- Lịch Sử Ðức
Phật Tổ Cồ Ðàm
- Maha Thongkham Medhivongs
THIÊN THỨ CHÍN
ÐỘ ÐỨC TỊNH PHẠN VƯƠNG ÐẮC
A-LA-HÁN QUẢ
VÀ NGÀI NHẬP DIỆT
-ooOoo-
Khi đức Thế Tôn ngự tại Vương
Xá thành tại Trúc Lâm tịnh xá hạ thứ tư. Khi sắp nhập hạ thứ năm Ngài
cùng năm ngàn vị Tỳ khưu ngự về xứ Vesàlì nhập hạ ở tư thất gọi
là KUTÀGÀRASÀLA ở rừng gần thành Vesàlì .
Trong năm đó đức Tịnh Phạn
Vương lâm trọng bịnh, tất cả lương y trong xứ được triệu đến chữa
bịnh cho Ngài, tất cả hoàng thân nhứt là lịnh bà Gotami hết lòng lo chăm
nom săn sóc nhưng bịnh không hề thuyên giảm, thân hình càng ngày càng tiều
tụy, Ngài không nằm yên được vì chứng bịnh hành hạ. Ngài than rằng:
Ta thọ khổ rất nhiều. Bỗng dưng trong khi ấy Ngài lại nhớ đến người
con yêu quí duy nhứt của Ngài là đức Thế Tôn, Ngài mới nghĩ rằng: Phải
chi có đức Thế Tôn nơi đây, Ngài sờ vào đầu ta, còn đức Ananda rờ vào
hai bên thân trái và phải của ta, còn Ra Hầu La cháu nội ta rờ vào hai
chân ta, thì sự khổ sở của bịnh tình hành hạ ta chắc chắn sẽ thuyên
giảm.
Ðồng thời khi ấy nhằm lúc gần
sáng đức Thế Tôn xuất thiền dùng tâm từ bi rải khắp tam giới nguyện
cho chúng sanh được an vui hạnh phúc không gây oan trái với nhau, không giết
hại nhau. Rồi Ngài mới dùng tuệ nhãn xem coi chúng sanh nào có duyên lành
để Ngài độ trong ngày ấy.
Phàm một vị Chánh đẳng Chánh
giác hằng hành theo năm điều trong ngày, năm điều ấy gọi là Sở dụng
thời giờ của Phật.
Phạn ngữ gọi là PANCAVILOKANATHA
là:
1) PUBBANHE PINDAPÀTANCA. Buổi sáng
Ngài ngự đi khất thực.
2) SÀYANHE DHAMMADESANAM. Buổi chiều
lại Ngài thuyết pháp độ chúng sanh.
3) PADOSA BHIKKHU OVÀDAM. Buổi tối
Ngài dạy đạo cho chư Tăng.
4) ADDHARATTE DEVAPANHANAM. Khuya lại Ngài
đáp những câu hỏi của chư Thiên thắc mắc.
5) PACCÙSEVA GATE KÀLE BHABBÀBHABBE
VILOKANAM. Lúc rạng đông Ngài dùng trí tuệ xem coi chúng sanh nào hữu duyên
cùng Ngài trong ngày ấy, Ngài ngự đi giáo hóa.
Lúc bấy giờ ấy đức Thế Tôn
xem thấy phụ vương Ngài đang lâm trọng bịnh, đang bị bịnh tình hành hạ
nằm không yên và rất nhớ đến Ngài cùng Nanda, Ananda và Ra Hầu La cháu
đích tôn của Ngài. Ðức Thế Tôn mới nghĩ rằng: Ta nên trở về thăm viếng
săn sóc bịnh tình cho phụ vương.
Ðức Thế Tôn liền gọi đức
Ananda đến và dạy rằng: Ananda nầy, chúng ta nên về thăm đức vua Tịnh
Phạn. Chúng ta chỉ còn được gặp mặt Ngài lần nầy là lần chót. Hơn
nữa đức vua đang có tâm hướng về chúng ta, Ngài mong ước được gặp
chúng ta; đây là cơ hội đặc biệt chúng ta gặp lại Ngài. Chư Thánh Tăng
ở nơi nào ngươi hãy đến nơi ấy cho các vị ấy hay rằng: Như Lai về
thành Ca Tỳ La Vệ thăm phụ vương.
Ðại Ðức Ananda đáp: Xin vâng!
Rồi Ngài lật đật ra đi truyền lời
dạy của đức Thế Tôn cho chư Thánh Tăng hay.
Tất cả chư Thánh Tăng kể cả hai
vị đại đệ tử và tám mươi vị đại đệ tử khác cùng chư Thánh Tăng
ngoài ra khi nghe tin ấy đến hội hợp nhau đợi cùng đi với Phật vì quí
Ngài có thông tuệ biết rõ tất cả mọi việc.
Ðức Ananda về bạch lại mọi việc
cho Phật hay và cho Phật biết rằng: Chư Thánh Tăng đã hội lại đủ mặt.
Ðức Thế Tôn liền đến nơi hội
và phán với chư Thánh Tăng rằng: Quí vị đây đều là người muốn đến
viếng phụ vương của Như Lai lần chót chăng?
Sau đó đức Thế Tôn dùng thần
thông bay đi chư Thánh Tăng cũng theo Ngài tùy theo hạ cao thấp đi một hàng
trông thật đẹp mắt. Khi đến thành Ca Tỳ La Vệ, đức Phật cùng chư Thánh
Tăng ngự ngay vào cung vua đang ngự. Ðức Phật ngự nơi đầu long sàng vừa
tầm mắt đức vua trông thấy. Ðức Thế Tôn trông thấy Phụ hoàng thân
hình tiều tụy lấy làm thương hại, Ngài liền phán hỏi căn bịnh và
đang đau nhức nơi nào. Ðức vua nghe những lời han hỏi của đức Thế Tôn
lấy làm cảm động rưng rưng đôi hàng lệ và bạch rằng:
- Bạch đức Thế Tôn; sự đau khổ
của cơn bịnh không biết kể sao cho hết, trẫm không còn sống thêm được
nữa rồi.
Ðức Thế Tôn dạy: Tâu Ðại vương,
xin Ðại vương đừng nghĩ như vậy. Ðức Thế Tôn liền đưa tay mặt ra
đồng thời phát nguyện rằng:
- Nếu Như Lai đã có hành ba mươi
pháp Ba la mật quí báu cao thượng trong bốn A-tăng-kỳ và trăm ngàn kiếp
vì cố ý đem sự lợi ích đến cho chúng sanh, xin do nơi oai lực của phước
báu ?y, khi Như Lai dùng tay phải rờ vào đầu của Phụ vương, xin cho sự
đau khổ ấy tiêu diệt. Ðức Thế Tôn phát nguyện xong rờ vào đầu của
đức Tịnh Phạn Vương, sự đau đớn vì cơn bệnh thuyên giảm ngay.
Khi ấy đức Ananda đảnh lễ đức
Thế Tôn xong đến gần long sàng của đức vua, rồi phát nguyện rằng:
- Tôi là người hằng theo hầu Phật
như bóng với hình, đây là lời thành thật của tôi, xin cho khi tôi dùng
tay rờ vào mình của bá phụ, tôi xin cho Ngài được giảm sự đau khổ vì
cơn bịnh hành hạ. Ðức Ananda liền rờ vào mình đức vua thì căn bịnh
thuyên giảm ngay lập tức.
Ðức Nanda liền đến đảnh lễ Phật
và cũng đến nơi long sàng rồi phát nguyện rằng:
- Nếu tôi là người hành đúng
theo lời giáo huấn của đức Ðại Giác. Tôi xin nguyện rằng: Do nhờ oai
lực hành theo Thánh pháp ấy khi tôi rờ vào mình của phụ vương tôi xin
cho căn bịnh được tiêu tan. Khi ngài rờ vào đức vua cảm thấy được mạnh
khỏe như xưa.
Ðức Ra Hầu La cũng đến gần Phật
đảnh lễ xong đến bên long sàng và phát nguyện rằng:
- Khi đức Thế Tôn còn là vị đại
Bồ Tát trong kiếp Vesantara , Ngài hành hạnh đại thí, Ngài có bố thí
tôi cho ông Bà la môn tên Jùjaka. Tôi vâng lời Ngài theo ông Bà la môn ấy
không hề dám cãi và buồn phiền Ngài trong thâm tâm. Nếu điều ấy đúng
theo sự thật mà tôi đã hành thì do nhờ oai lực công đức ấy xin cho khi
tôi rờ vào chân của nội tổ tôi thì căn bịnh của Ngài tiêu tan đi lập
tức. Ngài liền rờ vào chân đức vua. Khi ấy đức vua cảm thấy hết bịnh.
Khi Ngài cảm thấy trong thân thể
được thơ thới an vui như đã thoát khỏi cơn bịnh hiểm nghèo. Ngài liền
ngồi dậy tỏ tâm hoan hỉ đưa tay lên khỏi đầu đảnh lễ đức Phật và
chư Tăng.
Ðức Thế Tôn biết rằng: Ðức
vua đã hết bịnh. Ngài liền dùng trí tuệ quan sát coi phụ vương còn thọ
được bao lâu nữa. Ngài biết rằng: Ðức vua chỉ còn thọ được bảy
ngày nữa thôi, và Ngài hiểu rằng: Ðức vua còn có duyên lành đắc quả
A-la-hán trong kiếp nầy do nơi Ngài tiếp độ. Ngài liền bắt đầu thuyết
pháp cho đức vua nghe bảy ngày đêm liền không ngừng nghỉ.
Ðức vua yêu cầu đức Thế Tôn rằng:
- Bạch đức Thế Tôn, Ngài là đấng
Ðại Từ bi chịu cực khổ thuyết pháp cho trẫm nghe cả bảy ngày đêm hầu
đem sự lợi ích cho trẫm.
Ðức Thế Tôn liền thuyết bài
pháp tên là ANICCÀ (nghĩa là Pháp vô thường). Ðại cương như vầy: Tâu
Ðại vương, tất cả sanh mạng của chúng sanh rất là bé nhỏ, không trường
tồn được, đời sống con người mau lẹ như làn chớp chưa trông thấy
thì đã mất rồi, mỗi ngày qua là càng chồng chất thêm tuổi già, ngoài
ra còn có bịnh vào tàn phá làm cho đau khổ, đời sống của người có
cái chết là sự thật của nó, những của cải mà người ta đã có trong
đời nầy sẽ bị mất, trước khi chết hay là khi chết không đem gì được
về ngày vị lai, đó là định luật tự nhiên chúng sanh phải gánh chịu.
Khi nghe xong thời pháp thì đức vua
cũng vừa đắc A-la-hán quả. Vì trong khi nghe Ngài quán tưởng theo Minh sát
tuệ, Ngài trông thấy thật rõ từng chi tiết của pháp Tứ Ðế, Ngài diệt
trừ tận gốc của vô minh và si mê nên không còn luân hồi nữa.
Ðức vua đắc A-la-hán quả với thần
thông nên Ngài dùng trí tuệ quan sát biết rõ nhân duyên của mình, nên
Ngài bạch Phật rằng:
- Bạch đức Thế Tôn hôm nay trẫm
đã giải thoát khỏi lưới của luân hồi, trong thấu rõ Niết bàn bằng
Tuệ. Tuổi thọ của trẫm còn rất ít trẫm xin đảnh lễ đức Ðại
Giác, trẫm phải nhập diệt ngày hôm nay.
- Tâu Ðại vương, xin Ðại vương
hãy tùy tiện, liệu lấy thời giờ (ý đức Thế Tôn dạy hãy coi giờ
nào đúng vào lúc hết tuổi thọ).
Tất cả hoàng tộc và các phi tần
nhứt là bà Gotamì nghe vậy lấy làm buồn khổ thương yêu Ngài nên đều
than khóc náo động cả hoàng cung.
Ðức Tịnh Phạn Vương thấy vậy
mới dạy rằng:
- Hỡi nầy các người, xin các người
đừng than van khóc lóc buồn thương, vì đời người sanh ra trong vòng luân
hồi phải có ngày chia ly với tất cả những nhân vật thương yêu quí mến,
và thường hay rung động vì các pháp thế gian nhứt là kinh sợ tử thần.
Sau khi ta chết thì lần lượt đến các người kẻ trước người sau, đó
là con đường cuối cùng của đời người, danh vọng tiền tài không đem
lợi ích gì đến ta. Vậy các người nên rán lo tu hành để tìm nơi bền
vững lâu dài không tiêu diệt, bất di bất dịch.
An ủi quyến thuộc xong Ngài liền
cúi đầu đảnh lễ đức Thế Tôn và bạch rằng:
- Bạch đức Thế Tôn, những tội
lỗi nào mà trẫm đã dễ duôi do thân, khẩu, ý phạm với đức Thế Tôn,
xin đức Thế Tôn mở lượng Từ Bi tha tội lỗi cho trẫm. Trẫm xin từ giã
đức Thế Tôn nhập Niết bàn. Dứt lời Ngài nằm lại long sàng nhập đại
định rồi tịch diệt luôn.
Khi đức Thế Tôn biết đức vua đã
tịch diệt, Ngài liền thuyết cho chư Tăng nghe câu kệ:
- Các vị nên trông lấy sự tịch
diệt của phụ vương Như Lai làm đề mục, đã gọi là Tử thần thì
không bao giờ biết tha thứ cho nhân vật nào. Nó có phận sự là giết tất
cả nhân vật là cố hữu của nó vậy.
Khi ấy lịnh bà Gotamì và hoàng tộc
khóc lóc than van, làm náo nhiệt cả hoàng cung. Ðức Thế Tôn mới thuyết
pháp về Vô thường, Khổ não, Vô ngã, thì các vị ấy hiểu rõ lý của
pháp bớt bi lụy.
Ðức Thế Tôn liền gọi Ðại Ðức
Ca Diếp đến dạy rằng: Như Lai phải làm chủ tọa trong cuộc lễ hỏa
táng nầy. Vậy Như Lai phiền ông hãy đi tìm coi địa thế nơi nào thích
đáng để làm nơi hỏa táng phụ vương của Như Lai. (ý nói đức Thế Tôn
muốn tìm nơi không xa lắm không gần lắm và rộng rãi để cho chư Tăng và
dân chúng hội lại làm lễ).
Ðức Ca Diếp đáp: Xin vâng!
Ðại Ðức liền hợp với các vị
bô lão trong hoàng tộc đi chọn nơi thuận tiện cho cuộc lễ.
Chư Thiên trong cõi Sa bà thế giới
đều hội đến, nhứt là đức Ðế Thích đem đồ thực phẩm và các vật
trên cõi trời đến cúng dường; đặc biệt là Ngài có đem đến một cái
DIBYAKUTAG ARA. (nghĩa là nóc của hỏa đài) có hình năm trăm nóc nhà chồng
lên nhau từ từng (quí vị hãy coi như đền vua Cao Mên, Lào, Thái, hay nóc
chánh điện của chùa) có cẩn nhiều châu ngọc trông thật là huy hoàng
tráng lệ.
Khi hỏa đài đã xong, Ðại Ðức
Ca Diếp mới vào bạch cho đức Thế Tôn rõ. Ðức Thế Tôn dạy người
đem nước hoa đến, tự tay Ngài đỡ đầu đức vua và tắm cho Ngài. Ðức
Xá Lợi Phất là người múc nước xối, còn đức Phật là người kỳ rửa
long thể của đức Tịnh Phạn Vương.
Ðức Thế Tôn mới phán với Ðại
Ðức Xá Lợi Phất rằng: Nầy Xá Lợi Phất, kẻ nào là người hành theo
thiện pháp, có tâm nguyện đắc quả Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác,
nên cố lo phụng dưỡng mẹ cha, người ấy sẽ đoạt thành sở nguyện.
Khi tắm xong chính tay đức Thế Tôn
lo tẩn liệm, và Ngài khiêng linh cửu để nơi quàng trong hoàng cung. Khi đến
làm hỏa táng chính tay Ngài khiêng linh cửu ra nơi hỏa đài và an tọa
trên hỏa đài, Thiên Vương Ðế Thích xuống làm lễ linh cửu xong đi quanh
ba vòng. Ngài liền lấy ra một viên ngọc gọi là JOTIVANSÌ (viên ngọc nầy
có thể làm cháy được mọi vật) chuẩn bị để làm lễ hỏa táng.
Ðức Thế Tôn mới phán rằng: Nầy
Thiên Vương Ðế Thích, người hãy đình chỉ lại, chuyện nầy phải
chính tay Như Lai làm lễ hỏa táng cho phụ vương mới phải lẽ.
Ðức Ðế Thích mới dâng viên ngọc
ấy đến tay đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn đem viên ngọc để vào chân hỏa
đài lửa phát cháy. Sau đó chư Thiên và các vị Hoàng thân mới đem vật
thơm như trầm, hoa v.v... để vào hỏa đài. Trong cuộc lễ hỏa táng còn
có nhiều người thương tiếc khóc than, nhân tiện ấy đức Thế Tôn mới
thuyết pháp Vô thường để độ chúng sanh.
Quyến thuộc sáu nước là: 1. Ca Tỳ
La Vệ; 2. Devadaha; 3. Koliya; 4. Sakka; 5. Supavàsa; 6. Vera cùng hội đến dự
cuộc lễ hỏa táng để tang thật là long trọng.
Sau khi hỏa táng xong quyến thuộc
sáu nước mới hội nhau làm cuộc lễ cúng dường cho chư Thánh Tăng có đức
Thế Tôn làm tọa chủ. Lễ cúng dường thật là long trọng. Sau khi cuộc lễ
đức Thế Tôn có dạy rằng:
- RÀJÀCO KHATTIYÀ MÀTÀ. Hãy xem đức
vua Tịnh Phạn Vương thăng hà mà làm gương, mọi người còn sống sẽ có
quyến thuộc là cha mẹ, anh em, thầy tổ sẽ chết, khi người yêu thương
chết thì người còn lại đều buồn rầu than tiếc uất ức, vì sợ rằng
người quá vãng không nơi nương tựa, người ấy nên làm phước bố thí
hay cúng dường đến các bực đáng cúng dường, sự cúng dường hay bố
thí cao thượng của người còn tại thế làm và đem ra hồi hướng đến
người đã quá vãng. Quả của sự Bố thí hay cúng dường ấy sẽ trả quả
cho người quá vãng một sự nghiệp quí giá. Nếu con cháu còn sống mà
không làm lễ cúng dường hay bố thí để hồi hướng đến người quá
vãng, những con cháu ấy gọi là người bất hiếu, sau khi chết chắc chắn
sẽ bị đọa vào ác đạo khó thoát khỏi và phải chịu khổ trong cõi ấy
một thời gian khá lâu vậy. Người có hiếu nên biết làm việc lành là bố
thí hay cúng dường để hồi hướng phước báu cho quyến thuộc đã quá
vãng. Người có hiếu làm như thế sau khi quá vãng được sanh về cõi an
vui. Vì vậy bực có trí nên làm việc lành do lòng trong sạch để hồi hướng
quả báu đến cho người đã quá vãng. Sự than khóc, uất ức, ăn năn,
thương tiếc thật không bổ ích chi đến người quá vãng, những quyến
thuộc mà được hưởng an vui là do nhờ sự cúng dường hay bố thí của
người còn tại thế hồi hướng đến mà thôi.
Ðức Thế Tôn dạy đoạn nầy cốt
để nhắc nhở quyến thuộc đừng than khóc buồn rầu nên làm việc lành,
sau khi thuyết pháp xong Ngài trở về chùa Nigrodha. (Tàu âm Ni Cư Ðà).
Một thời gian sau; lịnh bà Gotamì
vào hầu Phật và bạch hỏi rằng: Bạch đức Ðại Giác, người phụ nữ
có thể xuất gia theo Phật giáo được chăng?
Ðức Thế Tôn không đáp mà Ngài dạy
rằng:
- Di mẫu Gotamì , Bà không nên mộng
ước xuất gia, người phụ nữ không nên xuất gia theo Phật giáo.
Bà Gotamì yêu cầu đức Thế Tôn
cho bà xuất gia như thế đôi ba lược. Ðức Thế Tôn cũng từ chối không
chấp thuận. Lịnh bà lấy làm buồn khổ, than khóc rồi ra về.
Ðức Thế Tôn ngự tại thành Ca Tỳ
La Vệ một thời gian vừa phải Ngài lại ra về thành Vesàlì , Ngài ngụ tại
Kutagàra .
Vì lòng hâm mộ Phật pháp, nhứt
là bà thấy rõ quả báo của sự giải thoát nên bà rất yêu chuộng sự
xuất gia, bà cùng với năm trăm bà hoàng có chí hướng xuất gia đồng thí
pháp đắp y mang bát đi chân không từ thành Ca Tỳ La Vệ đến thành
Vesalì là nơi đức Thế Tôn đang ngự thuyết pháp độ chúng sanh. Do quí
bà là hàng vua chúa không bao giờ đi bộ, phương chi hôm nay quí bà đi bộ
mà lại đi chân không và đi một khoảng đường rất xa nên chân của các
bà đều phòng và nứt ra, thân người bám đầy bụi đường, trông thật
là thảm khổ. Quí bà vào hầu Phật mắt đẩm đầy lệ.
Trước khi quí bà hầu Phật thì gặp
Ðại Ðức Ananda. Bà Gotamì bảo rằng: Sở dĩ mà bà thí phát, đắp y cà
sa trước Phật cho phép, vì bà muốn xuất gia và cũng đã ba phen thỉnh cầu
đức Thế Tôn nhưng Ngài không cho phép.
Ðại Ðức Ananda nói: Xin lịnh bà
đình chỉ lại nơi đây. Tôi sẽ vào hầu Phật và xin cho quí bà xuất gia
cho bằng được. Ðức Ananda liền vào hầu Phật. (từ đoạn sau đây đi tôi
viết theo Tạng Luật, bộ Culavagga).
Sau khi đảnh lễ Phật xong, rồi vào
nơi phải lẽ và bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn, bà Gotamì , hai chân phồng
sưng lên, thân hình bà thật là tiều tụy; mình bám đầy bụi đường, bà
rất khổ tâm, nay bà đang đứng khóc bên ngoài vì bà chắc chắn rằng: Ðức
Thế Tôn không ưng thuận cho phụ nữ xuất gia theo pháp luật của Phật. Vậy
nên đệ tử xin đức Thế Tôn mở lượng từ bi cho phép hàng phụ nữ xuất
gia theo pháp luật của đức Thế Tôn đã giáo truyền.
- Ananda ơi, ngươi đừng yêu cầu
cho hàng phụ nữ xuất gia theo pháp luật của Như Lai đã giáo truyền.
Ðại đức Ananda yêu cầu như thế
đôi ba lượt, nhưng đức Thế Tôn vẫn đáp như trước.
Ðại Ðức Ananda mới nghĩ: Tại
sao đức Thế Tôn không bằng lòng cho phép hàng phụ nữ xuất gia theo pháp
của Ngài đã truyền, mặc dầu vậy, nhưng ta cũng phải cương quyết yêu
cầu xin cho kỳ được. Ngài mới bạch hỏi đức Thế Tôn rằng: Bạch đức
Thế Tôn, khi hàng phụ nữ xuất gia theo giáo pháp của Ngài, những phụ nữ
ấy có thể đắc từ quả Tu đa huờn đến A-la-hán hay không?
- Ananda nầy, nếu hàng phụ nữ xuất
gia theo giáo pháp của Như Lai đã giáo truyền thì cũng có thể đắc đạo
quả từ Tu-đà-huờn trở lên A-la-hán.
- Bạch đức Thế Tôn nếu hàng phụ
nữ mà xuất gia theo giáo pháp của đức Thế Tôn đã giáo truyền có thể
đắc từ quả Tu-đà-huờn đến A-la-hán, vậy xin đức Thế Tôn mở lòng
từ bi cho hàng phụ nữ xuất gia theo pháp luật của Ngài đã giáo truyền.
Hơn nữa lịnh bà Gotamì là người có ơn rất lớn đối với Ngài, bà lại
là di mẫu của Ngài, là người đã ra công nuôi dưỡng Ngài, cho Ngài bú từ
giọt sữa, đút từ vắt cơm sau khi Phật mẫu thăng hà.
Theo chú giải của bộ Luật nầy
có giải và nêu câu hỏi rằng: Tại sao đức Thế Tôn lại không cho phép
hàng phụ nữ xuất gia? Có phải chăng đức Thế Tôn là đấng có lòng từ
bi vô lượng vô biên?
Ðáp: Phải; đúng vậy. Nhưng đức
Thế Tôn định phải có sự yêu cầu khó khăn nhiều lượt như thế, để
hàng phụ nữ nhận thức rằng: Sự xuất gia được của chúng ta đây thật
là khó. Nhờ vậy nên hàng phụ nữ mới cố gắng thu thúc giới luật
hoàn toàn trong sạch.
Ðức Thế Tôn liền dạy Ðại Ðức
Ananda rằng: Ananda nầy, nếu lịnh bà Gotamì bằng lòng thọ TÁM TRỌNG
PHÁP. Và vâng giữ Tám Trọng Pháp ấy là sự xuất gia của bà.
TÁM TRỌNG PHÁP ấy là:
1) Mặc dầu bà Tỳ khưu ni xuất
gia đã được trăm hạ chăng nữa, cũng phải kính trọng và đảnh lễ thầy
Tỳ khưu mới xuất gia trong ngày ấy (Ðức Thế Tôn ra điều học nầy để
răn các bà bớt lòng ngã mạn khinh người).
2) Bà Tỳ khưu ni không thể nhập hạ
nơi nào mà không có thầy Tỳ khưu (Ðức Phật ra điều học nầy để
chư Tỳ khưu Tăng kiểm soát quí bà Tỳ khưu ni).
3) Bà Tỳ khưu ni phải luôn luôn thực
hành theo hai điều là: Phải hành lễ Phát lồ. Sau hành lễ xong phải đến
nơi chư Tỳ khưu cư ngụ để nghe lời giáo huấn của quí Ngài. (Ðức Thế
Tôn ra điều học nầy để quí bà thường trực gần chư Tăng hầu nghe lời
giảng dạy của chư Tăng mỗi tháng hai lần).
4) Mặc dầu quí bà đã làm lễ nhập
hạ xong, đến ngày ra hạ cũng phải hành lễ ra hạ, và rồi, cũng phải
đến nơi cư ngụ của chư Tỳ khưu Tăng hành lễ ra hạ một lần nữa.
(Ðức Thế Tôn ra điều học nầy để quí bà tự tỏ ra quí bà rất hòa
nhau).
5) Nếu bà Tỳ khưu ni đã phạm Tăng
tàng và làm lễ phạt cấm phòng mỗi ngày và đã xưng tội bên Tỳ khưu
ni xong cũng phải đến xưng tội với chư Tỳ khưu Tăng.
6) Nếu có giới tử muốn xuất gia
Tỳ khưu ni, quí bà đã cho xuất gia xong rồi, nhưng phải đưa đến cho xuất
gia lại nơi chỗ có kiết giới của chư Tỳ khưu Tăng.
7) Bà Tỳ khưu ni không quyền thóa
mạ chư Tỳ khưu.
8) Vị Tỳ khưu luôn luôn có quyền
giáo huấn chư Tỳ khưu ni, chư Tỳ khưu ni không bao giờ có quyền giáo huấn
vị Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu ni không quyền dễ duôi đối với vị Tỳ
khưu, và phải hết lòng cung kính.
- Ananda nầy, nếu bà Gotamì ưng thuận
thọ trì Tám Trọng Pháp mà Như Lai đã dạy trên thì Như Lai chấp thuận
cho bà xuất gia bằng cách thọ Tám Trọng Pháp.
Ðại đức Ananda học thuộc lòng
tám điều ấy xong liền đến nơi của bà Gotamì và bảo bà: Nếu lịnh
bà bằng lòng thọ Tám Trọng Pháp đó là phương pháp xuất gia của lịnh
bà. Ðại Ðức Ananda liền đọc lại tám điều mà đức Thế Tôn đã khẩu
truyền.
Khi bà Gotamì nghe xong Tám Trọng
Pháp liền nói rằng: Bạch Ðại Ðức lẽ thường thanh niên thanh nữ đều
ưa thích tắm rửa trang điểm, đầu giắt hoa sen hay hoa ma lị v.v... Cũng ví
như tôi ưa thích Tám Trọng Pháp vâng giữ hành theo trọn đ?i.
Ðại Ðức Ananda trở lại hầu Phật
đảnh lễ xong bạch rằng: Bạch hóa đức Thế Tôn Di mẫu Ngài là bà
Gotamì rất hài lòng thọ lấy Tám Trọng pháp để xuất gia.
Ðức Phật dạy: Ananda ơi, nếu không
có phụ nữ xuất gia trong giáo pháp của Như Lai đã giáo truyền thì phạm
hạnh còn tồn tại trong thế gian nầy lâu dài hơn, chánh pháp còn tồn tại
đến một ngàn năm. Nhưng khi có phụ nữ xuất gia trong giáo pháp của Như
Lai đã giáo truyền thì phạm hạnh sẽ không còn tồn tại lâu dài. Chánh
pháp chỉ tồn tại được năm trăm năm. Ananda nầy, trong gia đình nào có
nhiều phụ nữ không có người nam, gia đình ấy sẽ bị kẻ trộm đánh cắp
nồi cơm rất dễ, điều nầy cũng như phụ nữ xuất gia trong giáo pháp
nào thì phạm hạnh trong giáo pháp ấy càng không thể tồn tại được lâu
dài, cũng như loại cào cào châu chấu đã đáp xuống ruộng lúa nào thì
ruộng lúa ấy không thể tồn tại lâu được, hoặc cũng như loại đuông
đã sanh trong rẫy mía nào thì rẫy mía ấy cũng chẳng tồn tại lâu được,
những điều nầy cũng ví như khi phụ nữ xuất gia theo pháp luật nào
giáo lý nào, thì phạm hạnh của pháp luật ấy hay giáo lý của phạm hạnh
ấy, không tồn tại được lâu dài. Do đó người thường đắp đê để
ngăn không cho nước tràn ra khỏi ao hồ được. Cũng như Như Lai ra Tám Trọng
Pháp cấm đoán Tỳ khưu ni không cho các vị Tỳ khưu ni dễ duôi trọn đời.
Ðây là lời Chú giải của bộ Luật
CULLAVAGGA .
Lời Phật dạy: Pháp Luật có nghĩa
là Giáo lý hay Giáo pháp, hay Tôn giáo.
Lời Phật ngôn: Ví như người đắp
đê to ngăn cản không cho nước tràn ra khỏi ao hồ. Câu nầy có nghĩa là:
Nếu người muốn giữ nước trong ao hồ không cho tràn ra thì phải đấp
đê ngăn nước, nước ấy sẽ tồn tại được. Ðiều nầy cũng ví như
đức Thế Tôn đã ra Tám Trọng Pháp trước khi sanh ra những điều chẳng
lành, Ngài không để các bà Tỳ khưu ni vi phạm. Tám Trọng Pháp nầy cũng
ví như là đê để ngăn nước kia vậy. Khi Ngài ra Tám Trọng Pháp ngăn ngừa
mà để cho hàng phụ nữ xuất gia thì chánh pháp chỉ tồn tại được
năm trăm năm thôi. Một khi đã có Tám Trọng Pháp ngăn ngừa trước thì
chánh pháp sẽ còn tồn tại đến một ngàn năm, có nghĩa là nhờ có Tám
Trọng Pháp ấy nên thêm được năm trăm năm. Cộng là một ngàn năm.
Câu Phật ngôn dạy: Ngàn năm có
nghĩa là kể từ ngày đức Thế Tôn Niết bàn đến một ngàn năm sau còn
có vị Thánh nhơn đắc đến bực A-LA-HÁN QUẢ. Kế đến là ngàn năm thứ
nhì chỉ có chư Thánh nhơn đắc đến quả A NA HÀM. Kế đến ngàn năm thứ
ba chỉ có chư Thánh nhơn đắc đến quả TU ÐÀ HÀM. Kế đến ngàn năm thứ
tư chỉ có chư Thánh nhơn đắc quả TU-ÐÀ-HƯỜN mà thôi... Ngàn năm thứ
năm chỉ còn các vị Tỳ khưu thọ giới Ba La Ðề Mộc Xa. Tức là thọ Cụ
Túc giới.
Ðây là đoạn Chú giải bộ
DIGHANIKAYA (Bộ Trường A Hàm).
Trong bộ chú giải của Tạng kinh
Trường A Hàm có giải khác hơn là:
Ngàn năm đầu còn có bực đắc
A-la-hán PATISAMBHIDA , Tàu dịch là TUỆ PHAÂN TÍCH.
Ngàn năm thứ nhì còn có vị
A-la-hán đắc được CHALA BHINNO , Tàu dịch là LỤC THÔNG.
Ngàn năm thứ ba còn có vị
A-la-hán đắc TÊVIJJO , Tàu dịch là TAM MINH.
Ngàn năm thứ tư còn có vị
A-la-hán gọi là SUKKHAVIPASSAKA , Tàu dịch là SẮC BIÊN LẠC. (quán xét các
bậc thiền Sắc và Vô Sắc).
Ngàn năm thứ năm còn giới Ba La Ðề
Mộc Xa tức là Cụ Túc giới.
Riêng về chú giải của Tạng kinh
bộ ANGUTTARANIKAYA lại giải khác hơn chút là:
Chư đệ tử có thể đắc được
Tuệ phân tích ở ngàn năm thứ nhứt sau khi Phật Niết bàn.
Ðến ngàn năm thứ nhì chư đệ tử
chỉ đắc được Lục thông.
Ðến ngàn năm thứ ba chư đệ tử
chỉ đắc được Tam minh.
Ðến ngàn năm thứ tư chư đệ tử
chỉ đắc được SẮC BIÊN LẠC thôi, (tức là thiền Hữu sắc và Vô Sắc).
Sau đó chỉ còn có chư Thánh nhơn
đắc được ba quả dưới là A na hàm, Tư đà hàm và Tu-đà-hườn. Kể ra
là đủ năm ngàn năm tuổi của Phật giáo.
Theo bộ chú giải nầy chỉ cho ta
thấy trong vòng năm ngàn năm còn có Thánh nhơn. (Lời của soạn giả).
Theo đây tôi (soạn giả) cũng xin nói
rõ thêm là: Khi lịnh bà Gotamì xuất gia theo Phật pháp, tất cả những điều
học là hai trăm hai mươi bảy điều răn cấm của chư Tăng chưa có, vì
lúc ấy Phật giáo mới truyền bá, hầu hết chư Tăng điều là bực Thánh
nhơn; nếu vị nào chưa đắc Thánh quả cũng đều là hạng có giới đức
thật trong sạch như bực Thánh nhơn, vì các vị ấy có duyên lành rất dầy
nên không vị nào phạm một lỗi lầm mặc dầu thật nhỏ. Ðến hạ thứ
sáu trở đi mới bắt đầu có điều răn cấm những điều răn cấm gọi
là Ðiều học hay cũng gọi là Luật.
Sau khi Ðại Ðức Ananda bạch Phật
là bà Gotamì bằng lòng nhận Tám Trọng Pháp để hành theo trọn đời, Ðức
Thế Tôn cho bà Gotamì xuất gia với năm trăm bà hoàng bằng cách thọ Tám
Trọng Pháp. Kể từ ngày ấy có Tỳ khưu ni và có đủ hàng Tứ chúng.
Nói về việc hỏa táng đức Tịnh
Phạn Vương xong. Tất cả các vị vua trong sáu nước thuộc dòng Thích Ca
và hoàng tộc trong sáu nước ấy lập tức hội lại bàn với nhau rằng:
Trong nước không nên không có vua mặc dầu chỉ trong một ngày thôi. Vì vậy
các vị hoàng tộc xứ Ca Tỳ La Vệ và năm vị vua kia cùng đồng lòng tôn
ông hoàng Mahanàma lên ngôi Hoàng đế tại xứ Sakka kinh đô Ca Tỳ La Vệ;
vì dòng của đức Tịnh Phạn Vương không còn ai nối ngôi nữa bởi đức
Thế Tôn đã xuất gia và thành đạo, con thứ của đức Tịnh Phạn Vương
là đức Ananda cũng xuất gia, cháu nội Ngài là con đức Thế Tôn là ông
Ra Hầu La cũng xuất gia.
Riêng về bà Gia Du Ðà La được
tin đức Thế Tôn đã cho phép hàng phụ nữ xuất gia hành theo phạm hạnh
của Ngài. Bà mới nghĩ: Cố nhiên vạn vật trong vũ trụ nhứt là ngai
vàng của vị đế vương thường hay thay đổi, không chắc của một vị
nào, một dòng nào. Sang, giàu, công danh sự nghiệp, ngôi vị đế vương
cũng ví như nghệ. Vì nghệ có dính vào người chăng nữa cũng chẳng bao lâu
rồi cũng phai lợt hết đi. Khi mà ta còn tại tiền đây, chồng ta cũng còn
hiện nay, ngai vàng nầy phải là của chồng ta, nếu không vậy cũng phải
là của con ta, nhưng hôm nay lại thành ra của kẻ khác; đây là bởi chồng
ta là người cao quí không tham mùi tục lụy, mùi tục lụy đối với chồng
ta như nước bọt khi nhổ ra rồi không bao giờ liếm lại, hoặc cũng có
thể ví như người kinh sợ vật thực có chất độc không bao giờ dám
ăn. Sở dĩ mà chồng ta bỏ ngai vàng, vợ đẹp con thơ, uy quyền tột đỉnh
là ngai vàng cũng vì sợ chất độc hại mình. Như vậy ta còn ham mê gì
trong cõi đời đầy chất độc nầy? Cung vàng điện ngọc, nầy sự sung
sướng của thân xác nầy, có ích gì cho đời ta? Ðiều mà đáng cho ta nghĩ
tới và ham mộ là sự xuất gia và giải thoát khỏi thế gian đầy chất
độc nầy.
Khi bà nghĩ vậy liền vào hầu tân
vương là ông Mahànàma xin Ngài cho phép xuất gia. Ðức vua nhận lời. Bà
cùng hai trăm năm mươi vị hoàng tộc và phi tần đã theo hầu bà từ trước
cùng nhau đến thành Thất La Phiệt xin xuất gia Tỳ khưu ni. Ðức Thế Tôn
cho xuất gia.
Sau khi xuất gia xong bà Gia Du Ðà La
trì chí hành đạo. Ðức Thế Tôn dạy cách hành Minh sát tuệ hợp theo
duyên lành của bà, không bao lâu bà đắc A-la-hán quả.
Ðức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh
xá của ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc dâng cúng tịnh xá nầy tốn đến
năm mươi bốn triệu tỷ vàng.
Lời Tựa | 1 | 2 | 3
| 4 | 5
| 6 | 7
| 8 | 9
| 10 | 11
| 12 | 13
| 14 | 15
| 16