- Lịch Sử Ðức
Phật Tổ Cồ Ðàm
- Maha Thongkham Medhivongs
THIÊN THỨ TƯ
ÐỘ HAI VỊ ÐẠI ÐỆ TỬ
-ooOoo-
Sáng ngày, người trong Vương Xá
thành trông thấy được đức Chánh đẳng Chánh giác có ba mươi hai tướng
tốt, tám mươi tướng phụ, hào quang sáu màu sáng rỡ; tiếng đồn cả thành,
những người không thấy đều muốn thấy để chiêm ngưỡng tướng hảo
quang minh của Ngài. Người người giành và chen lấn nhau, kẻ thì đi đến
vườn thượng uyển, kẻ đứng theo hai bên vệ đường, dài cả ba dặm
đường. Vì người chen lấn chật cả đường lối nên đức Thế Tôn
không thể chen vào thành khất thực được. Trong khi ấy, đã gần trưa mà
đức Thế Tôn không thể vào thành được nên khiến cho nóng đến Ðế
Thích. Ngài mới lấy làm lạ, Ngài mới để ý coi tại sao? Khi ấy Ngài biết
dân chúng đang đón chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, nên đức Thế Tôn không
thể ngự vào thành khất thực được.
Thiên Vương Ðế Thích liền hiện
ra một người thanh niên trẻ và thật đẹp, đứng trước mặt đức Thế
Tôn, ca một bài ca thật hay, tiếng hát thật là êm dịu âm điệu du
dương hấp dẫn tất cả quần chúng đang tụ tập nơi ấy làm cho đức Thế
Tôn không có ngõ đi vào thành. Ý nghĩa của bài hát ấy là ca tụng công
đức Phật bảo như vầy: MOTTO MATTEHI SAHA PURANAJATILEHI. Ðức Thế Tôn thân
có sáu màu hào quang tươi đẹp, Ngài có công đức cao cả nhứt trong tam
giới, Ngài giải thoát cho các vị đạo sĩ đã tự mình cho mình là bực
Thánh nhơn khỏi luân hồi. Ðức Phật là đấng có Thập Lực; có Trí tuệ
hiểu thông các pháp nhứt là pháp của chư A-la-hán, Ngài có một ngàn vị
Thánh Tăng theo hầu và đang ngự đi vào Vương Xá thành. Theo đây tôi xin
giải Thập Lực tóm tắc:
DASABALANÀNA - THẬP LỰC
1) THÀNÀTHANANÀNA. Tuệ hiểu rằng: Ðây là nhân
hay không phải nhân.
2) VIPÀKANÀNA. Tuệ hiểu rõ rằng: Ðây là quả
của nghiệp.
3) SABBATTHAGÀMIMAGGÀNÀNA. Tuệ hiểu rõ những con
đường đi trong mọi nơi.
4) NÀNÀDHÀTUNNA. Tuệ hiểu rõ thế gian nầy cấu
tạo bởi nhiều chất khác nhau.
5) NÀNÀDHIMUTTINÀNA. Tuệ hiểu rõ rằng: Chúng
sanh có tính nết khác nhau.
6) INDRIYAPAROPRIYATTINÀNA. Trí tuệ biết rõ chúng
sanh có duyên lành nhiều ít khác nhau.
7) JHÀNÀDINÀNA. Trí tuệ hiểu rõ sự nhơ đục
hay trong sạch của thiền định, và sự xuất thiền.
8) PUBBENIVÀSANÀNA. Trí tuệ hiểu rõ tiền kiếp
của chúng sanh.
9) CUTÙPATANÀNA. Tuệ hiểu rõ cảnh giới đi sanh
của chúng sanh.
10) ASAVAKKHAYANÀNA. Tuệ hiểu rõ phương pháp
hành để tận diệt phiền não.
Khi đức Ðế Thích ca tụng xong
công đức của Phật bảo như thế, Ngài liền từ từ đi trước Phật. Vì
hiện thân của Ngài một người rất đẹp, nên những người gần ấy bị
hấp dẫn bởi tiếng hát và câu văn cùng tướng đẹp nên họ từ từ
dang ra nhường đường cho đức Ðế Thích đi; đức Phật lại đi theo sau.
Những người có mặt tại nơi ấy
đều nghĩ rằng: Người thanh niên nầy đẹp trai làm sao? Lời lẽ thanh tao
làm sao? Người như thế nầy chúng ta chưa bao giờ gặp.
Những người ấy liền hỏi nhau rằng:
Người thanh niên nầy từ đâu đến? Con của ai?
Khi đức Ðế Thích nghe vậy biết
rằng: Người người đều chú tâm đến Ngài đây là dịp may để Ngài ca
tụng công đức của Phật bảo. Ngài liền hát rằng: Ðức Chánh đẳng Chánh
giác nào là bực Ðại trí thức, có thể dạy được thân, và diệt tận
phiền não (trong tâm), Ngài là đấng đáng cho chúng sanh lễ bái cúng dường.
Ngài ngự đến nơi cao quí an lạc là Niết Bàn, không còn một ai sánh bằng
Ngài, tôi là người theo hầu hạ Ngài.
Quần chúng vì lo bu quanh đức Ðế
Thích để hỏi chuyện nên đức Thế Tôn không bị người bu quanh, Ngài
cùng chư Tăng vào thành Vương Xá thọ thực nơi hoàng cung.
Ðức Bình Sa Vương bạch với Phật
rằng: Bạch hóa đức Thế Tôn, nếu trẫm không có nơi nương nhờ là Tam
bảo thì trẫm cảm thấy đời trẫm thật là vô vị. Tâm trẫm không hề
nghĩ gì ngoài ra Tam bảo. Mặc dầu trong đêm khuya khoắc mà trẫm nhớ đến
đức Thế Tôn trẫm cũng ngự đi đến thăm liền. Vì vậy nên vườn thượng
uyển đối với trẫm thì thật quá xa trong đêm thanh vắng. Còn Trúc Lâm
là nơi gần hoàng cung hơn, trẫm có thể ngự đến bất cứ giờ nào. Vậy
xin Ðức Thế Tôn vui lòng thâu nhận Trúc Lâm làm nơi Phật ngự.
Nói xong đức vua liền lấy bình đựng
nước bằng vàng chế xuống trên tay Phật, ý Ngài tỏ ra đã dâng cúng
Trúc Lâm đến Phật rồi.
Khi đức Thế Tôn lãnh Trúc Lâm
xong, quả địa cầu rung động, dường như quả địa cầu muốn nói rằng:
Rễ của Phật giáo đã mọc và ăn sâu vào quả địa cầu rồi. Ðây là tịnh
xá đầu tiên chính đức Phật làm tọa chủ thọ lãnh. Từ đây gọi là
Trúc Lâm tịnh xá.
Nói về Ngạ quỉ mà tôi đã nói
đoạn trước ở gần bên đức vua nhưng Ngài đâu hay biết gì. Bọn nầy
không được Ngài hồi hướng cho mới nghĩ rằng: Kỳ làm phước nầy, đức
vua không hồi hướng phước cho chúng ta, vậy chúng ta còn vị quyến thuộc
nào trong đời nầy ngoài ra Ngài chăng?
Các Ngạ quỉ thấy không còn có ai
nữa nên rất buồn rầu than khóc thương hại cho phận mình. Ðến đêm lại
bọn Ngạ quỉ lại vào hoàng cung la to lên như vầy: MAYAMASSU DUKKHITA PETA.
Chúng ta là quỉ đói bị thọ khổ trong cảnh âm u. Không hề được ăn uống
vật chi hết, bị đói khát hành hạ khổ sở, thân tâm bị khổ không
phút nào thảnh thơi.
Ðức vua nghe câu ấy mới hỏi:
Các người là gì?
Bọn Ngạ quỉ hiện thân rõ cho đức
vua thấy, những thân hình chỉ còn một lớp da mỏng bao bộ xương khô,
đen như cột nhà bị cháy; tóc dài, thấy đáng thương hại và kinh sợ,
thân cao bằng cây thốt nốt, đầu to như trái bầu non bị khô, mắt sâu
vào trong. Thật là một hình hài đáng ghê sợ. Ðây cũng vì tội tham ăn mà
ra.
Ngạ quỉ mới nói cho đức vua biết
sự khổ cực của Ngạ quỉ không có con số nào để nói cho hết năm bị
đày đọa như vầy. Ðức vua lấy làm thương hại. Sáng ngày, vào hầu Phật
tại Trúc Lâm tịnh xá, bạch qua những điều tai nghe mắt thấy đêm hôm.
Ðức Thế Tôn dạy: Hôm qua Ðại vương
làm phước nhưng không hồi hướng phước báu cho Ngạ quỉ là quyến thuộc
của Ngài trong kiếp quá khứ. Vì vậy chúng đến than khóc cầu xin phước.
- Bạch Ðức Thế Tôn, hôm nay có
thể cúng dường nữa được hay không?
- Tâu Ðại Vương, được.
- Vậy đệ tử xin thỉnh đức Thế
Tôn và chư Tăng vào hoàng cung thọ thực trong buổi sáng hôm nay.
Ðức Thế Tôn nhậm lời bằng sự
lặng thinh. Ðức vua lật đật về hoàng cung lo sắp đặt cuộc trai Tăng.
Và đức Thế Tôn cùng chư Thánh Tăng đến thọ thực.
Trong khi ấy Ngạ quỉ lấy làm vui
mừng và bảo nhau rằng: Chúng ta sẽ được hưởng phước trong ngày hôm
nay. Bọn Ngạ quỉ ấy chen nhau đ?ng bên vách, gần cửa v.v... Ðể đợi thọ
lãnh phước hồi hướng.
Sau khi cúng dường vật thực xong:
Ðức vua mới hồi hướng rằng: Xin cho quả của sự bố thí nầy hãy thấu
đáo đến quyến thuộc tôi.
Liền trong khi ấy bọn Ngạ quỉ cảm
thấy no; thân hình trở nên tốt đẹp không còn tiều tụy như xưa nữa.
Nhưng không có y phục che thân. Ðêm đến, Ngạ quỉ lại vào hoàng cung
kêu xin y phục.
Ðức vua lại vào hầu Phật và bạch
hỏi như trước.
Ðức Phật dạy bố thí y cho chư
Tăng và hồi hướng phước báu cho Ngạ quỉ. Ngạ quỉ được y phục đẹp
và phước khi xưa đến trả quả nên Ngạ quỉ ấy được thành chư Thiên.
Sau khi lễ cúng dường đức Thế Tôn
thuyết mười hai câu kệ bài kinh ấy gọi TIROKUTASUTTA. Bài kinh nầy Ngài
Ðại Ðức Hộ Tông đã ấn tống trong quyển Kinh Tụng.
Ðức vua trai Tăng luôn bảy ngày
và đức Thế Tôn cũng thuyết bài kinh ấy luôn bảy ngày. Chúng sanh nghe
bài kinh ấy kinh sợ tội lỗi lo tu hành và làm phước bố thí đến chư
Tăng. Và đắc quả Tu-đà-hườn không ít.
Trong khi ấy hai vị đệ tử chánh
thức là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên còn là hai người ngoại đạo, cùng
ở gần Vương Xá thành.
Thiên nầy quan trọng chỉ về độ
hai vị Ðại đệ tử chánh thức nên nơi đây xin nhắc đến sự tìm đạo
của hai vị ấy.
Trong khi đức Phật chưa thành đạo,
ông Xá Lợi Phất (đệ tử tay mặt) sanh vào lòng của bà Bà la môn quí
phái sang giàu tên bà là SÀRÌ (Tàu âm: Xá Lợi), ở làng UPATISA gần Vương
Xá thành. Cũng trong đêm mà đức Xá Lợi Phất sanh vào lòng mẹ. Tại
làng Kolita có một bà Bà la môn cũng quí phái sang giàu nhứt vùng tên là
Mogalli (Tàu âm là Mục Kiền Liên) cũng thọ thai. Hai gia đình nầy là bạn
chí thân với nhau cả bảy đời.
Ðúng mười tháng, hai bà cùng sanh
một lượt. Và cũng chọn sáu mươi sáu người vú nuôi con như nhau.
Lấy tên chỗ ở đặt tên con, nên
bà Sàrì đặt tên con là UPATISSA; và cũng gọi là SARIPUTTA (Tàu âm là Xá Lợi
Phất) có nghĩa là con bà Xá Lợi (Tàu âm là Xá Lợi Tử).
Còn con bà Mục Kiền Liên đặt tên
là KOLITA, mà cũng gọi là Mục Kiền Liên, có nghĩa là con bà Mục Kiền
Liên. Sau này thường gọi là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.
Khi lớn lên Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên là đôi bạn chí thân cùng học một trường, cùng chơi với
nhau một cách, nghĩa là giống nhau từ cách ăn mặc và hợp nhau tính tình
đi chơi nơi nào cũng có nhau như hình với bóng.
Ngày nọ, cả hai đang xem lễ,
nhưng hai ông cũng đồng cảm tưởng như nhau. Vì duyên lành của hai ông đã
đến nên khiến cả hai đồng nghĩ rằng: Có lợi ích gì với sự xem cuộc
lễ nầy, tuổi thọ của ta không đến trăm tuổi. Vậy tốt nhứt ta nên
tìm phương giải thoát.
Rồi cả hai đồng thanh hỏi nhau, và
cùng đồng một tư tưởng như nhau, không thấy còn thích thú trong những
cuộc vui.
Ông Xá Lợi Phất nói rằng: Hai
chúng ta cũng đồng nghĩ đến việc giải thoát. Vậy việc đáng thật
hành trước nhất là chúng ta nên xuất gia tầm đạo.
Cả hai đồng tình xuất gia.
Thời kỳ ấy rất có nhiều tôn
giáo, nhưng tôn giáo mà có tên tuổi và có nhiều người sùng bái nhứt tại
Vương Xá thành là đạo ông Sanjaya. Vì vậy nên hai ông Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên chọn ông Sanjaya làm thầy và xuất gia theo giáo lý của ông ấy.
Sau khi xuất gia theo giáo phái của
ông Sanjaya, hai ông học qua triết lý của ông ấy chỉ trong vòng vài ngày
đã thuộc và hiểu biết. Vào hỏi còn những gì nữa, ông thầy bảo là hết
rồi. Hai ông thấy vậy biết rằng: Ðây không phải là đạo giải thoát.
Vậy nên hai ông bảo nhau rằng: Phạm hạnh của ông Sanjaya không đáng kể,
không phải là đường giải thoát. Cõi Diêm Phù nầy to rộng làm sao cũng
có một vị Ðại giác, vậy chúng ta chia nhau đi tìm thế nào cũng gặp; vị
cao nhơn ấy sẽ chỉ pháp hành đến nơi giải thoát cho chúng ta.
Kể từ ngày hai ông theo đạo của
ông Sanjaya thì lợi lộc đến cho đạo nầy không ít.
Khi hai ông đồng tình nghĩ như thế,
lại bảo nhau rằng: Nếu ai tìm ra được pháp bất diệt trước thì hãy
cho người kia hay để đi theo. Từ ngày ấy đi nếu hai ông nghe nơi nào có
bực cao Tăng đạo đức thì tìm đến để học đ?o.
Trong khi hai ông đang tầm đạo thì
đồng thời đức Thế Tôn đang Chuyển pháp luân tại vườn Lộc Giã độ
năm vị Kiều Trần Như và lại độ sáu mươi vị A-la-hán rồi, cho quí
Ngài ra đi mọi nơi để truyền đạo. Và cũng trong khi ấy đức Thế Tôn
cũng đang ngự tại Trúc Lâm tịnh xá.
Ngài đại A-la-hán là đức Assaji là
một trong năm vị Kiều Trần Như đang đi vào thành khất thực.
Ðồng thời là đức Xá Lợi Phất
cũng đang về chùa của ông Sanjaya. Khi ông Xá Lợi Phất trông thấy Ngài
Ðại Ðức có lục căn thanh tịnh tướng rất cai nghiêm vẻ mặt vui tươi
và đầy từ ái, ông phát tâm tín thành trong sạch với hạnh kiểm của
Ngài Ðại Ðức. Ông mới nghĩ rằng: Ta chưa bao giờ được thấy được
gặp một vị xuất gia, hay đạo sĩ nào như thế nầy, và cũng chưa bao giờ
gặp được vị nào đắc A-la-hán quả trong thế gian nầy, và cũng chưa hề
gặp được vị nào hành đạo để giải thoát khỏi bể luân hồi nầy, vị
xuất gia nầy chắc thuộc vào một trong những hạng ta chưa bao giờ gặp.
Vật ta phải vào hầu Ngài để hỏi Ngài pháp giải thoát. Ông lại nghĩ:
Vị xuất gia nầy chắc đi khất thực từng nhà, vậy ta không thể hỏi
Ngài được, ta phải theo sau Ngài rồi thừa dịp để hỏi đạo Ngài. Ta
không nên hỏi theo đường như vậy.
Vì nghĩ vậy nên ông từ từ theo
sau Ðại Ðức, đến khi Ngài khất thực vừa đủ ăn, Ngài lại đi đến
nơi thanh vắng mát mẻ chọn một nơi để ngồi xuống thọ thực. Ông Xá
Lợi Phất thấy vậy liền lấy tọa cụ của mình trải ra, lấy bình đựng
nước của mình đem đến dâng cúng, đi múc nước rửa tay cho Ngài Ðại
Ðức.
Sau khi thọ thực xong, ông Xá Lợi
Phất mới hỏi: Thưa Ngài, Ngài có mặt mày tươi tắn tỏ ra người thoát
tục, vậy Ngài xuất gia với ai? Ai là Sa môn của Ngài? Ngài học những
pháp gì?
Ngài Ðại Ðức Assaji đáp: Nầy
ông, vị đại Sa môn giòng Thích Ca bỏ ngai vàng xuất gia Ngài là Tôn sư bần
đạo, và bần đạo là người học giáo pháp của Ngài.
- Vị Tôn sư của Ngài dạy Ngài những
pháp nào?
Ðại Ðức Assaji nghĩ rằng: Thường
thường những người ngoại đạo hằng là người chống đối với Phật
giáo. Vậy ta nên dạy pháp thật cao siêu huyền diệu. Khi ấy Ngài mới dạy
rằng. Nầy ông, vì bần đạo xuất gia không bao lâu, nên không thể nào giảng
giải kinh luật rất huyền diệu của đấng Giác Ngộ được chu đáo cho
ông hiểu được.
- Bạch Ngài Sa môn, tôi tên là
Upatissa mà cũng gọi là Xá Lợi Phất, Ngài cứ dạy pháp mà Ngài đã đắc,
mặc dầu ít hay nhiều cũng được, tôi sẽ cố hiểu pháp ấy rất vi tế.
Ngài Ðại Ðức mới dạy câu kệ
rằng:
YE DHAMMÀ HETU PPABHAVÀ v.v...
Chư pháp tùng duyên sanh.
Diệt phục tùng duyên diệt.
Ngã Phật đại Sa môn.
Thường tác như thị thuyết.
Nghĩa là:
Các pháp nào sanh lại cũng đều do nhân cả, khi
nhân ấy diệt rồi, thì các pháp kia cũng diệt. Ngài đại Sa môn dạy như
vậy.
Sự thật câu kệ nầy đức Thế Tôn
dạy rất ngắn nhưng lại thâu gọn ba pháp của Tứ Diệu Ðế là Khổ, Tập,
Diệt. Ta có thể hiểu câu kệ ấy rằng sanh là do nơi phiền não và diệt
là không còn phiền não.
Chỉ nghe qua bài kệ chỉ có bốn
câu, mỗi câu tám tiếng thôi, vậy mà ông Xá Lợi Phất đắc Tu-đà-hườn
quả nên ông nói rằng: Ngài Ðại Ðức, xin Ngài khỏi nhọc lòng thuyết
thêm nữa. Bạch Ngài vậy đức Ðại Giác ngự nơi nào?
- Nầy ông, đức Ðại Giác đang ngự
Trúc Lâm tịnh xá.
- Bạch Ðại Ðức xin Ngài về trước,
tôi còn một người bạn, chúng tôi có hứa với nhau rằng: Nếu ai đắc
được pháp bất diệt trước phải về báo tin. Vì vậy tôi phải trở lại
để giải quyết vấn đề đã ước định từ trước, tôi sẽ dẫn bạn
tôi vào hầu đức Bổn Sư.
Nói xong ông liền quì xuống đảnh
lễ Ngài rất cung kính và đi quanh Ngài ba vòng rồi mới ra đi. Ðây là
phong tục của người thuở ấy tỏ lòng kính trọng người mà mình lễ
bái và kiếu từ ra đi.
Ngài Ðại Ðức thì trở về Trúc
Lâm tịnh xá còn ông Xá Lợi Phất thì trở về chùa ngoại đạo.
Khi ông Mục Kiền Liên ở chùa
trông thấy ông Xá Lợi Phất từ xa về mới nghĩ rằng: Hôm nay sắc mặt
bạn ta quang minh vui vẻ, trạng thái khác thường, chắc bạn ta đã tìm ra
pháp bất diệt. Khi ông Xá Lợi Phất đến gần mới hỏi: Ông Xá Lợi Phất
thuật lại mọi việc đã biết và nhắc lại câu kệ của Ðại Ðức
Assaji cho ông Mục Kiền Liên nghe. Ông Mục Kiền Liên cũng đắc Tu-đà-hườn
quả nên mới bảo rằng: Thôi chúng ta hãy đến nơi cư ngụ của đức Ðại
Giác.
Ông Xá Lợi Phất nói: Nầy bạn,
nay chúng ta đã đắc được pháp bất diệt rất cao quí, chúng ta nên cho
ông Sanjaya biết, dầu sao ông ấy cũng là thầy cũ của chúng ta, nếu ông
có nhiều duyên lành ông cũng có thể giác ngộ pháp cao thượng, và ông sẽ
đi đến hầu đức Chánh giác để thính pháp.
Hai ông bàn tính nhau xong, đến nơi
thầy cũ và bảo rằng: Hiện giờ đã có đấng Giác Ngộ trong cõi đời nầy
rồi, Pháp bảo của đấng Giác Ngộ đã dạy thật là chu đáo cao thượng,
Tăng là các đấng thừa hành theo lời Phật dạy là Thánh Pháp cũng đã
có. Chúng ta nên đến nơi cư ngụ của Ngài để hầu Ngài.
Ông Sanjaya nghe nói vậy mới bảo rằng:
Nầy hai con, vậy hai con nghe chuyện ấy ở đâu? Chúng ta có nhiều lợi lộc
và tiếng tăm rất lớn, dại gì làm đệ tử của kẻ khác. Ông nói rất
nhiều nhưng hai ông ấy không nghe. Ông biết rằng: Không còn phương pháp
nào ngăn được nên ông mới bảo rằng: Vậy hai con hãy đi đi, ta đã già
rồi, không thể làm đệ tử ai được nữa.
- Thưa thầy, thầy không nên nghĩ
như vậy.
- Nầy hai con, người trí thức
trong thế gian nầy nhiều hay người ngu dốt nhiều?
- Người dốt nhiều.
- Nếu vậy thì xin cho các bực trí
thức theo thầy Sa môn Cồ Ðàm, còn người ngu dốt hãy đến với ta. Vậy
hai con hãy đi đi.
Hai ông dùng hết tài biện luận để
khuyên nhủ ông Sanjaya nhưng không được, nên đành ra đi. Trong nhóm người
ngoại đạo tu theo ông Sanjaya ấy theo hai ông hết hai trăm năm mươi vị
nghĩa là đi hết phân nữa, vì vậy ông Sanjaya tức giận mửa máu ra mà chết.
Trong khi hai ông đi đến Trúc Lâm tịnh
xá nhằm lúc đức Thế Tôn đang thuyết pháp giữa hàng tín đồ. Ngài
trông thấy hai ông ấy đi đến. Ðức Thế Tôn bảo chư Tăng rằng: Nầy
chư Tăng, hai người ngoại đạo là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là
hai người bạn thân đang đến với Như Lai, và hai người ấy là hai vị
đại đệ tử chánh thức của Như Lai.
Hai ông liền dẫn hai trăm năm
mươi vị kia vào ngồi nghe pháp. Sau khi dứt thời pháp hai trăm năm mươi vị
ấy đều đắc A-la-hán quả, chỉ có hai ông không đắc chi hết. Sau khi
ấy tất cả các vị ấy đều xin xuất gia theo Phật giáo. Ðức Thế Tôn
liền đưa tay ra bảo rằng: EHI BHIKKHU v.v... Râu tóc các vị ấy biến mất
và trên mình hiện ra một bộ cà sa vàng. Thế là hai trăm năm mươi vị
ấy đã thành Tỳ khưu. Từ ngày ấy trở đi đức Thế Tôn cho gọi tên
hai vị ấy là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Vì vậy nên chúng ta ít
nghe kêu tên thật của hai Ngài.
Trong Chú giải có câu hỏi: Tại
sao hai vị đại đệ tử Phật lại không thể đắc được ba quả cao
hơn?
Ðáp: Vì hai vị ấy có trí tuệ rất
cao rộng nên không đắc mau lẹ được. Phàm người có trí tuệ không thể
nghe bướng tin càn phải suy nghĩ nên tâm không được hoàn toàn an tịnh
nên không đoạt được quả vị cao hơn.
Sau khi xuất gia được bảy ngày,
đến ngày thứ bảy, Ngài Mục Kiền Liên ở trong rừng vắng gần làng
Kallavàla cũng gần thành Vương Xá, Ngài rán hành đạo rất tinh tấn,
nhưng Ngài lại bị phiền não là hôn trầm. Ðức Thế Tôn ở xa nhưng biết
rõ căn bịnh và duyên lành của vị đại đệ tử nầy nên Ngài ngự đến
thuyết pháp phương pháp trừ hôn trầm và cách tham thiền về thể chất.
Sau khi dứt thời pháp thì Ngài đắc A-la-hán quả;
Ðức Xá Lợi Phất sau khi xuất gia
được mười lăm ngày, ngày thứ mười lăm được đi theo hầu Phật đến
cái hang tên SUKARALENA gần thành Vương Xá được nghe đức Thế Tôn thuyết
thời pháp độ cháu bà con của Ðại Ðức (Xá Lợi Phất) tên là
Dighanakha , thời pháp ấy gọi là VEDANÀPARIGGAHA (Học về Thọ). Người ấy
đắc được Tu-đà-hườn quả. Còn Ngài đắc A-la-hán quả. Khi ấy đức
Thế Tôn mới bay về Vương Xá thành có đủ mặt hai vị đại đệ tử.
Ngài Xá Lợi Phất là đệ tử tay phải. Còn đức Mục Kiền Liên là đệ
tử chánh thức tay trái.
Ðức Thế Tôn liền thuyết TÚC
SANH TRUYỆN của Ðại Ðức XÁ LỢI PHẤT và MỤC KIỀN LIÊN.
Một A-tăng-kỳ và một trăm ngàn
đại kiếp kể từ Ðại kiếp nầy về trước. Ðức Xá Lợi Phất sanh
vào một gia đình đại Trưởng giả dòng quí tộc mà hạng Bà la môn; tên
là SARADA. Sau khi mẹ cha đã quá vãng, ông nhận thấy đời không bền vững
lâu dài, của cải không đem hạnh phúc đến, khi chết lại không mang được
những gì theo mặc dầu cái thân nầy ta cho là của ta, quí trọng nó nhưng
cũng chỉ là một đống thịt xương hôi thối. Ngài mới đem của cái đã
có ra cho người nghèo khó, và xuất gia trong rừng thanh vắng, ông đắc
đư?c Ngũ thông và có đến bảy muôn bốn ngàn đệ tử.
Ðồng thời ấy có một vị Chánh
đẳng Chánh giác có hồng danh là ANOMADASÌ. Ðức Phật trông thấy duyên
lành của ông đạo sĩ Sarada; nên Ngài nghĩ rằng: Như Lai phải đến nơi
cư ngụ của vị đạo sĩ nầy ngày hôm nay, sự đến nơi ấy của Như Lai
sẽ được kết quả tốt đẹp là sẽ thuyết pháp độ vị đạo sĩ ấy,
vị đạo sĩ ấy sẽ phát nguyện là đại đệ tử tay phải của vị Chánh
đẳng Chánh giác ngày vị lai; cũng có một ông Trưởng giả tên SARIVADANA
là bạn của vị đạo sĩ ấy cũng phát nguyện làm vị đại đệ tử tay
trái của vị Chánh đẳng Chánh giác ngày vị lai. Dứt thời pháp bảy muốn
bốn ngàn vị đệ tử của vị đạo sĩ ấy sẽ đắc A-la-hán quả.
Sau khi nghĩ vậy xong, đức Thế Tôn
liền đắp y mang bát và bảo một vị Tỳ khưu ở bên ấy rằng: Như Lai
đi vắng. Rồi Ngài dùng thần thông bay đi; khi đến nơi Ngài ngự ngay trước
sân tư thất của vị đạo sĩ.
Ông đạo sĩ Sarada trông thấy đức
Thế Tôn biết chắc trong tâm rằng: Ðây là đấng Ðại Giác, đến tế độ
ta. Ông liền đến gần Phật và cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài một
cách thành kính. Rồi tự mình trải tọa cụ thỉnh đức Phật ngự lên;
còn ông thì ngồi nơi thấp hơn ở mé dưới đức Thế Tôn khi ấy tất cả
các vị đạo sĩ đem trái cây mùi vị ngọt ngon thơm rất quí đến để cúng
dường cho thầy. Khi thấy thầy ngồi dưới đức Phật ngự bên trên nên
phát tâm trong sạch kính thành liền đảnh lễ đức Thế Tôn.
Ông đạo sĩ Sarada bảo các vị đệ
tử rằng: Ðồ vật nầy của chúng ta đáng để cúng dường đến đức
Ðại Giác. Hôm nay đức Thế Tôn ngự đến khất thực nơi đây, ta nên
cúng dường tùy theo của ta đã có; các vị nên chuẩn bị những trái cây
quí để cúng đến đức Như Lai.
Các vị đạo sĩ liền đi rửa tay
cho thật sạch mới đem trái cây đến cúng dường cho đức Thế Tôn. Ðức
Thế Tôn thọ lãnh bằng bát, chư Thiên cũng nhân cơ hội ấy đem thực phẩm
đến cúng dường trong bát của đức Thế Tôn vì vậy mùi thơm của trái
cây thật thơm ngon.
Sau khi thọ thực xong, ông đạo sĩ
Sarada rót nước đem đến dâng tận tay của đức Thế Tôn. Ðức Phật lại
gọi tất cả các vị đạo sĩ đến, Ngài hỏi thăm sức khỏe và sự ăn
ở có yên vui không. Ðây là xã giao thôi không có gì về chuyện thế tục.
Khi ấy, đức Thế Tôn mới nghĩ rằng:
Hai vị đại đệ tử tay phải và tay trái cùng chư Thánh Tăng hãy đến
nơi đây.
Hai vị đại đệ tử và chư Thánh
Tăng hiểu được ý định của đức Thế Tôn nên các Ngài hiện đến
nơi ấy liền, khi hiện ra các Ngài đảnh lễ đức Phật rồi ngồi nơi phải
lẽ.
Ông Ðạo sĩ Sarada thấy chư Thánh
Tăng đến rất nhiều, chỗ ngồi lại không có đủ. Ðức Thế Tôn ngồi
nơi thấp không xứng đáng vì Ngài chỉ ngồi trên một cái tọa cụ của
ông đạo sĩ thôi. Ông Sarada mới gọi chư đệ tử của mình đến bảo rằng:
Chỗ đức Thế Tôn ngồi quá thấp, hai vị đại đệ tử không chỗ ngồi,
mà chư Thánh Tăng càng không có chỗ ngồi nữa. Các ông nên cúng dường
cao thượng đến chư Thánh nhơn có đức Phật làm chủ tọa. Vậy các ông
nên đi bẻ hoa có màu đ?p mùi thơm đem về làm bảo tọa cho cao và hai bảo
tọa hai bên cho hai vị đại đệ tử và các bảo tọa khác cao thấp khác
nhau vì có cao hạ và thấp hạ khác nhau. Các vị đạo sĩ ấy vâng lời lập
tức tạo thành một bảo tọa để Phật ngự thật là cao và đẹp. Hai bảo
tọa hai bên thấp hơn.
Trong bộ chú giải nầy hỏi: Tại
sao các vị đạo sĩ ấy tạo ra bảo tọa mau như vậy được?
Ðáp: Các vị đạo sĩ ấy toàn là
các vị có Tứ thiền và có thần thông nên các Ngài dùng thần thông nên
mau như vậy.
Sau khi sắp đặt bảo tọa và chỗ
của chư Tăng xong. Ông đạo sĩ Sarada mới đảnh lễ đức Thế Tôn và bạch
rằng: Xin kính thỉnh đức Thế Tôn ngự trên bảo tọa hầu cho chúng tôi
được sự an vui lợi ích trong kiếp nầy và vị lai.
Ðức Thế Tôn cùng hai vị đại đệ
tử và chư Thánh Tăng mới an vị nơi chỗ thích hợp với mình. Ông đạo
sĩ Sarada làm một cây lọng bằng hoa màu thật đẹp và thật thơm đem đến
che cho đức Phật.
Ðức Thế Tôn nghĩ rằng: Sự cúng
dường của vị đạo sĩ có được quả báo cao thượng. Rồi đức Thế Tôn
không nói một lời nào Ngài liền nhập Ðại định, hai vị đại đệ tử
và Chư Tăng cũng đều nhập Ðại định. (Ðịnh nầy nhập luôn bảy ngày
đêm).
Vị đạo sĩ Sarada không hề nản
chí ngã lòng, ông đứng che lộng cho đức Thế Tôn trọn cả bảy ngày
không hề ăn uống vật chi hết, nhưng vẫn khỏe vui vẻ như thường.
Sau khi xuất Ðại định đức Thế
Tôn dạy đại đệ tử tay phải của Ngài là Ngài Ðại Ðức NISABHA rằng:
Ngươi hãy làm lễ cầu chúc cuộc lễ cúng dường trái cây và chỗ ngồi
làm bằng tràng hoa của chư vị đạo sĩ này. Ðại Ðức Nisabha vâng lời.
Ngài dạy về quả báo của sự cúng dường đến các bực Thánh nhơn nhất
là đấng Giác Ngộ. Sau thời pháp ấy đức Thế Tôn dạy vị đại đệ tử
tay trái của Ngài thuyết thêm. Vị Ðại Ðức nầy vâng lời thuyết thêm.
Cả hai vị đại đệ tử thuyết xong nhưng không có vị đạo sĩ nào đắc
được quả vị chi trong Phật giáo cả. Khi ấy đức Thế Tôn mới thuyết
pháp. Khi dứt thời pháp thì cả bảy mươi bốn ngàn vị đạo sĩ đều đắc
A-la-hán quả chỉ trừ vị đại đạo sĩ Sarada không đắc chi hết vì tâm
ông ta nghĩ rằng: Ta làm sao đắc được quả vị của vị đại đệ tử
chánh thức tay mặt của Phật ngày vị lai. Ông mới đảnh lễ đức Thế
Tôn xong và bạch rằng: Bạch hóa đức Thế Tôn vị Ðại Ðức ngồi trên
bảo tọa tay phải của Ngài có quí danh là chi?
Ðức Thế Tôn đáp: Vị Tỳ khưu
ấy, đã hành xong phạm hạnh Ba la mật của một vị đại đệ tử chánh
thức tay phải của Phật. Nên đắc được Pháp nhãn, hiện nay là đại đệ
tử chánh thức tay phải của Như Lai.
Vị đạo sĩ Sarada mới phát nguyện
rằng: Do nhờ oai đức cúng dường trái cây và bảo tọa kết bằng hoa và
dùng lọng hoa đẹp che cho đức Thế Tôn cả bảy ngày. Tôi không có một
ảo vọng nào ngoài ra tôi xin nguyện được thành vị đại đệ tử chánh
thức tay mặt của vị Chánh đẳng Chánh giác sau nầy.
Ðức Thế Tôn dùng Tuệ xem lại thấy
rõ rằng: Một A-tăng-kỳ và trăm ngàn kiếp về sau nầy, sự nguyện vọng
hôm nay của ông đại đạo sĩ Sarada sẽ kết quả. Nên Ngài mới dạy rằng:
Ðến một A-tăng-kỳ và trăm ngàn kiếp sau nầy; sẽ có một vị Chánh đẳng
Chánh giác danh hiệu là GOTAMA, Phật mẫu là bà Ma Da hoàng hậu, thân phụ
là TỊNH PHẠN VƯƠNG, con trai là La Hầu La, đệ tử cận là Ananda, đệ tử
tay trái của Ngài là Mục Kiền Liên, còn đệ tử tay mặt là Xá Lợi Phất
chính là thầy hiện nay vậy.
Sau khi thuyết pháp xong, đức Thế
Tôn và chư Thánh Tăng ngự đi trên hư không về chùa.
Vị đạo sĩ Sarada bảo các vị đệ
tử rằng: Xin quí Ngài bảo cho bạn tôi biết rằng: Tôi đã phát nguyện
làm đệ tử tay phải của đức Chánh đẳng Chánh giác trong ngày vị lai.
Vậy ông cũng nên phát nguyện là đệ tử tay trái của đức Ðại Giác
ngày vị lai.
Hôm sau vị đạo sĩ Sarada đến nhà
người bạn là Sirivaddhana. Ông thấy vị đạo sĩ chỉ đến có một mình
lật đật ra rước vào trải tọa cụ mời ngồi và hỏi: Bạch Ngài, còn
các vị đạo sĩ khác đi đâu hết, mà ngài đến đây một mình?
Vị đạo sĩ thuật rõ chuyện đã
qua và nói rằng: Chư vị ấy đã đắc A-la-hán quả rồi, nên đã hầu Phật,
và chính tôi đã nguyện thành đệ tử chánh thức tay phải của Phật vị
lai.
Ông Sirivaddhana nghe qua lấy làm hoan
hỉ, ông liền cho người dọn sân cho thật rộng che rạp kết tràng hoa thật
đẹp xong lại nhờ vị đạo sĩ thỉnh đức Phật và chư Thánh Tăng ngự
đến để cúng dường.
Khi đức Thế Tôn và chư Thánh Tăng
đến nơi, ông Sirivaddhana ra tiếp bát của đức Phật thỉnh vào và trai Tăng
thật là cung kính. Ông cúng dường như thế liên tiếp bảy ngày liền, đến
ngày thứ bảy ông phát nguyện thành đệ tử chánh thức tay trái của vị
Chánh đẳng Chánh giác ngày vị lai.
Ông nguyện như vầy: Bạch đức Thế
Tôn, bạn tôi là ông đạo sĩ Sarada nguyện thành vị đại đệ tử chánh
thức tay phải của đức Chánh đẳng Chánh giác ngày vị lai. Tôi cũng xin
làm đệ tử chánh thức tay trái của vị Ðại Giác ngày vị lai. Xin cho đệ
tử đắc kỳ sở nguy?n.
Ðức Thế Tôn dùng Tuệ giác xem thấy
ông sẽ được y như ý nguyện, Ngài mới dạy như Ngài dạy ngài đạo
sĩ.
Khi thuyết xong Túc Sanh Truyện đức
Thế Tôn mới dạy rằng ông đạo sĩ Sarada ấy là tiền thân của Xá Lợi
Phất, và ông Sirivaddhana là tiền thân của Mục Kiền Liên.
Vì đã hành đủ số Ba la mật của
một vị đại đệ tử chánh thức tay phải và tay trái, nên hôm nay hai vị
mới thành hai vị đại đệ tử tay phải và tay trái.
Sau khi hai vị đại đệ tử đắc
A-la-hán quả xong nhằm ngày rằm tháng giêng. Ðức Thế Tôn mới cho hội tất
cả chư Thánh Tăng đến và thuyết về OVADAPATIMOKKHA. OVADA-PATIMOKKHA nghĩa là
lời giảng dạy Ba La Ðề Mộc Xa. Ðây chỉ dạy cho chư Thánh Tăng thôi.
Ba La Ðề Mộc Xa là tiếng âm của Phạn ngữ có nghĩa là: Giữ được
trong sạch sẽ được giải thoát.
Thời pháp nầy CATURASANNIPADA nghĩa
là phải có đủ bốn nguyên nhân mới thuyết thời pháp trên.
1) Ngày ấy phải là ngày rằm tháng giêng.
2) Hội một ngàn hai trăm năm mươi vị Thánh Tăng
có được Lục thông hội họp tại Trúc Lâm tịnh xá; không có sự kêu gọi
của đức Thế Tôn nghĩa là tự hội họp lại không có ai kêu gọi.
3) Tất cả chư Thánh Tăng hội trong đêm ấy đều
là các bực xuất gia với đức Thế Tôn bằng cách EHI BHIKKHU .
4) Chư Thánh Tăng ấy toàn là bực vô học, nghĩa
là hạng A-la-hán không còn phiền não nữa.
Ðời của đức Thế Tôn chúng ta
chỉ có thuyết được một lần thôi.
Trong bài kinh Ovàdapatimokkha ấy có
những câu tóm lại như vầy.
SABBAPAPASSA AKARANAM. Không nên làm các điều ác.
KUSALASSUPASAMPADA. Làm toàn những điều lành.
SACITTAMPARRIYODAPADA ANAM. Làm cho tâm trong sạch.
ETAM BUDDHASASANAM. Ấy là lời giảng dạy của đức Phật.
Lời Tựa | 1 | 2 | 3
| 4 | 5
| 6 | 7
| 8 | 9
| 10 | 11
| 12 | 13
| 14 | 15
| 16