- Lịch Sử Ðức
Phật Tổ Cồ Ðàm
- Maha Thongkham Medhivongs
THIÊN THỨ MƯỜI
LĂM
ÐỨC THẾ TÔN NHẬP NIẾT BÀN
-ooOoo-
Hạ thứ bốn mươi lăm đức Thế
Tôn nhập hạ tại làng Veluvagàma. Khi giữa hạ đức Thế Tôn lâm bịnh rất
trầm trọng. Nhưng Ngài dùng thiền định chế ngự bịnh ấy và Ngài nghĩ:
Chưa phải lúc Như Lai nhập Niết bàn.
Ngày nọ, đức Thế Tôn ngự dưới
bóng mát của mái chánh điện. Ðại Ðức Ananda vào hầu, khi đảnh lễ
xong bạch đức Thế Tôn rằng: Bạch đức Thế Tôn! Tôi được thấy sự
phục hồi sức khoẻ của Ngài, tôi cũng đã thấy sự nhẫn nại của
Ngài, trong khi Ngài đang lâm trọng bịnh, tôi cảm thấy thân tôi rất nặng
nề, không còn phân biệt phương hướng. Các pháp cũng chẳng hiện rõ
trong tâm, vì mắc lo nghĩ về bịnh tình của Ngài. Mặc dầu vậy nhưng tôi
cũng vẫn còn có nguồn an ủi rằng: Khi mà đức Thế Tôn chưa cho đọc
tuyên ngôn gọi chư Tăng hội lại rồi dạy một điều nào thì chắc chắn
Ngài chưa nhập diệt. Bạch đức Thế Tôn tôi chỉ còn an lòng chừng ấy
thôi.
- Ananda nầy, chư Tỳ khưu Tăng còn
hy vọng gì ở Như Lai nữa. Các pháp Như Lai đã thuyết xong rồi rất rõ rệt
nghĩa là Như Lai không còn giấu giếm một pháp nào. Như Lai là vị Thiên
Nhơn Sư, Tâm đã giải thoát khỏi ái dục, tà kiến thì đâu còn điều nào
bí mật che giấu, Như Lai đã thuyết rõ ràng cho chư đệ tử, hoặc giảng
rõ cho đệ tử hiểu biết rõ rệt đến nơi ráo rốt hoàn toàn. Ananda nầy,
nếu có người nào nghĩ rằng: Như Lai là người quản trị chư Tăng, rồi
người ấy thay mặt cho chư Tăng tỏ ra lời mến tiếc. Sự suy nghĩ quản
trị chư Tăng không bao giờ có trong tâm của Như Lai.
Nầy Ananda , Như Lai đã già rồi,
Như Lai đã tám mươi tuổi rồi, thân hình của Như Lai đã thay đổi, hiện
nay ngũ quan của Như Lai thay đổi không còn như khi xưa, tất cả mọi bộ
phận trong thân nầy đều thay đổi. Ví như chiếc xe bò cổ lỗ hư nhiều
chỗ, sở dĩ còn dùng được là nhờ có những khúc tre cột gá vào nên mới
còn nguyên vẹn thôi. Thân hình Như Lai cũng như chiếc xe ấy, nó đã đi đến
chỗ già yếu còn dùng được đến ngày hôm nay là nhờ có pháp thiền định
tạm giữ lấy không cho hư hoại, cũng như xe nhờ những khúc tre kềm lại
để dùng tạm thời thôi. Vì vậy Ananda ơi, ngươi nên tự nương nhờ lấy
bản thân mình, không có vật gì ngoài ta mà ta có thể nương nhờ được.
Ðức Thế Tôn chỉ trích thân ngũ
uẩn của Ngài cho đức Ananda nghe như vậy sau khi dứt thời pháp có rất
nhiều vị chư Thiên nghe thời pháp ấy đắc quả Thánh.
Sáng ngày hôm sau, Ngài vào thành Thất
La Phiệt khất thực xong Ngài dẫn năm trăm vị Tỳ khưu đi về thành
Vesàlì. Ðến thành Vesàlì , Ngài ngự tại rừng Mahàvana .
Trong khi ấy đức vua xứ Vesàlì
là Licchavì và hoàng tộc nghe rằng: Ðức Thế Tôn ngự đến, liền cùng
nhau lo vật cúng dường và lập tức đến hầu Phật. Ðức Thế Tôn liền
thuyết pháp độ các vị ấy. Sau thời pháp nhà vua cùng hoàng tộc xin thỉnh
cầu đức Thế Tôn ngự vào thành thọ thực sáng ngày mai. Ðức Thế Tôn
nhậm lời bằng cách lặng thinh.
Sáng ngày, đức Thế Tôn vào thành
khất thực với năm trăm vị Tỳ khưu, sau khi thọ thực xong Ngài cầu
chúc cho nhà vua rồi trở về. Ðức Thế Tôn đứng ngoài thành Vesàlì ngó
vào thành rồi dạy rằng: Như Lai thấy thành Vesàlì nầy là lần cuối
cùng. Nói xong Ngài day lại và đi luôn. Nơi Ngài đứng nói ấy sau nầy gọi
là NÀGAVA LOKA NACETIYATTHÀNA (Nghĩa là: Tháp mà không bao giờ trở lại xem nữa).
Ðức Thế Tôn bảo Ðại Ðức Ananda rằng: Ananda , ngươi nên đem ngọa cụ
theo ta, Như Lai vào nghỉ trưa tại tháp Pàlàva. Ðại Ðức liền lo thu xếp
đồ và theo Ngài đến tháp Pàvàla trải ngọa cụ để Ngài nằm; đức
Ananda ngồi hầu gần bên.
Ðức Thế Tôn dạy: Ananda , xứ
Vesàlì là xứ mà ai ai cũng ưa thích, tháp Pàvàla và tháp Gotama cũng là nơi
mà người ai cũng thích đến ngắm cảnh. Nếu người nào đã đắc được
bốn pháp Như ý người ấy lại có ý muốn sống đến một kiếp hay hơn
ấy nữa thì vẫn sống được như ý muốn. Rồi đức Thế Tôn tự vấn
và đáp lấy là bốn pháp Như ý là gì? Ðáp bốn pháp Như ý là:
CHANDA: Dục như ý (Nghĩa sự muốn trong tâm);
VIRIYA: Tinh tấn như ý (Nghĩa là sự cố gắng tinh tấn bất thối chuyển);
CITTA: Niệm như ý (Nghĩa là sự thành thật của tâm không thối chuyển);
VIMANSÀ: Tư duy như ý (Nghĩa là sự suy nghĩ chu đáo).
Mặc dầu đức Thế Tôn dạy như vậy,
nhưng đức Ananda không hiểu ý đức Thế Tôn để yêu cầu đức Thế Tôn
sống lâu để độ chúng sanh. Câu đức Thế Tôn nói có nghĩa là: Ngài là
đấng đã đắc được bốn pháp Như ý. Ngài có thể sống đến bao giờ
cũng được tuỳ theo ý thích của Ngài.
Trong chú giải có ghi câu hỏi: Tại
sao Ðại Ðức Ananda không yêu cầu đức Thế Tôn?
Ðáp: Vì đức Ananda bị Ma vương
nhập vào ám ảnh làm cho tâm Ngài mờ tối không nghĩ ra câu nói có một
ý nghĩa khác thường của đức Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn nhắc đi nhắc lại
câu ấy đôi ba phen để đánh thức trí nhớ của Ngài Ananda nhưng Ngài
không hiểu chi hết, cứ ngồi lặng thinh. Ðức Thế Tôn mới dạy Ðại Ðức
Ananda rằng: Ananda nầy, ngươi hãy tìm nơi thanh vắng để nghỉ trưa đi.
Khi đức Ananda vừa lui ra thì Ma vương
cũng vừa vào hầu đức Thế Tôn.
Khi đảnh lễ xong ngồi nơi phải lẽ
và bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn tôi xin thỉnh cầu đức Th? Tôn nhập
diệt. Kể từ khi Ngài vừa đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
lúc Ngài ngự dưới cội cây Ajapàlanigrodha (cây dừng của bọn chăn dê thường
đến nghỉ) tôi có đến yêu cầu Ngài nhập diệt, nhưng Ngài đã nhận lời
của một vị Phạm Thiên thuyết pháp độ đời. Khi ấy tôi có bạch Ngài
rằng: Ðức Thế Tôn đào tạo Ba la mật hầu đắc quả Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác, hôm nay Ngài đã đắc rồi còn phải độ đời làm gì
cho khổ thân. Xin Ngài nhập diệt sớm càng hay. Khi ấy đức Thế Tôn có dạy
rằng: Nầy Ma vương tâm đầy tội lỗi. Bao giờ đệ tử Như Lai là Tỳ
khưu, Tỳ khưu ni, thiện nam và tín nữ là người hiểu thông Tam tạng, có
thể hộ trì Phật pháp hành theo Pháp luật và thay ta giảng dạy Phật tử
sau nầy, để nhân loại và chư Thiên đắc được đạo quả Niết bàn,
truyền bá Phật pháp được sâu rộng trong thế gian nầy, khi ấy Như Lai mới
nhận lời ngươi yêu cầu nhập diệt.
Ma vương bị tiêu tan hy vọng từ
ngày ấy đến nay mới được cơ hội tốt, nên vào hầu Phật tại tháp
Pàvàla yêu cầu Ngài nhập diệt.
Ðức Thế Tôn liền dạy: Nầy Ma vương,
tâm đầy tội lỗi, ngươi không nên nặng lòng lo nữa, còn không lâu đâu
Như Lai sẽ nhập diệt, kể từ hôm nay đi ba tháng nữa Như Lai sẽ nhập
Niết bàn.
Ma vương lấy làm vui vẻ nói: Lành
thay, thiện thay, liền lui ra.
Ngày ấy là ngày mà đức Thế Tôn
đã định nhập diệt, vì vậy nên quả địa cầu rung động. Ðại Ðức
Ananda vào hầu Phật, đức Thế Tôn mới dạy nguyên nhân quả địa cầu
rung chuyển là do nơi Ngài đã định nhập diệt.
Khi nghe đức Thế Tôn dạy vậy, đức
Ananda mới bạch đức Thế Tôn rằng: Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài mở
lòng từ bi thương hại chúng sanh nên sống thêm một kiếp để tế độ
chúng sanh.
Ðức Thế Tôn dạy: Hiện giờ ngươi
không nên yêu cầu Như Lai.
Ðức Ananda yêu cầu thêm vài lược,
đức Thế Tôn khuyên Ananda ơi, ngươi có tin rằng: Như Lai đã đắc quả Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác hay không?
- Bạch đức Thế Tôn, đệ tử
tin.
- Ananda nầy, ngươi đã hành động
không chu đáo nên lỗi ấy do nơi ngươi. Khi mà Như Lai đã tỏ cho ngươi
biết ba lần, nhưng ngươi không hiểu ý nghĩa của lời Như Lai nói. Nếu
Ananda hiểu ý câu nói của Như Lai và yêu cầu Như Lai thì Như Lai chỉ từ
chối hai lần và sẽ nhận lời lần thứ ba. Nhưng Ananda không có một lời
yêu cầu: đó là lỗi của Ananda vậy. Hiện giờ đây Như Lai đã nhận lời
yêu cầu của Ma vương để nhập Niết bàn rồi ngươi mới yêu cầu, vì vậy
Như Lai (không thể nhận lời người) phải nhập diệt. Sự nhứt định nhập
diệt của Như Lai còn ba tháng nữa, và Như Lai không thể nào nói hai lời.
Ðức Thế Tôn liền khuyên rằng:
Con người dầu già, trẻ, ngu dại hoặc thông minh, sang giàu hay nghèo hèn,
những người ấy đ?u có cái chết chắc chắn trong ngày vị lai, cũng ví
như cái chén bằng đất mà người thợ gốm đã tạo ra nhỏ lớn, sống
hay chín, đẹp hay xấu đều phải đi đến chỗ bể một ngày nào. Tất cả
các pháp hành thật không bền vững đó là thế gian pháp, nó chỉ có phận
sự là sanh rồi diệt, khi đã có sống tức nhiên phải có chết, chỉ có
Niết bàn là nơi an vui tuyệt đối. Ananda nầy, đời Như Lai đã đi đến
chỗ già rồi, tuổi thọ Như Lai còn rất ít; sẽ bỏ các người lại mà
nhập diệt. Vậy các ngươi nên có trí nhớ chẳng nên dễ duôi, nên cố gắng
tạo ra sự nương nhờ cho bản thân, nghĩa là các ngươi phải thọ trì Tứ
thanh tịnh giới cho trong sạch và phải niệm về Minh sát tuệ đúng theo Sa
môn pháp. Kẻ nào hành đúng theo pháp luật, ở trong pháp luật không hề dễ
duôi, kẻ ấy có thể dứt bỏ luân hồi và đến Niết bàn được, kẻ
ấy là người đến nơi tận cùng của khổ là giải thoát đến Niết bàn.
Thuyết xong đức Thế Tôn liền gọi
đức Ananda rằng: Chúng ta đến làng Bhandugàma. Ðức Ananda sửa sang hành
trang cùng đi với đức Thế Tôn, có năm trăm vị Tỳ khưu theo hầu. Ðức
Thế Tôn ngự nơi ấy một lúc thuyết pháp độ được nhiều người đắc
Thánh quả và trở nên người Chánh kiến. Sau ấy đức Thế Tôn gọi
Ananda đến dạy: Chúng ta nên đến làng Hatthìgàma , làng Ambagàma , làng
Jampugàma và đến xứ Bhoganagana mỗi nơi Ngài ngự lại ít lâu thuyết
pháp độ đời. Rồi Ngài cùng chư Tăng đến xứ Pàvà. Khi đến xứ Pàvà
, đức Thế Tôn ngự tại Ambavana tức là vườn xoài của con người thợ
kim hoàn tên Cunda .
Khi ông Cunda nghe tin đức Chánh đẳng
Chánh giác vào ngự nơi vườn xoài của mình lấy làm vui mừng, lập tức
sắm sanh lễ vật đến cúng dường đức Thế Tôn và chư Tăng. Khi được
nghe pháp của đức Thế Tôn, ông Cunda lấy làm thỏa thích và ông đắc quả
Tu-đà-hườn. Ông liền cầu thỉnh đức Thế Tôn đến nhà ông thọ thực
sáng ngày hôm sau.
Sáng ngày đức Thế Tôn ngự đến
nhà ông Cunda thọ thực. Ông Cunda sắm lễ cúng dường rất ngon và rất
quí là Sukaramadva (nghĩa là heo sữa) là món ăn ngon nhứt trong thời ấy, món
ăn nầy có đủ năm vị.
Ðây là lời của soạn giả,
Sukaramadva có nghĩa là heo sữa mà cũng là tên một thứ nấm, tàu gọi là
nấm Chiên đàn.
Khi ấy chư Thiên trong cõi Sa bà thế
giới đem thực phẩm để vào đồ ăn của ông Cunda , vì quí vị ấy biết
rằng: Người nào được cúng dường vật thực đến đức Thế Tôn lần
chót thì phước báu vô lượng vô biên. Vì vậy nên thực phẩm của ông
Cunda có mùi vị thơm ngon.
Ðức Thế Tôn dạy ông Cunda rằng:
Nầy Cunda , món ăn Sukaramadva của ngươi cúng dường ấy, chỉ được cúng
dường cho một mình Như Lai thôi, khi còn dư ngươi phải đem chôn. Như Lai
chẳng thấy có chúng sanh nào trong Tam giới nầy có thể dùng món ấy được.
Ngươi nên cúng dường đến các vị Tỳ khưu món khác. ( Ðức Thế Tôn biết
trước rằng: Trong món ăn ấy có chất độc. Vì thực phẩm của chư Thiên
người thường không thể dùng được, hơn nữa trong vật ấy có lẫn chất
độc, và đức Thế Tôn thọ thực món ấy mà nhập diệt).
Ông Cunda vâng lời đức Thế Tôn.
Sau khi xong cuộc lễ cúng dường đức Thế Tôn ra về ngự nơi vườn xoài.
Bắt đầu sau khi cuộc trai Tăng, đức Thế Tôn thọ bịnh kiết lỵ. Ðức
Thế Tôn có dạy tiền kiếp của Ngài cho chư Tăng nghe rằng: Trong một kiếp
quá khứ Ngài là một vị lương y có chữa bịnh cho con một vị Trưởng
giả, Ngài có cho con ông Trưởng giả uống thuốc xổ, vì thuốc xổ ấy
nên con ông Trưởng giả bịnh nặng và cũng vì bịnh ấy mà chết. Nhân
nghiệp ấy nên hôm nay Ngài phải trả bằng bịnh kiết lỵ và nhập Niết
bàn vì bịnh ấy.
Hỏi: Vị lương y ấy không cố
tình làm hại con ông Trưởng giả tại sao lại bị cái nghiệp trả quả
như vậy?
Ðáp: Vì không cố ý giết, do thiếu
tác ý nên ông lương y ấy khỏi phải sanh vào địa ngục, và chỉ chịu
cái nghiệp rất ít như ta thấy đây thôi. Mà cũng do nơi nhân không có
tác ý, và tác ý là chữa bịnh ấy nên hôm nay Ngài thọ nghiệp cũng không
phải ông Cunda muốn giết hại Ngài, trái lại ông Cunda muốn dâng cúng vật
ngon cho Ngài thọ thực. Như vậy ta thấy hai tác ý rất hợp nhau đúng là
nhân nào quả ấy. Hơn nữa ta đừng nghĩ làm bác sĩ rủi phạm thuốc không
tội. Thật ra với pháp luật không truy tố vị bác sĩ, nhưng luật thừa
trừ của nghiệp báo không nể ai đâu. (Hai câu vấn đáp nầy của soạn
giả vấn đáp để giải thắc mắc của quí vị).
Khi Ngài đang lâm bịnh nhưng cũng
không nghỉ. Ngài dạy đức Ananda rằng: Ananda , chúng ta nên đến xứ Kusinàrà
.
- Lành thay, thiện thay!
Trong khi đi đường đức Thế Tôn
dùng thiền định chế ngự căn bịnh. Ngày nọ vì trời nóng bức và đi
xa đức Thế Tôn cảm thấy khát nước Ngài liền dừng chân nghỉ dưới một
cội cây cổ thụ bên đường, gọi Ngài Ananda đến bảo rằng: Ananda ơi,
Như Lai khát nước lắm, vậy Ananda hãy đi tìm nước đem đến cho Như Lai
dùng.
Ðoạn nầy chú giải có dạy rằng:
Khi xưa đức Thế Tôn thường đi khoảng đường mười tám do tuần sau khi
thọ thực xong mà Ngài không hề khát nước hay tỏ ra mệt nhọc chi cả.
Nay khát nước vì lẽ bịnh kiết lỵ hành. Sự thật khi thân nầy có thì
có những chứng bịnh như vậy. Không phải do nơi vật thực ấy mà phát bịnh.
Trái lại nhờ vật thực ấy mà đức Thế Tôn khoẻ hơn (Ðây là lời
chú giải soạn giả chỉ dịch ra không phê bình và cũng chẳng có ý kiến
xin quí vị tự xét).
Ðức Thế Tôn gọi Ðại Ðức
Ananda đến dạy rằng: Ananda nầy, nếu về sau nầy có người nghi ngờ hay
chỉ trích Cunda rằng: Ngươi là người vô phước, vì đức Chánh đẳng Chánh
giác thọ thực lần sau cùng ở nhà ngươi rồi nhập diệt. Nếu có người
nói như vậy sẽ làm cho Cunda buồn rầu ân hận. Ngươi nên giải thích oan
tình của Cunda rằng: Có hai lần dâng cúng vật thực đến Như Lai có quả
báo cao thượng nhứt là: Khi Như Lai thọ thực xong đắc quả Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác; và vật thực mà khi Như Lai thọ thực xong lại nhập
Niết bàn. Hai lần ấy có quả báo cao thượng hơn tất cả các lần khác
của thí chủ đã cúng dường trong đời của Như Lai.
Trong bộ chú giải của bài kinh nầy
có đặt câu hỏi: Tại sao hai sự cúng dường ấy có quả báo bằng nhau,
khi nàng Sujàtà dâng cúng vật thực cho Ngài rồi Ngài đắc đạo Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác nghĩa là khi thọ thực ấy là phàm nhơn xong nhờ thọ
thực ấy Ngài trở nên quả vị vô thượng. Còn ông Cunda dâng cúng vật
thực đến Ngài, Ngài đang còn sống lại nhập diệt, hai lẽ khác nhau rất
xa. Nghĩa là một người dâng vật thực để Ngài thành đạo còn một đàng
dâng vật thực để Ngài nhập diệt nếu không muốn nói là chết.
Thế thì làm sao gọi là có quả bằng
nhau?
Ðáp: Hai quả ấy bằng nhau là: Khi
cô Sujàtà dâng cúng đức Thế Tôn còn là vị Bồ Tát và nhờ nơi ấy đức
Thế Tôn đắc quả Hữu Dư Niết Bàn. Còn ông Cunda dâng cúng đức Thế Tôn
khi Ngài đoạt được quả Hữu Dư Niết Bàn xong rồi, Ngài nhờ vật thực
ấy mà đắc Vô Dư Niết Bàn vì hai lần dâng cúng ấy làm cho Ngài đoạt
được Niết Bàn nên Ngài gọi rằng: Hai lần cúng dường ấy có quả báo
ngang nhau.
Một lẽ nữa khi Ngài thành đạo
Ngài phải trải qua một thời gian nhập định vào ra định đến hai mươi
bốn muôn kinh lần mới đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Và
khi Ngài nhập diệt cũng vậy Ngài cũng phải nhập định xuôi ngược cả
hai mươi bốn muôn kinh lần mới nhập diệt vì vậy nên hai lần dâng cúng
ấy có kết quả bằng nhau.
Xin quí vị hiểu như thế này: Nhờ
cô Sujàtà cúng dường vật thực nên đức đại Bồ Tát thọ thực ấy
xong đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sau ấy bảy tuần lễ
Ngài không thọ thực chi hết là do nhờ bốn mươi chín vắt cơm của cô
ấy. Còn ông Cunda dâng cúng vật thực ấy mà Ngài dứt bỏ ngũ uẩn nầy.
Vì vậy nên hai điều bố thí ấy có quả báo bằng nhau.
Ðức Thế Tôn có dạy rằng: Nhân
vật nào hằng bố thí thì nhân vật ấy hằng được phước. Nhân vật
nào cố gắng thu thúc không dám làm tội, nhân vật ấy sẽ không có oan
trái oán thù nhiều. Người thường làm phước thiện là người dứt bỏ
được nhiều sự xấu xa đê tiện, và người ấy là người diệt được
lòng tham ái, sân hận, si mê và đắc Niết Bàn.
Ðại Ðức Ananda bạch Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn vừa rồi có năm trăm xe thương hồ vừa qua con suối
nầy vì vậy nên nước rất đục; ở trước đây có con sông Kukkuta nước
rất trong và mát bên bờ sông có cây to. Vậy xin đức Thế Tôn ngự đến
nơi ấy, nếu muốn tắm rửa cũng mát mẻ.
Ðức Thế Tôn nghe vậy nhưng Ngài
cũng vẫn bảo đức Ananda đi múc nước ấy và Ngài dùng. Ngài bảo đôi
ba lượt rằng: Ngươi hãy đi múc nước ấy lại đây, Như Lai đang khát nước
lắm.
Lạ thay, khi đức Ananda đến nơi mé
suối ấy thấy nước trong và mát như có người đã lọc sẵn. Ðức
Ananda lấy làm lạ lấy bình bát múc nước đem về dâng Phật. Ðức Thế
Tôn thọ xong dạy rằng: Chúng ta hãy đi đến con sông Kukkuta .
Ðức Ananda đáp: Lành thay, thiện
thay!
Khi đến mé sông đức Thế Tôn tỏ
vẻ muốn tắm, Ðại Ðức Ananda biết ý Ngài liền đem choàng tắm đến dâng,
đức Thế Tôn thay đồ xuống tắm. Khi tắm xong lên thay đồ dưới một cội
cây xoài. Ðức Thế Tôn gọi một vị Ðại Ðức tên là Cundathera đến dạy
rằng: Ngươi lấy y Tăng già Lê của Như Lai xếp đôi lại trải nơi đây,
Như Lai muốn nằm nghỉ nơi nầy. Ðức Thế Tôn bảo Ðại Ðức Cundathera
như vậy vì Ðại Ðức Ananda bận phơi choàng tắm của Ngài. Ðức Thế
Tôn nằm nghỉ cách nằm theo nhập định. Chư Tăng nhân dịp ấy xuống tắm
ở sông Kukkuta , khi tắm xong lên ngồi hầu Phật.
Ðức Thế Tôn gọi Ðại Ðức
Ananda đến bảo: Ananda , chúng ta phải đi đến Sàlavana của vua Malla và đến
Kusinàrà ở bên kia sông Hiranàvati. Ðại Ðức vâng lời đi theo Phật cùng
năm trăm vị Tỳ khưu.
Trong bộ chú giải nầy có câu hỏi:
Vì sao đức Thế Tôn gấp đi trong khi Ngài đang bịnh trầm trọng. Tại sao
phải nhập diệt tại thành Kusinàrà không nhập diệt nơi nào khác?
Ðáp: Có ba nguyên nhân mà Ngài cần
phải nhập diệt ở xứ Kusinàrà
1) Ngài nghĩ: Nếu Như Lai nhập diệt
nơi nào ngoài ra Kusinàrà Như Lai sẽ không có dịp thuyết thời pháp
Sudasana. Khi Như Lai thuyết thời pháp Sudasana thì có nhiều người đắc quả
và rất nhiều người trong sạch với Tam bảo làm phước thí sẽ là con
đường đi đến Thiên đàng và Niết bàn. Thật một đấng Ðại Từ Bi
trót đời chỉ nghĩ đến hạnh phúc của chúng sanh, đến giờ phút cuối
cùng đang lâm trọng bịnh mà cũng vẫn nghĩ đến chúng sanh không màn gì bản
thân mình, miễn làm sao chúng sanh hiểu được chân lý.
2) Nếu Như Lai nhập diệt nơi nào
khác thì người ngoại đạo tên Subhadda không được gặp Như Lai, thì
không ai độ Subhadda được vì Subhadda là người có duyên với Phật chớ
không có vị Thinh Văn Duyên Giác nào khác độ ông được. Khi ta nhập diệt
tại Kusinàrà thì Subhadda sẽ vào hầu ta và vấn đạo, khi Như Lai giảng rõ
Subhadda sẽ hiểu lý đạo xin xuất gia thiền định đắc A-la-hán quả trước
giờ Như Lai nhập diệt. Ðây là người học trò chót của ta.
3) Lại nữa nếu ta nhập diệt nơi
nào khác, nhứt là nơi xứ của một cường quốc thì trận chiến tranh vì
giành Xá lợi của ta lại phát sanh. Máu nhân loại lại đổ như sông. Khi
Như Lai nhập diệt tại Kusinàrà sẽ có thầy Bà la môn tên Dona đứng ra
ngăn cản chiến tranh và chia Xá lợi của ta cho các xứ đến đòi hỏi.
Chiều hôm ấy, đức Thế Tôn và
chư Tăng đến Sàlavana. Nơi nầy có đủ tiện nghi và rất trang nhã, có cửa
tam quan rất đẹp, có ao sen, có đủ kỳ hoa dị thảo mùi thơm ngào ngạt,
nơi đây là nơi hàng vua chúa xứ Malla thường đến nghỉ mát. Có một
tòa nhà xây bằng đá thật tuyệt mỹ gần tòa nhà ấy có hai cây cổ thụ
cành lá giao nhau thật là đẹp, khoảng giữa hai cây cổ thụ ấy có một
tảng đá to bóng như gương đây là một cái giường để vua Malla ngự.
Khi vào đến nơi, đức Thế Tôn bảo
Ðại Ðức Ananda rằng: Nầy Ananda người dọn tảng đá nầy cho sạch rồi
trải y Tăng già Lê lên đầu day về hướng Ðông Như Lai đã mệt mỏi lắm
phải nghỉ nơi nầy.
Ðức Thế Tôn an ngọa, mình
nghiêng về tay mặt, bàn tay mặt xoè ra để lót dưới vành tai mặt; đầu
day hướng Bắc, mắt nhìn hướng Tây.
Ðức Ananda vâng lời làm đúng theo
lời dạy của đức Thế Tôn. Khi đức Thế Tôn nằm nghỉ, Ðại Ðức
Ananda cùng người làm vườn thượng uyển lo treo màn bên ngoài để đức
Thế Tôn nằm day đầu về hướng Bắc tay để dưới mặt, chân mặt tréo
lên chân trái, đây là phép nằm theo thiền định. Ðức Thế Tôn nhứt định
nằm nơi ấy đến khi nhập diệt.
Khi ấy hai cây cổ thụ là cây
Sàla trổ bông từ dưới gốc cây đến trên ngọn, mùi hoa thơm tỏa đi khắp
một vùng lạ nhứt là mùa ấy không phải là mùa hoa Sàla nở, và càng lạ
hơn là các thứ hoa to như cây dù từ trên hư không rơi xuống như trong ấy
có bông Mạn thù lớn và Mạn thù nhỏ, mùi hoa nầy thơm không sao tả được.
Ðó là hoa lạ của chư Thiên cúng dường Phật bảo. Khi ấy tiếng ong bay
bướm lượn nghe như tiếng than khóc ai oán não nề, hoa của hai cây cổ thụ
Sàla rụng liên miên không ngớt, không khác nào giọt lệ của chúng sanh
đang khóc người cha lành sắp lìa bỏ cõi đời, đàn con thơ dại bơ vơ
giữa biển rộng rừng sâu có nhiều điều tai biến. Lúc ấy mặt trời cũng
vừa lặn để lại ánh sáng vàng lợt lạt hình như mặt nhựt cũng không
muốn xa lìa đức Ðại Giác tâm rất từ bi, và cũng như buồn vì ánh
sáng của bản thân không đủ soi rõ đường cho chúng sanh đi ra ngoài vòng
cương tỏa của Ma vương, hôm nay ánh sáng huyền diệu nhứt làm cho Ma vương
thúc thủ và hãi hùng sắp tắt. Ánh trăng cũng vừa lố mọc làm cho cây cờ
sáng tươi hình như muốn thoa dịu cõi lòng của những đứa con đau khổ
khi cha sắp lìa bỏ cõi đời. Cùng lúc ấy địa cầu rung chuyển sấm nổ
vang trời, chư Thiên đánh trống vang rền; mưa hoa đầy mặt đất, đâu đâu
cũng có hoa thơm, đây là chư Thiên muốn cúng dường lần chót đến đức
Thế Tôn.
Khi đức Thế Tôn thấy sự cúng dường
trọng hậu của chư Thiên như vậy, Ngài muốn dạy cho chúng sanh biết có
hai thể thức cúng dường là cúng dường vật thực và cúng dường là sự
hành theo chánh pháp để chúng sanh hiểu rõ hành theo. Ngài liền dạy Ananda
rằng: Nầy Ananda ! Người và chư Thiên cúng dường trọng thể đến Như
Lai như thế nầy, người và chư Thiên ấy không gọi là cúng dường trọng
thể và kính trọng đức Như Lai. Nếu hàng Tứ chúng là Tỳ khưu, Tỳ
khưu ni, Thiện nam, Tín nữ hành đúng theo lời răn dạy của Như Lai mới gọi
là người cúng dường trọng thể và cung kính Như Lai bằng cách hành đạo
cao thượng, người nầy sẽ được quả báo cao thượng hơn hết tất cả
các điều cúng dường khác.
Rồi đức Thế Tôn thuyết tiếp:
Ananda ơi! Như Lai sẽ nhập diệt trong canh chót đêm nay.
Khi Ðại Ðức Ananda nghe vậy lấy
làm buồn không cầm được hai giòng lệ, liền bạch Phật rằng: Xin đức
Thế Tôn đừng vội nhập diệt xứ nầy, vì xứ nầy là một tiểu quốc
là một xứ ở xa Vương Xá thành, còn có nhiều xứ lớn như Campa (đọc là
Champa) Vương Xá, Sisaket , Thất La Phiệt, Bàrànasì , Kosambì v.v... Các nơi
ấy mới xứng đáng là nơi Ngài nhập diệt. Vì nơi ấy có vua chúa sang trọng,
các vị trí thức như Bà la môn, cũng có nhiều Trưởng giả, là những bực
có đức tin với Ngài. Những vị ấy sẽ làm lễ hỏa táng và cúng dường
long trọng.
Ðức Thế Tôn khuyên đức Ananda rằng:
Ananda ơi! Ngươi không nên chỉ trích xứ Kusinàrà là xứ bé nhỏ và bán
khai. Lúc quá khứ nơi nầy là một xứ phồn thịnh và tiến hoá hơn tất
cả các xứ đồng thời. Ðức vua ngự trị xứ nầy là vị Chuyển luân
Thánh vương cai trị bốn châu thiên hạ. Ðức vua ấy tên là Mahasunasana.
Thủ đô xứ nầy khi xưa tên là Kusàvatì , bề dài mười hai do tuần, bề
ngang bảy do tuần là nơi cư ngụ của các vị tu hành, các bực trí thức
và hàng vương giả cùng trưởng giả.
Ðức Thế Tôn có thuyết bài kinh gọi
là Sudasadasutta. Sau khi dứt thời pháp đức Thế Tôn dạy Ðại Ðức Ananda
rằng: Ngươi hãy vào thành Kusinàrà bảo cho vua Malla biết rằng: Như Lai sẽ
nhập diệt tại vườn thượng uyển trong canh chót đêm nay. Xin quí vị đừng
để ân hận rằng: Ðức Thế Tôn nhập diệt trong xứ mà ta không được
yết kiến Ngài lần chót. Hãy lập tức đến hầu Ngài không nên diên
trì.
Ðại Ðức Ananda nói: Lành thay, thiện
thay! Rồi Ngài liền vào thành Kusinàrà bảo cho vua Malla hay theo lời Phật
dạy.
Vua và hoàng tộc xứ Malla hay tin
ấy lấy làm buồn rầu nên than khóc vang lên, nhưng cũng không quên lo sửa
sang vật liệu đem đến cúng dường. Những vị ấy kể lể rằng: Thật
đáng tiếc thay! Ðức Ðại Từ Bi là đấng cha lành vội nhập Niết bàn bỏ
đàn con khờ dại lại làm mồi cho Ma vương ác quỉ, ngọn đuốc soi đường
cho nhân loại sắp tắt. Quí Ngài vào đến nơi đảnh lễ đức Thế Tôn.
Khi ấy có người ngoại đạo tên
là Subhadda được nghe tin rằng đức Chánh đẳng Chánh giác sắp nhập Niết
bàn. Ông mới nghĩ: Ông đại Sa môn Cồ Ðàm sẽ nhập diệt canh chót đêm
nay. Ta phải đến để hỏi những nghi vấn của ta từ bấy lâu nay trước
giờ ông nhập diệt. Ông ngoại đạo Subhadda lật đật đến nơi Phật ngự,
nói với Ðại Ðức Ananda rằng: Thưa ông, tôi muốn vào yết kiến ông đại
Sa môn Cồ Ðàm để hỏi những sự nghi ngờ trong lòng tôi.
Ðại Ðức Ananda nghĩ: Lẽ thường
bọn ngoại đạo là người ngoan cố chấp lấy cái hiểu biết của mình
không bao giờ biết phục thiện. Ông ta sẽ hỏi nhiều điều làm cho đức
Thế Tôn giải đáp càng thêm mệt nhọc. Ngài liền bảo rằng: Nầy ông
Subhadda ơi! Ông không nên đến làm bận đức Thế Tôn giờ phút chót, hiện
giờ Ngài đang mệt nhọc. Ngài Ðại Ðức đứng chận nơi ra vào không cho
ông vào, nhưng ông ta không nản lòng một mực yêu cầu xin cho được vào
yết kiến Phật lần cuối cùng. Ông yêu cầu bằng nhiều lượt nhưng không
đắc thành sở nguyện.
Khi ấy đức Thế Tôn được nghe
hai vị bàn cãi với nhau nên Ngài bảo đức Ananda rằng: Ananda ơi, ngươi
không nên ngăn cản Subhadda. Sở dĩ Như Lai không nại khổ cực đường sá
xa xuôi đến nhập diệt nơi đây không có chi hơn là độ Subhadda , vậy
ngươi nên để Subhadda vào hầu Như Lai.
(Nơi đây chúng ta là đệ tử Phật
thì ai cũng chẳng nhìn thấy lòng đại từ bi của Ngài đối với chúng
sanh mặc dầu giờ phút cuối cùng không còn mấy giờ và đang lâm trọng bịnh
cũng vẫn cố độ đời).
Ðức Ananda vâng lời để cho ông
Subhadda vào hầu Phật. Khi vào đến nơi đảnh lễ Phật xong ngồi nơi phải
lẽ rồi hỏi Phật: Bạch Ngài đại Sa môn Cồ Ðàm. Tất cả các vị Sa
môn, Bà la môn và sáu vị Tổ sư của sáu giáo phái lớn hiện nay hằng
nói rằng: Ta là Sa môn. Vậy những vị ấy có hành đúng theo đường lối
của Ngài, hay những người ấy có đường lối riêng khác hơn của Ngài,
hoặc giả có nơi khác nhau và cũng có chỗ giống nhau. Vậy những vị ấy
có thể giải thoát khỏi luân hồi khổ không?
- Nầy thầy Subhadda , ngươi chẳng
nên hỏi đến những điều của các giáo pháp khác, người nên cố để tâm
trong sạch nghe pháp của Như Lai dạy ngươi. Pháp hành của Như Lai đúng đắn
theo đường lối giải thoát là Bát chánh đạo. Người thấy hiểu rõ Bát
chánh đạo bằng Tuệ nhãn rồi là người đã đắc Tu-đà-hườn quả, là
bực Sa môn hạng Dự lưu hay cũng gọi là hạng sơ khởi. Rồi hành cho đắc
được Tư đà hàm quả là hạng Sa môn bực nhì, đến bực A na hàm là hạng
Sa môn bực ba, đến A-la-hán là hạng Sa môn bực tư. Nầy Subhadda , khi nào
còn các vị Sa môn hay Bà la môn là hạng Tỳ khưu trong Phật giáo hành
chân chánh ráo rốt theo Bát chánh đạo, có thể nhờ sự hành chân chánh
ấy đắc được A-la-hán quả thì có thể gọi là thế gian còn có bực Sa
môn nhứt, nhì, ba, tư. Và không có nhân vật nào có thể giải thoát (nếu
không hành theo Bát chánh đạo).
Khi ông nghe đức Thế Tôn dạy tâm
ông rất trong sạch nên phỉ lạc phát sanh rất dũng mãnh, đảnh lễ đức
Thế Tôn và bạch: Bạch Ngài Cồ Ðàm là đấng cao quí nhứt dòng Thích
Ca. Pháp bảo mà Ngài đã dạy tôi thật là pháp giải thoát và cao quí nhất
không còn chi sánh bằng. Chính tôi là kẻ ngu ngốc tối mê nên không thể
thông hiểu từ lâu, và cũng chẳng nghe pháp của Ngài là pháp có đủ
phương tiện độ đời khỏi khổ. Ông liền xin cho ông xuất gia, đức Thế
Tôn dạy Ðại Ðức Ananda làm lễ xuất gia cho ông. Chính đức Thế Tôn dạy
thiền định cho ông. Ông dùng trí tuệ quan sát ba tướng là Vô thường,
Khổ não và Vô ngã, đắc A-la-hán quả cả tuệ Phân tích trước khi đức
Thế Tôn nhập diệt.
Trong chú giải có để câu hỏi: Tại
sao vị Tỳ khưu Subhadda đắc A-la-hán quả sau rốt đến lúc đức Thế Tôn
sắp nhập diệt?
Ðáp: Lúc quá khứ trong một gia đình
kia có hai anh em; cả hai đều có đức tin làm phước nhứt là bố thí. Người
anh có cúng dường vật thực đến hai vị đại đệ tử chánh thức đến
chín lần. Khi làm ruộng hai anh em làm chung nhau. Ðến khi lúa vừa ngậm sữa
đồng đồng thì người anh nói với em rằng: Anh sẽ đem lúa đang ngậm đồng
đồng ra xay lấy nước ấy nấu với sữa và đường mật cúng dường đến
chư Tăng có đức Thế Tôn làm chủ tọa. Khi ấy nhằm thời kỳ của đức
Thế Tôn có hồng danh là Padumuttara. Người em nghe anh nói vậy không bằng
lòng vì sợ hao lúa, nên hai anh em phải chia ruộng ra mà làm. Người anh làm
theo ý muốn của mình, và sau ấy ông còn làm chín thứ cốm dẹp cúng dường
cho chư Tăng chín lần có đức Thế Tôn làm tọa chủ.
Còn người em thì đợi đến bao giờ
gặt hái xong mới bố thí. Vì vậy nên đến thời kỳ đức Thế Tôn của
chúng ta hiện tại, người anh sanh lại là Ðại Ðức Kiều Trần Như đắc
A-la-hán quả trước nhứt. Còn người em sanh lại là ông Subhadda đắc quả
sau hết.
Sau khi dạy thiền định cho ông
Subhadda xong, đức Thế Tôn dạy đạo cho chư Tăng. Riêng Ðại Ðức Ananda
càng nghe lời giảng dạy của đức Thế Tôn càng thấy lòng mình đau khổ
vì Ngài đinh ninh rằng Ngài sẽ mất người thân yêu kính mến nhứt đời
Ngài, Ngài nghĩ: Nếu ta than khóc gần nơi Phật ngự; làm cho đức Thế Tôn
không được an lòng; tốt hơn ta tìm nơi vắng vẻ khóc than. Nghĩ xong Ngài
ra khỏi nơi chư Tăng đang nghe lời giáo huấn. Ngài liền đến nơi một cánh
cửa xa vắng tay vịn ngạch cửa khóc than: Thật ta là người vô phước đã
theo hầu Phật từ lâu ví như bóng với hình đến giờ ta vẫn còn trong
hàng Hữu học (Người đắc từ Tu-đà-hườn trở lên tới A na hàm là hạng
hữu học, ý nói học để đến quả A-la-hán mới là hạng vô học, nghĩa
là đến nơi giải thoát khỏi học hành gì nữa). Phận sự của người xuất
gia ta chưa hành xong mà đức Thế Tôn vội bỏ ta lại nhập Niết bàn.
Ngài đành bỏ Ananda lại trên đời nầy bơ vơ một mình, bắt đầu từ sáng
mai nầy Ananda dâng nước cho ai súc miệng, trải tọa cụ cho ai ngồi? Mang
vật dụng cho ai?
Khi đức Thế Tôn thuyết pháp
không thấy có Ðại Ðức Ananda trong hàng Tăng chúng, Ngài mới hỏi: Ananda
đi đâu vắng?
Chư Tăng đáp: Bạch đức Thế Tôn,
Ðại Ðức Ananda níu ngạch cửa than khóc rất thảm thương.
Ðức Thế Tôn dạy đi gọi Ananda vào.
Ðức Thế Tôn dạy Ngài Ananda rằng: Ananda ơi, người không nên buồn rầu
khóc lóc than van, Như Lai đã dạy ngươi rồi: Lẽ cố nhiên của các pháp
hành là thường xa lìa các nhân vật thương yêu. Các pháp đều là vô thường.
Hơn nữa Ananda là người đệ tử hầu cận ta từ lâu, sự hầu cận giúp
đỡ một đấng Giáo chủ như Như Lai sẽ không có lợi ích chi hết. Ananda
nầy, người đã có đào tạo Ba la mật rất nhiều từ ngàn xưa, ngươi chẳng
nên than khóc đau buồn hãy rán cố tinh tấn đừng dễ duôi, không bao lâu
thì ngươi sẽ diệt được phiền não, ngươi sẽ đắc A-la-hán quả khi kết
tập Tam tạng lần thứ nhứt (sau khi Như Lai nhập diệt ba tháng).
Khi trời rựng sáng hào quang sáu
màu bao quanh mình đức Thế Tôn một sải tay càng chói ngời rực rỡ khác
thường. Ðức Thế Tôn hỏi Ðại Ðức Ananda rằng: Lúc nầy là canh mấy
rồi?
- Bạch đức Thế Tôn, trời rựng
sáng rồi.
- Ngươi nên hội chư Tăng lại đây.
- Bạch đức Thế Tôn, chư Tăng đã
hội nơi đây rồi.
Khi ấy đức Thế Tôn dạy rằng: Nầy
chư Tăng, hiện nay khi Như Lai còn tại thế Như Lai là thầy của các ngươi.
Sau khi Như Lai nhập định rồi thì còn có tám muôn bốn ngàn pháp môn là
thầy của các ngươi thay Như Lai để dạy bảo các ngươi. Các ngươi đừng
bao giờ nghĩ rằng: Khi Như Lai nhập diệt thì Pháp bảo cũng tiêu diệt,
không phải là thầy ta. Nhưng trái lại những pháp luật mà Như Lai đã
giáo truyền, pháp luật ấy lại là thầy các ngươi sau khi Như Lai đã nhập
diệt.
Rồi đức Thế Tôn mới chia ra những
điều luật như điều nầy vô tội, điều kia có tội vì phạm vào điều
cấm của Phật, điều nọ có tội vì phạm vào điều cấm của chính phủ.
Ðiều nầy có tội không phải phạm vào điều luật của Chánh phủ mà
vì phong tục của người đời. Ðiều nầy có tội vì phạm vào pháp luật
của Phật mà theo luật của chánh phủ cũng phạm. Chẳng hạn buôn lậu,
hay chạy đồ quốc cấm giùm cho một người nào lợi dụng nhà Sư. Còn phạm
vì người đời chỉ trích hay vì phong tục là như nhà sư vào ăn trong tiệm,
hay hàng cơm. Khi có người tín đồ thấy hay không phải tín đồ chỉ trích
rằng: Người xuất gia mà vào ăn trong các nơi nầy coi không được. Hay
người ta mà dùng đồ của người thế tục những vật ấy khi Phật còn
tại thế không có, vì vậy trong luật không có để, nhưng khi thầy Tỳ
khưu dùng có người chỉ trích rằng: Các bực xuất gia dùng đồ ấy coi
không được. Ðiển hình như dùng máy chụp ảnh. Thật không thích hợp với
các bực xuất gia. Nói tóm lại người xuất gia không nên dùng những gì
như người cư sĩ. Vì người xuất gia là người đi ngoài vòng tục lụy.
Kể từ hành động như nói, cười cũng có khác hơn người cư sĩ.
Ðức Thế Tôn có dạy: Sau khi Như
Lai nhập diệt pháp luật là thầy của các ngươi. Các ngươi nên ở dưới
cội cây hay nhà thanh vắng hành Minh sát tuệ, không nên làm điều gì mà
có sự hối tiếc về sau. Nên giữ Tứ thanh tịnh giới cho thật trong sạch,
nên dùng trí tuệ quan sát thấy các pháp hành đáng kinh sợ và sợ sự
luân hồi.
Sau khi dạy xong đức Thế Tôn muốn
nhắc chư Tăng nên kính trọng Pháp bảo nên Ngài có dạy câu cuối cùng rằng:
AMANTAYÀMI VO BHIKHAVE v.v... Nghĩa: Như Lai xin giã biệt các thầy nhập Niết
bàn. Nầy các thầy Tỳ khưu, các pháp hành hằng có sự tiêu diệt về
ngày vị lai, các thầy nên giữ mình cho trong sạch bằng pháp không dễ
duôi. Ðây là lời cuối cùng của đức Ðại Giác.
Sau khi dạy xong câu ấy đức Thế
Tôn liền nhập Tứ thiền Hữu sắc bắt đầu từ Sơ thiền trở lên, khi
xuất Tứ thiền Hữu sắc liền nhập vào Sơ thiền Vô sắc lần lên đến
Tứ thiền Vô sắc lại trở ngược lại Tam thiền Vô sắc, tới Sơ thiền
Vô sắc lại vào Tứ thiền Hữu sắc, Ngài trở ngược xuôi như vậy sau lại
đến Tứ thiền Vô sắc ra Tứ thiền Vô sắc, Ngài liền nhập đại định
gọi là Diệt thọ Vô tưởng định.
Khi ấy Ðại Ðức Ananda hỏi Ðại
Ðức Anuruddha rằng: Hiện giờ đức Thế Tôn ở nơi nào? Ngài nhập diệt
chưa?
- Chưa, Ngài còn đang ở trong Diệt
thọ Vô tưởng định.
Chú giải hỏi: Tại sao Ngài Ðại
Ðức Anuruddha biết rõ đức Thế Tôn đang ở nơi nào?
Ðáp: Ngài muốn biết đức Thế Tôn
nhập diệt nơi nào nên Ngài theo coi. Vì vậy Ngài biết rõ từng mỗi chi
tiết.
Ðức Thế Tôn trở đi trở lại
như thế đến lần chót Ngài nhập diệt ở khoảng giữa của Tứ thiền Hữu
sắc và Vô sắc. Vì vậy nên Ma vương muốn biết Ngài nhập diệt nơi nào
bằng cách nào không sao hiểu nổi.
Lời Tựa | 1 | 2 | 3
| 4 | 5
| 6 | 7
| 8 | 9
| 10 | 11
| 12 | 13a
| 13b | 13c
| 14 | 15
| 16