- Lịch Sử Ðức
Phật Tổ Cồ Ðàm
- Maha Thongkham Medhivongs
THIÊN THỨ MƯỜI
BA (a)
NHỮNG CHUYỆN LẠ XẢY RA TRONG BỐN
MƯƠI LĂM NĂM
TRUYỀN ÐẠO CỦA ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM
-ooOoo-
Trong bốn mươi lăm năm truyền đạo
đức Thế Tôn ngự cả thảy mười chín nơi. Và cũng có lắm chuyện xảy
ra, nhưng trong lịch sử không ghi chép ngày tháng năm thật rõ. Nhứt là có
những chuyện lạ khó đem lại trình bày đầy đủ trong phạm vi của một
quyển sách nhỏ này. Nơi đây tôi (soạn giả) cố gắng sưu tầm những gì
tôi có thể sưu tầm được.
Mười chín nơi của đức Thế Tôn
ngự trong bốn mươi lăm hạ.
1) Hạ thứ nhứt, đức Thế Tôn ngự
tại vườn Lộc Giã gần thành BÀRÀNASÌ độ năm vị Ðại Ðức Kiều Trần
Như.
2) Hạ thứ nhì, thứ ba và thứ tư,
ngự tại VELUNANA (Tàu dịch là Trúc Lâm tịnh xá) độ đức Bình Sa Vương
và chúng sanh.
3) Hạ thứ năm, ngự tại KUTÀGÀRASÀLÀ
ở rừng MAHÀVANA gần thành Vesàlì.
4) Hạ thứ sáu, ngự tại núi
MAKUTA gần thành MAGADHA (Tàu âm là Ma Kiệt Ðà).
5) Hạ thứ bảy, Ngài ngự tại
cõi trời Ðạo Lợi thuyết bộ Vi Diệu Pháp bốn muôn hai ngàn pháp môn độ
Phật mẫu.
6) Hạ thứ tám, Ngài ngự tại
BHESAKALAVANA tại xứ SUMÀRADÌRA .
7) Hạ thứ chín, Ngài ngự tại
chùa GHOSITÀRÀMA gần thành KOSAMBI ở nơi bờ sông YAMUNA .
8) Hạ thứ mười, Ngài ngự tại rừng
Parileyyaka gần thành Kosambi độ bạch tượng và khỉ. Sở dĩ mà Ngài ngự
tại rừng này vì Ngài khuyên chư Tăng đừng gây nhau, nhưng chư Tăng không
nghe lời Ngài.
9) Hạ thứ mười một, Ngài ngự tại
làng Bà la môn tên Nàraya gần xứ Narà .
10) Hạ thứ mười hai, Ngài ngự tại
cội cây Sầu Ðông gần xứ Veranjarà vì ông Bà la môn tên VERANJARÀ thỉnh
cầu.
11) Hạ thứ mười ba, Ngài ngự tại
núi Càliya .
12) Hạ thứ mười bốn, Ngài ngự
tại JETAVANAVIHÀRA (Kỳ Viên tịnh xá của Trưởng giả Cấp Cô Ðộc gần
thành SAVATTHÌ (Thất La Phiệt).
13) Hạ thứ mười lăm, Ngài ngự tại
chùa NIGRODHA thành Ca Tỳ La Vệ của quyến thuộc Ngài dâng cúng.
14) Hạ thứ mười sáu, Ngài ngự tại
chùa AGALAVA xứ Alavì, độ Dạ xoa ALAVAKA .
15) Hạ thứ mười bảy, ngự tại
Trúc Lâm tịnh xá thành Vương Xá ( Ràjagaha ).
16) Hạ thứ mười tám và mười chín,
Ngài ngự tại núi Càla .
17) Hạ thứ hai mươi, Ngài ngự tại
Trúc Lâm tịnh xá ở thành Vương Xá.
18) Từ hạ thứ hai mươi mốt tới
bốn mươi bốn, Ngài ngự tại Kỳ Viên tịnh xá thành Sàvathi (Thất La Phiệt).
Trong thời gian này đức Thế Tôn đi thuyết pháp độ đời mọi nơi nhưng
khi nhập hạ Ngài về ngự tại Kỳ Viên tịnh xá.
19) Hạ thứ bốn mươi lăm, Ngài ngự
tại làng Veluvagàmakhetta xứ Vesàlì và nhập diệt tại thành Vesàlì .
Trước hết nơi đây tôi xin giải
tám điều gọi là BUDDHAJA YAMAN GALAGATHA nghĩa là: Kệ kể lại sự cảm
hóa tám nhân vật bằng tám oai đức của đức Thế Tôn. Bài kinh này Ðại
Ðức Hộ Tông có dịch và ấn tống trong Kinh Tụng. Nhưng Ngài chỉ dịch
theo lời kinh thôi, riêng tôi viết nguyên một tích. Mỗi câu kệ là mỗi
chuyện tích để quí vị dễ thông hiểu. Theo lời dạy thì người nên cố
tụng niệm tám câu kệ ấy sẽ được an lành trong gia đình.
THẮNG MA VƯƠNG
Nguyên văn bằng Phạn ngữ
BÀHUM SAHASSAMABHINIMMITASÀVU- DHANTAM.
GRÌMEKHALAM UDITAGHORASASENÀMÀRAM.
DÀNÀDIGHAMMAVIDHINÀ JITAVÀ MUNINDO.
TANTEJASA BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI
Nghĩa: Ðức Phật cao thượng hơn các
bực trí tuệ, Ngài đã cảm thắng Ma vương, Ma vương biến ngàn cánh tay cầm
khí giới, cỡi Grimekhala (Cri-mê-khá-lá) đủ cả binh ma, tiếng hét la vang
rền. Nhờ phép Thập độ nhứt là phép bố thí mà đức Phật cảm thắng
được Ma vương. Do nhờ Phật lực này, xin cho hạnh phúc phát sanh đến
người.
Lẽ ra tôi không viết đoạn này
vào đây vì đã có viết trong lịch sử đức Thái tử Sĩ Ðạt Ta, hơn nữa
đoạn này còn trong khi là vị Bồ Tát dưới cội Bồ đề. Nhưng vì viết
theo bài kinh gọi là Tám điều của đức Thế Tôn thắng tám nhơn vật phi
thường nên tôi viết theo đây để không thiếu tám điều trong tám câu kệ.
SƠ LƯỢC CỐT TRUYỆN
Sau khi đức Bồ Tát thọ lãnh lấy
cơm đề hồ của cô Sujàtà. Ngài liền đi thẳng đến con sông Neranjarà
(Ni Liên Hà) tắm, khi tắm rồi vắt cơm là bốn mươi chín vắt, thọ thực
xong, Ngài liền bưng mâm vàng lên phát nguyện rằng: Nếu ta đắc được
quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì xin cho mâm nầy trôi ngược dòng
sông, bằng không thì xin cho mâm nầy chìm ngay nơi nầy. Ngài liền để mâm
xuống, lạ thay mâm liền trôi ngược dòng.
Khi Ngài thấy mâm trôi ngược dòng
sông thì Ngài biết chắc rằng: Ngài sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Ngài liền trở vào rừng, khi ấy có thầy Bà la môn tên
Sotthiya dâng đến Ngài tám bó tranh, Ngài cầm lấy tám bó tranh ấy, đi thẳng
đến cây Bồ Ðề; trải tranh dưới cội Bồ đề, ngồi day mặt về hướng
Ðông, và phát nguyện rằng: Nếu thật là ta đắc quả Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác hôm nay xin cho nơi nầy hóa thành một bảo tọa cho ta ngự.
Liền khi ấy, một bảo tọa màu
xanh cao mười bốn hắc tay, từ dưới đất nổi lên. Ngài liền ngự lên
bảo tọa và phát nguyện rằng: Bao giờ lòng ta chưa hết thụy miên phiền
não, dẩu cho thịt ta có khô, da ta có héo ta cũng không rời khỏi bảo tọa
này. Khi ấy có tất cả chư Thiên, Phạm Thiên trong Sa bà thế giới đều
hội nơi ấy.
Ðồng thời Ma vương đi theo bên
Ngài kể từ khi Ngài bỏ Hoàng cung ra đi, thâm tâm Ma vương dò xét coi đức
đại Bồ Tát có khi nào mong muốn việc trần là xâm nhập đưa trở lại
nẻo luân hồi, nhưng không hề thấy một lỗi lầm nào. Ðến khi thấy đức
đại Bồ Tát ngự trên bảo tọa dưới cội Bồ đề, tức giận mới
nghĩ rằng: Thật Thái tử Sĩ Ðạt Ta cố giải thoát ra ngoài vòng thống
trị của ta, đối với chúng sanh ta sẽ mất cả uy quyền, vì Thái tử Sĩ
Ðạt Ta đắc thành quả. Vậy ta phải làm trở ngại đường giải thoát của
Thái tử Sĩ Ðạt Ta.
Khi ấy có ba người con gái của Ma
vương đến nói: Phụ vương đừng bận tâm, khi mà phụ vương có những
đứa con như chúng con thì khỏi nhọc lòng lo về chuyện Thái tử Sĩ Ðạt
Ta. Chúng con có phương pháp đưa chàng ta vào lưới. Ma vương lấy làm hài
lòng nên để cho ba nàng đến trêu ghẹo đức đại Bồ Tát.
Ba cô mới bàn với nhau rằng: Phàm
người đàn ông có sở thích khác nhau, có người thích cô gái thơ ngây,
người thì ưa người vừa lớn tuổi, có kẻ yêu gái lỡ thời. Vậy chị
em mình chia ra mỗi người hóa thành một nhóm để cám dỗ Thái tử Sĩ Ðạt
Ta.
Cô Tanhà (Ái Dục) lãnh sứ mạng
đến trước; khi đến nơi đức đại Bồ Tát ngự, múa hát và nói: Tôi
tên là Tanhà (Ái dục) vì tôi có thể trói chúng sanh được, và làm cho
chúng sanh quên mình chạy theo ý định của tôi.
Ðức Bồ Tát liền dạy rằng:
MULHO ÀTTHAM NA JANATI
MULHODHAMMAM NA JANATI
ANDHATAMAM TADA HOTI
YAM MOHO SAHATE NARAM
TASMA ARAHATAM NIHARISSAMÌTI
Nghĩa: Nầy cô Tanhà (Ái dục), ngươi
là kẻ si mê không có trí tuệ, không hiểu pháp nào là pháp hữu ích,
pháp nào là pháp đê tiện; si mê hằng dày vò chúng sanh quên mình vì Ái dục
(nên luân hồi). Như ta đây đã xuất gia tu hành hầu tiêu diệt các ác
pháp là Ái dục không hề để Ái dục sống được trong tâm ta. Nầy nàng
Tanhà (Ái dục) vậy ngươi nên mau mau tìm đường trốn khỏi nơi nầy.
Khi đức đại Bồ Tát nói vậy cô
Ái dục không thể nào ở lại được vì nóng nảy bởi oai đức của bực
sắp giác ngộ. Cô lật đật lui ra.
Cô Ràga (Tham ái) liền tiến vào gần
đức đại Bồ Tát múa hát trêu ghẹo Ngài.
Ðức đại Bồ Tát hỏi:
- Cô tên chi?
- Tôi tên là Ràga (Tham ái) vì tôi
là người có uy quyền cực cao, tôi có thể trói chúng sanh trong tam giới
và bắt buộc chúng sanh phải tuân theo mạng lịnh của tôi bằng Tham ái.
Ðức đại Bồ Tát liền nói:
RATTO ATTHAM NA JÀNÀTI
RATO DHAMMAM NA PASSATI
ANDHATAMAM TAMÀ HOTI
YAM RÀGAM MAHATE NARAM
AHAM RÀGAVIRÀGÀYA
VÀYAVISSÀMIHÀGOTOTI .
Nghĩa: Nầy cô Ràga (Tham ái) người
nào có tâm ưa mến Tham ái; ưa thích ngũ trần, người ấy không biết làm
lợi ích cũng không có trí tuệ để suy nghĩ thấy và thấu hiểu pháp. Những
nguyên nhân ấy cũng do nơi lòng Tham ái mà ra. Lẽ cố nhiên Tham ái hằng
làm hại chúng sanh, nhưng ta là người ly gia cắt ái làm vị Sa môn, cố gắng
tinh tấn hầu diệt trừ tất cả các ác pháp ngủ ngầm trong tâm. Nầy cô
Tham ái kia, cô không nên duy trì ở nơi này, nên mau mau tránh khỏi nơi đây.
Cô Tham ái không thể ở được vì
bị đức đại Bồ Tát đuổi, cô lật đật ra đi.
Người con thứ ba của Ma vương là
cô Arati (Tật đố) liền đến nơi Ngài múa hát với những lời hoa tình
trêu ghẹo cố cám dỗ vị đại Bồ Tát.
Ðức đại Bồ Tát hỏi:
- Cô là ai? Ðến đây để làm gì?
- Tôi tên là Arati (Tật đố), tôi
là người có uy quyền to lớn giam cầm chúng sanh trong vòng luân hồi bằng
sự tức giận ganh ghét nên tôi có tên là Tật đố.
Ðức đại Bồ Tát liền nói câu kệ
đuổi cô đi rằng:
DUTTHO ATTHAM NA JANÀTI
DUTTHO DHAMMAM NA PASSATI
ANDHATAMAM TADÀ HOTI
YAM DOSO PAHATE NARAM
TVASI NIHATO NAYÀTI
Nghĩa: Nầy cô Tật đố, người nào
còn ở dưới quyền sân hận, khi sân hận phát sanh trong tâm người ấy làm
cho người ấy nóng nảy, bực bội phóng túng, và tối tăm. Người ấy không
bao giờ nhận định thấy pháp đem lợi ích đến, mà cũng không nhận thấy
tai hại và tội phước nữa, đây là do nơi lòng sân hận che án mất làm
cho người không trông thấy ba tướng (Vô thường, khổ não, vô ngã). Thật
ra sân hận là một tội lỗi vĩ đại hằng làm hại chúng sanh. Ta đã cố
công bồi phước lành là thiện pháp để diệt trừ ác pháp là sân hận
cho hết sạch trong tâm ta.
Nầy cô Tật đố, vậy cô hãy mau
mau xa lánh nơi nầy lập tức.
Khi ba cô ra khỏi nơi đức đại Bồ
Tát ngự thì ba cô trở nên những bà già xấu xí, các cô không còn hãnh
diện như xưa nên trở về nơi Ma vương và khóc lóc than van.
Theo chú giải có dạy rằng: Ðây
không phải là có thật ba nàng nữ Ma vương nầy, nhưng đó là ba điều
phiền não hằng nằm trong thâm tâm của chúng sanh, hiện ra để làm trở
ngại sự giải thoát thôi.
Ma vương thấy con trở về với bộ
mặt già nua đáng thương hại kia, sự tức giận càng tăng thêm lên vô số.
Liền hội cả binh ma tướng quỉ đến. Những binh tướng nầy dị hình dị
tướng ai trông thấy cũng kinh hồn tán đởm. Khi đến đủ Ma vương liền
dẫn nhau đến cội Bồ đề để vấn tội đức đại Bồ Tát và dành lấy
bảo tọa.
Khi đức đại Bồ Tát thấy Ma vương
xua binh tướng mặt mày thật là hung ác đến trùng trùng điệp điệp, Ngài
mới nghĩ rằng:
Khi ta từ thành Ca Tỳ La Vệ ra đi,
thì có rất nhiều chư Thiên là bạn đưa ta đi và cùng ở với ta trong khi
ta khổ hạnh đến lúc ta ngự lên bảo tọa nầy. Nhưng giờ đây các chư
Thiên ấy đều kinh sợ oai lực của Ma vương bỏ ta ra đi nơi khác; giờ
đây không ai giúp đỡ ta. Ta chỉ còn trông nhờ nơi oai đức của Ba la mật
mà thôi, Ngài nghĩ vậy liền gọi ba mươi phép Ba la mật bằng câu kệ rằng:
AYANTU BHONTO
IDHA DANASÌLA
NEKKHAMMA PANNA
SAHA VIRIYA KHANTI
SACCADITTHANASAMETTUPEKKHA
YUDDHAYA VO GANHATHA AVUDHANITI.
Nghĩa: Hởi nầy các Ba la mật ơi,
ta đã cố công đào tạo các người là Bố thí, Trì giới, Xuất gia, Trí
tuệ, Tinh tấn, Nhẫn nại, Chân thật, Nguyện vọng, Từ và Xả. Tổng cộng
là ba mươi pháp chia ra làm Ba la mật đến bờ bên có mười, Ba la mật đến
bờ trên có mười và Ba la mật đến bờ cao thượng có mười. Vậy tất
cả Ba la mật xin hãy đến đây cầm lấy khí cụ giúp ta đừng để Ma
vương vi phạm đến ta.
Liền trong khi ấy dường như có bảy
đạo binh rất dũng mãnh có nhiều thần thông hiện ra đứng giữ quanh bồ
đoàn và hình như nói với Ngài rằng: Thưa đấng Ðại Giác xin Ngài an
lòng, có chúng tôi là người mà Ngài đã nuôi dưỡng từ vô số kiếp.
Ngài hãy xem chúng tôi chống với quân ma.
Những vị tướng lãnh điều khiển
những đạo binh ấy rất oai; thân hình cao lớn ấy là Tín Lực; cầm lấy
gươm báu hào quang chiếu ngời là Tuệ Lực; Tấn Lực và Niệm Lực là
khiên đỡ tên đạn và Ðịnh Lực là tâm không kinh sợ quân ma.
Ðức đại Bồ Tát ngự trên bảo
tọa trông thấy binh tướng của mình oai hùng mạnh mẽ thì Ngài không
chút chi lo ngại oai lực của quân tướng Ma vương. Ngài ngồi Từ Bi, tham
thiền như không có chuyện chi cả. Ngài coi bọn Ma vương không vào đâu.
Sự tự tại của đức đại Bồ Tát
làm cho Ma vương càng căm tức xua binh đến gần quyết giết cho được Ngài,
nhưng binh ma không dám léo đến gần vì bị binh tướng của Ngài chận lại.
Ma vương tận dụng tất cả tài năng
và phép tắc của mình đã có, nhưng không có món phép nào làm hại đức
đại Bồ Tát được, trái lại những món ấy hóa thành hoa đẹp mùi thơm
bay ra rất xa để cúng dường cho vị sắp Giác Ngộ thôi. Ma vương thấy
không làm chi đức đại Bồ Tát được nên đến gần đức Bồ Tát mắng
nhiếc Ngài đủ điều nhưng Ngài không lấy đó mà tức giận, trái lại
Ngài thương hại Ma vương như người cha thương con và nói:
- Nầy Ma vương ngươi đem hết lực
lượng và thần thông của ngươi đến để đánh đuổi ta; nhưng ta không
hề kinh sợ, ta có đủ Ba la mật đã đào tạo ra đã đến bốn A-tăng-kỳ
và trăm ngàn đại kiếp. Những Ba la mật ấy là chiến tướng của ta, vì
vậy nên ta không hề kinh sợ ngươi.
Ma vương nghe đức đại Bồ Tát
nói vậy càng tức giận hơn liền lấy pháp bảo quí nhứt của mình là một
cái vòng có răng rất bén và rất là lợi hại liệng ra để giết Ngài.
Nhưng khi bửu vật đến gần đức đại Bồ Tát thì trở thành tràng hoa
để cúng dường đức đại Bồ Tát. Ma vương tức giận, đến gần hét
to lên rằng:
- Nầy Sĩ Ðạt Ta! Tại sao ngươi vẫn
ngồi lỳ nơi đây, sao không đi nơi khác? Bảo tọa nầy không phải của
ngươi, là của ta, ngươi không có binh tướng và uy quyền tối cao như ta.
Bảo tọa nầy sanh lên nơi đây là của ta không phải do nơi oai đức của
ngươi.
- Nầy Ma vương, lời của ngươi nói
ấy có thật hay chăng? Nếu thật vậy thì ai là người chứng của ngươi?
- Lời ấy thật như vậy, ta có
quan quân binh tướng của ta làm chứng cho ta?
Khi đức đại Bồ Tát nghe Ma vương
phân chứng như vậy, Ngài mới hỏi:
- Nầy ma vương, ta xin hỏi ngươi vậy
bảo tọa đã có từ trước hay thế nào?
- Bảo tọa ấy không phải đã có
từ trước.
- Nếu không phải có từ trước thì
ngươi bảo là của người thế nào được? Sở dĩ mà có bảo tọa nầy
là do nơi Ba la mật của ta đã đào tạo vun trồng. Vì vậy không bao giờ
ta rời khỏi nơi nầy.
Ma vương nghe nói vậy, tức giận
liền hỏi Ngài rằng:
- Nầy Sĩ Ðạt Ta! Ngươi đừng
khoe khoang, ta vẫn còn rất nhiều phép mầu nhiệm để đánh bại ngươi, tại
sao ngươi không kinh sợ? Mà còn khoác lác như vậy.
- Nầy Ma vương, ngươi mới thật là
người hung ác không có chút trí tuệ, không hiểu rõ nổi công đức của
ta. Ta có ba mươi pháp Ba la mật mà ta đã đào tạo từ lâu. Ta có tướng
tài quân giỏi là Tín Lực, có Trí Tuệ là khí cụ tối tân. Vì vậy nên
ta không kinh sợ chi ngươi.
Ma vương liền truyền cho quân binh
tràn vào đánh bắt đức đại Bồ Tát, nhưng vì oai lực của Ba la mật
nên quân ma không dám đến gần.
Chư Thiên ở mọi nơi thấy vậy đồng
hoan hô đức đại Bồ Tát rằng: Lành thay! Thiện thay!
Ma vương hỏi đức đại Bồ Tát rằng:
- Nầy Sĩ Ðạt Ta! Ngươi bảo rằng:
Bảo tọa nầy của ngươi; vậy ai làm chứng cho ngươi là của ngươi?
Khi ấy đức đại Bồ Tát nghĩ: Ta
không tìm thấy bên ta đây có ai làm chứng cho ta, ta chỉ thấy có quả địa
cầu nầy mới có thể làm chứng cho ta được. Ngài liền phát nguyện rằng:
- Nầy quả địa cầu, chính ta đã
tạo ba mươi pháp Ba la mật từ vô số kiếp đến kiếp chót sanh làm
Vesantara bố thí cả châu ngọc vợ con đó là đại thí mà hẳn không có một
vị Sa môn hay Bà la môn nào thực hành nổi. Hỡi nầy địa cầu, tại sao
ngươi yên lặng không làm chứng cho ta?
Quả địa cầu là vật vô tri
giác, nhưng cũng dường như cảm thông lòng thành thật và biết rõ sự đào
tạo Ba la mật của công đức vị đại Bồ tát. Mặt đất liền rung chuyển
rồi nứt ra hiện ra một người phụ nữ rất đẹp đứng ngay trước mặt
đức đại Bồ Tát và nói rằng:
- Thưa Ngài, chỉ có tôi là người
chứng chắc công đức của Ngài, tất cả việc làm của Ngài đều ghi vào
đầu tôi đây, vì tôi thường được hưởng lấy sự hồi hướng phước
báu của Ngài cho, tôi sẽ vuốt tóc của tôi và nước sẽ chảy ra để chứng
chắc rằng: Ngài có đào tạo ra rất nhiều công đức từ vô số kiếp.
Nói xong bà liền vuốt tóc thì bỗng
dưng nước trong tóc chảy ra xối xả trôi cả binh ma tướng quỉ của Ma
vương. Tượng Grimekhala Ma vương cỡi là tượng có thần thông nhưng vẫn
kinh sợ trước sức mạnh của nước ấy.
Ma vương thấy vậy càng kinh sợ
nên chấp tay lễ bái và nói câu kệ rằng:
NAMO TE PURISUTTAMA
SADEVAKASMIN LOKASMIN
NATTHI TE PATIPUGGALO
TVAM BUDDHO TVAM SATTHÀ
TVAM MÀRÀBHIPHÙ MUNI
TVAM ANUSAYA CHEKO
TINNO TÀRESI MAM MAJJANTI
Nghĩa: Bạch Ngài, Ngài là đấng có
nhiều uy quyền có nhiều đặc ân cao thượng rõ ràng ví như ngựa
AJANEYYA. Ngài có tâm trong sạch bởi bốn đức là Từ, Bi, Hỉ, Xả. Tôi
xin đảnh lễ Ngài, xin cho Ngài trở nên vị Thiên Nhơn Sư, Ngài là đấng
diệt trừ được tất cả các pháp trong tâm. Khi nào Ngài đắc quả Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác xin Ngài mở lòng từ bi tế độ tôi là chúng sanh
còn mê muội.
Nói xong liền lễ bái rồi ra đi.
Vì uất hận nên Ma vương ngồi bên
vệ đường lấy tay gạch xuống đất mười sáu lần và tính rằng: Vì ta
không Bố thí Ba la mật bằng Thái tử Sĩ Ðạt Ta nên ta không thành Phật
như Thái tử. Ta không Trì giới Ba la mật. Ta không có Tinh tấn Ba la mật.
Ta không có Nhẫn nại Ba la mật. Ta không có Chân thật Ba la mật. Ta không
có phát nguyện Ba la mật. Ta không có Từ Ba la mật. Ta không có Xả Ba la mật
nên ta không thành Phật được như Sĩ Ðạt Ta. Mỗi lần tính, Ma vương gạch
luôn mười lằn. Rồi mới tính thêm nữa rằng ta còn chưa hành thêm sáu
điều gọi là ASÀDHÀRANÀĨÀNA (Nghĩa là tuệ đặc biệt riêng của vị
Chánh đẳng Chánh giác).
Sáu điều ấy là:
1) INDRIYÀPAROPARIYATTÌNÀNA. Nghĩa là
trí tuệ thấy rõ Ngũ căn.
2) ÀSÀYANUSAYANÀNA. Nghĩa là trí tuệ
thấy rõ Thụy miên phiền não, tánh tình của mỗi chúng sanh, và sự giải
thoát, nghĩa là biết chúng sanh nào còn ham mê ngũ trần, người nào còn
say đắm trong ngũ trần.
3) YAMAKAPATIHARIYANÀNA. Trí tuệ
thông hiểu cách dùng thần thông gọi là YAMAKA. (Thần thông nầy đức Thế
Tôn dùng khi thắng ngoại đạo).
4) MAHAKARUNANÀNA. Trí tuệ của bực
hành theo Ðại Bi.
5) SABBANNÙTANÀNA. Trí tuệ của bực
Toàn giác hiểu rõ tất cả các pháp hành.
6) ANAVARANÀNA. Trí tuệ của các bậc
hiểu thông mọi việc không có vật chi ngăn cản.
Vì ta thiếu mười sáu điều nầy
nên ta không sánh bằng Thái tử Sĩ Ðạt Ta.
Tóm lại đức đại Bồ Tát thắng
Ma vương do nơi oai lực của sự bố thí. Vậy chúng ta muốn thắng hóa mọi
nơi nên noi theo gương bố thí của Ngài.
CẢM HÓA DẠ XOA ALAVAKA
MARÀ TIREKAMABHIYUJJITA SABBARATTIM
GHORAMPANÀLAVAKAMAKKHAMATHADDHA- YAKKHAM
KHANTISUDANTAVIDHINÀ JITAVÀ MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATUTE JAYAMANGALANI.
Nghĩa: Ðức Phật đã cảm thắng Dạ
xoa Alavaka(A La Quá Cá) rất can ngạnh không lòng nhẫn nhục, khoe tài trọn
đêm cùng Phật. Dạ xoa rất hung ác, cảm dõng hơn Ma vương, đã bị đức
Chánh Biến Tri dùng phép nhẫn nhục thâu phục rồi. Do nhờ Phật lực nầy,
xin cho hạnh phúc phát sanh đến người.
Ðức Thế Tôn ngự tại chùa
Agàlava xứ Alavì , theo thường lệ của vị Chánh đẳng Chánh giác đến gần
sáng, thường dùng trí tuệ xem coi chúng sanh nào có duyên với Ngài trong
ngày ấy sẽ đắc được Thánh quả. Ngày ấy đức Thế Tôn thấy Thái tử
con vua Alavì sẽ đắc A na hàm quả, nên Ngài lập tức đi độ, mặc dầu
Ngài biết rằng: Ngài phải bị Dạ xoa Alavaka hung ác dùng thần thông chiến
đấu với Ngài và vấn đạo Ngài, nhưng Ngài vẫn không hề chồn chân
thôi bước.
CHUYỆN TÍCH
Ðức vua trị vì tại xứ Alavì
tên là Alavì. Ngài có tính thích đi săn bắn. Ngày nọ, đức vua truyền
chuẩn bị đi săn. Quan quân phải đặt bẫy và vây một khu rừng để đuổi
thú ra cho Ngài bắn.
Ðồng thời, ngai vàng của đức Ðế
Thích bỗng dưng cứng rắn lại không còn cảm giác mềm dịu như trước.
Thiên vương Ðế Thích lấy làm lạ nên Ngài liền dùng Thiên nhãn xem coi.
Vì sao? Khi Ngài biết rõ nguyên nhân, Ngài liền hiện ra một con nai lông
vàng thật là to và rất đẹp ở trong vòng lưới và chạy ngang qua mặt của
đức vua.
Khi đức vua trông thấy nai vàng,
Ngài lấy làm ưa thích nai ấy, liền truyền rằng: Nai nầy mà thoát ra khỏi
nơi đây trước mặt vị nào thì vị ấy phải bị xử trảm. Các người
nên thận trọng bắt cho được nai ấy cho trẫm.
Tất cả quan quân theo cuộc săn ấy
lấy làm lo sợ cho mình nên sự canh chừng thật cẩn mật, càng lúc càng
siết chặt vòng vây. Nai vàng không còn thấy chỗ nào khả dĩ thoát khỏi
ngoài ra chỗ của đức vua, nên nai vàng liền chạy đến trước mặt đức
vua và cũng nhờ nơi ấy mà thoát ra được.
Vì đã hạ lịnh rồi mà chính
mình để nai vàng chạy thoát đức vua lấy làm cả thẹn nên giục ngựa
đuổi theo rất gấp. Nai vàng chạy thật mau nhưng ngựa chạy cũng chẳng kém,
còn quan quân ngựa không hay không làm sao theo kịp. Ðức vua cố gắng hết
sức mình đuổi theo, nhưng dường như bị nai trêu tức khi vừa muốn nghỉ
là nai vàng lại ngừng lại như đợi đức vua theo. Ðến nơi rừng rậm thì
nai vàng biến mất. Khi ấy trời cũng vừa xế chiều, người mệt ngựa mỏi,
Ngài cố hết sức tìm đường ra về.
Khi ấy Ngài thấy có một cội cây
dừng thật to và rất đẹp lạ thường; Ngài liền ngồi nghỉ nơi ấy. Ngài
đâu biết rằng: Trên cây ấy có một con Dạ xoa hung ác khác thường, khi
Dạ xoa thấy đức vua ngự vào dưới cội cây của mình, liền hiện ra
hình dung thật là hung ác phi thường, hét to lên rằng: Ngươi từ đâu đến?
Tại sao lại vào ngồi dưới cội cây của ta? Hôm nay ngươi là vật thực
của ta.
Ðức vua nghe Dạ xoa nói vậy lấy
làm kinh sợ. Nhưng dầu sao sự ngã mạn của một nhà vua không tỏ vẻ
kinh sợ, Ngài liền phán hỏi Dạ xoa rằng
- Nầy Dạ xoa, trẫm, có làm gì sai
luật nên ngươi lại đòi ăn thịt trẫm?
- Tâu Ðại vương, tôi đã ở trên
cây nầy mười hai năm nay rồi, nhân vì trước kia tôi có hầu vị Thiên vương,
nên Ngài ban cho tôi cây nầy và có dạy rằng: Ngươi có quyền ăn bất cứ
nhân vật nào vào dưới cội cây của ngươi. Vì vậy tôi có quyền ăn thịt
Ngài khi Ngài ở dưới cội cây của tôi.
- Nầy Dạ xoa, thật ra trẫm không
được biết rằng: Cội cây nầy dưới quyền của ngươi.
- Ðại vương, tôi không cần biết
rằng: Ai biết cội cây của tôi hay không? Tôi chỉ cần biết là ai vào cội
cây nầy là vật thực của tôi thôi.
Ðức vua nghe như vậy càng lấy
làm kinh sợ, mới nghĩ rằng: Hôm nay là ngày tới số của ta rồi. Ngài liền
nói với Dạ xoa rằng:
- Nầy Dạ xoa, ngươi là bực có
nhiều thần thông, nếu ngươi có lòng từ bi để cho ta về đến hoàng
thành, ta sẽ cho người đưa tù nhân đến cho ngươi ăn. Nếu hôm nay ngươi
ăn ta thì ngươi chỉ ăn được một bữa nay thôi, ngươi không ăn được
hằng ngày.
Dạ xoa nghe đức vua hứa như vậy
rất hài lòng, bằng lòng cho đức vua ra về.
Sau khi được Dạ xoa cho ra về tìm
đường về thành. Khi về đến thành thuật chuyện ấy lại cho quần thần
nghe cũng nói rõ là sẽ hứa đem tù nhân cho Dạ xoa ăn mỗi ngày.
Các quan không biết làm sao, nên đành
phải đưa mỗi ngày một tù nhân đến cho Dạ xoa. Lâu ngày tù nhân hết,
và người nghe đức vua đem tù nhân cho Dạ xoa ăn, nên người trong xứ không
hề dám phạm dầu là một tội rất nhỏ. Sau hết tội nhân, không biết
làm sao nên hội quần thần lại tính bắt những người già cho Dạ xoa ăn
nhưng quần thần không bằng lòng, vì người còn có con cháu sợ e nó loạn,
nên kết cuộc lại bắt trẻ con vì nó chưa làm lợi ích gì và người đời
còn đẻ được nhiều con nữa.
Người trong xứ nghe đức vua truyền
bắt trẻ con cho Dạ xoa ăn, nên những người có con đều đem giấu hay dọn
nhà đi xứ khác. Ðến ngày kia quan hầu vào tâu vua rằng: Không còn tìm ra
trẻ con nữa. Ðức vua lấy làm lo sợ, nghĩ không ra, Ngài nhớ đến Thái
tử tên Àlavì truyền quan hầu bắt Thái tử đem cho Dạ xoa ăn.
Các quan lấy làm bất bình nhưng không
dám tâu rổi một lời nào, buộc lòng phải vào hoàng cung nói với Hoàng hậu
rằng: Tâu Hoàng hậu, Ðại vương đã chiếu chỉ cho chúng thần đến đem
Thái tử đi cho Dạ xoa ăn; xin lịnh bà tha tội ấy.
Hoàng hậu lấy làm kinh khủng, nhưng
cũng chẳng biết làm sao giữ con lại chỉ biết than khóc thôi.
Sáng ngày hôm sau các quan đem Thái
tử đến nạp cho Dạ xoa ăn. Ðức Thế Tôn đã ngự đến nơi cội cây Dạ
xoa chiều hôm trước. Khi đến nơi, đức Thế Tôn ngự vào ngay cửa toà
lâu đài của Dạ xoa Alavaka. Ngày ấy nhằm ngày đại hội của Dạ xoa, nên
Alavaka Dạ xoa phải đi hầu Thiên vương.
Khi ấy Dạ xoa người giữ lâu đài
của Dạ xoa Alavaka tên là Gandhabba thấy đức Thế Tôn ngự đến, ra tiếp
rước đảnh lễ và hỏi rằng: Bạch đức Thế Tôn, Ngài ngự đến nơi rừng
nầy có chuyện chi quan trọng chăng?
- Nầy Gandhabba , thật ra có chuyện
cần và quan trọng nên Như Lai mới ngự đến đây.
- Vậy xin thỉnh đức Thế Tôn ngự
vào nghỉ trong tòa lầu của Dạ xoa Alavaka .
Ðức Thế Tôn lặng thinh ngự vào
trong tòa lầu và ngự trên ngai của Dạ xoa Alavaka ngồi hằng ngày.
Dạ xoa Gandhabba biết ý Dạ xoa
Alavaka là người có tánh nóng nãy và hung ác phi thường, mặc dầu là cha
mẹ cũng chẳng kính nể nên bạch với đức Thế Tôn rằng: Bạch đức Thế
Tôn, xin đức Thế Tôn cho phép tôi đến cho Dạ xoa Alavaka hay biết rằng:
Ðức Thế Tôn ngự nơi đây. Ðức Thế Tôn nhận lời.
Dạ xoa Gandhabba liền đến nơi hội
nói với Dạ xoa Alavaka rằng: Hiện giờ có đức Chánh đẳng Chánh giác
đang ngự ở tại lâu đài của ông.
Tất cả Dạ xoa nào chánh kiến có
mặt nơi ấy đồng nói với Alavaka rằng: Thật ngươi là người đại phước
nên đấng Ðại Từ Bi ngự đến lâu đài của ngươi.
Dạ xoa Alavaka nghe vậy lòng hiếu
thắng càng mạnh và vì vậy sự tức giận càng nhiều, nên nói:
- Thôi các ngươi hãy im đi, để thầy
Sa môn ấy sẽ thấy oai ta, ta sẽ vò xé y ra từng mảnh, tại sao y dám vào
lâu đài của ta khi ta vắng mặt.
Khi ấy có nhiều Dạ xoa đi hội phải
bay ngang qua lâu đài của Dạ xoa Alavaka , nhưng khi bay đến nơi ấy không
thể nào bay ngang qua được. Vì oai đức của vị Chánh Ðẳng Chánh giác
khi ngự nơi nào trên chỗ Ngài ngự không có một vị nào có oai lực bay
qua được. Các Dạ xoa lấy làm lạ mới vào coi tòa lâu đài nầy có những
gì mà phi thường như vậy. Khi thấy đức Thế Tôn ngự trong ấy, các Dạ
xoa đảnh lễ Phật rồi lật đật đến nơi hội. Khi gặp Alavaka mới nói
rằng:
- Nầy hiền hữu, ngươi thật là
người đại phước nên chi đấng Thiên Nhơn Sư ngự đến ở tại lâu đài
của ngươi.
Dạ xoa Alavaka nghe vậy không khác
nào đổ thêm dầu vào lửa, y gầm thét vang trời và bảo rằng:
- Xin hãy êm lập tức, các ngươi sẽ
thấy ta và thầy Sa môn Cồ Ðàm ai hơn.
Ðức Thế Tôn ngự tại lầu đài
của Alavaka hiện ra hào quang sáng chói. Các cung phi mỹ nữ của Dạ xoa
Alavaka đều đến hầu Ngài nghe pháp. Tất cả Thọ thần cùng chư Thiên biết
có đức Thế Tôn ngự đến nơi ấy liền rủ nhau đến hầu Phật và nghe
pháp, làm cho tòa lâu đài của Alavaka càng náo nhiệt tưng bừng. Có vị chư
Thiên hay Dạ xoa nào không biết có chuyện chi nên hỏi:
- Nhân vật nào ở trong lâu đài
ấy, mà hào quang sáng không chi sánh bằng vậy?
Có vị biết chuyện ấy nên đáp:
Vị ngự trong lâu đài ấy là đấng cao siêu hơn hết trong tam giới, là đấng
Ðại Giác hôm nay chúng ta có duyên lành lắm mới gặp được Ngài. Ngày
thường thì các vị ấy không khi nào đến tòa lâu đài của Alavaka vì
ghét người hung bạo cũng có và vì sợ cũng có. Hôm ấy họ bất cần cứ
vào đại vì ỷ lại có đấng tối cao của chúng sanh ngự trong ấy.
Khi đức Thế Tôn thấy có nhiều
chư Thiên, Càn thát bà và Thọ thần đến hầu Ngài, nên Ngài dạy rằng:
Vì trước kia nhờ có Bố thí, Trì giới, Tham thiền, Cúng dường đến Tam
bảo, nên hôm nay các người mới được hưởng quả lành như thế nầy. Vậy
từ đây trở đi các ngươi không bỏn xẻn; năng làm việc bố thí thì phước
thiện đó là vật thực của các ngươi có thể đem về ngày vị lai được.
Sau khi dứt thời pháp, có hai Dạ
xoa là Sàtàgiri và Dạ xoa Hemavata mỗi người có năm trăm tùng nhơn theo hầu
dẫn nhau đến Kỳ Viên tịnh xá hầu Phật, nhưng không gặp Phật trở về
khi bay ngang qua lầu đài của Alavaka bị rớt xuống lấy làm lạ mới vào
hầu Phật rồi đi đến nơi hội. Khi gặp Dạ xoa Alavaka liền bảo rằng:
- Nầy hiền hữu, ngươi là người
được thoát khổ, nên trong lầu đài của ngươi có một viên ngọc Ma ni bửu
châu quí vô lượng vô biên, ngọc ấy sẽ làm cho người mong mỏi vật gì
cũng được kết quả mỹ mãn. Vậy bạn nên gấp về lập tức để mau
được gặp Ngài.
Alavaka nghe vậy lập tức đứng dậy
ra về, khi về đến lầu đài thấy vợ và phi tần của mình cùng chư Thiên
và Thọ thần cùng Càn thát bà đang ngồi hầu Phật, đức Phật lại ngự
ngay trên chỗ mình hằng ngồi thì càng lấy làm tức giận, liền làm cho mưa
đá, mưa cát, mưa lửa, mưa dầu sôi v.v... để giết Phật. Mặc dầu những
thứ mưa ấy thật là hung dữ nhưng khi đến gần Phật, mưa đá, mưa
gươm đao v.v... đều trở thành hoa thơm cúng dường, còn mưa cát, mưa dầu
sôi lửa đỏ đều trở thành những phấn thơm và nước hoa cúng dường
dưới chân đức Thế Tôn, những trận gió lớn ấy không làm rung động
chéo y của Ngài.
Dạ xoa Alavaka thấy hiện tượng lạ
lùng như vậy càng giận dữ truyền binh tướng của mình hãy vào bắt cho
được đức Thế Tôn. Nhưng những binh tướng ấy không ai dám đến gần,
vì sợ oai lực đức Từ Bi của Ngài.
Dạ xoa Alavaka mới nghĩ: Ta làm sao
thắng thầy Sa môn nầy? Vì các pháp mầu của ta từ xưa nay oai danh lừng
lẫy hôm nay không còn linh nghiệm nữa. Ta chỉ còn có cái khăn bịt đầu
nầy thôi. Ta chỉ hy vọng cái khăn nầy có oai lực vô lượng vô biên sẽ
thắng thầy Cồ Ðàm. Nghĩ xong mở khăn bịt đầu xuống và liệng ngay
vào mình đức Thế Tôn. Sự thật cái khăn ấy thuộc về hạng thần thông
mầu nhiệm bằng cái bánh xe của đức Ðế Thích và Ma vương. Ít có vật
nào cao quí bằng. Nhưng khi khăn ấy vừa đến gần đức Thế Tôn trở
thành vật cúng dường. Khăn ấy có mãnh lực sánh còn hơn Ma vương là
khác.
Tất cả chư Thiên, Thọ Thần, Càn
thát bà có mặt nơi ấy đồng thanh hoan hô đức Thế Tôn rằng: Thiện
thay, lành thay!
Dạ xoa Alavaka càng tức giận vì thấy
cái khăn của mình liệt vào hàng bảo vật hạng nhất mà trở thành vô dụng,
càng lấy làm kinh ngạc hơn khăn ấy lại trở thành tràng hoa cúng dường
cho Phật, liền nghĩ rằng: Thôi, ta không thể chiến đấu và thắng thầy
Sa môn Cồ Ðàm bằng pháp mầu được, ta sẽ tìm thế thắng y bằng cách
khác rồi giết y sau. Nghĩ xong Dạ xoa hỏi đức Thế Tôn rằng:
- Nầy thầy Sa môn, tại sao thầy lại
vào ngồi trong lầu đài của ta khi chưa được phép ta?
Ðức Thế Tôn nghĩ Dạ xoa Alavaka
hung ác và rất dũng cảm hơn cả Ma vương, nếu ta dùng thần thông để cảm
hóa thì trở thành trận giặc. Sự thật người hung ác thì lại thích sự
hiền từ nhã nhặn, ta phải thắng ý bằng pháp Nhẫn nại, nghĩ xong đức
Thế Tôn liền đứng dậy ra đi, không nói một lời nào.
Dạ xoa thấy đức Phật đứng dậy
ra đi không cãi một lời nào nên nghĩ: Thầy Sa môn nầy thật là hiền từ
dễ dạy, biểu ra đi một tiếng thì ra đi, không tỏ vẻ bất bình giận hờn
gì cả, chắc đây là hạnh của các bực Sa môn. Thôi ta hãy thử một lần
nữa. Alavaka liền gọi: Nầy Ông Sa môn thôi ông hãy trở vào.
Ðức Thế Tôn lại trở vào cũng
chẳng nói một lời nào.
Dạ xoa Alavaka thấy vậy thì càng
tin chắc rằng: Thầy sa môn nầy dễ dạy thật. Nên mới thử nữa, nên lại
bảo: Ðức Thế Tôn hãy trở ra một lần nữa.
Khi ấy đức Thế Tôn mới dạy rằng:
- Nầy Dạ xoa Alavaka ngươi muốn hành
hạ Như Lai như thế nào thì cứ tùy tiện, ngươi không nên bảo Như Lai
đi ra đi vào như thế nầy, giờ đây Như Lai không đi ra nữa.
Dạ xoa Alavaka nghe vậy nổi giận nên
dùng lời bất nhã nói với đức Thế Tôn. Nhưng đức Thế Tôn cũng vẫn
thản nhiên, Dạ xoa không biết làm sao nên nói:
- Nầy thầy Sa môn, giờ đây ta hỏi
ngươi vài vấn đề, ngươi hãy đáp cho ta, nếu ngươi đáp không được
ta sẽ bóp đầu ngươi nát như bột.
Ðức Thế Tôn đáp: Nầy Dạ xoa
Alavaka , mặc tình ngươi làm gì Như Lai, Như Lai cũng không bao giờ biết
kinh sợ, đừng nói chi là người dầu cho Thiên vương Ðế Thích, Ma vương,
Phạm Thiên và ai là người có nhiều thần thông đến nơi nầy chiến đấu
với Như Lai thì cũng chẳng làm cho Như Lai rúng động. Hơn nữa hôm nay dầu
ngươi có hỏi bao nhiêu vấn đề thì cứ tùy tiện hỏi, Như Lai sẽ giảng
giải rõ ràng cho ngươi. Như Lai đã biết rõ những câu hỏi của ngươi không
phải do nơi trí tuệ của ngươi phát ra. Như Lai sẽ bảo rõ cho ngươi biết
rằng: Ngày nọ, cha ngươi vào hầu thăm ông nội ngươi. Ông nội ngươi mới
dạy cha ngươi những câu hỏi ấy, ông nội ngươi học câu hỏi ấy nơi
đức Chánh đẳng Chánh giác có hồng danh là CA DIẾP. Sau nầy cha ngươi
truyền lại cho ngươi. Vậy ngươi hãy hỏi đi, Như Lai giải cho ngươi hiểu.
(Câu hỏi nầy đã thất lạc câu trả lời nên làm cho Dạ xoa Alavaka nghi
ngờ từ xưa đến nay).
Dạ xoa Alavaka hỏi:
KIMSU VITTAM PURISASSA SETTHAM .
KIMSU SUCINNO SUKHAMÀVAHÀTI .
KIMSU HAVE SÀDHUTARAM RASÀNAM .
KATHAM JIVÌ JIVITAMÀHUSETTHAM .
Nghĩa: Nầy ông Sa môn, bảo vật
nào trong vũ trụ nầy cao quí nhứt mà người nam lẫn nữ đều yêu chuộng?
Chúng ta dành để vật gì mới được an vui? Vị nào cao quí hơn tất cả
các vị? Ðời sống thế nào mà ông gọi là đời sống cao thượng trong
đời nầy?
Ðức Thế Tôn đáp:
SADDHÌDHA VITTAM PURISASSA SETTHAM .
DHAMMO SUCCINO SUKHAMÀ VAHÀTI.
SACCAM HAVE SÀDHUTARAM RASÀNAM.
PANNÀJÌVÌ JIVITAMÀHU SETTHAM.
Nghĩa: Nầy Dạ xoa Alavaka, đức tin
là bảo vật cao quí nhứt trong vũ trụ nầy mà người nam lẫn nữ đều yêu
chuộng. Người đành để thiện pháp thì hằng được sự an vui. Lời nói
chân thật là lời nói có vị cao quí hơn tất cả các vị. Ðời sống bằng
trí tuệ là đời sống cao quí nhất trong đời này.
Khi nghe lời giảng của đức Thế
Tôn làm cho tâm Dạ xoa Alavaka trở nên trong sạch. Y nhìn thấy đời mình
không có thiện pháp, không có chân thật mà cũng không có sống bằng trí
tuệ, cả đời chỉ biết làm tội lỗi.
Dạ xoa Alavaka mới ca tụng công đức
của Phật rằng: AHO ACCHA RIYAM AHO ABHUTAM BHANTE. Bạch đức Ðại Giác, chỉ
có Ngài là vị đáp được câu hỏi nầy thật là chuyện phi thường. Vậy
tôi xin hỏi Ngài thêm:
KATHAMSU TARATI OGHAM
KATHAMSU TARATI ANNAVAM
KATHAMSU DUKKAM ACCETI
KATHAM PARISUJJHATI.
Nghĩa: Bạch Ngài, người trong tam
giới nầy qua được bốn hầm bằng vật gì? Và sẽ qua được đại
dương là bể luân hồi bằng vật gì? Lại nữa người giải thoát được
khổ bằng phương pháp gì? Và làm cho tâm được trong sạch bằng phương
pháp nào?
Ðức Thế Tôn liền đáp:
SADDHAYA TARATI OGHAM
APPAMADENA ANNAVAM
VIRIYENA DUKKHA ACCETI
PANNÀYA PARISUJJHATÌ
Nghĩa: Này Dạ xoa Alavaka, Người
trong tam thế này qua được bốn hầm bằng ÐỨC TIN. Và sẽ qua được đại
dương là bể luân hồi được bằng sự không dễ duôi, Lại nữa người
giải thoát khỏi sự thống khổ bằng phương pháp TINH TẤN. Làm cho tâm
được sạch bằng phương pháp dùng TRÍ TUỆ quan sát cho thấy rõ ba tướng
(là Vô thường, Khổ não và Vô ngã).
Khi đức Thế Tôn đáp xong câu kệ
thì Dạ xoa Alavaka cũng vừa đắc quả Tu-đà-hườn trở nên bực Thánh nhơn
trong Phật giáo. Liền cúi đảnh lễ dưới chân đức Phật và xin đức Phật
tha tội lỗi đã phạm thượng và xin Ngài nhìn nhận là người thiện nam
hay một tín đồ của Phật giáo. Xin thọ Tam qui và Ngũ giới.
Trong khi Dạ xoa lễ Phật xin thọ
Tam qui và ngũ giới, thì các quan đưa Thái tử tới noi, nghe chư Thiên hoan
hô đức Thế Tôn nên lấy làm lạ. Khi đến gần thấy đức Thế Tôn ngự
trong lầu đài của Dạ xoa, nên mới bàn với nhau rằng: Ðã có đức Thế
Tôn ngự nơi đây rồi, thì chắc chắn Ngài đã cảm hóa Dạ xoa, ta hãy
nhân cơ hội nầy đem Thái tử dâng đến tay Dạ xoa. Nói xong liền đưa Thái
tử đến cho Dạ xoa.
Dạ xoa Alavaka lấy làm hổ thẹn
và ghê sợ tội lỗi của mình đã làm, liền ẵm Thái tử Alavì đến cúng
dường Phật bảo và bạch rằng:
- Bạch đức Thế Tôn, đệ tử xin
dâng Thái tử Alavì đến tay Ngài, xin đức Thế Tôn mở lòng từ bi nhận
lãnh.
Ðức Thế Tôn đưa tay mặt ra nhận
lãnh vật cúng dường kỳ lạ ấy. Ngài liền cầu chúc cho Thái tử: Dighà
Yuko Hoti Ayam Kumàro v.v... Nghĩa: Xin cho Thái tử nầy được trường thọ, nầy
Alavaka ngươi cũng được an vui khỏi khổ và xin cho vị Thái tử nầy thọ
Tam qui.
Khi dạy xong đức Thế Tôn liền
trao Thái tử cho các vị quan đại thần; Các vị bồng lấy Thái tử trở
về thành. Người trong thành thấy các vị đại thần đưa Thái tử về, mới
hỏi vì mọi người đều sợ Dạ xoa không chịu ăn trẻ con. Các vị đại
thần cho biết rằng: Dạ xoa đã phục thiện là nhờ đức Thế Tôn đến
hóa độ.
Khi đến hoàng cung, các vị ấy để
Thái tử lên tay đức vua, và tâu bày tự sự. Ðức vua lấy làm cảm động
và rất vui mừng. Hoàng hậu hay được tin ấy sự vui mừng không biết tả
sao cho đuợc, lịnh bà lật đật đến nơi đức vua đang ngự ẵm Thái tử
vào lòng nựng nịu và bà ca tụng công đức Phật bảo không tiếc lời.
Sau khi độ được Dạ xoa Alavaka
xong. Ðức Thế Tôn liền đắp y mang bát vào thành có Dạ xoa theo hầu sau
Ngài. Khi đến cửa thành, Dạ xoa cảm thấy rất hổ thẹn tội lỗi của
mình đã gieo tang tóc cho dân chúng, nên không muốn vào thành. Ðức Thế
Tôn dùng lời an ủi Dạ xoa làm cho hết sự ăn năn hối tiếc việc làm
ấy.
Ðức Thế Tôn mới đến ngự dưới
cội cây gần cửa thành, Ngài liền dùng thần thông làm cho hào quang sáu
màu sáng rực cả một vùng.
Khi đức vua Àlavì nghe tin đức Thế
Tôn ngự tại cửa thành, Ngài lật đật xa giá đến nơi ấy có cả các vật
cúng dường. Khi đến nới lễ bái đức Thế Tôn và cúng dường cùng ca tụng
công đức của Phật. Dân chúng trong thành hay tin ấy lần lượt rủ nhau
đến đảnh lễ Ngài đông vô số kể.
Ðức Thế Tôn liền thuyết lại
câu hỏi của Dạ xoa Alavaka. Ðức vua phát tâm tín thành trong sạch và qui
y Tam bảo. Riêng Dạ xoa dạy Thái tử đạo đức và làm cho Thái tử trong
sạch với Tam bảo vào hầu Phật nghe pháp đắc A na hàm quả.
Ðức Thế Tôn thắng được Dạ
xoa bằng đức Nhẫn nại.
Vậy người muốn thắng hóa mọi nơi
xin đừng quên pháp Nhẫn nại.
NHỮNG CHUYỆN LẠ XẢY RA TRONG BỐN
MƯƠI LĂM NĂM
TRUYỀN ÐẠO CỦA ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM (tt)
-ooOoo-
CẮM THẮNG TƯỢNG NÀLÀGIRÌ
NÀLÀGIRIM GAJAVARAM ATIMATTABHÙTAM
DAVAGGICAKKAMASANIVA SUDARUNANTAM
METTAMBUSEKAVIDHINÀ JITAVA MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI.
Nghĩa: Ðức Phật đã cảm thắng
voi Nàlàgirì (Na la gi ri) đến cơn hung ác, dữ tợn như lửa rừng, như sấm
sét, nhờ rải lòng Từ bi mà đức Chánh Biến Tri cảm hóa được voi ấy.
Do nhờ Phật lực nầy, xin cho hạnh phúc phát sanh đến người.
Chuyện nầy tôi đã có tường thuật
trong Thiên thứ tư nhưng chỉ tóm tắt sơ lược thôi. Nên nơi đây tôi xin
giải rõ thêm cho đủ tám điều thắng hóa của đức Thế Tôn mà các bực
Thánh nhơn khi xưa hằng ca tụng.
Ðệ tử Phật là ông Ðề Bà Ðạt
Ða muốn thay Phật để dạy dỗ chư Tăng, nhưng đức Phật không nhận lời,
tức giận tìm thế hại Phật đủ điều nhứt là thả tượng Nàlàgirì
ra giết Phật.
CHUYỆN TÍCH
Ðề Bà Ðạt Ða không sao hại được
đức Thế Tôn nên ông mới vào thăm đức vua A Xà Thế xúi Ngài thả tượng
Nàlàgirì là tượng trận hung dữ nhất không tượng nào bằng, nhứt là
khi được uống tám tĩn rượu to. Khi thả tượng ra giết Phật, đức vua
A Xà Thế dạy quản tượng hãy cho tượng uống rượu gấp đôi là mười
sáu tĩn rượu to, còn Ðề Bà Ðạt Ða là người trông nom sắp đặt việc
làm cho chu đáo.
Tất cả tín đồ hay biết tin ấy
mới vào hầu Phật và bạch cho Ngài rõ chuyện sắp xảy ra, yêu cầu Ngài
đừng đi khất thực.
Ðức Thế Tôn liền dùng Tuệ giác
quan sát: Sáng ngày mai ta sẽ hóa độ tượng và không cho tượng ấy còn
hung ác nữa, mà cũng nhân cơ hội nầy hóa độ rất nhiều người ngoại
đạo hồi đầu hướng thiện. Sau khi hóa độ tượng xong ta dẫn chư Tăng
vào thành Vương Xá khất thực.
Rạng đông sáng hôm sau đức Thế
Tôn dùng trí tuệ xem coi chúng sanh nào có duyên với Ngài trong ngày ấy.
Ngài thấy rằng: Nếu sáng ngày, Ngài vào thành khất thực cảm hóa được
tượng Nàlàgiri thì Ngài sẽ độ được tám muôn bốn ngàn người.
Khi mặt trời mọc lên, đức Thế
Tôn đắp y mang bát vào thành khất thực, Ngài dạy Ðại Ðức Ananda: Ngươi
hãy cho chư Tăng trong mười tám chùa tại thành Vương Xá tựu tại Kỳ
Viên tịnh xá. Ðức Ananda vâng lời cho chư Tăng hay. Khi chư Tăng tựu hội
lại đủ đức Thế Tôn dẫn vào thành Vương Xá khất thực.
Những người quản tượng đã chuẩn
bị sẵn là cho tượng uống rượu xong, khi trông thấy đức Thế Tôn liền
thả tượng ra để giết Phật.
Tất cả thiện nam tín nữ, dân
chúng và những người ngoại đạo kẻ leo lên nóc nhà người leo lên cây,
người thì ở trên lầu để xem coi tượng làm gì Phật. Thiện tín thì
tin rằng: Phật sẽ cảm hóa tượng, còn ngoại đạo thì nghĩ tượng sẽ
giết Phật, dân chúng chỉ mong thấy kết quả thôi.
Tượng Nàlàgirì trông thấy đức
Thế Tôn từ xa ngự đến, tỏ vẻ rất hung hăng chân dậm đất bụi bay mịt
mù, miệng gầm thét thật là kinh khủng. Khi tượng được thả ra lập tức
nhắm hướng đức Thế Tôn đang ngự đi chạy đến, coi hình như là nó
quyết giày đạp Ngài cho tan nát. Chư Tăng còn phàm thấy vậy kinh sợ bỏ
đứng vẹt ra một bên đường. Khi ấy Ðại Ðức Xá Lợi Phất xin đức
Thế Tôn để Ngài cảm hóa tượng dữ ấy nhưng đức Thế Tôn không nhậm
lời; tuần tự đến các chư đại đệ tử nhưng không vị nào được phép.
Trong khi ấy tượng đã đến gần lắm rồi mà đức Thế Tôn vẫn thản
nhiên, làm cho Ðại Ðức Ananda nóng lòng, vì tất cả chư đệ tử có thể
nói là không ai thương Phật bằng Ðại Ðức Ananda , vì Ngài còn là bực
hữu học nghĩa là mới đắc quả Tu-đà-hườn vẫn còn mến thương vạn
vật. Ðại Ðức Ananda thấy tượng đến gần Ngài liền ra đứng cản tượng
trước mặt Phật. Ðức Thế Tôn thấy Ðại Ðức Ananda hành động như vậy.
Ngài liền dạy rằng: Ananda , ngươi hãy đứng dang ra, nhung Ngài vẫn không
vâng lời. Ðức Thế Tôn dùng lòng Từ Bi làm cho tượng kinh sợ chạy đi
nơi khác.
Trong khi ấy, có một người phụ nữ
bồng con nhỏ thấy tượng chạy đến gần mình nên kinh sợ bỏ con nằm
trên đất chạy thoát lấy thân. Khi tượng không rượt theo kịp cô ấy,
liền trở lại đi quanh bên đứa trẻ. Ðức Thế Tôn thấy vậy thương hại
đứa bé Ngài liền rải lòng từ bi đến tượng và gọi: Nầy Nàlàgirì
hãy dừng lại. Tiếng của Ngài rất thanh và rất mềm dịu, vì lòng từ
bi đánh thức trí giác của tượng. Tượng liền quay lại ngó ngay vào Phật,
trông thấy đức Thế Tôn mặt đầy vẻ từ bi hào quang chiếu sáng, chung
quanh Ngài có chư Thánh nhơn giới đức trang nghiêm, thật là một cảnh huy
hoàng trang nghiêm và đầy từ ái. Tượng phát tâm tín thành trong sạch với
Phật bảo và Tăng bảo, nhìn lại tội lỗi của bản thân lấy làm hổ thẹn,
chất rượu tiêu tan mất hết, từ từ tiến đến bên Phật và quì xuống.
Ðức Thế Tôn liền dạy rằng:
Màkinjaranàgapara v.v... Sugati gamissasìti , nghĩa: Hỡi nầy tượng Nàlàgirì,
ngươi không nên si mê. Lẽ cố nhiên những điều tội lỗi là ác pháp, hằng
đưa đến sự thống khổ trong lòng ngươi, hãy làm cho tâm ngươi trong sạch,
không nên để cho tâm nóng nảy bực bội vì tội lỗi nặng nề. Nên tập
cho tâm hiền từ lương thiện thêm càng nhiều càng quí. Sau khi ngươi chết
sẽ được sanh về cõi trời hưởng an lạc.
Dứt lời dạy bảo của đức Thế
Tôn tâm tượng sanh hỉ lạc rất mạnh. Nếu tượng là con người thì đã
đắc Tu-đà-hườn trong khi ấy. Kể từ giờ phút ấy trở đi tượng Nàlàgirì
trở nên hiền từ không khác con mèo con, nên lại đổi tên là DHÀNAPÀLA
(có nghĩa là người giữ lấy di sản quí).
Trong khi đức Thế Tôn dạy tượng
Nàlàgirì thì có tám muôn bốn ngàn người nghe lời dạy bảo ấy mà đắc
đạo quả, và có rất nhiều người xin thọ Tam qui trì ngũ giới.
Ðến chiều chư Tỳ khưu hội đến
nơi đức Thế Tôn thường thuyết pháp bàn với nhau về việc buổi ban
sáng và chuyện Ðại Ðức Ananda hy sinh cho Phật. Các vị ấy có vị nói:
Thật ra Ðại Ðức Ananda là vị đệ tử chí hiếu biết ân thầy dám đứng
ra chịu chết thế cho thầy, đây chuyện thế gian hi hữu vậy.
Khi đức Thế Tôn ngự đ?n nghe và
biết các thầy đang nói chuyện ban sáng. Ngài liền dạy rằng: Nầy các thầy
Tỳ khưu, chẳng phải Ananda mới hy sinh đời sống nầy cho ta trong kiếp nầy
đâu. Kiếp quá khứ cũng đã từng hy sinh cho Như Lai rồi.
Chư Tỳ khưu yêu cầu đức Thế Tôn
thuyết Túc Sanh truyện.
Ðức Thế Tôn dạy; Kiếp quá khứ
có đức vua tên SAGALABRAHMADATTA ngự trị tại xứ Sàgala. Gần thành Sàgala
có một người thợ săn ở tại làng Nesàdagàma. Tại xứ Sàgala có một
cái ao to đến mười hai do tuần, trong ao ấy có nhiều thứ sen đủ màu thật
đẹp. Ðồng thời ấy có một bầy hạc chín muôn con; hạc chúa tên là
Dhatarattha và một hạc phó tên là Sumukha, bầy hạc nầy thường ở tại núi
tên Gittrakuta. Ngài nọ có ba con hạc đến tắm chơi ở ao gần thành
Sàgala. Khi trở về thuật lại cho Hạc chúa nghe, và mô tả nơi ấy thật
là đẹp có vật thực, ao to, bông nhiều v.v...
Hạc chúa là một vị Bồ Tát nên
có nhiều trí tuệ, Ngài sợ có tai hại cho đoàn nên Ngài cấm không cho hạc
đến nơi ấy, nhưng ba con hạc ấy cứ theo yêu cầu nhiều lượt. Ðức Bồ
Tát mới dẫn đoàn hạc đi đến nơi ấy chơi và tìm thức ăn. Vì vô ý
chân của đức Bồ Tát bị mắc vào bẫy của người thợ săn. Ðức Bồ
Tát không dám la, sợ kinh động bầy không dám ăn no. Sau khi biết đoàn đã
ăn no, Ngài liền hét to lên, đoàn hạc nghe tiếng hét ấy kinh khủng bay hết.
Chỉ có hạc Sumukha nghĩ rằng: Tiếng hét của chúa ta bất thường, chắc
Ngài đã bị tai nạn chi đây. Nghĩ vậy lập tức bay thật mau để kiểm
điểm coi thiếu hạc nào trong đoàn. Khi thấy thiếu hạc chúa, lập tức
bay trở lại, thấy hạc chúa đoàn đứng trên vũng bùn liền đến g?n hỏi
rằng: Tâu Ðại vương xin Ngài đừng kinh sợ, tôi là Sumukha sẽ chết thay
Ngài để đền lại công ơn của Ngài.
Nói xong liền đứng gần bên hạc
chúa.
Hạc chúa thấy Sumukha hành động
như vậy liền hỏi:
SUMUKHA ANUCINANTÀ
PAKKAMANTI VIHIMGAMÀ
GACCHA TVAMPI MAKANKHI
NATTHI PHANDHE SAHAYATA.
Nghĩa: Nầy Sumukha, đoàn hạc chín
muôn không có con hạc nào ngó đến ta, không thương yêu quí mến ta nên bỏ
đi vì sợ chết. Tại sao ngươi lại trở lại lo cho ta làm gì? Người không
nên ở nơi đây, vì ta đã mắc bẫy rồi. Ngươi ở lại làm chi chỉ tốn
công vô ích.
Sumukha nói: Tâu Ðại vương, tôi hằng
hạnh đúng theo Chánh pháp. Tôi suy nghĩ và thấy rõ rằng: Sự hành theo thiện
pháp sẽ đem sự lợi ích đến, hơn nữa trước nhứt phải diệt trừ tội
lỗi giảm bớt đi trong tâm. Do nhờ hành theo thiện pháp ấy nên tôi phải
trở lại với Ngài, dầu cho tôi có bị giết tôi cũng không thể trốn
tránh. Tôi nguyện hy sinh vì Ngài và chống lại tất cả mọi việc trở ngại.
Ðại vương ơi, không bao giờ tôi biết kinh sợ tên thợ săn ấy.
Trong khi đức Bồ Tát và Sumukha
đang nói chuyện với nhau, tên thợ săn cũng vừa đến và thấy hạc mắc
vào bẫy, nên nhè nhẹ lần đến. Hai hạc trông thấy người thợ săn đi
đến nhưng không bao giờ biết sợ. Người thợ săn thấy vậy lấy làm lạ
nên hỏi. Khi ấy người thợ săn mới biết rằng: Ðây là hai hạc chúa
tôi, Sumukha quyết lòng hy sinh cho chúa. Người thợ săn nghe xong phát tâm
trong sạch vì tấm lòng trung nghĩa của hạc Sumukha nên tình nguyện thả cả
hai hạc chúa tôi. Nên đến gần mở bẫy, lấy nước rửa chân hạc cho thật
sạch.
Sau khi được trả tự do hạc chúa
mới bàn với Sumukha rằng: Người thợ săn nầy thật là có ơn với ta, ta
phải đền đáp cho xứng đáng.
Hạc chúa liền nói với người thợ
săn rằng: Người ơi, người đem hai chúng tôi đến nạp cho đức vua thì
chắc chắn người sẽ được trọng thưởng.
Người thợ săn từ chối không bằng
lòng vì không tham lợi, nên hai hạc giải thích nhiều lần, và yêu cầu
hai hạc hãy bay về rừng. Trái lại, hạc chúa và Sumukha không chịu về
và nhứt định yêu cầu người thợ săn phải đem hai hạc đi. Khi đến nội
thành xin vào chầu vua và dâng hai hạc quí.
Khi đức vua trông thấy hai hạc
Ngài lấy làm hài lòng ban thưởng trọng hậu cho người thợ săn... Khi ấy,
hạc chúa mới dùng tiếng người nói chuyện với đức vua. Nhà vua lấy
làm trong sạch với hạc chúa. Rồi xin hạc chúa dạy đạo làm vua thế
nào cho hợp pháp.
Hạc chúa dạy nhà vua trì ngũ giới
và hành theo mười pháp của một vị minh quân hằng hành theo. Ðức vua
trong sạch với Pháp bảo của hạc chúa, sau khi nhiều lần yêu cầu hạc
chúa ở lại trong thành nội để dạy đạo và nhường ngôi cho hạc chúa.
Hạc chúa và Sumukha liền từ tạ đức vua mà bay về rừng.
Sau khi thuyết xong Túc Sanh truyện
ấy, đức Thế Tôn mới dạy rằng:
- Người thợ săn ấy chính là Xa Nặc,
đức vua Sàgala khi ấy là tiền thân của Xá Lợi Phất hiện nay. Hạc
Sumukha ấy chính là Ananda , còn Như Lai hôm nay chính là hạc chúa vậy.
HÓA ÐỘ VÔ NÃO
UKKHITTAKHAGGAMATÌHATTHASUDDÀRUNANTAM.
DHÀVANTIYOJANAPATHANGULIMÀLAVANTAM
IDDHÌBHI SANKHATAMÀNO JITAVÀ MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMANGALÀNI.
Nghĩa: Ðức Phật dụng phép thần
thông cảm thắng ANGULIMÀLA (An Gu Li Ma La), kẻ cướp sát nhơn, cắt ngón
tay người làm tràng hoa, kẻ quá hung bạo, nhưng rất tinh nhuệ, cầm gươm
rượt đức Chánh Biến Tri, xa ba do tuần. Do nhờ Phật lực này, xin cho sự
hạnh phúc phát sanh đến người.
CHUYỆN TÍCH
Nơi rừng thẳm xứ Ma Kiệt Ðà có
một tướng cướp hung ác phi thường nhưng tài cao sức mạnh muôn người
khó chống nổi. Tướng cướp ấy được người đặt tên là ANGULIMÀLA
có nghĩa là: Người đeo tràng chuỗi bằng lóng tay người. Tướng cướp nầy
ngang tàn không hề biết sợ một nhân vật nào dầu là vua chúa, mà cũng
chẳng tha ai khi mà gặp. Vì vậy nên đức Thế Tôn mới ngự đi độ tên
tướng cướp ấy.
Trước kia tướng cướp Angulimàla
là con của một vị Quân sư xứ Ma Kiệt Ðà cha mẹ dòng Bà la môn, mẹ
tên là Mantànì. Ngày sanh ông ra có điềm là tất cả vũ khí trong kho
hoàng gia đều phát ánh sáng ngời. Cha của Angulimàla là vị Quân sư nên rất
giỏi về thiên văn. Ông liền vào chầu tâu rằng: Tâu Hoàng thượng, Ngài
thấy có điềm gì lạ chăng?
Ðức vua Ba Tư Nặc đáp: Trẫm
trông thấy ánh sáng chiếu sáng ngời r?c rỡ như là phát hỏa trong kho khí
giới của Hoàng gia, không biết lành dữ thế nào, xin Quân sư cho trẫm biết.
- Tâu Ðại vương, xin Ðại vương
đừng lo chuyện ấy là do nơi việc gia đình của hạ thần. Vì con của hạ
thần sanh vào nhằm vì sao tướng cướp, nhưng không phải là cướp ngai vàng,
nhưng là một tên cướp sát nhơn hung ác phi thường nó sẽ giết người
không gớm tay. Xin Hoàng thượng xuống lịnh xử tử đứa bé ấy từ bây
giờ, để trừ hậu hoạn.
- Quân sư, trẫm không thể làm chuyện
vô nhân đạo như thế được, vì hiện nay đứa bé ấy là đứa trẻ vô
tội. Vậy xin Quân sư hãy lo nuôi dưỡng và trông nom chỉ dạy mong rằng:
Ngày sau không làm những điều như đã có điềm báo trước.
Quân sư lạy tạ lòng từ bi và
công bằng của đức vua ra về và đặt tên đứa bé ấy là AHIMSAKA có nghĩa
là không làm hại kẻ khác. (Tàu dịch là Vô Não). Từ đây tôi xin dùng tiếng
Vô Não chỉ tướng cướp để tiện quí vị dễ nhớ và dễ nói.
Cha mẹ ông Vô Não hết lòng lo dạy
dỗ con, ngừa không cho con làm việc ác, và luôn luôn nhắc con nhớ tên VÔ
NÃO có ý là không làm cho kẻ khác khổ não. Ông Vô Não là người con chí
hiếu thương yêu kính trọng cha mẹ, và nhứt là rất thông minh lại có một
sức mạnh phi thường. Ðến lớn học văn chương xong; cha mẹ ông cho đi học
võ với một vị giáo sư có tên tuổi nhứt trong thời kỳ ấy tên là
Disàpàmokkha ở xứ Takkàsìlà .
Khi vào trường học, ông Vô Não
là người học trò rất tốt, hạnh kiểm đoan trang, tính tình nhu hòa, học
ít biết nhiều thông minh nhứt, mà vị giáo sư ấy chưa từng thấy có một
người học trò như thế nầy bao giờ. Sức mạnh hơn người, tài chạy của
ông chiến mã hay nhứt trong thời kỳ ấy không qua ông được. Vì tài giỏi
hạnh kiểm tốt, nến thầy thương yêu giao trách nhiệm dạy lại những học
trò mới nhập môn và trông nom các bạn.
Những bạn học trước hay đồng
niên đều phải nghe lời ông chỉ bảo, rất được lòng thầy, nhưng không
được lòng bạn mặc dầu ông là ngưới rất tốt, vì lẽ tánh đố kỵ
của bọn học trò cũ và mới. Những người ấy liền hội nhau lại tìm
phương thế làm sao hại ông Vô Não. Nhưng vì ông là người rất hoàn
toàn tốt nên không tìm thấy lỗi của ông dầu rất nhỏ. Ðến cùng chỉ
còn phương thế là phao du cho ông thôi. Khi ấy bọn học trò chia ra làm ba
nhóm, mỗi nhóm vào hầu thầy phải tìm cho ra chuyện dối thầy cách nào cũng
được, miễn là thầy ghét bỏ ông Vô Não là được. Bọn ấy cứ nói
mãi nhưng thầy không tin bằng thật. Ngài kia bọn chúng mới nói: Vô Não
có tài cao, thường nói rằng hơn cả thầy, ngày nào đây sẽ chiếm lấy
địa vị là vị giáo sư Disàpàmokkha của thầy.
Vì nhiều người nói một việc và
nói đã nhiều lần, ông thầy thấy đáng nghi và tin như vậy. Ông cũng muốn
giết ông Vô Não nhưng không biết giết bằng cách nào, vì nếu giết bằng
cách nào cũng sợ người đời biết dị nghị ông sẽ mang tiếng giết học
trò. Ông nghĩ ra được một chuyện là nhờ tay kẻ khác giết là yên. Ông
liền cho gọi Vô Não vào và bảo rằng: Tài học của ông thật giỏi nhưng
muốn thành tài thì phải giết được nhiều người khi ấy làm phép xong
tài ấy mới hoàn toàn, kết quả mỹ mãn. Thâm tâm ông thầy nghĩ Vô Não
giết nhiều người có ngày bị người ta giết, không vậy cũng mắc tội
sát sanh đức vua cũng không tha.
Ông Vô Não sanh vào dòng Bà la môn
là dòng tu hành và hành phạm hạnh cao quí cử sát sanh, không hề làm khổ
kẻ khác. Khi ông nghe thầy dạy như vậy, ông thấy sai với phong tục và
phạm hạnh của gia đình ông, nhất là cha mẹ thường dạy không nên làm
tội lỗi. Nhưng vì sự khuyên nhủ của thầy và cũng muốn trở nên người
giỏi nhứt trên đời nầy nên ông liền thi hành theo.
Ông chuẩn bị gọn gàng, nào là
mang tên đeo cung kiếm vào rừng đón giết người qua lại. Mặc dầu ông
giết người nhưng thâm tâm ông không nghĩ gì thù oán mà giết hay giận hờn
mà giết, thật là giết không có một ý định chính xác, cái ý ông là muốn
luyện phép mầu cho mau thành tài thôi. Khi ông đã giết nhiều người rồi
nhưng không nhớ là bao nhiều để về trình lại với thầy hầu là cho
xong phép. Nên ông bắt đầu giết người nào cắt một ngón tay xỏ lại
đeo vào cổ để không thất lạc lại dễ nhớ. Vì lẽ ấy mà ông được
tên là Angulimàla, nghĩa là người đeo xâu chuỗi bằng lóng tay người.
Kể từ ngày bắt đầu giết người
thì không ai dám vào rừng đốn hoặc lượm củi khô, người muốn đi
ngang qua rừng ấy, phải đợi nhau lại cùng mấy mươi người mới dám, nhưng
nếu gặp ông Vô Não thì bao nhiêu người cũng không khỏi tay ông cả. Người
ở gần đấy cũng bị ông giết hại không thể ở được, đem gia đình
đi ở nơi khác hay về thành ở. Khi đến thành mới hội nhau bàn về tên
tướng cướp sát nhơn hung tàn ấy. Việc làm ác ôn ấy thấu đến tai đức
vua Ba Tư Nặc, Ngài nhứt định phải dẹp yên. Ngài liền truyền đem tứ
đội hùng binh vây khu rừng ấy bắt hay là giết cho được tên tướng cướp
hung ác ấy.
Vị Quân sư nghe tin ấy ông biết
chắc rằng con ông, và ông cũng biết rằng: Ðức vua sắp đem binh trừ tên
tướng cướp ấy. Ông liền về nhà cho bà hay chuyện ấy. Bà yêu cầu van
xin ông hãy đi đem con về. Ông bảo ông không thể làm vậy được. Lòng mẹ
thương con to rộng không chi sánh bằng hay đo lường được, mặc dầu đường
xa và đã già nhưng bà không quản bao cực nhọc, lập tức ra đi tìm con để
báo tin không lành và bảo con phải về hay trốn nhà vua.
Ðồng thời bà mẹ đi tìm ông Vô
Não thì đức Thế Tôn cũng dùng Tuệ giác coi chúng sanh nào có duyên lành
với Ngài trong ngày ấy. Ngài trông thấy ông Vô Não có duyên với Ngài. Nếu
Ngài không kịp thời tế độ thì ông sẽ giết mẹ vì ông đã trở nên
người cuồng loạn không nhận định biết mẹ cha. Khi ông đã phạm vào tội
Ngũ nghịch đại tội thì không ai cứu được.
Ðức Thế Tôn đắp y mang bát vào
thành khất thực, sau khi thọ thực xong Ngài đi thẳng vào nơi ông Vô Não
ở. Trong khi ấy ông Vô Não đã mất hết lương tri vì ông ăn đồ sống
giết hại nhiều người, trong tâm ông không còn biết gì hơn là giết.
Ông ngồi đếm lóng tay người như nggười đếm hạt kim cương. Ông đếm
được chín trăm chín mươi chín ngón tay, chỉ còn một ngón nữa là đủ
một ngàn đặng đem về cho thầy làm phép. Ông nóng lòng muốn tìm người
để giết thì ông lại trông thấy một bà già và một vị Sa môn. Ông liền
nghĩ: Trong hai người nầy ta giết người nào? Ông nghĩ nên giết ông Sa
môn. Nhờ vậy mà bà mẹ ông khỏi chết. Ông liền xách gươm rượt theo vị
Sa môn tức là đức Thế Tôn.
Ông Vô Não là người có tài chạy
hay hơn chiến mã. Nhưng khi ông rượt Phật ông vận dụng hết tài của
ông mà cũng không đuổi theo kịp Phật, trái lại đức Thế Tôn vẫn ung
dung đi một cách nhàn nhã không hề thấy có thái độ lo lắng hay kinh sợ
hoặc hấp tấp. Ông cố hết sức rượt theo Phật cả ba do tuần (mỗi do
tuần là mười sáu cây số ngàn) mà vẫn không bắt kịp. Ông lấy làm tức
giận gọi to lên rằng: Nầy ông Sa môn kia! Hãy dừng lại.
Ðức Thế Tôn đáp: Angulimàla ! Như
Lai đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có ngươi chưa ngừng lại thôi. Tuy
nói vậy nhưng đức Thế Tôn vẫn ung dung bước đi từng bước một như
người dạo mát.
Ông Vô Não nghe đức Phật nói vậy
lấy làm trái tai mới hỏi: Ông Sa môn! Ông nói dối, ông vẫn đi mà bảo
là đã ngừng.
Ðức Thế Tôn đáp: Như Lai đã ngừng
sự làm tội lỗi là nhân đưa sự đau khổ trong luân hồi từ lâu rồi,
chỉ có ngươi không dừng sự sát hại nhân loại. Nếu ngươi còn cố làm
những tội ác như vậy nữa thì ngươi sẽ bị luân hồi trong biển khổ nầy
không biết thời gian là hạn định phải bao lâu, luân hồi ấy không bao
giờ ngừng nghỉ hay dừng lại.
Khi ông nghe lời Phật dạy cảm thấy
như người vừa tỉnh lại trong cơn ác mộng, tâm ông trở nên sáng suốt
và yên tĩnh nhớ lại được mọi sự việc từ khi còn trong gia đình phạm
hạnh thanh cao cho tới khi đi học, và cha mẹ thường nhắc nhở cái tên
Vô Não nghĩa là người không gây sự khổ não cho ai cả. Ông liền nghĩ
cha mẹ ta đặt ta tên Vô Não thâm tâm hai người nhắc ta không nên làm tội
ác. Hơn nữa, trong đời nầy có pháp mầu nào phải dùng tới sanh mạng
con người để được kết quả cao thượng. Khi ấy ông cảm thấy ông đã
đi lạc đường, con đường đi của ông là tà đạo. Ông lấy làm hổ thẹn
cởi bỏ xâu chuỗi kỳ quái ấy và đao kiếm cung tên, liền đến gần Phật
đảnh lễ Ngài xong xin Ngài cho phép xuất gia.
Ðức Thế Tôn liền cho phép ông xuất
gia theo thể thức EHI-BHIKKHU nghĩa là ngươi hãy trở thành vị Tỳ khưu. Tức
nhiên thành vị Tỳ khưu có đủ y bát. Ðức Thế Tôn dẫn ông trở vào
thành Thất La Phiệt.
Sáng ngày, đức Thế Tôn ngự vào
thành khất thực với chư Tỳ khưu. Trong số Tỳ khưu có một vị mới xuất
gia là ông Vô Não. Dân chúng thấy ông lấy làm kinh sợ bỏ chạy thật là
một cảnh náo loạn họ bảo nhau rằng: Angulimàla giả dạng làm Tỳ khưu
để vào thành giết người, cũng có người nói: Angulimàla giả làm Tỳ khưu
để tránh sự truy nã của đức vua v.v... Trong ngày ấy ông Vô Não không
có được một hột cơm, ông chịu cảnh đói ấy ít lâu vì nơi nào mà
ông đến thì người người đều kinh sợ trốn hết, không vậy cũng vào
nhà đóng kín cửa không dám ra.
Ngày nọ có một người phụ nữ có
thai gần ngày sanh, khi trông thấy ông Vô Não kinh sợ chạy trốn, cô ta
chun hàng rào cho mau, nhưng vì bụng lớn quá chun không lọt, trái lại còn
kẹt ở hàng rào không làm sao ra được, mà trong lúc ấy thai nhi lại động
mà cũng không sanh được. Quyến thuộc của cô không biết làm sao mới
bàn với nhau. Có một người thanh niên lạ mặt bảo: Theo tôi thì mời
Ngài Ðại Ðức ấy đến và Ngài phát nguyện sự tu hành chân chánh của
Ngài và cầu chúc cho cô thì cô ấy sẽ sanh được. Vì cùng quá không biết
làm sao, quyến thuộc cô ta làm theo lời của người thanh niên ấy. Ðem gai
lại rào quanh chỗ cô ấy và đến thỉnh cầu ông Vô Não. Ông liền đến
bạch hỏi Phật coi phải xử trí thế nào. Ðức Thế Tôn dạy ông phát
nguyện Ba La Mật.
Ông liền đến nơi ấy đứng bên
ngoài hàng rào gai phát nguyện rằng:
- Yato ham bhaginì ariyaya
jatiyajato nabhijanami sancicca pànam voropeta tena saccena sotthi te hotu sotthi
gambhassa.
Nghĩa: Nầy cô em gái, kể từ
khi ta sanh trong dòng Ariya, ta không làm chủ nhân được ta nên đã sát sanh.
Do nơi lời nói chân thật nầy xin cho sự an lành có đến nàng và thai bào
của nàng.
Dứt lời nguyện, cô ấy sanh được
dễ dàng, cả mẹ lẫn con bình an. Kể từ ngày ấy đi người mới tin tưởng
nơi ông và biết chắc rằng: Ông là người từ bỏ điều ác. Nhứt là
tính oai đức của ông nên đến đổi chỗ ngồi của ông cũng có giá trị.
Người thường rửa lấy chỗ ngồi của ông tắm cho những đứa trẻ sơ
sanh, thú không sanh được lấy nước ấy cho uống sanh được liền.
Những ngày khổ cực của ông đã
qua, dân chúng hết sợ và cúng dường cho ông đầy đủ như những vị khác.
Ông lo hành đạo không hề giải đãi, nhưng không thể làm cho tâm được
yên tỉnh vì những cảnh sát hại người khi xưa hằng đến với ông khi
ông tham thiền.
Ngày nọ, ông tham thiền trong rừng,
nơi mà ông thường đuổi giết người, khi ấy ông nghe tiếng những oan hồn
đến đòi mạng, ông lấy làm kinh sợ. Ðồng thời đức Thế Tôn hiểu
rõ tâm trạng của ông bằng Tuệ giác của Ngài. Ngài liền ngự đến nơi
ấy dạy ông Vô Não hãy dứt bỏ câu chuyện quá khứ; và cố giữ tâm cho
an tịnh trong đề mục thiền định và nên hồi hướng phước báu đã tạo
ra từ vô số kiếp đến những người bị giết xin giải oan trái oán
thù.
Ông vâng lời hành theo và không bao
lâu đắc A-la-hán quả cả Tam Minh. Từ ấy Ngài là một trong tám mươi vị
đại đệ tử Phật. Ðức vua Ba Tư Nặc hay tin ấy liền vào hầu Phật lễ
bái xong, Ngài mới bạch hỏi Phật qua câu chuyện của Ngài Vô Não, khi biết
rằng: Ngài đã xuất gia theo chánh pháp trở nên vị đại đệ tử nên đức
vua lấy làm trong sạch, ca tụng công đức Phật bảo rằng: Chỉ có đấng
Giác Ngộ mới thu phục được những người hung ác bạo tàn và chỉ có
Phật mới hy sinh không nài khổ cực cứu độ chúng sanh. Người như Ngài
Vô Não không hề kinh sợ quan quân mà lại qui phục đức Từ Bi thật là
chuyện hy hữu vậy.
THẮNG NÀNG CINCÀ
KATVÀNA KATTHAMUDARAM IVA GABBHINÌYÀ
CINCÀYA DUTTHAVACANAM JANAKÀYAMAJJHE
SANTENASONAVIDHINAJITAVÀ MUNINDO
TANTEJASÀ BHAVATU TE JAYAMAÍGALÀNI.
Nghĩa: Ðức Phật đã khử trừ lời
dữ của nàng CINCÀ (Chinh Cha), nàng dùng cây tròn giống dạng đứa bé
trong thai; giả làm phụ nữ mang thai. Nhờ dùng phép Chánh định mà đức
Chánh Biến Tri cả thắng nàng giữa chốn đông người. Do nhờ Phật lực
nầy, xin cho hạnh phúc phát sanh đến người.
CHUYỆN TÍCH
Sau khi đắc quả Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác, đức Thế Tôn hằng đi truyền đạo khắp mọi nơi nên
Phật giáo thạnh hành rất mau chóng, những người tà kiến ngoại đạo đều
hồi đầu hướng thiện, vì vậy nên lợi lộc của những ông Tổ sư ngoại
đạo bị giảm đi rất nhiều.
Những ông Tổ sư ấy mới hội
nhau lại để bàn tính phương pháp nào làm giảm uy tín của Phật giáo.
Khi ấy có một người có ý kiến phải làm như thế nầy thế nầy mới làm
giảm uy tín của ông Sa môn Cồ Ðàm. Khi đồng cùng nhau thực hành theo kế
ấy. Các ông liền đưa đại diện đến nhà cô CINCÀ (xin đọc là CHINH
CHA) yêu cầu cô thực hành theo kế ấy. Sau khi hoàn thành cô sẽ được
nhiều ân huệ, cô nhận lời thi hành kế ấy.
Thật cô Cincà không hổ là người
khôn ngoan xảo trá. Kể từ ngày cô lãnh nhiệm vụ cô trang điểm thật đẹp
và đợi khi nào tín đồ vào chùa nghe pháp buổi chiều cô cũng đi vào
chùa. Có người biết cô là kẻ ngoại đạo nên hỏi cô đi đâu.
Cô đáp: Tôi vào hầu ông Sa môn Cồ
Ðàm.
Cô vào chùa cửa trước khi cô đợi
coi người không để ý đến cô, cô liền lén ra cửa khác mà về ngủ ở
chùa bọn ngoại đạo gần bên ấy. Ðến sáng ngày, cô đợi cho khi tín đồ
vào chùa lễ Phật cô lại trong chùa đi ra.
Có nhiều người thấy vậy lấy làm
lạ mới hỏi cô rằng: Cô đi đâu về sớm vậy?
- Tôi ở Kỳ Viên tịnh xá về.
Ðộ chừng đôi ba tháng sau có người
hỏi cô đi đâu về sớm. Cô liền nói: Ta ở chung một tư thất với ông
Sa môn Cồ Ðàm trong Kỳ Viên tịnh xá về đây.
Chuyện nầy làm cho nhiều người còn
phàm sanh lòng phân vân tự hỏi: Chuyện nầy làm sao vầy? Thật cô nầy
ở chung một tư thất với Phật chăng? Ðến độ chừng bốn hay năm tháng
sau cô liền độn bụng hơi lớn lên như người có thai bốn hay năm tháng,
làm cho người để ý đến cô càng ngày càng nhiều.
Ðến tám hay chín tháng cô liền
dùng khúc cây tròn giống hình thai thật độn bụng ra lấy vải quấn bụng
thật kỹ, dùng cây tròn đập trên lưng bàn tay và bàn chân cho hơi sưng lên
làm cho ra vẻ người đã mang thai gần ngày sanh.
Buổi chiều nọ, trong khi đức Thế
Tôn đang thuyết pháp giữa hàng đại chúng, cô Cincà liền đến nơi ấy
đứng trước mặt đức Thế Tôn chỉ mặt Ngài mà nói: Nầy ông Sa môn Cồ
Ðàm, tiếng ông thanh tao nghe thật hay, răng ông đều đặn trắng trẻo đẹp,
lời nói văn hoa nghe rất bùi tai. Nhưng trái lại thân tôi cũng vì ông mà
ra nông nỗi nầy. Hiện nay cái bào thai do, ông là tác giả đã đến ngày
rồi, ông không biết sao? Tại sao ông không tìm nhà nào để cho tôi tạm bợ
ở đậu để sanh, ông không biết lo những vật như than, củi v.v... cho
người sắp sanh như tôi dùng chăng? Nếu ông không tự làm lấy được thì
ông cũng nên bảo tín đồ trung thành với ông như là Visàkha hay đức vua
Ba Tư Nặc lo cho tôi. Nói xong bà liền mắng chửi Phật đủ điều nào là
người đểu giả v.v... không hề nể nang giữa hàng tín đồ.
Ðức Thế Tôn ngồi yên không nói
nửa lời với cô. Ngài điềm nhiên thuyết pháp khi thuyết xong Ngài mới
nói rằng:
- Nầy cô Cincà chuyện nầy chỉ
có Như Lai và ngươi biết mà thôi.
- Nầy ông Sa môn, sự thật là vậy.
Trong khi ấy, ngai vàng của Thiên Vương
Ðế Thích trở nên nóng như sắp bị chảy ra, hay như ngồi trên hỏa diệm
sơn. Ðức Ðế Thích lấy làm lạ và rất kinh sợ, nên Ngài dùng thần
thông xem coi vì nguyên nhân nào? Ngài thấy do nơi cô Cincà phao vu đức Ðại
Giác. Ngài nghĩ: Thế ra vì cô nầy, thôi để ta giải quyết cho êm, và
làm cho rõ sự trong sạch của đức Thế Tôn.
Ngài truyền gọi bốn vị chư Thiên
đến dạy rằng:
- Các người hãy hóa ra bốn con chuột
con vào cắn dây cột bụng của cô Cincà làm cho khúc cây rơi xuống trên lưng
bàn chân của cô ta.
Bốn vị vâng lời thi hành theo sứ
mạng. Khi khúc cây rớt xuống đúng ngay vào hai bàn chân cô, và hai bàn
chân ấy bị đứt tiện như người dùng dao bén chém đứt vậy.
Những tín đồ còn phàm có mặt nơi
ấy lấy làm tức giận bảo: Con khốn kia, ngươi đến đây để phao vu cho
đức Ðại Từ Bi bằng những lời đê tiện như vầy chăng? Nói xong kẻ
phun nước miếng vào mặt, người khạc nhổ những vật không sạch vào mặt
cô, có người vì tức giận quá không chịu được lấy đá gạch liệng
vào người cô, có người kéo cô ra khỏi Kỳ Viên tịnh xá. Thương hại cô
khi vừa ra khuất mắt đức Thế Tôn cô liền bị đất sụp chết. Cô bị
đọa vào A tỳ địa ngục.
Ngày hôm sau, chư Tỳ khưu hội nơi
thuyết pháp bàn về vấn đề cô Cincà rằng: Cô Cincà dám vu oan cho bậc
Ðại Giác Ðại Từ Bi như đức Thế Tôn là đấng đáng thọ lãnh cúng dường
của chư Thiên, Phạm Thiên và nhân loại thật là chuyện phi thường vậy.
Ðức Thế Tôn cũng vừa đến và hỏi
câu chuyện gì? Chư Tăng bạch Phật những chuyện đã nói.
Ðức Thế Tôn dạy:
- Nầy các thầy Tỳ khưu, chẳng phải
cô Cincà mới phao vu cho ta trong kiếp nầy, mà cũng đã từng phao vu cho ta
nhiều lần trong kiếp quá khứ.
Chư Tỳ khưu liền thỉnh cầu đức
Thế Tôn thuyết Túc Sanh Truyện.
Ðức Thế Tôn dạy: Lúc quá khứ
cô Cincà được sanh làm Thứ hậu xứ Bàrànasì , còn mẹ của đức Bồ Tát
là Hoàng hậu. Khi ấy đức Bồ Tát đã lớn lại là một thanh niên anh tuấn.
Bà Thứ phi thấy Thái tử đẹp nên rất yêu, nên phát tà tâm, nên tìm trăm
mưu ngàn kế để đuợc gặp Thái tử. Ngày gặp được Thái tử bà liền
dùng lời yêu đương khuyến dụ Ngài. Nhưng không làm sao rung động lòng
son sắt của Thái tử, nên bà oán ghét. Bà liền giả vờ bịnh, đức vua
mới hạ lời phán hỏi: Tại sao bà cứ nằm hoài không vui như trước.
Bà liền tâu: Tâu Ðại vương vui làm
sao được mà vui. Thần thiếp đã bị Ðông cung Thái tử cưỡng bách phá
hại đời thần thiếp. Thần thiếp không bằng lòng bị Ðông cung đánh đập
thân thể ra nông nỗi nầy.
Vì nhẹ lòng tin nơi bà Thứ phi trẻ
đẹp. Ðức vua liền hạ lệnh đem Thái tử xô xuống hố sâu, nơi để xô
những tử tội.
Nơi hố ấy có vị Thọ thần nghĩ
rằng: Vị Thái tử nầy là một vị đại Bồ Tát ta không thể để Ngài
chết một cách thê thảm như thế nầy được. Ông liền đỡ lấy đức
đại Bồ Tát đưa đến ở với Long vương. Thái tử ở Long cung được một
năm, lòng Ngài không thích nơi lầu vàng điện ngọc nên muốn về ở nơi
rừng Tuyết Lãnh xuất gia làm đạo sĩ. Long vương liền đưa Ngài về. Sau
khi xuất gia Ngài trì chí tu hành đắc được Tứ thiền và có thần
thông.
Ngày nọ, có một người thợ săn
đi sâu vào rừng Tuyết Lãnh gặp đức Bồ Tát và nhớ rõ rằng: Ðây là
Ðông cung Thái tử. Khi về đến kinh thành vào chầu và tâu cho đức vua biết
Thái tử vẫn còn sống và đang xuất gia tu hành nơi rừng Tuyết Lãnh. Sau
ngày hạ lịnh xô con xuống núi đức vua thấy ăn năn hối hận và nghĩ rằng
chắc con ta là người đức hạnh không ai bì, bao giờ lại làm tội ghê tởm
như thế.
Khi nghe tin con Ngài liền truyền cho
sắm sẵn mọi việc nhứt là xa giá trang nghiêm để đi nghinh đón Thái tử
về thành. Chính Ngài ngự đi đến nơi tư thất của Thái tử. Khi đến
nơi đức vua hỏi qua chuyện cũ. Ðức Bồ Tát trình bày rõ mọi việc. Ðức
vua lấy làm thương con bị hàm oan. Ngài yêu cầu Thái tử trở về triều
thay Ngài trị vì thiên hạ. Ðức Bồ Tát từ chối và dạy đức vua khi về
nên thực hành theo mười pháp của một vị minh quân, không nên thiên vị.
Ðức vua vâng lời xa giá ra về.
Khi về nửa đường đức vua mới hỏi vì cớ nào con ta lại xuất gia?
Các quan tâu vì lẽ bà Thứ hậu bất
chánh. Ðức vua truyền đem bà xô xuống hồ xô Thái tử khi xưa.
Ðức Thế Tôn thuyết xong Ngài liền
dạy rằng: Thái tử khi xưa chính là Như Lai hiện tại vậy. Còn bà Thứ hậu
ấy chính là cô Cincà. Ðức vua khi ấy là Ananda hiện tại.
Ðức Thế Tôn dạy tiếp: Nầy các
thầy Tỳ khưu, người mà không có sự thành thật nói dối vì lòng xấu
xa mờ tối bị si mê; người ấy chắc chắn sanh vào địa ngục, con đường
tiến hóa là Người, Trời và Niết bàn bị đóng chặt. Khi mãn hạn nơi
địa ngụ sanh lại kiếp sau, sau vì quả ác nghiệp nên hằng gặp những
tai nạn như bị vu khống v.v... do nơi tội đã tạo.
Sau khi dứt thời pháp có nhiều vị
giác ngộ.
Ðức Thế Tôn thắng cô Chinh Cha do
nơi pháp Chánh định của Ngài.
Lời Tựa | 1 | 2 | 3
| 4 | 5
| 6 | 7
| 8 | 9
| 10 | 11
| 12 | 13a
| 13b | 13c
| 14 | 15
| 16