúng sanh
trong Tam giới, tự ta đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không
có ai làm thầy Như Lai. Như Lai là đấng có mười hồng danh của Chư Thiên
và Phạm Thiên ca tụng. Nay Như Lai ngự đến vườn Lộc Giã Chuyển pháp
luân, đánh trống pháp cho chúng sanh thức tỉnh trong giấc mộng vô minh để
thấy rõ các pháp.
Khi Upakà nghe vậy mới nghĩ rằng:
Thầy Sa môn nầy nói giọng rất thanh tao, thân hình thật đẹp. Thầy mới
phát tâm trong sạch nói rằng: "Thật thầy là người có nhiều công đức
tự mình giác ngộ. Vậy thầy là người đáng được tên là ANANTAJINA (có
nghĩa là thắng hóa đến nơi cùng tột). Thầy là bậc cao cả hơn tất cả
chúng sanh.
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng
thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Nầy Upakàjivaka , những người
hết phiền não trong thế gian nầy là người thắng hóa trong mọi nơi. Không
còn một nhân vật nào bằng Như Lai. Vì vậy Như Lai cũng đáng có tên là
ANANTAJINA như ngươi đã tặng.
Thầy ngoại đạo ấy nghe thế liền
tán thưởng và nói: "Thật đúng như vậy, thật đúng như vậy". Rồi
bỏ đi.
Chiều ngày rằm tháng sáu Âm lịch
năm Dậu.
Năm thầy Kiều Trần Như tắm xong
ngồi đàm đạo với nhau. Khi ấy lại nhớ đến đức Thế Tôn mới nói với
nhau rằng: "Nầy các bạn, sau khi chúng ta bỏ đi, không biết thầy Sa
môn Cồ Ðàm ở nơi nào, giờ đây đang ngồi ở đâu và làm gì, không biết
Ngài có nghĩ nhớ đến chúng ta chăng?
Nói vừa dứt lời thì đức Thế Tôn
cũng vừa ngự đến với hào quang sáng ngời. Năm thầy trông thấy hào
quang sáng ngời rực rỡ lấy làm lạ và kinh sợ. Mỗi ông ngó một hướng
coi ánh sáng ấy từ đâu đến. Có một ông thấy trước nên mới gọi
các vị kia rằng: Các bạn ơi, thầy Sa môn Cồ Ðàm đi tìm ta. Ngài đã bỏ
sự hành đạo tinh tấn, đi khất thực ăn, khác thường nhiều lắm thì
làm sao đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác được? Chắc ông ở
một mình buồn nên tìm đến chúng ta, vậy chúng ta đừng tiếp rước
ông. Nếu ông ta thích nơi nào thì ngồi nơi ấy".
Tuy cả năm vị đồng ý với nhau.
Nhưng khi đức Thế Tôn ngự đến thì các ông không thể ngồi yên được
vì oai đức của đức Thế Tôn và các ông lăng xăng, ông thì tiếp bát,
ông thì múc nước rửa chân. Khi đức Thế Tôn an vị xong, năm thầy mới
hỏi: "Nầy thầy Cồ Ðàm, thầy mạnh giỏi chớ? Ði khất thực cũng
được đầy đủ chứ?".
Khi nghe các vị ấy gọi tên tộc của
Ngài như vậy, Ngài mới dạy rằng: "Nầy các thầy, các thầy không
nên gọi Như Lai như vậy, vì Như Lai đã đắc quả Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác rồi. Vậy các thầy hãy nghiêng tai thính pháp. Như Lai sẽ giải
sự vô sanh bất diệt là Niết bàn, các thầy hành theo lời của Như Lai thì
sẽ được hưởng hương vị của quả vô sanh bất diệt là Ðại Niết
Bàn".
Mặc dầu đức Thế Tôn dạy như
thế; các thầy cũng vẫn gọi tộc của Ngài. Ðức Thế Tôn mới dạy rằng:
Nầy các thầy, các thầy hãy nhớ
lại coi, từ trước tới nay, Như Lai từng nói với các thầy như thế nầy
bao giờ chưa? Vậy các thầy hãy lắng tai nghe thính pháp.
Khi ấy các thầy không dám gọi
ngay tộc của Ngài nữa. Nên Ngài mới bắt đầu thuyết bài pháp đầu tiên
là Chuyển Pháp Luân.
Nơi đây tôi xin nhắc sơ lược bài
kinh Chuyển Pháp Luân. Quí vị muốn xem rõ xin xem trong quyển kinh tụng của
Ðại Ðức Hộ Tông dịch nguyên văn.
Trong bài chuyển pháp luân tóm lại
đức Phật dạy: Không nên hành theo hai điều thái hóa. Nên hành theo Trung
Ðạo. Sau ấy là pháp Tứ Diệu Ðế. Nhân tiện đây, tôi xin cống hiến
quí vị pháp Tứ Diệu Ðế theo chú giải và Phật ngôn hầu quí vị tiện
bề nghiên cứu. Tôi có ý định giải pháp nầy từ lâu nhưng chưa có dịp.
Ðức Thế Tôn được gọi là bực
Chánh đẳng Chánh giác là nhờ nơi Ngài giác ngộ được Tứ Diệu Ðế.
Và Tứ Diệu Ðế là pháp mà ngoài ra đức Ðại Giác ngộ không ai hiểu
thấu.
ARIYA SACCA là Phạn ngữ ta dịch là
Tứ Diệu Ðế. Trước hết ta nên hiểu qua tiếng nói ARIYA SACCA. ARIYA có
nghĩa là Cao quí hay Thánh. SACCA có nghĩa là Thật.
ARIYASACCA có nghĩa là Thật Cao quí.
Hay Sự cao quí của bậc Thánh nhơn, vì phàm nhơn mà thông hiểu và thấu
đáo các pháp ấy tức nhiên không còn luân hồi nữa. Trở thành Thánh.
Tiếng nói ARIYASACCA , Sự Thật Cao
Quí ấy có hai ý nghĩa là:
1. ARIYASACCA. Thật cao quí mầu nhiệm. Ý nói sự
thật của bốn pháp ấy thật là cao sâu mầu nhiệm người còn phiền não
không bao giờ nhận định được.
2. ARIYASACCA. Thật cao quí mầu nhiệm. Ý nói khi
người thông đạt được ý nghĩa cao sâu mầu nhiệm của bốn pháp ấy
thì người ấy trở nên bậc vĩ nhân cao quí tuyệt đối trong cõi sa bà nầy.
Xin giải thêm ý của câu thứ nhất.
Tứ Diệu Ðế là sự thật cao quí ý nói pháp ấy có đầy đủ nguyên
nhân cao quí mầu nhiệm ví như kim cương có sự quí riêng của nó là phẩm
chất đẹp quí có giá trị thật cao ai ai cũng ưa chuộng. Nó không phải
là vật mà có ngày kia phải thay đổi màu sắc hay phẩm của nó. Thời
gian và không gian không bao giờ làm giảm giá của nó. Không phải như những
vật khác vì thời gian mà làm giảm mất giá của nó vì cũ.
Câu thứ nhì: Câu nầy có một ít
làm cho ta phân vân hoài nghi vì nó làm cho người trở nên cao quí. Vì vậy
tôi (soạn giả) xin đặt ra câu hỏi và trả lời để làm rõ lý ra cho
quí vị dễ hiểu hơn.
Vấn: Tại sao Tứ Diệu Ðế làm
cho người trở nên cao quí?
Ðáp: Ý câu nầy nói rằng: Khi nào
người hiểu và thật hành triệt để theo pháp Tứ Diệu Ðế, tâm của người
ấy sẽ thay đổi từ chỗ còn ham mê thích thú trong Tam giới trở nên người
không còn mến tiếc ham muốn gì trong Tam giới mặc dầu là Ngũ uẩn nầy.
Vấn: Ta chỉ biết rằng: Ðây Khổ,
Tập, Diệt, Ðạo như thế ta cũng trở thành cao quí sao?
Ðáp: Người hiểu đây Khổ Tập
Diệt Ðạo như ông nói nhưng không thật hành theo thì không có ích chi hết.
Cũng như con két biết nói tiếng người nhưng chính nó không biết rõ nghĩa,
nếu có biết chăng chỉ biết sơ như vậy thôi. Vì vậy không làm cho người
ấy trở nên cao quí.
Sở dĩ nói rằng: Làm cho người
cao quí là vì khi người ấy học hiểu xong pháp Tứ Diệu Ðế rồi lại
sáng triệt để thật hành theo bước đầu tiên là làm cho người tuần tự
dứt bỏ phiền não cho đến khi hoàn toàn trong sạch phiền não không còn
khổ, Trí tuệ thấy thật sự khổ, nhân sanh khổ, diệt được khổ, và
pháp hành diệt khổ, hay là con đường đi đến nơi không còn khổ nữa.
Người hiểu thấu rõ rệt như thế
nghĩa là người thấy bằng Tuệ nhãn hay cũng gọi là Pháp nhãn. Người
ấy trở nên người cao thượng vì người ấy không còn làm tội lỗi và
còn trở lại luân hồi nữa.
Sự hiểu Tứ Diệu Ðế có định
nghĩa rõ rệt, người hiểu và thực hành đúng theo mới đắc được và mới
gọi là cao quí.
Hiểu như chúng ta không khác nào
cái hiểu của trẻ còn bé chỉ biết vâng lời chớ không hiểu giá trị của
vàng và không biết dùng vàng để làm gì cho có ích.
Dưới đây là định luật của
người mà gọi là hiểu rõ Tứ Diệu Ðế.
Khổ, Tập, Diệt, Ðạo mỗi điều
chia làm ba giai đoạn khác nhau mà người cần phải hiểu ba giai đoạn nầy
gọi là Ba Luân. Ba Luân nhân cho bốn điều Khổ, Tập, Diệt, Ðạo ra mười
hai điều gọi là mười hai Thể. Ðây là định luật mà người hiểu Diệu
Ðế thật sự đều hiểu rõ rệt.
Người hiểu Khổ có Ba Luân là:
1. Sự khổ có thật.
2. Nên biết rõ khổ.
3. Khổ mà người ấy đã thấy rõ rồi.
Người hiểu Tập có Ba Luân như vầy.
1/ Ái dục là nhân làm cho sanh khổ thật.
2/ Nên hiểu rõ mặt của ái dục.
3/ Ái dục là người đã thấy rõ rồi,
Người hiểu Diệt có Ba Luân là:
1) Diệt có thật.
2) Nên hiểu rõ Diệt.
3) Diệt mà người đã hiểu rõ rồi.
Người hiểu rõ Ðạo có Ba Luân
là:
1/ Ðạo có thật.
2/ Nên hiểu rõ Ðạo.
3/ Ðạo mà người để hiểu rõ, đầy đủ rồi.
Ðiều nên chú ý là:
Sự hiểu rõ pháp Tứ Diệu Ðế
có khác hơn sự hiểu thường. Vì cái hiểu của pháp Tứ Diệu Ðế còn cần
phải hành theo chín chắn là diệt trừ phiền não, và biết rõ rằng: Trong
tâm không còn tí phiền não nào cả.
Ví như người bịnh biết chính
mình đang thọ bịnh và biết:
1) Ðây là thuốc.
2) Ðây là thuốc chữa bịnh của ta đang bịnh.
3) Ðã uống thuốc ấy và nhờ thuốc ấy mà bịnh tình cũng đang thuyên giảm
từ từ, và chắc rằng: Sẽ đến nơi lành mạnh.
Người bịnh nầy ví như chúng sanh
đầy phiền não đang bị đau khổ trong biển luân hồi, người nầy lại học
được pháp Tứ Ðế, hành theo pháp ấy, và cũng nhờ vậy mà từ từ diệt
được phiền não như người uống thuốc bịnh thuyên giảm lần lần, rồi
mạnh hẳn, nghĩa là giải thoát hẳn.
KHỔ
Trong pháp Tứ Diệu Ðế pháp mà đức
Ðại Giác đặt trước nhất là Khổ. Khi vừa nghe qua tiếng Khổ thì
không ai lấy làm lạ. Vì ai ai cũng đều có nếm qua mùi vị của khổ
không ít thì nhiều. Người sanh ra trong đời không ai không khổ mặc dầu
là vị Trưởng giả hay nhà vua. Nếu ta hỏi lại ai ai cũng biết đời là
khổ thậm chí có người bảo: Khi đứa bé sơ sanh khóc ra tiếng là Khổ
a, Khổ a. Nhưng người ấy hiểu như thế nào có đắc được đạo quả gì.
Vì người ấy chỉ hiểu cái vỏ bên ngoài của khổ, hay biết khổ mà
không thật hành để diệt trừ khổ. Người hiểu khổ như thế khác hơn
cái hiểu bằng trí tuệ của đức Giác Ngộ một trời một vực cái hiểu
của con người là hiểu bằng thức tánh. Còn cái hiểu của các bực
Thánh nhơn bằng tuệ. Chúng sanh biết khổ nhưng chưa biết phương pháp
tránh khổ hay diệt khổ. Trái lại càng làm nhiều khổ. Cũng như người cầm
ngọn đuốc chạy ngược gió bị lửa táp vào mặt nóng la khóc than van nhưng
lại không bỏ ngọn đuốc ấy vì sợ mất ánh sáng tai hại ấy. Ánh sáng
của ngọn đuốc ấy tôi xin ví như Tài, Sắc, Lợi, Danh, hay là thất tình
lục dục.
Còn các bực Thánh nhơn nhứt là đấng
Giác Ngộ biết Khổ, biết nguyên nhân sanh Khổ, và biết nguyên nhân diệt
Khổ.
Ví như hai nhân vật người bịnh và
vị bác sĩ. Người bịnh chỉ biết rằng: Ta đang bị bệnh hành hạ nhứt
khổ; nhưng không biết làm sao hết bệnh. Còn vị bác sĩ biết nguyên nhân
phát sanh bệnh. Biết cách ngăn ngừa bịnh ấy và hơn nữa có thuốc và biết
cách trị dứt bịnh ấy nữa. Vì hai sự hiểu biết khác nhau như thế ấy
nên vị bác sĩ và người bịnh khác nhau. Người bịnh khi lâm bịnh chỉ
còn chờ chết và chưa chết phải chịu khổ ví chứng bịnh ấy. Ðây
chính là chúng sanh tuy biết khổ nhưng không có phương pháp nào làm sao để
giải thoát khỏi khổ.
Ðoạn trên nhắc cho quí vị thấy
rằng: Sự hiểu biết của chúng sanh và của Thánh nhơn khác nhau chỗ biết
bằng trí tuệ, và biết bằng sự nhận thức của thức tánh. Vì chúng
sanh biết khổ bằng thức tánh nên không giải thoát được, Các bực
Thánh nhơn hiểu biết bằng tuệ giác nên có phương pháp giải thoát được.
Nhưng ví dụ tôi đem lại đoạn trên để quí ngài hiểu rõ thêm sự hiểu
biết khổ hay hiểu khổ có khác hơn sự Giác Ngộ khổ.
Bài pháp đầu tiên của đức Ðại
Giác là bài DHAMMACAKKAPPA VATTANASUTTA nghĩa là CHUYỂN PHÁP LUÂN. Trong ấy đại
khái như đã nói trên. Nơi đây tôi xin giải pháp Tứ Diệu Ðế.
Trong Tứ Diệu Ðế pháp thứ nhất
gọi là KHỔ. Trong cái khổ này có thể chia ra làm hai phần là:
1) SABHÀVADUKKHA. Khổ có từ khi có
ta và cái khổ nầy là khổ theo dính bên ta không bao giờ xa ta. Mà hiện
nay các bực trí thức hay chánh phủ đang diệt khổ ấy, nhưng chắc chắn
là không được. Khổ ấy trong bài Chuyển pháp luân đức Thế Tôn có dạy
rằng: Idam kho pana bhikkhave dukkham ariyasaccam. Nầy các thầy Tỳ khưu, đây
là khổ thật sự là:
1/ JATIPI DUKKHÀ. Sanh khổ.
2/ JARÀPI DUKKHÀ. Lão khổ.
3/ MARANAMPI DUKKHAM. Tử khổ.
2) Ðiều thứ nhì gọi là
PAKINNAKADUKKHA. Khổ phụ thuộc hay có thể gọi là Khổ đến sau. Là:
1/ SOKA. Buồn rầu, thất vọng.
2/ PARIDEVA. Than van.
3/ DUKKHA. Khổ khổ.
4/ DOMANASSA. Uất ức, phiền phức.
5/ UPÀYÀSÀPI DUKKHÀ. Tâm nóng nảy xốn xang.
6/ AYAMPI SAMPAYOGO DUKKHO. Gặp những sự việc mà mình không ưa thích là khổ.
7/ PIYEHE VIPPAYOGO DUKKHO. Bị xa lìa những nhân vật thương yêu mến tiếc.
8/ YAMPICCHAM NA LAPATI TAMPI DUKKHAM. Sự yêu mến mà không được gần là khổ.
Khổ tóm lại có một là:
SANKHITENA PANCUPÀDÀNAK-KHANDHÀ DUKKHÀ
Nói tóm lại sự chấp lấy Ngũ uẩn nầy là khổ.
Theo bài kinh Chuyển Pháp Luân cho ta
thấy rằng: Ðức Thế Tôn chia khổ ra làm hai phần là khổ thật sự và
khổ mới đến sau nầy. Sau khi dạy xong hai khổ ấy, Ngài lại còn tóm lại
một lần nữa cho chúng ta thấy rõ phiền não làm cho khổ nên Ngài dạy rằng:
Chung qui là vì người còn chấp lấy Ngũ uẩn nên khổ.
Nếu tôi giải tỉ mỉ của khổ
tôi tin rằng chỉ chiếm lấy giấy và làm cho quí vị chán coi thôi, vì vậy
tôi nên nói tóm lại là khổ là nền tảng của đời sống là cái khổ thật
sự. Còn những cái khổ tới sau là những cái khổ khi mà người đã có
thân nầy rồi.
Khổ đến sau có chỗ Phật gọi
là Agantukadukkha Khổ khách quan. Khổ này quí vị đã hiểu nhiều xin miễn
giải.
Khổ thật sự nghĩa là khổ ấy
theo dính liền với ta bắt đầu từ khi ta thọ sanh vào lòng mẹ. Theo lời
dạy trong bài kinh Chuyển Pháp Luân thì khổ này có ba là:
1. JÀTI DUKKA. Sanh khổ.
2. JARÀ DUKKHA. Già khổ.
3. MARANA DUKKHA. Tử khổ.
Theo chúng ta thường nghe và biết rằng:
Sanh, Lão, Bịnh, Tử là bốn cái khổ thật sự. Nhưng trong Phạn ngữ không
kể khổ đau vì khổ đau là khổ đến khi sanh, hay khi trong lòng mẹ, nhưng
khi đau phải do một lý do nào chớ không phải như già và chết, vì già từng
giờ từng phút của thời gian qua. Còn đau lâu lâu mới đến một lần chứ
không phải từng giờ từng phút như già. Sau nầy chú giải mới nói thêm
đau vào và vì quen miệng nên nói già đau chết. Chớ thật sự trong bài
Chuyển Pháp Luân thì không nói đến đau là khổ thật sự.
Giải ba cái khổ thật sự:
JÀTI : SANH
Sanh đây ý nói bắt đầu sanh vào
lòng mẹ. Xin nhắc lại quí vị là khổ Sanh đây chỉ là người sanh vào
lòng mẹ chớ không nói cái khổ của bà mẹ sanh.
Sanh khổ ấy chia là ba thời kỳ
là:
1) Khổ khi còn trong bụng mẹ.
2) Khổ khi sanh ra.
3) Khổ do nơi Sanh, nghĩa là khi sanh có thân nầy là có già đau chết và những
cái khổ đến sau nữa.
Vạn vật trong vũ trụ nầy kể cả
thân hình ta đều do nơi sự phối hợp của tứ đại. Nhưng những đồ vật
dùng lâu người ta gọi là cũ. Nhưng thân hình ta không gọi là cũ mà gọi
là già mặc dầu là hai tiếng phát âm khác nhau nhưng cùng một ý nghĩa là
tới chỗ hư hoại.
Vạn vật trong vũ trụ có khác nhau
về hình thức màu sắc v.v... nhưng cùng một thể là già, cũ rồi tiêu hoại.
Nên trong chú giải có câu hỏi:
Thân hình ta đây bắt đầu già từ bao giờ?
Ðáp: Theo lời Phật dạy và người
đời hiểu cái già có hai lối khác nhau là:
1) Người đời thường hiểu cái già là khi bắt
đầu vào 60, 70 hay 80 tuổi mới gọi là già. Vì người đời khi ấy mới
thấy rõ sự thay đổi của hình dáng bên ngoài.
2) Về phương diện đạo đức thì trái lại là
thân nầy thay đổi từng sát na, nghĩa là một sát na qua thì thân nầy đã
già rồi và vạn vật trong đời và người đều thay đổi mà chính bản
thân của người cũng không biết sự thay đổi ấy, nên chi không biết
mình đã già. Chỉ có khác là cái già không thực hiện và cái già thực
hiện rõ rệt thôi.
Ðức Thế Tôn có dạy già ấy có
thể chia làm ba phần là:
1) APPATICCHANNAJARÀ. Già không hiện rõ. Nghĩa là
người đời trông thấy đứa bé càng ngày càng lớn thân hình tráng kiện
đó là do nơi sự thay đổi mọi vật trong châu thân chính là già nhưng đời
thường cho đó là sự lớn của con người, nhưng người có biết đâu khi
qua mỗi sát na là người đã già vì cái già nầy không hiện ra rõ rệt để
người ngó thấy, nên ai ai cũng ưa thích và hãnh diện trong buổi nầy. Và
đây cũng là một lý do chỉ cho ta thấy rằng người chưa thấy được pháp
Tứ Diệu Ðế.
Nếu quí vị để ý và muốn biết thì hỏi các
nhà nghiên cứu về vi trùng học thì quí ngài ấy sẽ cho quí vị biết rằng
những vi trùng và những hạt máu trong châu thân ta đều thay đổi từ sát
na m?t. Còn đức Phật thì dạy các tế bào của ta thay đổi và chết đi rồi
những cái khác thay vào.
2) PARIJINA. Già làm cho thân nầy có phần thay đổi
người có thể nhận thấy được. Ý nói khi được bốn hay năm hoặc sáu
mươi tuổi người thấy có thay đổi một vài bộ phận rõ rệt làm cho ta
thấy cái thay đổi ấy, chừng đó mới chịu gọi là già. Có lắm người
còn muốn giấu cái già bằng cách nhuộm tóc lại v.v..
3) PARIPAKKA. Già khú ý nói già đến đổi không
làm gì được. Chính bản thân mình cũng không kiểm soát được mình, như
tay run, chân không nhấc nổi để đi v.v..
Người đời khi thấy người già
khú ấy mới nhận thức là già khổ. Vì người già tới độ ấy chỉ còn
đợi tử thần đến đem đi thôi chớ không làm gì được nữa.
Hiện giờ nếu nói đến già thật
là khó hiểu nổi, chỉ còn có hỏi các cụ thì mới biết cái già khổ như
thế nào. Riêng tôi mới năm mươi tuổi, chỉ thấy tóc bạc, ngoài ra chưa
thấy gì hơn, vì mắt cận thị từ lâu. Nhưng tôi thấy ngày kia không xa
tôi không còn dùng thân tứ đại nầy vào đâu được, nên chi hiện thời
tôi cố tiện tặn từng giờ phút một để làm việc lợi ích cho mình
ngày vị lai.
Già còn có thể chia ra làm hai phần
là:
1) Già làm giảm sức mạnh của cơ thể. Ý nói
chúng ta ai cũng có phận sự rất nặng trên vai, mà càng lớn phận sự ấy
càng chồng chất nặng thêm lên mãi mãi. Như khi ta còn nhỏ học lớp nhỏ
không khó lắm, càng lớn càng học cao thì cái khó chồng thêm mãi. Ðến
khi lớn lên phải sanh sống không thể nhờ nơi cha mẹ, gia đình mãi được,
thì phận sự càng nặng. Ta có những cái khổ nhứt mà không thể tránh khỏi
là già, đau, chết, khi có vợ, vợ ta cũng có cái già đau chết như ta, đã
một thân mà còn nặng trĩu phương chi lại thêm một thân nữa như ta, mà
có lẽ còn nặng hơn nữa là nếu gặp bà vợ đòi thêm son, phấn, quần
áo đẹp, hay hột xoàn, vàng vòng v.v.. Thì quí vị nghĩ nó nặng tới đ? nào.
Khi có thêm một đứa con thì cái lo thêm nữa, đến hai, ba, bốn đứa thì
cái nặng càng gấp bội. Nhưng khổ nỗi khi gánh càng nặng tuổi thọ lại
càng nhiều nghĩa là đã già và cộng thêm vào bịnh hoạn thường đến với
tuổi già. Già giảm sức nơi đây ta có thể ví dụ như một chiếc xe
hơi. Khi còn mới ít hư và đẹp, chạy mạnh mau. Nhưng khi dùng nhiều ngày
chở quá nặng chạy đi xa, thì nó lại mau hư, khi đã cũ rồi lại càng hư
liền liền, như thân nầy khi càng già càng bịnh thường hơn.
2) Già đem sự bệnh hoạn lại. Ý nói rằng: Khi
cái già đã đến thì không bao giờ có hạnh phúc, cái mà nó đưa đến là
sự bệnh hoạn, như mắt lờ, tai điếc, răng rụng, tóc bạc, tay chân run
rẩy v.v..
Nếu có ai hỏi: Cái gì đem bịnh
hoạn đến cho ta? Tôi tin rằng: Quí ngài sẽ không ngần ngại đáp rằng:
Già đem bệnh hoạn đến cho ta.
MARANA (CHẾT)
Chết là gì?
Chết là sự bỏ xác thân nầy lại,
và không đem những gì theo mặc dù là vật thương yêu nhất đời. Sau khi
tâm thức xa rời khỏi thân nầy thì thân nầy từ từ thay đổi như sình
lên và hôi thúi, đến cùng là tan rã ra còn lại một đống xương trắng.
Người đã chết thì không còn
hành động gì được, và không dùng vào đâu được với cái xác thân
hôi thúi ấy. Ðời người không khác nào cây đèn có đủ dầu, tim, khi có
lửa châm vào bắt cháy đến khi hết dầu thì lại tắt. Tuổi thọ con người
ví như dầu trong đèn, ngày nào đó dầu phải cạn và tắt. Người sống
đây thọ yểu không khác nào đèn có dầu nhiều ít vậy thôi, chớ nó có
một điểm giống nhau là tắt. Khi người hết tuổi thọ không thể sống
thêm được dầu một phút, cũng như đèn hết dầu không thể cháy thêm
được một giây nào. Khi ngọn đèn tắt ta không tìm thấy ngọn lửa đã
mất cũng như ta không thể tìm được cái sống của người đã chết. Sự
khổ của chết không thể dùng lời mà tả cho được vì mọi người chúng
ta đều còn sống, phải chăng chỉ có người sắp chết và đã chết mới
nhận thấy cái khổ ấy.
Khổ chết ta có thể kết luận vắn
tắt là: Làm mất cả sự an lạc của đời người. Sự an lạc ấy là
nhà cửa, của cải, thân quyến. Nhứt là mất cái xác thân nầy.
Phận sự của Khổ Ðế.
Khổ diệu đế thứ nhất nầy đức
Thế Tôn dạy phải biết rõ khổ một cách vi tế ví như vị bác sĩ hiểu
rõ căn bịnh, nguyên nhân sanh bịnh và phương pháp trị tuyệt bịnh.
Phật ngôn:
DUKKHAM ARIYASACCAM PARIANNYYA. Nghĩa là
khổ diệu đế người nên nhận thức rõ ràng.
DIỆU ÐẾ THỨ NHÌ
Diệu đế thứ nhứt đức Phật dạy
về khổ mà Ngài đã giác ngộ xin ví như đức Thế Tôn dạy: "hổ rất
hung dữ hằng ăn thịt người", Ngài sợ chúng sanh không biết hình
dáng hổ ra sao nên Ngài mới bắt về và nhốt trong chuồng cho chúng sanh
xem cho biết hình dáng sức mạnh và tiếng gầm của nó. Ý nói rằng: Ngài
dạy rất rõ về khổ để chúng sanh dễ nhận thức và kinh sợ khổ thật
chớ không phải sợ sơ sơ như chúng ta hằng ngày.
Diệu đế thứ nhì là Phương pháp
diệt khổ, hay nói cho đúng là phương pháp chống lại hay giết hổ dữ.
Vì vậy xin quí vị cố suy nghĩ bằng trí tuệ cho kỹ để hiểu rõ những
gì mà Ngài đã dạy. Ngài dạy rằng Diệu đế là Tập đế nầy Ngài đã
cố tâm tìm kiếm hằng hai mươi A-tăng-kỳ và trăm ngàn kiếp mới gặp dưới
cội Bồ đề sau sáu năm khổ hạnh.
Diệu đế nầy là Tập Diệu Ðế.
Tập khổ Diệu đế nghĩa là
nguyên nhân phát sanh ra khổ. Ý nói nó là nguyên nhân làm cho chúng sanh phải
bị trầm luân trong biển khổ phải bị khổ đủ mọi phương diện.
Tóm sơ lược lời Phật trong bài
Chuyển Pháp Luân: IDAM KHO PANA BHIKKHAVE DUKKHA-SAMUDAYO ARIYASACCAM YÀ YAMTANHÀ
PONOBBHAVIKÀ v.v.. Nghĩa là: Nầy các thầy Tỳ khưu, đây là nhân sanh khổ
thật sự là ái dục. Ái dục là nhân làm cho chúng sanh phải sanh vào cảnh
giới mới, khi ấy lại phải lẫn lộn với sự ham muốn trong các đề mục
(Sự việc bên ngoài) là:
1) Sự ưa muốn sanh trong cõi Dục.
2) Sự ưa thích sanh vào cõi Sắc.
3) Sự ưa thích sanh vào cõi Vô sắc.
Theo lời Phật dạy trên cho chúng
ta thấy rõ có ba giai đoạn là:
1) Nguyên nhân sanh khổ là do nơi Ái dục.
2) Giải rõ cho thấy Ái dục là sự ưa thích sanh vào ba cõi là Dục giới,
Sắc giới và Vô Sắc giới.
3) Phân giải tỉ mỉ về Ái dục.
Tôi (Soạn giả) xin gom lại giải
ba điều là:
1) Nguyên nhân sanh Khổ.
2) Sự hành động của Ái dục.
3) Và Ái dục.
Nguyên nhân sanh KHỔ.
Nói về khổ thì các vị giáo chủ
khi xưa hay đồng thời với đức Phật giải thích một cách mù mờ. Nhưng
có thể tóm lại là, các vị ấy dạy rằng: Phước tội do nơi một đấng
thiêng liêng ban cho và trừng phạt. Vậy người muốn các ngài không trừng
phạt và ban cho hạnh phúc thì phải thừa hành theo lề lối của vị
thiêng liêng tối cao ấy. Chung qui đều thuộc về Thần giáo nghĩa là dạy
trong những sự tin tưởng Thần linh hộ trì giúp đỡ.
Sở dĩ mà đức Thế Tôn được
người thời ấy bỏ đạo của họ theo Ngài là vì đức Thế Tôn giác ngộ
được Chánh pháp là Nhân sanh Khổ và Ngài giải rõ Nhân sanh khổ, và
Nhân diệt khổ. Không có một đấng thiêng liêng nào cho phước và hành tội
chúng sanh, mà chính tự chúng sanh làm cho mình khổ. Hiện nay là thời kỳ
nguyên tử rất có nhiều vật mà từ xưa chưa hề khám phá ra được mà
các nhà Bác học khám phá ra được, nhưng những lời Phật dạy vẫn còn
là phương pháp duy nhứt bất dịch mà trái lại các nhà Bác học vẫn
hành theo.
Nhân sanh khổ mà đức Thế Tôn dạy
là pháp mới không đề cử và ngoài vị Chánh đẳng Chánh giác không ai hiểu
thấu nổi. Nên khi Ngài thuyết Tứ Diệu Ðế gọi là Chuyển pháp luân,
tôi xin nói là khi Ngài thuyết xong thời pháp ấy chính Ngài thay đổi tất
cả vạn vật, nghĩa là Ngài lật rõ bộ mặt thật của vạn vật mà Ma vương
cố che đậy từ vô lượng kiếp tới ngày ấy. Nên bài kinh ấy gọi là
xoay bánh xe pháp (Chuyển Pháp Luân). Thuyết nhân sanh khổ là Ái dục là
thuyết không ai cãi được làm cho người thời xưa chí thời nay ai ai cũng
phải nhìn nhận và vâng giữ hành theo. Và cũng nhờ ấy mà Phật giáo truyền
bá rất sâu rộng và rất nhanh.
Tứ Diệu Ðế là bốn pháp thật
là quí báu, mầu nhiệm và chân chánh, là pháp chứng minh rằng: Phật giáo
không phải là một tà thuyết, không phải là Nhứt thần giáo hay Ða thần
giáo mà là một đạo giải thoát thật sự là nhờ biết rõ khổ, nhân
sanh khổ, và phương pháp diệt khổ và Niết bàn là nơi không còn khổ.
Nguyên nhân sanh khổ có rất nhiều
nhưng đức Thế Tôn không dạy những cái khổ đến sau, hay những cái khổ
không đầy đủ lý do để chứng minh rõ rệt, như nói khổ ấy do nơi một
đấng thiêng liêng hành phạt. Trái lại Ngài dạy rằng: Khổ nào sanh lên
cũng đều do nơi ta.
Ðây tôi xin đem lại một ví dụ
nhỏ để quí vị dễ chứng minh.
Anh A gây với vợ vì đi chơi bỏ
phế việc gia đình. Anh B bị mất sở vì làm việc không chu đáo.
Anh C bị tù vì tội trộm cắp.
Trong ba anh nầy bị khổ khác nhau nhưng chung qui cũng vì Ái dục mà ra. Nếu
những người ấy không làm quấy thì đâu bị tai nạn như trên.
Người đời khổ vì sự thương,
muốn mà ra cả; vì vậy đức Giác Ngộ dạy khổ sanh ra vì Ái dục.
Sự hành động của Ái dục
Ái dục ngụ ý chỉ sự thương yêu,
mong muốn, ấy là nền tảng của tâm người thế tục, ngoại trừ các bực
Thánh nhơn.
Vì Ái dục là sự thương yêu mến
tiếc, nên trong chú giải có để câu hỏi rằng: Ai cũng có ái dục xấu
xa hết chăng? Ðức Phật muốn thuyết pháp độ đời vì thương chúng
sanh. Vậy đức Phật cũng còn ái dục chăng?
Khi quí vị bị hỏi như thế nầy,
nên nhớ đến một đoạn trong bài kinh Chuyển Pháp Luân đức Phật có dạy.
Ái dục có ba trạng thái cho ta thấy nó là phiền não để trả lời câu hỏi
ấy.
Ba trạng thái của Ái dục là:
1) PONOBBHAVIKÀ. Nghĩa là tạo ra cảnh giới mới
cho kiếp lai sinh cho mình.
2) NANDIRÀGASAHAGATÀ. Lẫn lộn với tham ái.
3) TATRATHÀBHINANDINÌ. Vui thích trong các đề mục của tham ái. Ba điều trên
là trạng thái của Ái dục.
Ðức Thế Tôn thuyết pháp độ đời
vì lòng từ bi dạy chúng sanh bỏ ba trạng thái nói trên của ái dục để
đi tới nơi yên lặng và hoàn toàn giải thoát. Nên chi sự hành động của
Ngài không gọi là ái dục mà gọi là giải thoát.
Pháp của Ngài không khác nào chiếc
thuyền có đầy đủ tiện nghi ở giữa bể trầm luân. Chúng sanh là người
đang bị trầm luân trong bể khổ. Khi trông thấy chiếc thuyền như người
được nghe được gặp Pháp bảo; khi biết rằng chiếc thuyền ấy có đủ
tiện nghi và dành để cho ai người muốn vượt qua khỏi bể trầm luân
thì cứ lên rồi lái vào bờ là nơi giải thoát.
Theo thí dụ trên thì sự muốn cho
chúng sanh khỏi luân hồi không gọi là lòng ái dục được.
Ba điều Ái dục là:
1) KÀMATANHÀ. Ái dục trong cõi Dục.
2) BHAVATANHÀ. Ái dục trong cõi Sắc.
3) VIBHAVATANHÀ. Ái dục trong cõi Vô Sắc.
Ái dục trong cõi Dục nghĩa là người
còn ưa thích ham muốn sanh vào cõi dục là cõi còn có ngũ trần là Sắc,
thinh, hương, vị, xúc. Và tài, tình, danh lợi.
Ái dục trong cõi Sắc ý nói người
còn muốn sanh vào cõi có Sắc thân nầy nhưng không ham mê ngũ trần, không
có tài, tình, danh lợi.
Ái dục cõi Vô Sắc ý nói hạng nầy
không còn có Sắc nhưng thọ, tưởng hành, thức vẫn còn, và không ham mê
gì cõi Dục hay Sắc. Nhưng lại còn ham muốn có cái Vô Sắc ấy, đây thật
là phiền não rất là vi tế. Nếu không phải là vị Ðại Giác thì không
bao giờ tầm cho ra nguyên nhân để giải thoát khỏi luân hồi được.
Chung qui là khi còn ham muốn hay ưa
thích một điều gì là còn phiền não, còn luân hồi.
Phận sự của Tập Diệu Ðế là:
Ðức Thế Tôn dạy phương pháp diệt
bỏ nghĩa là phải càng ngày càng bớt Ái dục dần dần xuống cho đến mức
độ chót là không còn một tí nào, có nghĩa là khô cạn. Sự dứt bỏ Ái
dục Phạn ngữ gọi PAHÀNA nghĩa là Diệt trừ, cũng có khi gọi là
PAHÀNAKICCA nghĩa là Phận sự phải diệt trừ.
Nếu nói về khổ đế người cần
biết rõ khổ là được. Nhưng nếu nói đến tập đế cần có sự hành
nghĩa là làm thế nào dứt bỏ đư?c khổ.
Vấn đề quan trọng là: Phương pháp
hành để dứt bỏ được bằng cách nào? Xin quí vị hãy coi Ðạo Diệu Ðế
đó là phương pháp diệt trừ khổ.
Phật ngôn dạy:
DUKKHASSA MUDAYO ARIYASACCAM PAHÀTABBAM.
Diệu đế là Tập đế cần phải diệt trừ.
DIỆT ÐẾ.
Diệt đế là diệt tắt KHỔ. Theo
đây là Phật ngôn dạy trong bài kinh Chuyển Pháp Luân.
IDAM KHO PANA BHIKKHAVE DUKKHANIRODHO
ARIYASACCAMYO TASSÀ YEVA TANHÀYA ASESAVIRÀGANIRODHO CÀGO PATI- NISSAGGO MUTTI ANÀLAYO
.
Nầy các thầy Tỳ khưu đây là sự
diệt tắt khổ thật sự đó là diệt tắt hẳn ái dục, dứt bỏ, không
luyến tiếc, giải thoát, không mến thương.
Căn cứ theo Phật ngôn ta có thể
nhận định rõ rệt là sự diệt trừ ái dục có nhiều tiếng tương tự
nhau như dứt bỏ, không luyến tiếc v.v.. Ðể chứng minh rõ rệt là phải
Dục tắt thật sự có ý nói những gì đã dục tắt xong rồi không còn
tái phát nữa.
NIRODHA nghĩa là Diệt, ý nói rằng
tắt hẳn, nghĩa là hoàn toàn tắt hẳn không có một nguyên nhân hay một cơ
hội nào làm cho tái phát lại được, vì những bổi là ái dục làm cho
cháy không còn có nữa. Ðây chỉ rõ là Niết Bàn, vì vậy, thiết tưởng
quí vị cần hiểu qua Niết bàn để dễ hiểu hơn.
Theo lời Phật dạy, có một phần
vô hình ngự trong thân nầy để nhận định sự vật bên ngoài, phần vô
hình ấy gọi là Tâm. Tâm nầy lại là vật hay vọng động và nhơ đục vì
phiền não ngự trị, mà cũng vì Tâm nhơ đục ấy làm cho chúng ta phải trầm
luân trong biển luân hồi để chịu khổ. Trong khi đang trầm luân chúng ta
không lo diệt tắt những phiền não như là dầu trong cây đèn, trái lại
chúng ta lại châm thêm dầu càng ngày càng nhiều hơn. Ý tôi muốn nói
chúng ta không lo tu hành để diệt lần phiền não trái lại chúng ta lại tạo
thêm nhiều nghiệp chướng mà cũng vì vậy càng ngày càng đi xa bờ giải
thoát hơn.
Phật ngôn là phương pháp dục tắt
lửa trên ngọn đèn, mà cũng là phương pháp đập bể bình đèn luôn. Ngọn
lửa của cây đèn ấy là ái dục còn cái bình đèn ấy không khác nào Tam
giới, khi người chỉ dục tắt ngọn lửa thôi không đập bể bình đèn
thì có ngày nào đó đủ phương tiện nó lại cháy lại. Nên đã dục tắt
xong còn phải diệt trừ tận không cho nó dư sót chút nào nữa.
Khi người thừa hành chín chắn
theo lời Phật dạy là người ấy có thể dục tắt và đập bể được cây
đèn tai hại ấy; khi lửa tắt đèn bể thì người ấy trong thấy Niết bàn
hay đến Niết bàn vậy.
Chỗ hay tiếng gọi Niết bàn chủ
ý chỉ một nơi rất là hoàn toàn trong sạch. Theo Phật dạy Niết bàn là
một nơi thật hoàn toàn trong sạch của tâm.
Xin ví như các nhà bác học về
nguyên tử phân chất ra đi từng giai đoạn từ thô thiển tới vi tế cho
đến khi không còn phân chất ra được nữa đó là nguyên tử. Chẳng những
chất này rất vi tế mà lại không có chất nào cấu tạo ra nó được.
Ðức Phật có thể tạm ví như một
nhà bác học không cần máy móc phòng thí nghiệm mà cũng chẳng cần phải
tốn kém của tiền để phân chất nầy chất nọ, mà tự Ngài phân chất
được một vật mà đến nay các nhà bác học trứ danh cũng chưa phân chất
được vật ấy là Tâm. Ðức Phật tìm thấy rằng: Tâm ta bị cấu tạo
do nhiều chất như Ái dục, Tham ái, Tam độc v.v.. Sau khi Ngài phân chất ra
được từng phần, Ngài đã bỏ cả những phiền não đến một độ không
còn có một tí phiền não nào trong Tâm, và không còn có gì cấu tạo Tâm
được nữa, vì Tâm ấy không còn nhơ bẩn. Vì Tâm nhơ bẩn nên còn bị
luân hồi. Tâm còn luân hồi Phạn ngữ gọi là ASANKHÀTADHÀTU nghĩa là chất
cấu tạo ấy gọi là ASANKHÀTADHÀTU nghĩa là không còn bị các vật khác cấu
tạo cho luân hồi.
ASANKHÀTADHÀTU là chất không bị
các pháp khác cấu tạo cho luân hồi, là chất không còn phân tách ra được
nữa, chất ấy ra ngoài phạm vi của sự hiểu biết của con người, người
không còn dùng tiếng gì để nói được cái chất ấy. ASANKHÀTADHÀTU nghĩa
là không còn bị các vật khác cấu tạo cho luân hồi.
ASANKHÀTADHÀTU là chất không bị
các pháp khác cấu tạo cho luân hồi, là chất không còn phân tách ra được
nữa, chất ấy ra ngoài phạm vi của sự hiểu biết của con người, người
không còn dùng tiếng gì để nói được cái chất ấy.
ASANKHÀTADHÀTU là chất mà người
không thể dùng lời diễn tả được hình thức sự hành động v.v.. Nó
thuộc về vật cần thấy bằng trí tuệ vì vậy nên chỉ có các bực
Thánh nhơn mới nhận thức được vì Ngài tự đắc được do nơi trí tuệ
của Ngài.
Người nằm mơ mới thấy cảnh mình
thấy thôi, người ngoài ra không thể thấy được, cũng như người đã đắc
được Thánh pháp tự mình thấy chớ không thể làm cho người khác và biết
được những gì mà mình đã thấy. Vậy xin ví dụ thêm như người bị bịnh
nặng, sau khi hết bịnh thì chính người ấy biết trong mình của họ dễ
chịu như thế nào chúng ta thì không hiểu biết gì được về cái an vui của
sự hết bịnh của người ấy. Người bịnh ấy ví như chúng ta cái bịnh
hành hạ ta ví như phiền não. Khi ta biết bịnh phải uống thuốc ấy
chính là Pháp bảo, khi uống thuốc ấy là lúc đang hành đạo. Khi hành đến
nơi cùng tột thì sẽ đắc đạo quả. Khi ta đắc đến bậc nào thì ta biết
ta đắc đến bậc ấy, như người bịnh biết khi uống thuốc thấy trong mình
bớt từ từ, sự dễ chịu từ từ đến với người ấy cho đến khi mạnh
hẳn. Khi mạnh người bịnh biết rằng ta mạnh; cũng như người hết phiền
não tâm trong sạch thì tự biết là an vui và hạnh phúc như thế nào trong
tâm của họ.
Trong bộ UDÀNA đoạn PATALIGÀMIVAGGA
có dạy rằng: Niết bàn không phải là đất, nước, gió, lửa v.v.. Không
phải cõi nầy, cũng không phải cõi khác, không phải trên mặt nhựt hay mặt
nguyệt. Nầy các Tỳ khưu, mà vật ấy (Niết bàn) lại là vật có thật sự.
Nói về Niết bàn thiết tưởng
cũng nên nói đến hai điều đặc biệt khác nhau là:
I) Nói về đặc ân của Niết bàn.
II) Trạng thái của Niết bàn.
Ðặc ân của Niết bàn là:
1/ MADANIMMADANO. Không còn say đắm (trần cảnh).
2/ PIPASAVINAYO. Không còn khao khát (tất cả mọi việc).
3/ ALAYASAMUGGHATO. Không còn lưu luyến (Tam giới).
4/ VATTÙPACHETO. Cắt đứt hết những gì còn luân hồi.
5/ TANHAKKHAYO. Khô hết ái dục.
6/ VIRAGO. Không còn tham ái.
7/ NIRODHO. Diệt, hay diệt tắt (hẳn mọi việc).
8/ NIBBANAM. Diệt tắt hay gọi là Niết bàn.
Trạng thái của Niết bàn là:
KHÔNG CÒN BỊ PHÁP HÀNH CẤU TẠO.
Niết bàn còn có tên khác nữa theo
lời Phật dạy là: NIBBANAM PARAMAN SUKHAM. Niết bàn thật trống không, nghĩa
là không còn có một nhơ bợn nào của phiền não. NIBBANAM PARAMAN SUKKHAM. Niết
bàn là nơi an vui tuyệt đối.
Theo Phật dạy người sanh ra là
mang theo một phận sự rất nặng nề là khổ vì vậy trong bài kinh Bhàra
có dạy: Ngũ uẩn thật là nặng chúng sanh là người hằng mang đi trong luân
hồi dài vô tận, xa vô biên. Khi nhận thấy ngũ uẩn là khổ và biết phương
pháp để ngũ uẩn ấy xuống được rồi thật là an vui, không còn nặng nề
khổ sở đó là Niết bàn.
Theo câu Phật dạy trên để cho chúng
ta thấy rằng: Khi sanh ra làm người hay con vật là chúng ta mang theo một vật
nặng nề vô hạng là khổ, khi có thân nầy thì bận rộn không ngừng nghỉ
theo dính bên ta. Hiện nay người thường hay tìm sự vắng lặng để nghỉ
ngơi như mỗi năm đi nghỉ mát nơi nào, cốt ý là để cho tâm nghỉ lo
âu, bớt làm việc, để cho tâm hồn lắng xuống, hay ta có thể nói là người
nhận thấy mang lấy thân nầy phải khổ muốn tạm để xuống nghỉ trong
ít ngày. Tuy nhiên làm thế nhưng người cũng không được hoàn toàn nghỉ
hoặc để tạm ngũ uẩn nầy xuống được. Có lắm người cả đời cũng
không có dịp may để tạm để phận sự ấy nghỉ ít ngày. Quí vị nghĩ
coi ta chỉ tạm để xuống nghỉ tạm thời trong ít ngày mà còn an vui thay
phương chi ta lại để h?n cái ngũ uẩn nầy xuống thì an vui tới chừng
nào.
Tôi ví dụ nầy để quí vị nhận
thấy cái an vui của Niết bàn như thế nào. Chắc quí vị đã nhận định
thấy rõ cái khổ của sự mang lấy thân nầy và cái để cái thân nặng nề
nầy xuống.
Ðến đây xin nhắc lại quí vị rằng:
Niết bàn không phải là một đô thị có đầy điều vui tươi sung sướng,
hay đủ tiện nghi cho quí vị vui chơi. Nhưng trái lại Niết bàn là nơi dục
tắt hết những gì mà quí vị thấy của người có và của quí vị đang
có.
Diệt khổ đế là một của riêng
của Phật giáo. Ý tôi muốn nói rằng: Chỉ có đức Chánh đẳng Chánh
giác mới tìm thấy Diệt Khổ đế.
Chắc quí vị muốn hỏi: Vậy các
tôn giáo khác không có một tôn giáo nào có phương pháp diệt khổ hay sao?
Ðáp: Tông chỉ của các tôn giáo
trong vũ trụ nầy chung qui là diệt khổ, nhưng có phương pháp khác nhau. Chỉ
có Phật giáo có một phương pháp hoàn toàn hơn hết mà từ ngàn xưa đến
hiện tại và đến vị lai ngoài ra vị Chánh đẳng Chánh giác như Ngài
thì không ai tìm ra và hiểu rõ phương pháp diệt khổ hoàn toàn như Ngài
là Tứ Diệu Ðế.
Ðể minh chứng cách diệt khổ của
Phật giáo và các tôn giáo khác, tôi xin so sánh cho quí vị nhận thức dễ
dàng.
|
PHẬT
GIÁO |
TÔN GIÁO
KHÁC |
NHÂN SANH
KHỔ |
Khổ sanh do
ái dục nghĩa là sự ưa muốn Ngũ trần Lục dục. Sự ưa muốn sanh lại có
sắc thân (Sắc giới). Sự ưa muốn sanh lại nhưng không muốn có sắc
thân. |
Khổ sanh đến
chúng sanh vì do nơi sự trừng phạt của đấng thiêng liêng tối cao vì người
làm tội ác. |
PHƯƠNG
PHÁP GIẢI THOÁT KHỔ |
Phật dạy:
Diệt tận phiền não là Ái dục thì sẽ không còn khổ. |
Dạy phải
cầu đấng thiêng liêng có uy quyền tối cao tha lỗi hay hành phạt; hoặc
ban bố an vui hạnh phúc. |
TRẠNG
THÁI CỦA SỰ GIẢI THOÁT THẬT SỰ |
1) Không có
sự ưa thích gì trong tâm dầu rất vi tế.
2) Dứt bỏ các sự cố chấp.
3) Không luyến ái trong các cảnh giới.
4) Thoát khỏi sự vui của tam giới.
5) Không cần ai đến giải thoát
cho mình, mà tự mình giải thoát. |
1) Muốn
được đấng thiêng liêng cứu khổ.
2) Cố tin có đấng thiêng liêng tối
cao của mình.
3) Xin sanh vào cõi Thiên đàng.
4) Còn muốn được hưởng sự an
vui của cõi Thiên đàng.
5) Cần có đấng thiêng liêng đến
tiếp độ cho linh hồn được ở bên Ngài mãi. |
Phận sự của Diệt khổ đế.
Phận sự của Diệt khổ đế Phạn
ngữ gọi là SACCHIKARANA nghĩa là phải làm cho phân minh rõ rệt; ý nói tự
mình hành động cho đến nơi giải thoát, tự mình dục tắt hết dục vọng
ở lòng mình và tự mình biết rõ rằng mình đã giải thoát.
PHẬT NGÔN
DUKKHANIRODHO
ARIYASACCAMSACCA-CHIKÀTABBAM. Diệu đế gọi là Diệt khổ diệu đế người cần
phải hành cho phân minh, nhận định thấy rõ rệt bằng tuệ.
ÐẠO DIỆU ÐẾ
Ðạo diệu đế có nghĩa là hành
đến nơi Diệt khổ. Ðây là tiếng thường dùng trong Phật giáo nhưng nếu
dùng tiếng thông thường cho dễ nghe dễ hiểu hơn có những tiếng thay thế
là:
1) MAJIHIMAPATIPADA - Trung đạo.
2) ATTHAGI KAMAGGA - Bát chánh đạo.
3) ARIYAMAGGA - Thánh đạo.
Trước khi giải rõ xin quí vị học
qua câu Phật dạy. IDAM KHO PANA BHIKKHAVE DUKKHANIRODHAGAMINÌ PATIPADA ARIYASACCAM
AYAMEVA ARIYO ATTHANGIKOMAGGO SEYYATHÌDAM - Nầy các thầy Tỳ khưu, đây là sự
hành để diệt tắt khổ thật sự là đạo có tám chi. Tám chi ấy là gì?
Tám chi ấy là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng,
Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Theo lời Phật dạy trên thì chúng
ta nhận thấy rằng: Diệu đế thứ tư là sự hành đúng theo con đường
đi đến nơi, giải thoát có đầy đủ tám chi.
Diệu Ðế thứ tư nầy Phật dạy
hành theo chánh đạo có tám chi. Tôi (soạn giả) xin rút bài kinh khác giải
rõ Bát chánh đạo lại trình bày nơi đây hầu quí vị, vì trong bài Chuyển
Pháp Luân chỉ đếm đủ tám chi thôi.
Ðây là Phật ngôn trong bài kinh
MAGGAVIBHANGA dạy rằng:
SAMMÀDITTHI (Chánh Kiến):
KATTAMÀ CA BHIKKHAVE SAMMÀDITTHI YAM KHO BHIKKHAVE
DUKKHENÀNAM.
Nầy các thầy Tỳ khưu; Chánh kiến là gì?
Chánh kiến là: 1) Sự biết rõ khổ. 2) Sự biết rõ nhân sanh khổ. 3) Sự
biết rõ sự dục tắt tận khổ. 4) Sự biết phương pháp hành cho đến
nơi dục tắt khổ. Nầy các thầy Tỳ khưu; sự hiểu biết như thế gọi
là Chánh kiến.
SAMÀSANKAPPA (Chánh tư duy):
KATAMÀ CA BHIKKHAVE SAMÀSAN-KAPPO YÀKHO BHIKKHAVE
NEKKAMMA-SANKAPPO. ABHYÀPÀDASANKAPPO AVI- HIMSÀSANKAPPO AYAM VUCCATI BHIK-KHAVE
SAMMÀSAÍKAPPO.
Nầy các thầy Tỳ khưu, Chánh tư duy là thế
nào? Chánh tư duy là: 1) Sự suy nghĩ thoát trần (xuất gia). 2) Sự suy nghĩ
không cột oan trái. 3) Sự suy nghĩ không làm hại người. Nầy các thầy Tỳ
khưu, hành như thế nầy gọi là Chánh tư duy (suy nghĩ chân chánh).
SAMMÀVACA (Chánh ngữ):
KATAMÀ CA BHIKKHAVE SAMMAVACA YA KHO BHIKKHAVE MUSAVADA
VERAMANÌ PISUNAVACA VERAMANÌ PHARUSAYA VACAYA VERAMANÌ. SAMPHAPPALAPA VERA-MANÌ AYAM
VUCCATI BHIKKHAVE SAMAVACA.
Nầy các thầy Tỳ khưu, Chánh ngữ là thế nào?
Chánh ngữ là: 1) Tác ý lánh xa sự nói dối. 2) Tác ý lánh xa sự nói lời
đâm thọc. 3) Tác ý lánh xa sự nói lời đê tiện. 4) Tác ý lánh xa sự
nói lời vô ích. Nầy các thầy Tỳ khưu, sự nói như thế gọi là Chánh
ngữ (Lời nói chân chánh).
SAMMAKAMMANTÀ (Chánh nghiệp):
KATAMÀ CA BHIKKHAVE v.v..
Nầy các thầy Tỳ khưu, Chánh nghiệp là thế
nào? Chánh nghiệp là: 1) Tác ý lánh xa sự sát sanh. 2) Tác ý lánh xa sự trộm
cắp. 3) Tác ý tránh xa sự tà dâm. Nầy các thầy Tỳ khưu hành như thế nầy
gọi là Chánh nghiệp (Sự làm chân chánh).
SAMÀ AJIVO (Chánh mạng):
KATAMÀ CA BHIKKHAVE v.v..
Nầy các thầy Tỳ khưu Chánh mạng là thế nào? Chánh mạng là các Tỳ khưu
bực đệ tử thuộc hàng Thánh nhân trong Phật giáo. 1) Nuôi mạng chân
chánh. 2) Không nuôi mạng sái với đạo lý. 3) Nuôi mạng theo lẽ phải. Nầy
các thầy Tỳ khưu, nuôi mạng như thế gọi là Chánh mạng.
Riêng về người tại gia cư sĩ nuôi mạng chân
chánh là không lường gạt lấy kẻ khác, giết thú ăn, biết là của bất
nghĩa không nên lấy về dùng mặc dầu của ấy là của rơi rớt vô chủ.
SAMMÀVÀYÀMA (Chánh tinh tấn):
KATTAMÀ CA BHIKKHAVE v.v..
Nầy các thầy Tỳ khưu, thế nào gọi là Chánh
tinh tấn? Chánh tinh tấn là các thầy Tỳ khưu trong Phật giáo.
1) Vun trồng sự thỏa thích trong sự tinh tấn
không để cho tội lỗi phát sanh lên, không để cho tội lỗi chua phát sanh
lên lại sanh lên trong tâm, cố gắng hết sức để giữ tâm cho vững chắc.
2) Vun trồng sự thỏa thích tinh tấn diệt trừ
ác pháp đã sanh trong tâm rồi cho tiêu diệt và giữ tâm cho trong sạch.
3) Vun trồng sự thỏa thích tinh tấn làm thiện
pháp chưa sanh trong tâm làm cho phát sanh và giữ tâm cho vững chắc trong thiện
pháp.
4) Vun trồng sự thỏa thích tinh tấn làm cho các
thiện pháp đã có trong tâm cho hằng nảy nở tiến hóa thêm lên mãi mãi
và làm cho tâm càng vững chắc trong thiện pháp.
SAMMÀSATI (Chánh niệm):
KATTAMÀ CA BHKKIHAVE v.v..
Nầy các thầy Tỳ khưu, thế nào gọi là Chánh
niệm? Chánh niệm là các thầy Tỳ khưu trong Phật giáo hằng suy nghĩ thấy
thân trong thân, có sự tinh tấn thiêu đốt phiền não, tự mình biết lấy
mình có sự nhớ được mọi việc làm và sự hành động của mình trong mọi
sát na, diệt sự ưa muốn và ghét bỏ. Nhận thấy thọ trong thọ v.v..
trong thấy tâm trong tâm v.v.. Suy nghĩ thấy pháp trong pháp v.v..
SAMMÀSAMÀDHI (Chánh định):
KATTAMÀ CA BHIKKHAVE v.v..
Nầy các thầy Tỳ khưu, thế nào gọi là Chánh
định? Chánh định là thầy Tỳ khưu trong Phật giáo.
1). Tâm vắng lặng những sự việc bên ngoài.
2). Vắng lặng dục tình.
3). Vắng lặng các Ác pháp, nhập Sơ thiền có Tầm,
Sát, Hỉ lạc, An và Ðịnh.
Vì Diệt được Tầm và Sát nên nhập Nhị thiền
là nhân làm cho tâm càng thêm trong sạch xa lánh trần nhiều hơn, Ðây là
nhân làm cho tâm càng trong sạch, làm cho định càng dũng mãnh thêm trong sạch
hơn nhiều. Hỉ lạc, An được thêm sự trong sạch vì oai lực của định.
Hơn ấy nữa, vì không cần Hỉ lạc bởi tâm đã
bình tịnh có đủ trí nhớ và biết mình (chỉnh tâm) và tâm đang hưởng
sự An lạc do nơi oai lực của tâm xả. Trí nhớ và biết mình là nhân mà
các bực Thánh thần hằng ngợi khen, người có tâm xả là người có trí
nhớ điều chỉnh tâm và hưởng an vui nên gọi là Tam thiền.
Khi đã diệt được khổ và lạc, nhưng sự vui
buồn đã có từ xưa đều bị dục tắt được do nơi Tứ thiền. Không
còn vui mà cũng không có khổ chỉ còn có trí nhớ ở trong xả.
Nầy các thầy Tỳ khưu sự để tâm như thế gọi
là Chánh định.
Trên đây tôi dịch sát nghĩa theo
Phật ngôn chắc quí vị đã hiểu rõ rồi xin khỏi giải thêm.
Luận giải TRUNG ÐẠO
Phàm đã là đệ tử Phật thì
không ai không hiểu Trung đạo vì Trung đạo là con đường đi tới nơi giải
thoát của chư Phật, người muốn giải thoát ngoại trừ ra đường Trung
đạo thì không còn con đường nào khác hơn. Vì chỉ có một đường duy
nhứt đi đến Niết bàn thôi.
Tại sao gọi là Trung đạo?
Tưởng nên nhắc lại rằng: Trước
khi có Phật giáo tại Trung Ấn Ðộ hay gọi là cõi Diêm Phù Ðề có rất
nhiều tôn giáo khác nhau, phần nhiều các giáo phái ấy đều dạy người
hạnh khổ hạnh. Vì người thời ấy tin rằng: Hành khổ hạnh một là
làm cho các đấng thần linh hay đấng thiêng liêng cảm động ban ơn huệ,
hai là khi hành khổ hạnh như thế mới diệt được phiền não trong tâm.
Theo lời đức Phật dạy gọi hạnh
ấy là thái quá có chia ra hai điều thái quá là:
1) KAMASUKHALLIKANUYOGA. Nghĩa là người hành đạo
nhưng còn lẫn với sự an lạc trong ngũ trần lục dục, gọi là hành đạo
quá dùng.
2) ATTAKILAMATHÀNUYOGA. Hành làm cho thân nầy quá
khổ cực gọi là thái quá hay cũng gọi khổ hạnh.
Hai phương pháp kể trên, khi chưa
thành đạo, đức Bồ Tát Sĩ Ðạt Ta phải bỏ ra sáu năm để hành. Nhưng
không đem lại được một kết quả nào xứng đáng theo ý muốn của
Ngài. Nên Ngài lại hành theo Trung đạo.
Sau khi thành đạo bài pháp đầu tiên
là Chuyển Pháp Luân, Ngài dạy rằng: DVEME BHIKKHAVE ANTÀPABBAJITENA NA
SEVITABBÀ - Nầy các thầy Tỳ khưu, hai pháp thái quá mà các bực xuất gia
không nên xu hướng theo, không nên hành theo.
Hai pháp Thái quá ấy là gì?
Một là pháp làm cho tâm quyến luyến
theo tình dục pháp hèn hạ, pháp của kẻ thế gian, pháp của phàm nhân chẳng
lợi ích chi.
Hai là pháp khổ hạnh làm cho thân
hình tiều tụy cực khổ chẳng phải là pháp của bực cao nhơn; cũng chẳng
có lợi ích chi.
Nầy các thầy Tỳ khưu, sự tu hành
theo Trung đạo không nên thiên theo hai điều thái quá ấy.
Bát Chánh Ðạo có thể tóm lại
là:
TAM HỌC
1) Chánh kiến; 2) Chánh tư duy: thuộc về TUỆ
3) Chánh ngữ; 4) Chánh nghiệp; 5) Chánh mạng: thuộc
về GIỚI
6) Chánh tinh tấn; 7) Chánh niệm; 8) Chánh định:
thuộc về Ð?NH
Phận sự của Tứ Diệu Ðế.
Phận sự của Tứ Diệu Ðế là sự
cố gắng hành đúng theo Bát Chánh Ðạo. Người hành phải hành một lúc
đúng theo tám chi của đạo và cũng phải trong sạch bằng nhau trong một lúc,
không thể thiếu sót một chi nào trong một của tám điều ấy. Nghĩa là
không dư không thiếu.
Tôi xin ví dụ, như trong một thang
thuốc có tám vị, phải dùng đúng theo phân lượng và khi sắc thuốc cũng
phải còn là bao nhiêu không thể nhiều hơn hay ít hơn được. Ðây cũng
như sự hành đạo phải hành đúng theo Bát chánh đạo có tám chi không thể
thiếu sót mặc dầu một chi của một điều nào trong Bát chánh đạo.
Ðây là Phật ngôn dạy.
DUKKHANIRODHAGÀMINÌ PATIPADÀ
ARIYASACCAM BHÀVETABBAM. - Diệu đế là Ðạo đế nghĩa là sự hành theo đạo
cho đến diệt tận phiền não và khổ, hành giả nên hành theo.
Có nhiều người hỏi tôi (Soạn giả):
Thời kỳ nầy còn có Ðạo quả chăng? Có người đắc Ðạo quả và đến
Niết bàn không? Và ta làm cách nào mới đắc được Niết bàn?
Ðáp: Phật dạy phương pháp hành
để đắc Niết bàn là Bát chánh đạo. Nếu Bát chánh đạo còn là Ðạo
quả vẫn còn. Còn nếu người còn hành đúng theo Bát chánh đạo là còn
có người đắc được Ðạo quả và Niết bàn. Nếu người ai ai muốn giải
thoát đến Niết bàn thì cứ hành đúng theo Bát chánh đạo. Vì đó là con
đường đi ngay đúng vào Niết bàn.
Sở dĩ mà thời pháp đầu tiên
thuyết tại vườn Lộc Giã được tên là Chuyển Pháp Luân có nghĩa là
xoay bánh xe pháp. Ý nói thời pháp ấy dạy Ba luân và mười hai Thể của
Tứ Diệu Ðế. Khi người nhận định thấy rõ Ba luân và mười hai Thể
ấy rõ rệt thì người ấy là người giải thoát khỏi luân hồi.
Ba luân và mười hai Thể ấy là
gì?
Như quí vị đã biết Tứ Diệu Ðế
là bốn điều Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Hành giả phải hiểu rõ mỗi Ðế
có ba diệu gọi là Ba luân nhân cho bốn Ðế là ra mười hai Thể (Ba luân
x bốn Ðế = mười hai Thể).
Câu chót của bài kinh Chuyển Pháp
Luân đức Thế Tôn dạy: Khi mà Ngài chưa tìm thấy rõ Ba luân và mười
hai Thể trong Tứ Diệu Ðế là chưa đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh
Giác. Sau khi Ngài đắc được ba Luân mười hai Thể nên Ngài mới đắc
được quả Cao thượng ấy.
Ba luân ấy là:
1) Tuệ thấy rõ khổ.
2) Tuệ suy nghĩ thấy và hiểu rõ khổ.
3) Tuệ thấy và biết rõ là hoàn toàn giải thoát khỏi Khổ, Tập, Diệt
và Ðạo đều có ba Luân như thế nên gọi là mười hai Thể.
Sau khi thuyết dứt thời pháp đức
Thế Tôn biết rằng: Trong năm vị có một vị già nhứt đắc Tu-đà-hườn
quả. Nên ngài mới dạy rằng: ANNASI VATA BHO KONDANNO. Nghĩa là Kondanna (Kiều
Trần Như) đã thấy rõ thánh pháp rồi. Vì vậy từ ấy Ngài Kiều Trần
Như có tên là A Nhã Kiều Trần Như.
Xin nói thêm về ATTHA (ý nghĩa) của
Tứ đế.
Khổ đế có bốn ATTHA (ý nghĩa).
1) PÌLANATTHO. Có nghĩa là làm hại.
2) SANKHATATTHO. Có nghĩa là hội họp các nguyên nhân.
3) SANTÀPATTHO. Có nghĩa là làm cho nóng nảy.
4) VIPARINÀMATTHO. Có nghĩa là thay đổi.
Tập đế có bốn Attha (ý nghĩa).
1) ÀYUHANATTHO. Có nghĩa là làm cho khổ phát sanh.
2) NIDÀNATTHO. Có nghĩa là nhân làm cho khổ sanh.
3) SÀYOGATTHO. Có nghĩa là hội họp tất cả các điều khổ.
4) PALIBOLATTHO. Có nghĩa là làm cho bận lòng vì khổ.
Diệt đế có bốn Attha (ý nghĩa).
1) NISSARANATTHO. Có nghĩa là đem mình ra khỏi
luân hồi.
2) APALIBODDHATTHO. Có nghĩa là không còn bận rộn vì khổ.
3) ALANKATATTHO. Có nghĩa là nguyên nhân cấu tạo không thể hội họp lại
để cấu tạo được.
4) AMATATTHO. Có nghĩa là bất tự.
Ðạo đế có bốn Attha (ý nghĩa).
1) NIYYÀNATTHO. Có nghĩa là đi khỏi vòng luân hồi.
2) HETAVATTHO. Có nghĩa là nhân diệt khổ.
3) DASSANATTHO. Có nghĩa là thấy rõ Niết bàn.
4) ADHIPATAYATTHO. Có nghĩa là chủ nhân. (Ý nói không còn dưới quyền của
phiền não).
Sau khi đắc được Tu-đà-hườn quả,
Ngài Kiều Trần Như không còn hoài nghi Phật bảo với Pháp bảo nên bạch
với Phật rằng: Bạch hóa đức Thế Tôn, đệ tử xin xuất gia với đức
Ðại Giác.
Ðức Thế Tôn dạy: EHI BHIKKHU ! Thầy
hãy trở nên vị Tỳ khưu hành theo Thánh đạo và phạm hạnh đúng theo luật
của Như Lai đã dạy hầu diệt tận phiền não.
Khi dạy dứt lời thì râu tóc của
Ngài Kiều Trần Như đều rụng trên mình có đắp bộ cà sa vàng. Sau ấy
bốn vị kia mới xin xuất gia.
Ngày mười sáu Âm lịch, Ngài thuyết
pháp độ vị thứ nhì đắc Tu-đà-hườn quả vị ấy là Ðại Ðức
Vappa. Còn bốn vị kia mới đi khất thực.
Ngày mười bảy Âm lịch, đức Phật
thuyết pháp độ được Ðại Ðức Bhaddiya đắc Tu-đà-hườn quả.
Ngày mười tám Âm lịch, đức Phật
thuyết pháp độ được Ðại Ðức Mahànàma đắc Tu-đà-hườn quả.
Ngày mười chín Âm lịch, đức Phật
thuyết pháp độ được Ðại Ðức Assaji đắc Tu-đà-hườn quả.
Ðến ngày ba mươi Âm lịch, đức
Phật hội năm vị lại và thuyết bài Anattalakka Sutta, Vô Ngã Tướng Kinh.
(Quí vị muốn xem nguyên văn xin xem quyển Kinh Tụng của Ðại Ðức Hộ
Tông đã xuất bản). Nơi đây tôi xin lược thuật để quí vị để hiểu
thôi.
Ðức Thế Tôn dạy: RUPAM BHIKKHA VE
ANATTÀ. Nầy các thầy Tỳ khưu, thân nầy không phải của ta, vì vậy hằng
bị các bịnh hoạn. Không thể ngăn cản rằng: Thân ta nên trẻ đẹp và
trang điểm rất đẹp ví như cây cột bằng vàng chạm trổ rất tinh vi,
trông coi rất đẹp mắt. Mặc dầu lo trang điểm cho đẹp như thế, nhưng
nó vẫn thay đổi vì bịnh hoạn tàn phá, không thể tồn tại như lời ta
bảo. Ngoài ra Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng chẳng phải của ta. Những pháp
ấy cũng không chịu dưới quyền sai bảo và cấm đoán của ta.
Rồi Ngài vấn chư Tăng rằng:
- Nầy các thầy Tỳ khưu, các thầy
nghĩ sao?
Chư Tăng đáp:
- Bạch Ngài, thật sắc nầy vô thường.
- Nếu sắc nầy vô thường vậy khổ
hay vui?
- Bạch Ngài, là khổ.
- Nếu sắc thân nầy khổ, vậy
các thầy suy tưởng thấy có phải của ta hay không?
- Bạch Ngài, thật sắc thân nầy
không phải ta, mà cũng không phải là của ta.
Rồi đức Thế Tôn hỏi Thọ, Tướng,
Hành, Thức như trên và chư Tăng cũng trả lời như trên.
Ðức Thế Tôn mới dạy ngũ uẩn
ở quá khứ cũng như ở hiện tại và vị lai mặc dầu là của ta hay của
người, đẹp hay xấu, thô hay vi tế, nếu có là ngũ uẩn hay có sắc thì
hằng ở dưới ba tướng là Vô thường, Khổ não và Vô ngã. Các thầy
nên lấy đó mà quán tưởng cho thấy rõ rệt là Vô thường, Khổ não và
Vô ngã. Do nhờ sự quán tưởng như thế nên chư Thinh Văn đệ tử Phật
chán nản với Ngũ uẩn; không ưa mến Ngũ uẩn nên được giải thoát, nghĩa
là đắc được A-la-hán quả tuệ; thì tức nhiên tự mình thấy rằng: Ta
đã diệt trừ tận phiền não, phạm hạnh của Phật giáo ta đã hành xong.
Sau khi thuyết dứt bài Vô Ngã Tướng
Kinh. Cả năm vị đều giải thoát nghĩa là đắc được quả A-la-hán.
Trong ngày ấy 30 tháng 6 Âm lịch
trong tam giới có được sáu vị Thánh nhơn. Một đức Chánh đẳng Chánh
giác và năm vị A-la-hán.
Lời Tựa | 1 | 2 | 3
| 4 | 5
| 6 | 7
| 8 | 9
| 10 | 11
| 12 | 13
| 14 | 15
| 16