- Lịch Sử Ðức
Phật Tổ Cồ Ðàm
- Maha Thongkham Medhivongs
THIÊN THỨ BẢY
DÒNG THÍCH CA XUẤT GIA
-ooOoo-
Ðến ngày thứ tư, đức Thế Tôn
ngự vào khất thực và thọ thực tại cung của Thái tử Nanda (Nan Ðà) là
em một cha khác mẹ cùng Ngài, ông Nanda là con của bà Gotami. Cũng là ngày
làm lễ cưới của Thái tử Nanda. Khi thọ thực xong, đức Thế Tôn đứng
dậy ra về, sẵn có Thái tử Nanda đứng gần bên, đức Thế Tôn liền
trao bát của Ngài cho ông và Ngài ngự về chùa.
Sau khi lãnh bát, ông Nanda lấy làm
khó xử không biết phải làm sao vì cuộc lễ sắp khởi hành, nhưng ông cũng
không dám kêu Phật để cái bát lại cho Ngài. Ôm bát theo sau Phật nhưng lòng
vẫn bâng khuâng lo âu mọi việc nhứt là việc làm lễ tơ hồng, nhưng
ông lại tự an ủi rằng: Chắc xuống tới thang lầu Ngài thâu bát lại.
Khi đến thang lầu đức Thế Tôn vẫn không nói gì và cứ từ từ ngự
đi, ông lại bảo lòng rằng: Chắc Ngài sẽ nhận lấy bát lại sau khi ra
khỏi vòng rào. Khi ra khỏi hai nơi ấy, đức Thế Tôn cũng chẳng thâu lấy
bát lại, ông không biết phải làm sao, nhưng vì lòng rất kính trọng đức
Thế Tôn nên không dám nói nửa lời, cúi đầu đếm bước theo sau đức
Phật. Nhưng lòng thì ở nơi vị hôn thê trẻ và đẹp tuyệt trần, bà có
tên là Jalapadaklyànì nghĩa là Hoàng hậu đẹp nhứt trong xứ. Dầu vậy
ông vẫn còn niềm an ủi là khi tới chùa Ngài nhận bát ta vẫn còn nhiều
thì giờ cử hành cuộc lễ tơ hồng. Sự an ủi của ông từ đoạn đường
cho tới cửa chùa đến vào nơi Phật ngự, nhưng không có nơi nào là nơi
Phật thâu bát lại.
Trong khi ông ôm bát theo hầu Phật
có các phi tần trông thấy chạy vào cho vị hôn thê của ông hay rằng: Thưa
lịnh bà, đức Thế Tôn trao bát cho Hoàng tử ôm theo hầu, vậy lịnh bà
phải làm sao?
Bà Jalapadaklyànì nghe vậy lấy làm
lo sợ, đang bới đầu, tay còn cầm búi tóc lật đật đứng dậy chạy ra
nơi cửa sổ ngó xuống vào bảo ông Nanda rằng: Thái tử ơi, đưa đức Thế
Tôn đến nơi rồi hãy quay về cho sớm nhá, cuộc lễ sắp cử hành rồi,
nhứt là em nhớ trông chàng lắm đấy.
Khi ông Nanda nghe lời của vị hôn
thê bảo vậy ông có cảm giác là có quả núi Tu Di đè trên tim ông, mồ
hôi nhỏ giọt, muốn gọi Phật để trao bát cho Ngài, nhưng ngặt nỗi không
dám hở môi.
Những gì đang sôi nổi trong tâm của
ông Nanda , đức Thế Tôn đều biết nhưng Ngài vẫn điềm nhiên đi về tới
chùa và vào thẳng nơi Phật ngự, Ngài ngự trên bảo tọa gọi Nanda đến
và bảo rằng: Nầy Nanda , ngươi nên xuất gia đi!
Mặc dầu lòng không hề muốn tí
nào, nhưng không dám cãi lời, nên ông xuất gia. Ðây là vị Thái tử em một
cha khác mẹ của Phật, là dòng Thích Ca xuất gia trước nhứt trong Phật
giáo. Ông xuất gia sau khi đức Thế Tôn ngự về thành Ca Tỳ La Vệ được
bốn ngày.
Ðến ngày thứ bảy, bà Gia Du Ðà
La trang điểm cho Thái tử Ra Hầu La thật đẹp rồi dẫn vào cung đức Tịnh
Phạn Vương, nơi đức Thế Tôn thọ thực, bà bảo nhỏ con rằng: Ra Hầu
La con ơi, con hãy nhìn xem vị Sa môn có hào quang sáu màu chiếu sáng trông
thật là oai nghiêm, mặt đầy vẻ từ bi kia, thật là đẹp không khác nào
vị Phạm Thiên; có hai muôn vị Sa môn theo hầu. Vị giáo chủ đó chính
là phụ vương của con vậy. Phụ vương của con có ngọc ngà châu báu nhiều
vô số kể. Từ khi phụ vương con xuất gia thì những hầm trân châu quí
báu ấy biến mất. Vậy con nên đến lạy và xin Ngài những của cải đã
mất ấy. Con nên tâu với Ngài rằng: Tâu Ðại vương, Ngài là đấng có
nhiều oai đức sẽ được làm Chuyển Luân Thánh Vương. Con rất cần được
của cải tài sản cùng tiếp lấy ngai vàng của phụ vương. Theo lẽ cố
nhiên, của cha thì con được quyền thừa hưởng. Vậy xin Ngài từ bi ban bố
của ấy cho con.
Thái tử Ra Hầu La vâng lời mẹ đến
gần đức Thế Tôn đảnh lễ Ngài xong, lòng lại phát sanh sự quyến luyến
thương yêu Phật, và lấy làm thỏa thích khi được ngồi gần và nói chuyện
với Phật.
Ông Ra Hầu La mới nói với đức
Thế Tôn rằng: Ngài đại Sa môn thật là một bóng mát mẻ và làm cho người
được an vui hạnh phúc vô cùng tận. Rồi ông liền xin ngai vàng và châu
báu như mẹ dạy.
Khi thọ thực xong đức Thế Tôn ra
về chùa. Thái tử Ra Hầu La lại theo sau đức Phật về chùa để xin ngai
vàng và châu ngọc đã mất, nhưng trên thật tế vì ông thương mến đức
Thế Tôn, muốn ở bên cha. Khi Thái tử Ra Hầu La theo Phật về chùa tất cả
những người có mặt tại nơi ấy, nào là phi tần, quan quân nhưng không một
ai dám ra cản hay kêu Thái tử trở lại, vì lẽ Thái tử là con Phật,
cháu nội Tịnh Phạn Vương. Nhứt là đức Tịnh Phạn Vương yêu thương
Thái tử Ra Hầu La hơn tất cả mọi vật trong cõi đời nầy, nên không ai
dám kêu gọi hay ngăn cản gì cả.
Khi đến chùa đức Thế Tôn mới
nghĩ rằng: Thái tử Ra Hầu La muốn được di sản của cha, nếu Như Lai
cho châu báu ngọc vàng vẫn được, nhưng những của ấy toàn là của còn
lẩn quẩn trong vòng luân hồi. Vậy Như Lai nên cho của báu là thất bửu
nhà Phật mà ta đã cố tâm tìm kiếm hàng bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp mới gặp
dưới cội Bồ đề. Ta sẽ cho thất bửu nhà Phật để nối theo dòng Phật
bảo.
Ðức Thế Tôn liền gọi Ðại Ðức
Xá Lợi Phất đến mà dạy rằng: Này Xá lợi Phất, ông nên cho Ra Hầu La
xuất gia.
Ðại Ðức Xá Lợi Phất vâng lời
cho xuất gia theo phương pháp thọ Tam qui và Thập giới. Ðức Tịnh Phạn Vương
hay tin lấy làm buồn khổ. Ngài liền đến hầu Phật mà yêu cầu rằng: Kể
từ đây đi giới tử muốn xuất gia, xin đừng cho xuất gia; cần phải có
sự ưng thuận của cha mẹ.
Ðức Thế Tôn nhận lời, và từ
ấy vị nào muốn xuất gia cũng phải có sự ưng thuận của mẹ cha. Ðức
Thế Tôn kiếu từ đức vua trở về Vương Xá thành.
Trong khi đức Thế Tôn ngự tại Vương
Xá thành có một ông đại Trưởng giả tên Cấp Cô Ðộc người thành Thất
La Phiệt ( Savathì ) đi đến Vương Xá thành. Ông được dịp cúng dường
đến chư Thánh Tăng có đức Phật làm tọa chủ, được nghe đức Phật
thuyết pháp đắc Tu-đà-huờn quả. Ông liền xin thỉnh đức Thế Tôn ngự
về thành Thất La Phiệt.
Ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc vội
vã ra về Thất La Phiệt để lo lập chùa và tư thất để Phật ngự đến
dạy đạo. Ông tìm mãi không ra một nơi nào đủ tiện nghi để đức Thế
Tôn ngự được an tĩnh và để cho tín đồ đến thính pháp và cúng dường.
Ông tìm mãi mới gặp được một
vườn xoài có đủ tiện nghi đủ mọi phương diện, khi hỏi ra mới biết
là của một vị Hoàng tử tên Jeta (Tàu âm là Kỳ Ðà). Ông Trưởng giả
mới đến nơi hoàng cung của vị Hoàng tử để hỏi mua. Ông Hoàng Jeta ấy
bảo rằng: Ta không thể bán vườn xoài ấy cho ngươi được nhưng nếu
ngươi có thể đem vàng trải cho đầy vườn xoài của ta tới đâu thì ngươi
lấy tới đó, nhưng cây xoài là của ta thôi.
Ông Cấp Cô Ðộc về truyền mở
các kho vàng cho xe bò chở đến vườn xoài và trải khắp mọi nơi. Khi ấy
ông Jeta lấy làm lạ và kinh khủng cái giàu và đức tin của ông Trưởng
giả. Khi trải còn lại một góc vườn nữa. Ông Trưởng giả đứng vuốt
râu và tỏ vẻ tư lự.
Khi ấy ông Jeta mới hỏi ông Trưởng
giả rằng: Sao ông Trưởng giả, bộ ông hết vàng rồi sao? Hay tiếc những
vàng đã trải vườn?
Ông Trưởng giả đáp: Không bao giờ
tôi biết tiếc những khối vàng vô dụng này, mà tôi đang suy nghĩ coi phải
lấy kho vàng nào của tôi gần nhứt để đem lại trải cho mau đặng tôi
lấy vườn này cho gấp hầu lập tịnh xá và tư thất để thỉnh đức Giác
Ngộ đến nơi đây thuyết pháp độ đời.
Ông Hoàng Jeta nghe qua lấy làm kinh
khủng và tự bảo rằng: Người nầy có một đức tin rất mạnh; không hề
biết tiếc tiền của. Vậy tại sao ta lại tiếc vườn xoài nầy. Ông liền
nói với ông Trưởng giả rằng: Nầy ông Trưởng giả, ông là người có
đức tin rất dũng mãnh không tiếc hàng bao nhiêu vàng thì ta có tiếc gì vườn
xoài nầy. Vậy tôi xin cúng dường vườn xoài nầy đến Tam bảo, tôi chỉ
xin ông một việc thôi là tôi xin ông để tên chùa nầy là tên tôi.
Ông Trưởng giả bằng lòng, nên
chùa ấy sau này được tên là Jetavana gọi là Kỳ Viên tịnh xá (Nếu dịch
ra là vườn của Kỳ Ðà) cũng có tên là Bố Kim Tự vì chùa ấy trải
vàng.
Khi chùa đã lập xong ông liền thỉnh
đức Thế Tôn ngự đến và làm lễ dâng cúng chùa ấy đến Tam bảo.
Riêng ông Nanda thì không thiết gì
đến sự tu hành vì ông chỉ nhớ một người là vị hôn thê của ông
thôi, và ông thường bảo với các vị Tỳ khưu rằng: ông không thích đời
áo bả nâu sòng v.v...
Ðức Thế Tôn liền gọi ông Nanda
đến hỏi rằng: Nghe nói rằng: Ngươi nhớ vị hôn thê của ngươi không
muốn xuất gia có phải vậy không?
Ông Nanda mới bạch rằng: Bạch đức
Thế Tôn thật vậy!
Ðức Thế Tôn dạy rằng: - Vậy ngươi
hãy theo ta, ta sẽ kén vợ cho ngươi.
Rồi đức Thế Tôn mới nắm tay
ông dùng thần thông đưa ông đi lên cõi trời Ðạo Lợi mà ông không hay
biết gì hết. Khi đang đi theo đường đức Thế Tôn lại dùng thần thông
cho ông Nanda trông thấy một con khỉ cái mũi, tai và đuôi đều cụt hết
đang ngồi trên một gốc cây cháy đen. Khi đến cõi Trời Ðạo Lợi đến
nơi lầu của đức Ðế Thích, không biết có bao nhiêu vị tiên nữ, mặt
thật xinh, hình thật đẹp bàn tay bàn chân đỏ như thoa son.
Khi ấy đức Thế Tôn mới hỏi
ông Nanda rằng: Nanda này, các vị tiên nữ này đối với vợ ngươi thì ra
thế nào?
- Bạch đức Thế Tôn, hôn thê của
tôi làm sao sánh được với quí vị nầy, tôi có thể sánh hôn thê của
tôi với con khỉ cái cụt tai, đuôi, mũi ngồi theo đường đi đến đây.
- Nếu ngươi bằng lòng thì ta sẽ
cưới cho ngươi một trong những cô mà ngươi đã thấy.
- Bạch đức Thế Tôn, nếu Ngài từ
bi giúp tôi được việc nầy, tôi rất bằng lòng và nguyện sẽ ở trong
giáo pháp của Ngài không bao giờ hoàn tục.
Khi ấy đức Thế Tôn liền dẫn
ông trở về chùa Kỳ Viên. Các vị Tỳ khưu còn phàm nghe biết chuyện đức
Thế Tôn đưa ông đi coi vợ ở cõi trời mới ngạo báng ông rằng: Ông
Nanda hành phạm hành vì muốn được vợ là tiên nữ, chớ không phải
hành đạo vì muốn giải thoát.
Ông Nanda nghe vậy lấy làm hổ thẹn
mới tách ra khỏi đám Tăng chúng ở nơi thanh vắng cố hành đạo không
dám dễ duôi. Không bao lâu ông đắc A-la-hán quả. Khi ấy có một vị chư
Thiên hóa hào quang chói sáng vào đảnh lễ đức Thế Tôn tại Kỳ Viên tịnh
xá, và bạch Phật rằng: Hiện giờ em của đức Thế Tôn là ông Nanda đã
giải thoát khỏi phiền não rồi.
Sáng ngày, ông Nanda vào hầu Phật
đảnh lễ Ngài xong bạch rằng: Chuyện mà tôi đã yêu cầu đức Thế Tôn
giúp tôi cưới một vị tiên nữ, chuyện nầy tôi đã tự giải quyết
xong rồi.
- Như Lai đã hiểu rõ chuyện ấy bằng
Tha tâm thông là ngươi đã giải thoát khỏi phiền não.
Rồi đức Thế Tôn thuyết câu kệ
rằng: YASSA TINNO KÀMAPANTO ... Bùn sình là ngũ trần, mà người đã vượt
qua khỏi và diệt bỏ được gai góc là phiền não và trần tục, người
ấy làm cho tâm không rung động trong việc vui và khổ.
(Ý nói rằng không còn phiền não
thì không còn ham mê trong các sự việc vui hoặc khổ của cõi đời nầy).
Về sau các vị Tỳ khưu còn phàm mới
hỏi Ngài Nanda rằng: Nầy ông Nanda , ông thường nói với chúng tôi rằng:
Tâm ta rất là nóng nảy bực bội vì lửa tình thiêu đốt, bây giờ ra sao
rồi? Ngài đáp: Nầy quí ông, hiện giờ tâm ta không còn quyến luyến thế
tục nữa.
Vì các vị Tỳ khưu hỏi ấy là
phàm nhơn nên không hiểu được tâm của các bực Thánh nhơn, đồng cùng
nhau chỉ trích đức Nanda rằng: Ông nói không thật khi thì nói như thế nầy,
lúc thì nói như thế khác. Rồi các Ngài lại đem chuyện ấy bạch với đức
Thế Tôn. Ðức Thế Tôn mới dạy rằng: Nầy chư Tăng, khi trước đây
thân tâm của thầy Tỳ khưu ấy (chỉ Nanda ) ví như nhà dột. Hôm nay thân
tâm của thầy Tỳ khưu Nanda ví như nhà đã lợp rất kỹ rồi. Kể từ
ngày Nanda trông thấy tiên nữ thì cố gắng hết sức hành đạo để mau
đến nơi cùng tột của người xuất gia, hiện giờ ông đã hoàn toàn giải
thoát đạt thành sở nguyệt rồi.
Ðức Thế Tôn có dạy câu kệ rằng:
YATHÀ ÀGÀRA DUCCHANNAM ... Lẽ cố nhiên nhà lợp không kỹ khi mưa bị dột,
cũng như tâm người không hành thiền định thì tham ái và phiền não khác
xâm nhập vào tàn phá.
Sau khi dứt thời pháp tất cả chư
Tỳ khưu hiện diện nơi ấy đều đắc Thánh quả nhứt là quả Tu-đà-huờn.
Trong khi đức Thế Tôn vân du độ
chúng sanh từ làng nhỏ đến đô thị lớn đến khi Ngài ngự đến làng
Anupiyamalanigama
Trong khi ấy các vị hoàng tộc
dòng Thích Ca có hội nhau và có ý định rằng: Khi Thái tử Si Ðạt Ta vừa
sanh thì các thầy tướng số đoán rằng: Ngài sẽ thành đạo độ đời
hơn là trị vì thiên hạ, trong khi ấy tất cả hoàng tộc đều có ý định
rằng: Mỗi gia đình hoàng tộc đều phải cho một người con xuất gia theo
giáo pháp của Ngài và để hầu Ngài. Sau khi Ngài thành đạo Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác đã có rất nhiều vị Hoàng thân dòng Thích xuất
gia theo Ngài. Nhưng chỉ có sáu vị Thế tử và Thái tử trong sáu gia đình
chưa xuất gia là:
1) Bhaddiya.
2) Anuruddha (Tàu âm: A Nậu Ða La).
3) Ananda hay A Nan.
4) Bhagga.
5) Kimabila và
6) Thái tử Ðề Bà Ðạt Ða.
Khi ấy các vị hoàng thân mới hội
nhau lại bàn rằng: Chúng ta đều cho con xuất gia theo hầu Phật, chỉ còn
có sáu gia đình chưa cho con xuất gia theo lời hứa năm xưa. Chắc sáu gia
đình ấy không phải là dòng Thích Ca sao?
Khi ấy ông Mahànàma là con vua
Amitodana là cháu gọi đức Tịnh Phạn Vương là bác ruột mới đến nhà
Anuruddha để bàn về việc xuất gia.
Ông Mahànàma nói với ông Anuruddha
rằng: Tất cả những người theo hầu Phật, vậy trong gia đình chúng ta,
anh là người xuất gia theo hầu Phật hay là em.
Ông Anuruddha tỏ vẻ suy nghĩ. Sự
thật ông là một vị Thái tử thật là sang trọng cao thượng có phước
hơn tất cả các vị Thái tử trong thời ấy, vì ông là người có tạo ra
duyên lành để dành trong kiếp trước rất lớn. Từ nhỏ đến chừng ấy
tuổi, ông không hề nghe và biết rằng KHÔNG CÓ. Ðây là nguyên nhân mà người
ta biết ông là người đại phước và thường cho ông những gì gọi là
không có.
Ngày nọ sáu vị hoàng thân kể
tên trên hội nhau lại chơi trò cỡi ngựa đánh cầu; vị nào thua phải
chung bánh rồi cùng nhau ăn chơi.
Ngày ấy ông Anuruddha cứ thua mãi
đến đổi người nhà không thể làm kịp bánh để ông chung cho năm vị
kia, ông cứ sai người về nhà xin bánh mãi, không có bánh ba mẹ không biết
làm sao, lấy mâm không, đậy lại đem ra cho ông. Ông hỏi người đem ra rằng:
Ðem bánh gì ra đó? Trước khi bưng ra mẹ ông bảo nếu có hỏi nói bánh
Không có. Người nhà liền bảo: Kính thưa Thái tử bánh không có.
Từ nhỏ đến lớn ông chưa từng
nghe tiếng không có, nên khi ông nghe lấy làm ngạc nhiên nhảy xuống ngựa
đến giở mâm ra coi bánh gì là bánh Không có. Khi ông giở ra thì thấy
toàn là những bánh rất là lạ mùi hương thơm bay cả thành Ca Tỳ La Vệ,
vị thật là ngon. Sở dĩ mà có chuyện phi thường như vậy là do nơi oai
đức của ông làm phước thí trong kiếp quá khứ và ông nguyện rằng: Xin
đừng cho ông nghe và biết tiếng Không có, vì vậy nên khi mẹ ông dạy bảo
cho ông nghe rằng: Bánh không có. Chư Thiên nghe nói vậy lấy làm lo sợ vì
oai đức ông, vì lời phát nguyện của ông, nên chư Thiên không thể để
vậy được, nên đem thực phẩm để thay vào cho đầy mâm.
Riêng ông Anuruddha thì không biết
gì về tiếng không có. Nên khi ông ăn bánh xong trở về cung, ông liền
vào hỏi mẹ rằng: Mẹ ơi, từ hồi nào giờ chắc mẹ không thương con phải
không mẹ?
Bà mẹ hỏi: Tại sao hôm nay con hỏi
câu nầy? Mẹ thương yêu con cũng như thương yêu cặp mắt của mẹ vậy.
- Nếu mẹ thương con tại sao từ hồi
nào đến bây giờ mẹ không làm bánh không có cho con ăn?
Bà lấy làm lạ mới hỏi tùng nhơn
rằng: Có những gì trong mâm mà ngươi đã đem cho con ta?
- Tâu lịnh bà, trong mâm ấy có đầy
bánh lạ, các thứ bánh ấy hạ thần chưa từng thấy trong hoàng cung nầy
một lần nào.
Bà biết rằng con bà là bực đại
phước đã có đào tạo nhiều phước khi xưa. Từ ngày ấy đi không bao giờ
bà làm vật thực cho ông Anuruddha bà chỉ lấy mâm để vật thực và bảo
là KHÔNG CÓ, khi giở mâm ra thì có nhiều thức ăn rất quí.
Khi ông Anuruddha nghe anh hỏi trong
hai anh em ai đi xuất gia hầu Phật. Ông mới hỏi lại ông anh rằng: Làm thế
nào gọi là xuất gia?
Ông Mahànàma nói: Phải cạo râu cạo
đầu mặc cà sa khất thực, không được ngủ nơi sang trọng, tóm lại là
bỏ cả những sự việc ở đời.
Ông Anuruddha mới nói rằng: Thưa hoàng
huynh, em là dòng vua chúa cao sang quyền quí không sao xuất gia hành theo như
lời anh đã dạy.
Ông Mahànàma nói: Nầy hoàng đệ,
nếu vậy em phải học tất cả mọi việc làm phận sự của người tại
gia. Em phải cáng đáng mọi việc trong gia đình để anh đi xuất gia.
- Thưa hoàng huynh, phận sự của người
tại gia có những gì?
Sự thật nếu người không phải
là đầu bếp thì không biết làm vật thực, cũng như ông Anuruddha từ bé
đến trưởng thành mọi việc trong gia đình như ngoài xã hội đều do cha
mẹ cáng đáng lo liệu, ông chỉ biết học văn võ và chơi thôi nên ông
không biết gì ngoài ra học và chơi.
Ngày kia có ba vị Thái tử hội
nhau lại bàn luận việc học và nhân việc ấy mới hỏi nhau rằng: Vật
thực mà ta ăn đây từ đâu đem đến?
Ông Kimibila nói: Từ trong kho đến.
Ông nói vậy vì ông trông thấy người thường vào kho đem vật thực ra làm
đồ ăn.
Ông Bhaddiya nói: Từ trong nồi múc
ra. Ông nói vậy vì ông thấy người nhà thường múc đồ vật thực từ
trong nồi ra.
Ông Anuruddha : Có từ trên mâm vàng
chén ngọc.
Cả ba ông cãi nhau không ngã ngũ vào
đâu mới hỏi đến các bực Trưởng lão. Các vị ấy mới dạy rằng: Khi
người có được hột cơm ăn ấy phải mất một thời gian lâu và rất
nhiều công phu. Nào là phải cày ruộng, bừa ruộng, gieo mạ, cấy, gặt,
đập đem về nhà phơi cho khô, xay giã rồi mới đem vào kho, khi cần đem từ
kho ra nấu ở nồi xong mới múc ra chén ngọc mâm vàng. Ðây còn chưa nói
trong khi chưa ra lúa chưa đem về kho còn phải lo thiếu nước vì hạn hán,
hay mưa nhiều lúa bị ngập. Tóm lại một hột cơm là một hột máu. Con
người phải vất vả làm ăn lắm mới có cơm ăn áo mặc v.v...
Khi các ông nghe kể sơ qua cuộc
sanh sống của con người phải khổ sở; các ông lấy làm kinh sợ và nói
rằng. Công việc của người tại gia thật là nặng nề cực nhọc, công
việc ấy làm không bao giờ hết và cùng, con người sống trong đời sống
cơ cực khổ sở nầy; ít vui nhiều khổ, lo cho thân nầy không bao giờ biết
đủ và cùng. Vậy ta là người tri túc có trí tuệ thì còn gì ham trong cuộc
đời ô trọc đầy đau khổ nầy được.
Ông Anuruddha mới nói với anh là
ông Mahànàma rằng: Hoàng huynh có bảo em rằng: Chuyện của người tại
gia cư sĩ nhiều không sao kể xiết. Vậy xin hoàng huynh hãy ở tại gia làm
người thế tục trong đời ô trọc nầy, còn em thì không còn lòng nào ham
muốn địa vị vương hầu khanh tướng, lầu son gác tía nầy nữa. Em sẽ
xuất gia tầm đường giải thoát khỏi trầm luân.
Rồi ông đến hầu mẹ và nói với
bà rằng: Xin Mẫu hoàng cho phép con được đi xuất gia hầu Ph?t.
Bà khuyên ông rằng: Xuất gia phải
khổ cực không có cơm ngon ăn, áo quần xinh đẹp mặc, không được an vui
sung sướng như khi tại gia, đau ốm không người chăm nom săn sóc v.v...
Ông nhất định xuất gia, bà cản ba lần không được nên đành cho ông xuất
gia.
Ông mới đến dinh ông Bhaddiya , năn
nỉ ông ấy xuất gia, vì ông Bhaddiya là bạn thân của ông, hai ông chơi với
nhau khi còn bé đến trưởng thành. Ông Bhaddiya không bằng lòng nên ông mới
hết sức năn nỉ đến bảy lần ông mới nhận lời.
Khi ấy ông mới rủ được năm vị
dòng Thích Ca đi xuất gia với ông là sáu: 1) Bhaddiya, 2) Ananda , 3) Bhaggu ,
4) Kimibila , 5) Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta).
Sáu ông lại rủ được người thợ
cạo là U Ba Li cùng đi với là bảy vị cả thảy. Trong khi các vị đi có
binh gia theo đưa thật là trang nghiêm. Khi đi đến nơi giáp giới xứ Mala
các vị ấy cho quan quân trở về còn có các ông thì cởi cả cân đai châu
ngọc cạo râu tóc xong gọi ông U Ba Li đến mà bảo rằng: Ông U Ba Li ơi,
ông là một vị cận thần tín cẩn nhứt trong dòng của chúng tôi, hôm nay
chúng tôi đi xuất gia, ông hãy mang những châu ngọc nầy về mà dùng, những
châu ngọc nầy có thể giúp ông sống một đời an nhàn Trưởng giả.
Ông U Ba Li quì xuống nơi chân của
các vị Hoàng tử khóc lóc tỏ lòng trung thành và thương mến, rồi xách của
cải ấy trở về.
Trên đường đi về ông bỗng nghĩ
rằng: Lẽ cố nhiên bọn vua chúa là hạng cương ngạnh, chỉ biết dùng uy
quyền không biết gì hơn, khi bọn họ thấy ta mang châu ngọc của sáu vị
Hoàng tử về thì tức nhiên sẽ nghĩ rằng: U Ba Li đã hạ sát sáu vị
Hoàng tử để cướp lấy của cải tức nhiên ta không bị giết thì cũng
vào ngục thất không sao khỏi. Hơn nữa sáu vị Hoàng tử dòng Thích Ca, dứt
bỏ sự sang giàu quyền chức ngôi chúa tể mà ai ai trong thế gian nầy cũng
đều mong ước không tí nào mến tiếc, như người đã nhổ nước bọt không
hề mến tiếc rồi đi xuất gia. Vậy chính ta có của cải gì? Phải chăng
là thân nô lệ nầy? Của ấy được bao nhiêu? Có giá trị tới độ nào?
Tại sao ta còn mến tiếc đống nước bọt của người ta đã nhổ mà
không đi xuất gia?
Sau khi nghĩ vậy, ông liền đem những
châu ngọc ấy treo ở cành cây rồi la to lên rằng: Ai cần của cải nầy
cứ lấy mà dùng, chủ nhân đã cho phép rồi.
Ông liền chạy theo sáu vị Hoàng tử
và thuật lại những gì mà mình đã nghĩ cho sáu vị ấy nghe, rồi xin sáu
vị vui lòng cho theo xuất gia để thoát khỏi bể trầm luân. Rồi cùng nhau
đến nơi Phật ngự.
Trong khi ấy đức Thế Tôn đang ngự
tại Anupiyavana ở xứ Mala. Khi bảy ông đến nơi Phật ngự đồng đảnh lễ.
Sáu vị Hoàng tử đồng bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, chúng tôi
là dòng Thích Ca, chúng tôi là những người mà ai ai cũng biết rằng: Rất
nhiều lòng ngã mạn, ông U Ba Li lại là vị quan hầu. Vậy chúng tôi cầu
xin đức Thế Tôn từ bi cho ông U Ba Li xuất gia trước chúng tôi, để ông
là người cao hạ hơn đặng chúng tôi lễ bái kính trọng ông, hơn nữa
ấy cũng là nhân làm cho chúng tôi diệt lòng ngã mạn.
Thật là lời châu ngọc mà khó
tìm thấy ở những hạng người có tiếng là ngã mạn nhứt trong thời kỳ
ấy nói ra.
Ðức Thế Tôn nhận lời và cho
các vị ấy xuất gia sau.
Sau khi xuất gia xong Ðại Ðức
Bhaddiya đắc được ba cái minh trong hạ ấy. Ông Anuruddha đắc được thiên
nhãn thông sau lại mới đắc A-la-hán khi nghe bài kinh Mahàpurisavitakkasutta.
Ðại Ðức Ananda đắc Tu-đà-hườn quả. Ðại Ðức Bhagga và Kimibila hành
Minh sát tuệ đắc A-la-hán quả. Riêng ông Ðề Bà Ðạt Ða không đắc
được Thánh Quả nhưng đắc được thần thông.
Sau khi các vị Hoàng tử dòng Thích
Ca xuất gia xong. Ðức Thế Tôn ngự đi nhiều nơi để thuyết pháp độ đời,
khi Ngài ngự đến thành Kosambhi, có rất nhiều tín đồ sùng bái cúng dường
chư Tăng được nhiều lợi lộc.
Khi Ðại Ðức Ananda đắc quả
Tu-đà-hườn xong. Ðức Thế Tôn nghĩ đến chọn một vị đệ tử hầu Ngài,
đức Thế Tôn không chọn phàm nhơn vì vị Tỳ khưu còn phàm phải cần
hành đạo để đắc Thánh quả, còn nếu chọn vị A-la-hán thì không nên.
Vì vậy từ khi thành đạo đến khi Ðại Ðức Ananda xuất gia không có vị
Ðại Ðức hay vị Tỳ khưu nào chính thức hầu Phật. Khi có Ðại Ðức
Ananda , đức Thế Tôn liền chọn ngay một vị đệ tử chánh thức theo hầu
bên Phật luôn luôn. Nguyên nhân mà đức Thế Tôn chọn Ngài Ananda vì: Ðại
Ðức Ananda có phát nguyện hầu Phật từ kiếp quá khứ được thọ ký
và Ngài là vị Thánh hữu học nghĩa là vị Tu-đà-huờn giới hạnh trong sạch.
Ðức Thế Tôn liền hội Tăng lại để chọn vị đệ tử hầu cận, khi
ấy tất cả chư Tăng đồng lòng chọn Ðại Ðức Ananda .
Khi được chọn làm đệ tử hầu
cận, Ðại Ðức Ananda xin đức Phật tám điều là:
1) Xin đừng cho y phục tốt đến Ananda .
2) Xin đừng cho Ananda vật thực quí.
3) Xin đừng cho Ananda ở chung cùng một tư thất
với đức Thế Tôn.
4) Xin đức Thế Tôn đừng đem Ananda theo hầu
nơi nào mà người thí chủ chỉ mời đức Thế Tôn (ý nói không mời
Ananda ).
5) Xin đức Thế Tôn ngự đi đến noi mà Ananda
đã nhận lãnh lời thỉnh cầu của thí chủ.
6) Xin đức Thế Tôn cho phép Ananda được đưa tín
đồ ở xa đến hầu đức Thế Tôn được vào hầu đức Thế Tôn.
7) Khi nào Ananda có điều nghi ngờ về pháp luật
xin cho Ananda được vào hầu và hỏi.
8) Nếu đức Thế Tôn đi thuyết pháp nơi nào
không có mặt Ananda khi về đến tư thất xin thuyết lại cho Ananda nghe.
Ðức Thế Tôn liền phán hỏi:
Ananda nầy, người thấy lợi và hại của tám điều mà người đã xin ấy,
ra thế nào?
Ðại đức Ananda đáp: Bạch đức
Thế Tôn nếu tôi không xin bốn điều trước thì sẽ có người chỉ trích
rằng: Sở dĩ mà Ananda hầu Phật hết lòng vì được lợi lộc như thế
ấy, thì việc hầu hạ đức Thế Tôn cũng chẳng cực nhọc nào. Còn nếu
tôi không xin ba điều sau thì người sẽ bảo nhau rằng: Ông Ananda hầu Phật
để làm gì mà cũng không xin đức Thế Tôn cho phép chúng ta được chừng
ấy. Còn tôi xin điều chót vì sẽ có người hỏi Ananda rằng: Pháp nầy
đức Thế Tôn thuyết nơi nào? Nếu tôi đáp không xuôi, những người ấy
sẽ chỉ trích rằng: Ngài hầu Phật mà chỉ chuyện nhỏ nhen như vầy
cũng không biết, vậy mà là người theo kề bên Phật như bóng với hình,
vì nguyên nhân trên mà tôi xin tám điều ấy.
Ðức Thế tôn bằng lòng cho Ðại
Ðức Ananda được như ý nguyện và nhờ nơi tám điều mà đức Ananda giúp
cho nhiều vị Ðại Ðức hay tín đồ từ xa đến hầu Phật; mà cũng nhờ
vậy mà Ngài xin cho bà Gotami xuất gia Tỳ Khưu ni được.
(Từ đoạn dưới đây đi tôi viết
đúng theo Tạng Luật bộ Cullavagga dạy về đoạn Sanghabheda - chia rẽ
Tăng).
Riêng Ðại đức Bhadhiya ở nơi nào
chẳng hạn Ngài thường nói: An vui thay! An vui thay! Có nhiều vị Tỳ khưu
còn phàm nghe vậy lấy làm lạ mới vào hầu Phật và bạch Phật rằng: Bạch
đức Thế Tôn, ông Bhaddiya nói như thế, chắc chắn rằng ông không thích
hành phạm hạnh vì ông nhớ đến sự an vui của một vị đế vương của
ông khi tại gia.
Ðức Thế Tôn liền cho gọi Ông
Bhaddiya đến hỏi rằng: Nầy Bhaddiya người có nói An vui hay không?
- Bạch đức Thế Tôn đệ tử có
nói vậy.
- Tại sao ngươi lại nói câu ấy?
- Bạch đức Thế Tôn, khi đệ tử
còn là vị Ðế vương; có giáp sĩ túc trực hầu hạ, phòng vệ từ cung nội
đến ngoại thành và cả mọi nơi trong xứ, mặc dầu sự canh phòng nghiêm
mật như vậy mà đệ tử vẫn lo âu, luôn luôn phải đề cao cảnh giác.
Nhưng hiện giờ đây đệ tử ở nơi cội cây, bóng mát, nơi hang sâu rừng
thẩm hay ở nơi tư thất thanh tịnh hoặc nơi nào chẳng hạn, đệ tử vẫn
không hề có chút lo âu sợ sệt chi, đệ tử nuôi mạng bằng vật thực bố
thí của thí chủ, đệ tử ở nơi nào cũng tự do ví như thú rừng ở nơi
rừng sâu. Vì đệ tử trông th?y quả báo như vậy nên mới nói an vui thay!
Nhân cớ ấy đức Thế Tôn liền dạy
rằng: Người nào không có sự vọng động bên trong, bỏ cả sự tiến
hóa và thối hóa không có sự kinh sợ lo âu thì người ấy không có sự
kinh sợ lo rầu, tất cả chư Thiên đều muốn gặp người ấy.
Ðề Bà Ðạt Ða
Khi đức Thế Tôn ngự tại làng
Anupiya ít lâu, Ngài lại đến Kosambì ngự tại chùa Ghositàràma.
Trong khi ấy có rất nhiều thiện
nam tín nữ đến chùa hỏi thăm Ðại Ðức Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên,
A Xà Bà Ðồ v.v... và v.v... Nhưng không khi nào có một người nào hỏi đến
Ðại đức Ðề Bà Ðạt Ða vì vậy nên ông căm tức và nghĩ rằng: Dầu
sao ta cũng là một vị Hoàng tử dòng Thích ca xuất gia cùng với các vị
Hoàng tử khác có người hỏi đến, còn ta thì không ai biết đến. Vậy
ta phải làm sao? Làm cho ai biết đến ta, cúng dường long trọng đến ta, và
để cho người biết tên Thế tử Ðề Bà Ðạt Ða. Ông liền nghĩ đến
Thái tử AJÀTASATTU (A Xà Thế) là một vị Hoàng tử ở một đại cường
quốc giàu có, nếu trong sạch với ta thì sẽ cúng dường trọng thể đến
ta.
Ông nghĩ xong liền thu xếp hành
trang lập tức đến Vương Xá thành. Khi ông đến Vương Xá thành hóa ra một
người thanh niên mình quấn đầy những rắn tuyệt độc và lại ngồi
trên vế của Thái tử A Xà Thế.
Riêng Thái tử đang ngồi bỗng
dưng có một thanh niên mình quấn đầy rắn độc ngồi trên vế Thái tử
nên lấy làm kinh hãi.
Ông Ðề Bà Ðạt Ða liền hỏi: -
Thái tử kinh sợ tôi lắm sao?
- Sợ, vậy người là ai đấy?
- Bần đạo là vị Tỳ khưu tên
là Ðề Bà Ðạt Ða.
- Nếu Ngài là vị Tỳ khưu Ðề
Bà Ðạt Ða thì xin hãy hiện lại nguyên hình.
Khi ấy Ðề Bà Ðạt Ða liền hiện
lại là vị Tỳ khưu, đắp y mang bát thật là oai nghiêm.
Vì Thái tử chưa hề tiếp xúc với
các bực cao Tăng đại đức, nên Ngài không thấy ai có thần thông lạ
lùng như vậy nên chi Ngài rất tin tưởng nơi Ðề Bà Ðạt Ða và rất lấy
làm trong sạch với ông. Từ ngày ấy đi Thái tử A Xà Thế thường đến
nơi cư ngụ của Ðề Bà Ðạt Ða mỗi ngày hai lần sáng và chiều, mỗi lần
đến với năm trăm cổ xe, buổi sáng thì chở đầy năm trăm xe vật thực,
còn buổi chiều thì vật uống như nước mía, nước cam v.v...
Càng được vật cúng dường nhiều
thì lòng mong ước xấu xa đê tiện càng xuất hiện nhiều. Ông Ðề Bà Ðạt
Ða muốn người đời ca tụng ngợi khen ông như là một vị Chánh đẳng
Chánh giác. Ông ta lại nghĩ: Ta phải là người cai quản Tăng chúng. Chỉ
có lòng mong ước hảo huyền như vậy thần thông của ông tiêu mất liền.
Khi ấy, có người con trai của người
thí chủ của Ðại đức Mục Kiền Liên chết và sanh về cõi trời Phạm
Thiên Hữu Sắc ông ấy tên là KAKUDHA. Ông liền trở xuống đảnh lễ Ngài
Ðại Ðức rồi bạch rằng: Bạch Ðại Ðức ông Ðề Bà Ðạt Ða là người
có tham vọng đê tiện, ông ấy là người bị lợi lộc, sự lễ bái cúng
dường, sự ca tụng ngự trị tâm ông, nên ông ấy định cai quản Tăng chúng.
Khi ông ta vừa nghĩ muốn cai quản Tăng chúng thì thần thông của ông ta
tiêu diệt liền. Bạch xong vị Phạm Thiên ấy liền trở về cõi Phạm
Thiên liền.
Ðại Ðức Mục Kiền Liên liền đến
hầu Phật và bạch Phật những gì mà Ngài đã nghe do vị Phạm Thiên.
Ðức Thế Tôn mới dạy rằng: - Nầy
Mục Kiền Liên ngươi có biết không? Vị Phạm Thiên Kakudha nói thế nào
thì sự việc ấy cũng sanh ra như vậy, không hề sai chạy.
Ðại Ðức đáp: Bạch đức Thế Tôn
đệ tử đã hiểu.
- Nầy Mục Kiền Liên! Ngươi hãy
nhớ lời nói nầy, tên Moghapurisa (vô dụng) (ý chỉ Ðề Bà Ðạt Ða) sẽ
đến đây bây giờ. Nầy Mục Kiền Liên trong thế gian nầy có năm hạng
giáo chủ là:
1) Hạng giáo chủ giới hạnh không
trong sạch, nhưng lại tự cho rằng: Giới hạnh của ta thật trong sạch không
nhơ bợn tý nào. Hạng đệ tử thân cận biết rằng vị giáo chủ giới
đức không trong sạch mà cũng cho rằng: Có giới đức trong sạch, chúng ta
(đệ tử xuất gia) nên nói với cư sĩ rằng: Vị giáo chủ của chúng ta
có giới hạnh trong sạch. Như vậy các cư sĩ sẽ trong sạch với giáo
pháp ấy. Ðiều nào làm cho mất lòng vị giáo chủ chúng ta không nên nói,
khi được như vậy hàng cư sĩ kính trọng, chúng ta sẽ cúng dường y phục,
vật thực chỗ ở và thuốc cho chúng ta. Nếu chúng ta hành động thế nào
thì điều ấy sẽ trở lại cho chúng ta. Rồi đức Thế Tôn dạy Ðại Ðức
Mục Kiền Liên rằng: Nầy Mục Kiền Liên, vị giáo chủ nầy gọi là người
nhờ hàng đệ tử giữ giới cho, hàng giáo chủ nầy chỉ hy vọng nhờ đệ
tử giữ giới cho.
2) Còn một hạng giáo chủ nữa là
vị giáo chủ nuôi mạng không chân chính, nhưng tự hào là nuôi mạng chân
chính không nhơ đục, chư đệ tử (xuất gia) biết rằng vị giáo chủ
nuôi mạng không chân chính, nhưng cũng nói rằng: Vị giáo chủ của mình
nuôi mạng chân chánh. (Ðoạn sau nầy giống như đoạn sau của điều một).
3) Còn một hạng giáo chủ nữa
là: Vị giáo chủ thuyết minh giáo lý không được rõ rệt, không chu đáo
hoàn toàn, mà tự hào rằng: giáo lý hoàn toàn chu đáo, không nhơ đục. Những
đệ tử (hàng xuất gia) cũng biết rằng: Vị giáo chủ thuyết minh giáo
pháp không rõ rệt, không chu đáo, không hoàn toàn v.v... (đoạn sau như đoạn
sau của điều thứ nhứt).
4) Còn một hạng giáo chủ nữa
là: Vị giáo chủ ấy không thông hiểu rõ văn phạm, nhưng tự hào là hiểu
thông văn phạm rất chu đáo không lỗi lầm. Những đệ tử (hạng xuất
gia) cũng đều biết rằng: Vị giáo chủ không thông suốt văn phạm v.v...
(đoạn nầy như đoạn sau của câu thứ nhứt).
5) Còn một hạng giáo chủ nữa
là: Vị giáo chủ ấy không giác ngộ; mà tự phụ rằng đã hoàn toàn
giác ngộ. Những đệ tử (xuất gia) cũng biết rằng: Vị giáo chủ không
hoàn toàn giác ngộ v.v... (đoạn nầy như đoạn sau của câu thứ nhứt).
Nầy Mục Kiền Liên! Như Lai là vị
giáo chủ có giới đức hoàn toàn trong sạch, nuôi mạng hoàn toàn chân
chánh, pháp lý thật là rõ rệt chu đáo, văn phạm thông suốt đúng không
sai chạy, sự giác ngộ hoàn toàn. Vì vậy nên Như Lai tự cho rằng: Ta có
giới đức hoàn toàn trong sạch, nuôi mạng rất chân chánh, pháp lý hoàn
toàn, văn phạm rất đúng và sự giác ngộ của đấng Chánh đẳng Chánh
giác. Vì vậy nên tất cả đệ tử không cần phải giữ giới cũng như lo
sự nuôi mạng, lý thuyết, văn phạm và sự giác ngộ của Như Lai. Và Như
Lai cũng chẳng màng việc đệ tử phải giữ giới, nuôi mạng, pháp lý, văn
phạm và sự giác ngộ cho Như Lai.
Ðức thế Tôn ngự nơi thành
Kosambi một thời gian, Ngài lại trở về Vương Xá thành ngự tại Trúc
Lâm tịnh xá.
Khi ấy có nhiều vị Tỳ khưu đến
hầu Phật và bạch rằng: Bạch hóa đức Thế Tôn, Thái tử A Xà Thế đến
hầu ông Ðề Bà Ðạt Ða mỗi ngày hai lần sáng và chiều, mỗi lần đến
với năm trăm cổ xe, sáng thì chở đầy vật thực, chiều thì có những vật
uống như mật, nước mía v.v... Ðể dâng cúng cho Ðề Bà Ðạt Ða.
Ðức Thế Tôn liền dạy rằng: Nầy
các thầy Tỳ khưu, các thầy chẳng nên ưa thích lợi lộc, sự ca tụng của
Ðề Bà Ðạt Ða. Khi nào Thái tử A Xà Thế còn đến hầu Ðề Bà Ðạt
Ða mỗi ngày hai lần mỗi lần năm trăm cổ xe đầy vật thực ăn uống,
thì khi ấy Ðề Bà Ðạt Ða càng mau bị tai hại là thiện pháp càng ngày
càng tiêu diệt, không khi nào tiến hóa. Nầy các thầy Tỳ khưu; lẽ thường
khi chó dữ mà người đem mật thú thoa vào mũi thì nó càng hung dữ thêm
lên. Ðiều nầy cũng như Thái tử A Xà Thế càng lo cúng dường cho Ðề
Bà Ðạt Ða buổi sáng cũng như buổi chiều mỗi lần năm trăm xe vật thực,
thì càng làm cho thiện pháp của Ðề Bà Ðạt Ða càng tiêu diệt mau lẹ hơn.
Nầy các thầy Tỳ khưu, lợi lộc,
sư ca tụng sanh đến cho Ðề Bà Ðạt Ða để giết hại Ðề Bà Ðạt
Ða, cũng như cây chuối khi đã trổ buồng thì nó đã lần vào cõi chết.
Một chuyện nữa, ví như cây tre khi trổ măng thì nó lại cũng gần chỗ
chết, hay cũng như ngựa hay đã có chửa thì cũng hết hay.
Ðức Thế Tôn liền dạy thêm rằng:
Buồng chuối giết cây chuối, mục măng giết cây tre, thai của ngựa hay giết
tài ngựa, điều nầy ví như tài lợi, sự ca tụng, danh vọng là vật giết
hại người thiểu trí.
Ngày nọ, đức Thế Tôn ngự tại
Trúc Lâm tịnh xá và đang thuyết pháp giữa hàng đại chúng có đức vua dự
thính, Ðề Bà Ðạt Ða đứng mặc y chừa vai trái đảnh lễ xong, bạch Phật
rằng:
- Bạch hóa đức Thế Tôn, nay Ngài
đã già rồi, là bực Trưởng lão, xin đức Thế Tôn ngưng hoạt động, nên
tìm sự an vui của sự thanh tịnh cõi lòng, nên nhường chư Tăng lại cho tôi
cai quản.
Ðức Thế Tôn dạy rằng: Ðừng Ðề
Bà Ðạt Ða, ngươi không nên mong muốn cai trị Tăng chúng.
Bị đức Thế Tôn không nhận lời
nhưng không vì lẽ ấy mà ngã lòng, Ðề Bà Ðạt Ða cố yêu cầu xin đôi
ba lượt, nhưng bị đức Thế Tôn khước từ. Ðức Thế Tôn dạy: Nầy Ðề
Bà Dạt Ða, mặc dầu hàng đại đệ tử chánh thức như Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên mà Như Lai cũng chẳng giao quyền cai quản Tăng chúng thay,
thì làm sao Như Lai lại giao chư Tăng cho người đê hèn như ngươi là người
nuốt nước bọt của mình.
Ðề Bà Ðạt Ða lấy làm tức giận
nên nghĩ rằng: Ðức Thế Tôn thóa mạ ta giữa hàng đại chúng có cả
nhà vua, nhà vua cũng ca tụng Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Ông liền đảnh
lễ đức Thế Tôn rồi ra đi. Từ ấy ông đã cột oan trái với đức Thế
Tôn.
Cũng trong khi ấy đức Thế Tôn dạy
chư Tăng rằng:
- Nầy chư Tăng, các vị nên tuyên
ngôn về hành động của thầy Tỳ khưu Ðề Bà Ðạt Ða rằng: Trước đây
ông Ðề Bà Ðạt Ða có sự hành động khác, nhưng hiện nay hành động
ấy đã thay đổi khác. Những gì mà ông Ðề Bà Ðạt Ða hành dộng hay
nói, những sự việc ấy Phật, Pháp, Tăng không nhìn nhận, những việc
ấy là ý kiến riêng của Ðề Bà Ðạt Ða.
Khi ấy chư Luật sư vâng lịnh đức
Thế Tôn nên đến đọc tuyên ngôn tại thành Vương Xá.
Nơi đây có câu chú giải của câu
Phật dạy trên là: Ngươi là người nuốt lấy nước bọt của bản thân
mình. Câu nầy chí giải rằng: Ðề Bà Ðạt Ða thọ những lợi lộc của
người cúng dường không chân chánh, ý nói nuôi mạng không hợp pháp. Chư
Thánh nhơn cho rằng những vật nào mà người xuất gia được thí chủ
cúng dường không hợp pháp thì những vật ấy nhơ như nước bọt.
Khi ấy đức Thế Tôn cho gọi Ðại
Ðức Xá Lợi Phất đến dạy rằng:
- Nầy Xá Lợi Phất, vậy ngươi nên
đến Vương Xá thành đọc tuyên ngôn cho người biết việc hành động của
Ðề Bà Ðạt Ða.
Ðại Ðức Xá Lợi Phất liền bạch
Phật:
- Bạch Ðức Thế Tôn trước đây
đệ tử hằng ca tụng Ðề Bà Ðạt Ða tại Vương Xá thành rằng: Ðề
Bà Ðạt Ða là con của bà Godhi là người có thần thông, có oai lực lớn,
giờ đây đệ tử phải tuyên ngôn thế nào?
- Xá Lợi Phất, ngươi đã ca tụng
như vậy sao?
- Bạch đức Thế Tôn đệ tử có
ca tụng như vậy.
- Nầy Xá Lợi Phất, giờ thì ngươi
tuyên ngôn sự thật của sự hành động của Ðề Bà Ðạt Ða.
Ðại Ðức vâng lời đức Thế Tôn.
Khi ấy đức Thế Tôn cho hội Tăng chúng và dạy rằng:
- Nầy chư Tỳ Khưu, chư Tăng nên
đọc tuyên ngôn cho Xá Lợi Phất có quyền tuyên bố hành vi của Ðề Bà
Ðạt Ða tại Vương Xá thành rằng: Ngày xưa Ðề Bà Ðạt Ða có hành vi
khác, hiện nay có hành vi thay đổi khác biệt. Những gì mà Ðề Bà Ðạt
Ða làm hay nói, những sự việc ấy Phật. Pháp, Tăng không công nhận. Những
sự việc ấy là ý kiến riêng của Ðề Bà Ðạt Ða.
Khi chư Tăng đồng tâm cử Ðại Ðức
Xá Lợi Phất được phép toàn quyền đọc tuyên ngôn xong. Ðại Ðức
cùng nhiều vị Tỳ khưu đến Vương Xá thành đọc tuyên ngôn theo lời Phật
dạy.
Khi ấy những hạng ngoại đạo không
có đức tin với Phật giáo không hiểu nguyên nhân gì mà có chuyện ấy
nên mới bảo nhau rằng: Bọn Sa môn Cồ Ðàm ganh tị nhau.
Còn những người có đức tín với
Phật giáo, và các bậc trí thức nói với nhau rằng: Chuyện mà đức Thế
Tôn cho đọc tuyên ngôn không phải là chuyện tầm thường đâu.
Sau khi đến Vương Xá thành, Ðề
Bà Ðạt Ða liền đến hầu Thái tử A Xà Thế và bảo Thái tử rằng:
- Thưa Thái tử, khi xưa người thường
hay trường thọ, thời nầy người thường chết yểu, như vậy nếu Thái
tử vẫn ở ngôi Thái tử như vầy thật là thiệt thòi. Vì có thể Thái tử
sẽ chết trước lịnh hoàng thượng. Vậy Thái tử nên thí vua để chiếm
lấy ngai vàng, còn ta thì giết Phật sẽ là vị Pháp vương.
Thái tử A Xà Thế nghĩ: Ðề Bà Ðạt
Ða là người có nhiều thần thông, có oai đức lớn, chắc là ngài đã hiểu
thông vị lai quá khứ. Nghĩ xong ngài quyết định một điều. Khi ấy Thái
Tử liền mang giáp trụ bên trong mang gươm vào chầu vua.
Các vị quan hầu giữ hoàng cung là
người nhiều kinh nghiệm, thoáng thấy cử chỉ bất thường của Thái tử
biết rằng: Có chuyện gì xảo trá. Nên các vị ấy liền bắt Thái tử
và khám xét trong người thấy có giáp trụ, ngoài ra còn có gươm nên hỏi:
Thái tử Ngài có ý định gì mà mang giáp trụ và gươm?
- Ta muốn hành thích phụ vương ta.
Các quan hầu hỏi: Ai xui Thái tử
hành động như vậy?
- Ðại Ðức Ðề Bà Ðạt Ða xui
ta như vậy.
Các quan liền mở hội bàn luận về
việc của Thái tử.
Trong các quan ấy có ba ý kiến
khác nhau. Một nhóm nói: Nên giết Thái tử và Ðề Bà cùng chư Tỳ khưu.
Có vị nói: Không nên giết Thái tử
cũng như Ðề Bà Ðạt Ða và chư Tăng vì quí Ngài không hề làm điều xằng
bậy. Chúng ta nên tâu lên lịnh Hoàng thượng trước, tùy theo lịnh của
Ngài chỉ dạy, chúng ta chỉ là người thực hành theo thượng lịnh thôi.
Khi ấy các vi quan hầu liền đem
chuyện ấy tâu lên cho đức Bình Sa Vương rõ.
Ðức vua liền phán hỏi: Vậy chư
hiền khanh có ý định thế nào?
Một trong các vị quan ấy thay mặt
cho nhóm tường trình ý kiến của ba nhóm để đức vua nghe.
Ðức Bình Sa Vương là vị đệ tử
Phật đắc, Tu-đà-hườn; là vị đại trí thức nên Ngài thông hiểu mọi
lẽ của nghiệp. Ngài phán hỏi:
- Nầy các vị, các vị có biết Phật,
Pháp, Tăng đã làm những gì không? Ngài tự đáp: Ðức Thế Tôn đã có
cho đọc tuyên ngôn về chuyện của Ðề Bà Ðạt Ða trong Vương Xá thành
như vầy (Ngài thuật lại lời tuyên ngôn của đức Thế Tôn dạy). Rồi
Ngài dạy các vị nào có ý kiến giết Thái tử, Ðề Bà Ðạt Ða và chư
Tăng các vị ấy gọi là ở trong trường hợp bất chính (Vì vậy bị
cách chức).
Các vị nào có ý kiến là không
nên giết Thái tử và Ðề Bà Ðạt Ða và chư Tăng phải tâu lên cho trẫm
rõ đã. Vị nầy ở trong tình trạng cao thượng. (Ý nói được thăng chức).
Ðức vua liền phán hỏi Thái tử:
Nầy Thái tử, tại sao con lại muốn giết phụ vương.
- Tâu Phụ vương vì con muốn ngự
trị trên ngai vàng.
- Nầy con, nếu con muốn ngai vàng
(thì cứ nói) vì ngai vàng nầy là của con chớ của ai đâu?
Nói xong đức vua liền trao cả uy
quyền cho Thái tử. Từ đó là A Xà Thế vương.
Ðề Bà Ðạt Ða liền vào hầu
tân vương và bảo rằng:
- Tâu đại vương, Ngài nhắm coi người
nào có thể giết ông Sa môn Cồ Ðàm được xin Ngài ra lịnh hạ thủ lập
tức.
Khi ấy đức vua A Xà Thế liền hạ
lịnh truyền cho tất cả quan quân biết rằng: Nếu Ðại Ðức Ðề Bà Ðạt
Ða dạy các ngươi làm việc gì thì các ngươi phải vâng lời.
Ðề Bà Ðạt Ða được ủy thác
như vậy lập tức chọn ngay một tay cung thủ đại tài đến và dạy rằng;
Ngươi hãy đến nơi ông Cồ Ðàm đang ngự giết phăng lão ta đi, rồi
ngươi hãy trở về theo con đường nầy.
Rồi ông ta chọn hai người cung thủ
khác cũng rất tài, núp một nơi mà người cung thủ giết đức Thế Tôn
xong trở về, rồi bảo rằng: Hai người nên giết cho được một người
cung thủ sẽ về trên đường nầy, rồi các người hãy theo con đường nầy
mà về. Rồi ông ta lại chọn bốn người cung thủ rất giỏi chận nơi
đường về của hai người kia và dạy khi thấy hai người kia về đến thì
hạ thủ ngay, khi hạ thủ xong nên về ngả nầy, bốn người ấy đi xong lại
chọn tám người khác dạy chận đường để giết bốn người kia đi rồi
lại về ngả khác.
Khi người thứ nhứt vâng lời mặc
võ phục mang tên đeo cung và xách gươm đến nơi Phật ngự. Khi đến gần
nơi Phật ngự, người thích khách ấy lấy làm kinh sợ đưa gươm lên mà
không làm sao có can đảm để giết Phật, đứng trân trân như vậy đến
xuất mồ hôi ướt cả mình.
Khi ấy đức Thế Tôn thấy vậy liền
gọi người ấy và dạy rằng:
- Người hãy đến đây, không nên
kinh sợ.
- Người ấy mới hết sợ và để
gươm xuống được, y liền tháo cung tên và gươm xuống xong vào hầu Phật
và bạch rằng:
- Bạch hóa đức Thế Tôn, vì sự
si mê dại dột nên tôi đến đây để hành thích đức Thế Tôn, thật
tôi là người tội lỗi độc ác. Vậy xin đức Thế Tôn mở lòng từ bi
tha thứ cho tôi để tôi được trong sạch tu hành.
- Nầy người, sự sai lầm đến với
ngươi vì sự si mê ngu dốt, nên ngươi mới đến nơi đây với tấm lòng
đê tiện xấu xa là làm hại Như Lai. Nhưng giờ đây người nhận thấy sự
sai lầm và cũng đã hối cải nên Như Lai lãnh lấy sự sai lầm ấy của
người để người được trong sạch. Người mà đã nhận định tội lỗi
xong ăn năn hối cải, người ấy sẽ được hưởng sự an vui tiến hóa
theo các bực Thánh nhơn. Theo sau đức Thế Tôn thuyết bài pháp ANUPUBBKATHA
(nghĩa là năm pháp tuần tự, xem đoạn đức Thế Tôn thuyết cho Ðại Ðức
Yassa nghe). Khi nghe pháp tâm người cung thủ ấy được trong sạch, nên người
ấy đắc được Pháp nhãn (Ý nói trí tuệ nhận thấy rõ pháp Tứ Ðế
hay là đắc Tu-đà-hườn). Khi người ấy thấy rõ Pháp bảo nên tâm dũng
mãnh can đảm không còn nghi ngờ đạo pháp nên bạch Phật rằng:
- Bạch hóa đức Thế Tôn, pháp mà
đức Thế Tôn đã thuyết thật là cao sâu mầu nhiệm, ví như người lật
ngửa vật bị úp, mở vật bị đóng chặt, soi ánh sáng vào nơi tăm tối
để người trong thấy đường. Người mà làm được như vậy thì chỉ
có đức Thế Tôn mà thôi, Ngài là đấng giảng giải Pháp bảo, Ngài là
đấng trông thấy đường giải thoát. Tôi xin hết lòng thành kính nương
nhờ nơi Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo, xin đức Thế Tôn biết rõ cho
tôi là một thiện nam của Phật giáo kể từ giờ phút nầy đến trọn đời.
Ðức Thế Tôn liền dạy người
ấy rằng:
- Người chẳng nên đi theo con đường
nầy, hãy đi đường nầy (đức Thế Tôn chỉ đường khác, không cho đi
theo đường của Ðề Bà Ðạt Ða biểu đi)
Hai người mà Ðề Bà Ðạt Ða dạy
đợi người kia về hạ sát, đợi lâu không thấy ai đi đến liền lần
theo đường ấy mà đi tìm, đi đến gặp đức Thế Tôn và Ngài thuyết
pháp độ cả hai đều đắc Tu-đà-hườn quả. Xin làm Thiện nam của Phật
giáo. Ðức Thế Tôn lại dạy đi đường khác mà về. Bốn người kia
cũng không thể đợi lâu được cũng đến nơi Phật ngự và cũng hưởng
được quả vị của Thánh nhơn. Tám người kia cũng như những người trước.
Khi người thứ nhứt không giết Phật
được liền về phục mạng nói với Ðề Bà Ðạt Ða rằng:
- Tôi không thể giết được đức
Thế Tôn, vì Ngài là đấng có nhiều thần thông và oai đức.
- Thôi, ngươi không nên giết ông
Sa môn Cồ Ðàm để chính tay ta giết ông ấy.
Một hôm, đức Thế Tôn đang đi
kinh hành ở nơi triền núi Gijjhokuta. Ðề Bà Ðạt Ða biết vậy liền leo
trên núi lăn xuống một tảng đá to vì ông ta nghĩ bụng rằng: Tảng đá
nầy sẽ giết chết ông Cồ Ðàm. Khi tảng đá lăn xuống, thì hai ngọn
núi ấy cúi đầu xuống che chở không cho tảng đá xâm phạm đến đức
Thế Tôn. Chỉ có một mảnh đá nhỏ văng trúng chân đức Thế Tôn trầy.
Ðức Thế Tôn ngó lên bảo rằng:
- Nầy Moghapurisa (người rỗng không) ngươi cố tâm làm hại Như Lai, làm
Như Lai chảy máu, đây gọi là ngươi làm một việc không phải thiện nghiệp
vậy.
Sau đó đức Thế Tôn cho chư Tăng
hay rằng: Ðề Bà Ðạt Ða cố ý làm hại Ngài, làm cho vị Ðại Giác chảy
máu. Ðề Bà Ðạt Ða đã phạm vào một trong năm tội nặng gọi là Ngũ
nghịch đại tội.
Chư Tăng nghe Ðề Bà Ðạt Ða cố
ý hại Phật thì lấy làm lo sợ lòng cố chia nhau đi kinh hành quanh chùa
và niệm kinh ra tiếng để giữ an lành cho đức Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn nghe tiếng niệm kinh
lớn khác thường như vậy, Ngài mới phán hỏi Ðại Ðức Ananda rằng:
Ananda nầy, tại sao có tiếng niệm kinh lớn như vậy?
- Bạch đức thế Tôn, vì chư Tăng
biết rằng: Ðề Bà Ðạt Ða cố tâm làm hại Phật, nên chư Tăng tựu lại
đi kinh hành quanh chùa và niệm kinh ra tiếng để ngừa Ðề Bà Ðạt Ða
và giữ an ninh cho Ngài.
- Nầy Ananda , ngươi nên đi gọi tất
cả chư Tỳ khưu ấy đến đây để Như Lai dạy việc.
Ðại Ðức Ananda vâng lời gọi chư
Tăng đến, khi chư Tăng tựu lại xong đức Thế Tôn dùng lời an ủi các
ngài rằng:
- Không có nhân vật nào trong Tam thế
làm hại Như Lai được Bậc Chánh đẳng Chánh giác không hề nhập diệt bởi
sự làm hại của kẻ khác. Nầy các thầy Tỳ khưu, trong thế gian nầy có
năm hạng giáo chủ (Xin xem đoạn đức Phật dạy Ðại Ðức Mục Kiền
Liên).
Nầy các thầy Tỳ khưu, trong năm hạng
giáo chủ kể trên mong nhờ vào chư đệ tử giữ gìn và ủng hộ cho.
Riêng Như Lai là đấng có giới hạnh trong sạch, nuôi mạng chân chánh,
pháp lý tuyệt đối cao siêu, văn phạm rất đúng, sự giác ngộ hoàn
toàn. Như Lai không mong ước chư đệ tử ủng hộ Như Lai về mặt giới,
nuôi mạng, lý thuyết; văn phạm và sự giác ngộ. Nầy chư Tỳ khưu, lẽ
cố nhiên chư Chánh đẳng Chánh giác không bao giờ có nhân vật nào làm hại
được, không hề nhập diệt bởi sự làm hại của kẻ khác. Vậy các vị
hãy trở về tư thất lo tu hành, lẽ dĩ nhiên vị Chánh đẳng Chánh giác
không nhờ ai giữ an ninh cho hết.
Khi ấy trong Vương Xá thành có một
thớt tượng trận rất hung ác phi thường và đã giết hại rất nhiều người.
Tượng ấy tên là Nàlàgirì.
Ðề Bà Ðạt Ða liền đến nơi
chuồng tượng bảo người quản tượng rằng: Ta là thân quyến của đức
vua, ta có quyền thăng chức hoặc tăng lương hay tưởng thưởng công trạng
cho ai cũng được. Vậy nếu khi nào ông Sa môn Cồ Ðàm đi vào hẻm nầy
các ngươi hãy thả tượng Nàlàgirì ra.
Sáng ngày hôm sau đức Thế Tôn
vào thành khất thực với chư Tăng. Ðức Thế Tôn đi ngay đến con đường
chuồng tượng. Người quản tượng thấy đức Thế Tôn ngự đến liền
thả tượng Nàlàgirì ra. Tượng trông thấy đức Thế Tôn từ xa đến, liền
đưa vòi lên, hai tai vảnh ra hung hăng chạy ngay đến nơi Phật đang ngự
đi.
Chư Tăng thấy tượng rất hung
hăng chạy đến quyết hại Phật nên có vị đến bạch đức Thế Tôn rằng:
Bạch hóa đức Thế Tôn, tượng Nãlàgirì là tượng thật rất hung ác phi
thường, tượng hay giết người, xin đức Thế Tôn tránh nó.
- Các người hãy yên lặng và đi
theo Như Lai, chẳng nên kinh sợ và chạy trốn.
Khi ấy người trong Vương Xá thành
chia ra làm hai hạng Phật tử và ngoại đạo. Hạng Phật tử thì nói với
nhau rằng: Không lâu tượng hung ác ấy sẽ bị tượng cao quí chinh phục
(Khi xưa người ta thường gọi bạch tượng là tượng quí nhứt, nên người
ví đức Phật như tượng cao quí hơn những con tượng khác).
Những người ngoại đạo thì nói:
Thương hại cho ông Sa môn Cồ Ðàm, người thật đẹp, sẽ bị tượng chà
chết.
Ðức Thế Tôn liền rải lòng từ
bi đến tượng hung ác Nàlàgirì. Khi tượng hung ác ấy được lòng từ bi
của đức Thế Tôn cảm hóa, để vòi xuống, hai tai cúp lại, đứng trước
đức Thế Tôn như một con tượng hiền lành. Ðức Thế Tôn liền rờ đầu
tượng mà dạy rằng:
- Nàlàgirì ơi, ngươi không nên
xúc phạm làm hại đến tượng cao quí như ngươi. Sự đến làm hại Như
Lai là tượng cao quí nhất trong tam giới là nguyên nhân đem khổ đến cho
ngươi. Nầy Nàlàgirì ơi, người mà giết hại Như Lai thì không bao giờ
đến cõi trời được, mà chỉ rơi ngay vào ác đạo. Ngươi không nên say,
không nên dễ duôi, chúng sanh trong tam giới vì sự dễ duôi nên không thể
nào sanh vào cõi an vui được. Ngươi sẽ đến nơi an lạc được là nhờ
không dễ duôi.
Khi đức Thế Tôn dạy dứt lời tượng
liền dùng vòi hút lấy đất bụi bên chân đức Thế Tôn rải lên đầu mình,
hai chân trước quì xuống đầu mọp sát đất tỏ dấu lễ bái xong đứng
dậy lui ra dần dần khi đến khuất tầm mắt đức Thế Tôn xong mới day lại
chạy về chuồng. Ðây là một điều phi thường trong tám điều mà đức
Thế Tôn thâu phục nhân vật hung dữ.
Trước sự ấy người người đều
bảo nhau rằng: Người đời hằng dạy tượng bằng gậy to, cù nèo, búa,
roi. Nhưng chỉ có đức Thế Tôn là tượng cao quí hơn tất cả tượng và
thiên nhơn trong tam giới là đấng hoàn toàn giải thoát nên không dạy tượng
bằng dụng cụ vũ khí.
Ðồng thời ai ai cũng chỉ trích Ðề
Bà Ðạt Ða rằng: Thật Ðề Bà Ðạt Ða là người xấu xa đê tiện. Vì
người cố giết đức Chánh đẳng Chánh giác có nhiều oai đức cũng như
thần thông.
Sau từ ngày cố giết đức Thế Tôn
bằng tượng trở đi, ai ai trong thành Vương Xá đều biết Ðề Bà Ðạt
Ða là người xấu xa đê tiện, nên ông không thể tìm được một muỗng
cơm. Trái lại người càng sùng kính và cúng dường đến đức Thế Tôn
nhiều vô số kể.
Do không được cúng dường như
xưa Ðề Bà Ðạt Ða lại nghĩ đến chuyện chia rẽ Tăng chúng, nên ông đến
tìm các vị Tỳ khư tên Kolàlika, Katamora, Katissaka, Kandadeviyaputta,
Samuddadatta và nói với những vị ấy rằng: Chúng ta nên hội nhau lại làm
cuộc chia rẽ Tăng chúng.
Ông Tỳ khưu Kolàlika nói: Ông Sa
môn Cồ Ðàm là người có nhiều thần thông cũng như oai đức, chúng ta
làm sao chia rẽ Tăng chúng được.
Ðề Bà Ðạt Ða nói: Các người nên
theo tôi và đi với tôi đến hầu ông Sa môn Cồ Ðàm; xin ông ta năm điều
như vầy: Bạch đức Thế Tôn! Ngài thường ca tụng sự Tri túc, tự túc,
sự mài giũa và sự tiêu diệt ác pháp, sự hành động đáng cho tín đồ
trong sạch, sự không tom góp của cải để dành và sự tin tấn hành đạo.
Ðây là năm điều làm cho sự trí túc, tự túc phát sanh, làm cho sự mài
giũa ác pháp (phát sanh mãnh liệt) sự hành động làm cho người trong sạch,
làm cho tiêu diệt sự tom góp của cải để dành, làm cho sự tinh tấn tuyệt
đối. Vậy xin đức Thế Tôn ra điều cấm và cho chư Tỳ khưu phải hành
theo năm điều là:
1) Xin cho chư Tỳ khưu phải ở rừng
trọn đời, vị Tỳ khưu nào vào ở gần làng là thầy Tỳ khưu phạm tội.
2) Xin cho các vị Tỳ khưu khất thực
nuôi mạng trọn đời. Vị Tỳ khưu nào nhận lời thọ thực của thí chủ
cúng dường tại nhà là vị Tỳ khưu phạm tội.
3) Xin cho chư Tỳ khưu lượm lấy vải
dơ làm y phục trọn đời. Vị Tỳ khưu nào thỏa thích y của thí chủ
cúng dường là vị Tỳ khưu phạm tội.
4) Xin cho chư Tỳ khưu phải cư ngụ
dưới cội cây trọn đời. Vị Tỳ khưu nào vào ở trong làng xóm, vị Tỳ
khưu ấy phạm tội.
5) Xin cho chư Tỳ khưu không được
thọ thực thịt cá trọn đời. Vị Tỳ khưu nào thọ thực thịt cá, vị
Tỳ khưu ấy phạm tội.
Chắc chắn rằng: Ông Sa môn Cồ
Ðàm không bao giờ bằng lòng năm điều cấm ấy. Khi ấy ta lại đem năm
điều ấy truyền rao và giải thích rõ cho chư Tăng và thiện tín rõ.
Chúng ta sẽ có cơ hội chia rẽ Tăng chúng. Nầy các bạn ơi, chúng ta sẽ
được nhiều người trong sạch cúng dường ủng hộ sự hành đạo của
chúng ta.
Sau khi thảo luận với bốn vị Tỳ
khưu ấy xong rồi đồng lòng cùng vào hầu Phật, lễ Phật xong rồi ngồi
xuống và Ðề Bà Ðạt Ða bạch Phật rằng:
BHAGAVÀ BHANTE ANEKAPARIYÀ YENA
APPICCHASSA SANTUTTHASSA SALLEKHASSA DHÙTASSA PÀSÀDIKASSA APACAYASSA VIRIYÀRAMBHASSA
VANNAVÀDÌ. IMÀNI BHANTE PANCAVATTHUNI ANEKKAPARIYÀYENA APPICCHATÀYA SANTUTTHIYÀ
SALLEKHÀYA DHUTATÀYAPASSÀDIKATÀYA SAMVATTANTI SÀDHU BHANTE BHIKKHU YÀVAJIVAM
ARANNIKÀ ASSU. YO GÀMANTAM OSÀREYYA VAJJAMNAÂ PHUSSEYYA. YÀVA JIVAM PINDAPATIKÀ ASSU
YO NIMANTÀNAM SÀDIYẸYYÀ VAJJAM NAM PHUSSEYYA. YÀVAJIVAM PANSUKULIKA ASSU YO GAHA
TICIVARAM SÀDEYYA VAJJAM NAÂ PHUSSEYYA. YÀVAJIVAM RUKKHAMULIKA ASSU YO CHANNAM
UPAGACCHEYYA VAJJAM NAM PHUSSEYYA. YÀVAJIVAM MACCHAMAMSAM NA KHÀDEYYA YO YO MACCHAMAMSAM
KHADEYYA VAJJAM PHUSSEYYA.
Nghĩa: Bạch hóa đức Thế Tôn,
Ngài hằng ca tụng sự tri túc, tự túc, sự mài giũa, sự tiêu diệt ác
pháp. Sự hành động đáng cho tín đồ trong sạch, sự không tom góp của cải
để dành và sự cố gắng tinh tấn hành đạo. Ðây là năm điều làm cho
sự tri túc, tự túc phát sanh, sự làm cho sự mài giũa ác pháp (phát sanh
mãnh liệt) sự hành động làm cho người trong sạch, làm cho tiêu diệt sự
tom góp của cải để dành, sự làm cho sự tinh tấn tuyệt đối phát sanh.
Vậy xin đức Thế Tôn ra điều luật cấm và cho các vị Tỳ khưu hành
theo năm điều ấy là:
1) Xin cho chư Tỳ khưu phải ở rừng trọn đời.
Vị Tỳ khưu nào vào ở gần làng xóm là thầy Ty khưu phạm tội.
2) Xin cho các thầy Tỳ khưu khất thực nuôi mạng
trọn đời, vị Tỳ khưu nào nhận lời thọ thực của thí chủ cúng dường
tại nhà là vị Tỳ khưu phạm tội.
3) Xin cho chư Tỳ khưu lượm lấy vải dơ làm y
phục trọn đời, vị Tỳ khưu nào thỏa thích với y của thí chủ cúng dường
là vị Tỳ khưu phạm tội.
4) Xin cho chư Tỳ khưu cư ngụ dưới cội cây trọn
đời, vị Tỳ khưu nào thỏa thích ở trong làng xóm, vị Tỳ khưu ấy phạm
tội.
5) Xin cho chư Tỳ khưu không được thọ thực thịt
cá trọn đời, vị Tỳ khưu nào thọ thực thịt cá, vị Tỳ khưu ấy phạm
tội.
Ðức Thế Tôn nghe vậy liền dạy
rằng:
ALAM DEVADATTA YO ICCHATI ARANNIKAHOTU, YO
ICCHATI GAMANTO VIHARATU, YO ICCHATI PIN DIPATIKO HOTU. YO ICCHATI NIMANTANAM SADIYATU, YO
ICCHATI PAN SUKÙLIKO HOTU, YO ICCHATI GAHAPATI CIVARAM SADIYATU, ATTHAMASE KHO MAYA
DEVA-DATTA RUKHAMÙLASENASANAM ANU- NATAM TIKOTI PARIMUDDHAM MACCHAMANSAM ADITTHAM ASSUTAM
APARISAN- KITANTI.
Nghĩa: Ðược rồi, Ðề Bà Ðạt
Ða; hãy để tùy ý chư Tỳ khưu, vị nào thích cư ngụ trong rừng thì cứ
ở, muốn ở trong xóm thì cứ ở, vị nào thích khất thực thì cứ khất
thực, nếu muốn thọ thực của thí chủ thỉnh đi cúng dường thì cứ thọ.
Vị nào thích lượm vải dơ làm y thì cứ lượm làm y, còn vị nào muốn
thọ lãnh y của thí chủ cúng dường thì cứ thọ. Như Lai đã có ra luật
rằng: Sự ở dưới cội cây tám tháng ngoài mùa mưa rồi. Như Lai cũng có
ra luật thầy Tỳ khưu được phép thọ thực thịt cá trong sạch ba nguyên
nhân là không nghe, không thấy và không hoài nghi rằng: Người giết cho ta
ăn.
Ðề Bà Ðạt Ða không hài lòng với
đức Thế Tôn không nhận lời yêu cầu của mình, nên đảnh lễ ra về với
những người đồng ý chia rẽ tăng chúng. Các người ấy đi cùng Vương Xá
thành tuyên bố rằng: Chúng tôi đã yêu cầu ông Cồ Ðàm ra năm điều cấm,
nhưng ông ta không nhận lời. Vậy chúng tôi là người rất tán thành năm
điều ấy.
Khi ấy trong Vương Xá thành chia ra
làm hai hạng người là:
1) Những kẻ ngoại đạo, hay người
chưa có đức tin với Tam bảo không hiểu mà cũng không suy nghĩ kỹ càng.
Nên họ chỉ trích rằng: Bọn Sa môn theo Ðề Bà Ðạt Ba là hạng mài giũa
phiền não thật còn bọn theo ông Sa môn Cồ Ðàm là bọn còn trong vòng
tham vọng.
2) Hạng có đức tin, hàng trí thức
có trí tuệ quan sát tường tận nên hiểu rõ nguyên nhân chia rẽ Tăng chúng,
chỉ trích các vị theo Ðề Bà Ðạt Ða lại chia rẽ Tăng chúng.
Khi chư Tăng nghe tin nói Ðề Bà Ðạt
Ða và cư sĩ chỉ trích như vậy liền vào hầu và bạch với đức Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn cho đọc tuyên ngôn gọi chư Tăng đến hỏi và tiện đức
Thế Tôn hỏi Ðề Bà Ðạt Ða: Nầy Ðề Bà Ðạt Ða, được nghe rằng:
Ngươi cố gắng chia rẽ Tăng chúng có phải vậy không?
- Phải!
- Nầy Ðề Bà Ðạt Ða, ngươi không
nên hành động như vậy, vì tội chia rẽ Tăng chúng thật nặng, người nào
đã chia rẽ Tăng chúng người ấy hằng gặp tai hại nặng nề là bị
thiêu đốt nơi địa ngục hằng kiếp. Trái lại người nào làm cho chư
Tăng đã chia rẽ hợp lại, người ấy được phước báu vô lượng vô
biên, được hưởng an vui trong cõi trời hằng kiếp. Vì vậy Ðề Bà Ðạt
Ða ơi, ngươi chớ nên thỏa mãn trong sự chia rẽ Tăng chúng, vì sự ấy rất
tội.
Tiếng KIẾP đức Thế Tôn dạy nơi
đây là kiếp tuổi của trái đất hay gọi là Ðại kiếp chớ không phải
kiếp của một đời người.
Sau ấy, Ðại Ðức Ananda đi khất
thực trong Vương Xá thành gặp Ðề Bà Ðạt Ða, Ðề Bà Ðạt Ða mới đến
gần bảo Ðại Ðức Ananda rằng:
- Nầy Ananda , kể từ hôm nay đi,
chúng ta làm lễ Phát lồ và tất cả các Tăng sự riêng không hợp tác với
đức Thế Tôn và chư Tăng nữa.
Sau khi trở về chùa thọ thực
xong, Ðại Ðức Ananda liền vào hầu Phật và bạch rằng:
- Bạch hóa đức Thế Tôn hồi
sáng nầy, đệ tử có vào khất thực ở trong Vương Xá thành, Ðề Bà Ðạt
Ða có gặp đệ tử, bảo rằng: Nầy Ananda kể từ ngày hôm nay, chúng tôi
làm lễ Phát lồ và tất cả các Tăng sự riêng không hợp tác với đức
Thế Tôn và chư Tăng nữa. Bạch đức Thế Tôn hôm nay là ngày Ðề Bà Ðạt
Ða chia rẽ Tăng chúng thật sự.
Khi Ðại Ðức Ananda bạch Phật
xong. Ðức Thế Tôn liền dạy rằng:
- SAKARAM SÀDHUNÀ SÀDHU. Việc lành
người thiện làm rất dễ. SÀDHU PÀPENA DUKKARAM. Việc lành người ác khó
mà làm được. PÀPAM PÀPENA SUKKARAM. Sự tội lỗi người ác làm rất dễ.
PÀPAMARIYEHE DIKKARAM. Sự tội lỗi không khi nào các bực Thánh nhơn làm được.
Ðến ngày hành lễ Phát lồ, Ðề
Bà Ðạt Ða liền đứng dậy đưa phiếu thăm và nói rằng: Tôi đã đến
xin ông Sa môn Cồ Ðàm năm điều nầy (Nơi đây trong Tam tạng không nêu ra
và các vị Tỳ khưu theo phe với Ðề Bà Ðạt Ða đi rao truyền chư Tỳ
khưu đều biết hết). Nếu vị nào thích thực hành theo năm điều của tôi
đã xin thì vị ấy lãnh lấy thăm nầy.
Có năm trăm vị Tỳ khưu mới xuất
gia chưa thông kinh luật là người xứ Vesàlì con dòng vua Vajji nghĩ rằng:
Ðây mới thật là chánh pháp đúng luật, lời dạy nầy là con đường giải
thoát. Nghĩ vậy nên lãnh lấy thăm ấy.
Sau khi chia rẽ Tăng xong, Ðề Bà Ðạt
Ða dẫn năm trăm vị Tỳ khưu ấy đi ở Gayàsìsa.
Khi ấy hai vị đại đệ tử chánh
thức là Ðại Ðức Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên vào hầu Phật và bạch
Phật rằng: Bạch hóa đức Thế Tôn! Ðề Bà đạt Ða đã chia rẽ Tăng chúng
dẫn năm trăm vị Tỳ khưu đi ở Gayàsìsa.
Ðức Thế Tôn dạy: Nầy Xá Lợi
Phất, Mục Kiền Liên, hai ngươi nên thương hại năm trăm vị Tỳ khưu mới
xuất gia. Hai ngươi nên lập tức đi cho kịp thời; đừng để cho năm
trăm vị Tỳ khưu ấy đi sâu vào tội lỗi.
Hai vị Ðại Ðức đáp: Chúng đệ
tử xin tuân lời đức Thế Tôn. Hai Ngài đảnh lễ xong đứng dậy ra đi tới
Gayàsìsa.
Khi ấy có một vị Tỳ khưu đứng
khóc gần bên đức Thế Tôn! Ngài liền phán hỏi: Tại sao thầy lại than
khóc?
- Bạch đức Thế Tôn. Vì đệ tử
sợ hai vị đại đệ tử sẽ trở thành đệ tử của Ðề Bà Ðạt Ða.
Vì hai Ngài thỏa thích theo pháp của ông Ðề Bà Ðạt Ða.
- Nầy thầy Tỳ khưu; chuyện mà
hai vị đại đệ tử của Như Lai nhập bọn, thích lý thuyết của Ðề
Bà Ðạt Ða thật là chuyện không bao giờ có. Hai vị ấy là người đã
đi đến tận cùng của phận sự một vị Tỳ khưu.
Khi hai vị Ðại Ðức đến nơi cư
ngụ của Ðề Bà Ðạt Ða nhằm lúc Ðề Bà Ðạt Ða đang thuyết pháp cho
năm trăm vị Tỳ khưu nghe. Vừa trông thấy hai vị Ðại Ðức đến, Ðề
Bà Ðạt Ða mới nói rằng: Nầy chư Tỳ khưu, vậy ta là người thuyết pháp
hay đến mức độ nào? Ðến đổi hai vị đại đệ tử của ông Sa môn Cồ
Ðàm vẫn còn thỏa thích triết lý của ta thay! Khi Ðề Bà Ðạt Ða khoe
khoang như vậy.
Ông Tỳ khưu Kokàlika nói: Xin ông
chớ tin tưởng nơi hai vị ấy. Vì hai ông ấy là hạng người trong giới
còn ham muốn xấu xa, là người đang ở trong vòng của xấu xa tội lỗi.
Ðề Bà Ðạt Ða nói ông Kokàlika ,
xin ông đừng nói vậy, hai vị ấy đến đây thật là hân hạnh cho ta lắm.
Vì hai ông ấy thích lý thuyết của ta.
Ông Ðề Bà Ðạt Ða liền đứng
ra nhường cho Ðại Ðức Xá Lợi Phất một nửa chỗ ngồi của mình tỏ
ý mời ngồi.
Ðại Ðức Xá Lợi Phất nói: Ðược
rồi, ông cứ tùy tiện. Xong Ngài ngồi vào nơi phải lẽ. Ðại Ðức Mục
Kiền Liên cũng ngồi xuống một nơi khác.
Ðề Bà Ðạt Ða liền tiếp tục
thuyết đến gần sáng liền mời Ðại Ðức Xá Lợi Phất thuyết thay cho
ông, rằng: Nầy ông Xá Lợi Phất, các vị Tỳ khưu hãy còn buồn ngủ, vậy
phiền ông nên thuyết cho các vị ấy nghe. Tôi đã mỏi mệt, để tôi nghỉ
chút.
Ðại Ðức Xá Lợi Phất nhận lời.
Ðề Bà Ðạt Ða liền xếp y Tăng già lê làm bốn lốp trải ra nằm nghỉ,
vì thuyết cả đêm nên mệt mỏi ngủ quên.
Khi ấy hai vị Ðại Ðức một vị
dùng thần thông cho chư Tỳ khưu thấy còn một vị thuyết pháp. Tất cả
năm trăm Tỳ khưu đắc được pháp nhãn, thấy: Tất cả vạn vật đều có
diệt. Ðây chỉ cho thấy rằng: Tất cả năm trăm vị đều đắc Tu-đà-hườn
quả.
Ðại Ðức Xá Lợi Phất biết rằng:
Năm trăm vị Tỳ khưu đều đắc Tu-đà-hườn quả nên Ngài dạy rằng:
Chúng ta hãy về hầu Phật. Các vị, vị nào trong sạch ngưỡng mộ Pháp bảo
của đức Chánh đẳng Chánh giác xin hãy theo tôi... Tất cả năm trăm vị
đều đồng lòng theo Ðại Ðức về hầu Phật.
Ông Kokàlika lật đật vào đánh thức
Ðề Bà Ðạt Ða dậy nói rằng: Ðề Bà Ðạt Ða hãy mau thức dậy. Ông
Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã đem chư Tỳ khưu đi hết rồi. Tôi đã
bảo ông rằng: Chẳng nên tin tưởng nơi Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên
vì hai ông ấy là hạng tham muốn thối tha đê tiện, và cũng đang ở trong
vòng tham muốn ấy. Khi nghe qua lời ấy Ðề Bà Ðạt Ða liền mửa ra máu,
(Ðề Bà Ðạt Ða bắt đầu bịnh từ hôm ấy).
Hai vị Ðại Ðức vào hầu Phật
và bạch xin rằng: Bạch hóa đức Thế Tôn, chúng con xin đức Thế Tôn cho
các vị Tỳ khưu ấy xuất gia lại một lần nữa, vì các vị ấy theo Ðề
Bà Ðạt Ða chia rẽ Tăng chúng.
Ðức Thế Tôn dạy: Ðừng Xá Lợi
Phất, ngươi chẳng nên bắt các vị ấy xuất gia lại, nên dạy các vị
ấy Sám hối vì tội THULACCAYA (Tội trọng). Ðức Thế Tôn hỏi:
- Nầy Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên. Vậy Ðề Bà Ðạt Ða đối xử với ngươi thế nào?
Ðại đức Xá Lợi Phất bạch rõ
những điều đã hành động và sự đối xử của Ðề Bà Ðạt Ða.
Khi ấy đức Thế Tôn liền thuyết
Túc Sanh Truyện rằng:
- Trong lúc quá khứ có một cái hồ
rất to lớn ở giữa rừng sâu. Trong rừng ấy có một đoàn tượng. Ðoàn
tượng ấy thường dẫn nhau xuống hồ móc lấy củ sen rửa sạch rồi
ăn. Sự ăn củ sen ấy làm cho đoàn tượng mau lớn, mạnh mẽ và màu sắc
xinh tươi; đoàn tượng ấy sống rất lâu không bịnh tật nhờ ăn sen ấy.
Những con tượng khác nhỏ sau nầy, thấy các tượng lớn móc củ sen ăn màu
sắc rất đẹp, mạnh khỏe và trường thọ, nên bắt chước móc củ sen
ăn, nhưng lại không rửa sạch ăn lẫn cả bùn non và sình hôi, khi ăn xong
không mạnh khỏe trái lại bị bịnh mà chết. Những con tượng ấy cũng
như Ðề Bà Ðạt Ða bắt chước theo Như Lai nên bị chết một cách thảm
thiết.
Ðức Thế Tôn thuyết xong Ngài liền
dạy rằng: Khi tượng chúa dậm nát đất móc củ sen lên ăn củ sen, trông
nom săn sóc đoàn tượng được an vui. Nhưng tượng khác ăn cả sình non
và bùn vào vì muốn làm theo tượng chúa (mà không thông thể thức, không
đủ khôn ngoan) nên bị chết.
Kể từ ngày mất hết đệ tử
ông Ðề Bà Ðạt Ða bịnh càng ngày càng trầm trọng. Ðến đúng chín
tháng sau, ông có cảm tưởng thương nhớ đức Thế Tôn, ông cảm thấy đức
Phật đối với ông không khác nào ông cha hiền đối với con, đầy lòng
từ bi và tha thứ. Ông nhớ đức Thế Tôn không giờ phút nào xao lãng.
Ngày nọ, ông biết rằng ông không thể sống được lâu, ông mới gọi
các Tỳ khưu còn ở lại với ông đến và bảo rằng:
- Xin các ông vui lòng giúp đưa tôi
đến bái kiến đức Thế Tôn.
Các vị ấy nói: Bạch thầy, thầy
là người cột oan trái với Phật chúng tôi không thể nào đưa Ngài đến
gặp đức Thế Tôn được.
- Xin các ông đừng làm tôi thất vọng
và để tôi phải lâm vào vòng tai hại. Mặc dầu tôi là người gây ra nhiều
tội lỗi, cột oan trái oán thù với đức Từ Phụ. Nhưng những sự việc
tôi làm đối với đức Thế Tôn những điều ấy không thành vấn đề, vì
không bao giờ đức Thế Tôn cột oan trái oán thù với tôi. Tôi phải đến
sám hối tội lỗi với Ngài thì khi chết mới không ân hận và an lòng.
Các ông có biết lòng từ bi của một vị Chánh đẳng Chánh giác là lòng
từ bi vô lượng vô biên, Ngài đối với chúng sanh kẻ hung bạo; oán thù
Ngài, cột oan trái với Ngài cũng như Ngài đối với Thái tử Ra Hầu La vậy.
Tâm của Ngài cũng như quả địa cầu rộng lớn thênh thang chứa tất cả
nhân loại kẻ ác cũng như người lành, kẻ thù cũng như đứa con yêu
quí, không bao giờ Ngài biết buồn phiền và tức giận hay nghĩ đến sự
oán hận kẻ nào cả. Vì vậy nên Ðề Bà Ðạt Ða nầy mới dám yêu cầu
quí vị đưa về gặp Phật trong khi sắp lìa bỏ cõi đời này.
Hai đệ tử còn lại không thể chối
từ vì lòng thương hại ông vì ông biết hối tiếc việc làm. Hai ông liền
làm một cái kiệu để ông Ðề Bà Ðạt Ða nằm và khiêng về Kỳ Viên tịnh
xá ở thành Thất La Phiệt. Chư Tăng nhứt là Ngài Ananda nghe tin ông Ðề
Bà Ðạt Ða về, Ngài liền lật đật vào hầu Phật và bạch rằng: Bạch
đức Thế Tôn! Ðề Bà Ðạt Ða về để chia rẽ Tăng chúng nữa.
Ðức Thế Tôn dạy rằng: Chẳng
nên kinh sợ, không bao giờ Ðề Bà Ðạt Ða trông thấy Như Lai trong kiếp
nầy đâu. Dầu Ðề Bà Ðạt Ða vào đến tận sân chùa chăng nữa cũng không
bao giờ trông thấy Như Lai đâu.
Nói về hai đệ tử của ông chỉ
khiêng ông đi mỗi ngày được có một do tuần (mười sáu cây số ngàn).
Ngày nọ còn ước độ một dặm đường nữa thì đến Kỳ Viên tịnh
xá. Ông lấy làm nóng muốn gặp Phật nên ông yêu cầu hai vị ấy cố gắng
đưa ông mau đến ao Pokharanì trước Kỳ Viên tịnh xá. Khi đến nơi ông
yêu cầu để kiệu xuống để ông được xuống ao tắm rửa sạch sẽ
xong mới vào hầu Phật. Khi ông vừa đặt chân đến mặt đất. Quả đất
thật dầy có thể chở nổi quả núi Tuyết Lãnh nhưng không thể chịu nổi
tội lỗi của ông đã làm nên đất nứt ra làm hai và từ từ rút ông xuống.
Ðây chứng tỏ là nghiệp ông làm nặng vô lượng vô biên.
Khi đất từ từ rút xuống tới cổ,
ông mới nhớ đến Ân đức của đức Phật, ông liền ngâm câu kệ rằng:
IMANI ATTHUNIPI GAMAGGA PUGGALA ... Nghĩa: Tôi xin cúng dường phần xương còn lại
trên mặt đất nầy đến đấng Ðại Giác.
Ngài là đấng Vô Thượng. Chỉ có
Ngài mới là đấng có thể giáo hóa được những nhân vật hung ác nhất
trong tam giới. Ngài có thể ví như vị Mã sư đại tài có thể dạy được
tất cả các con ngựa bất kham. Tôi xin đem hết lòng thành kính xin qui y Phật,
Ngài là đấng có nhiều đặc ân và phước báu cao thượng.
Do nhờ phước báu của tâm trong sạch
thành kính và biết hối hóa tỏ ra sự nương nhờ nơi Phật bảo và cúng
dường phần xương dư sót trên mặt đất khi chưa bị rút mất. Ấy là
nhân duyên đưa cho ông sẽ đắc được quả Phật Bích Chi có danh hiệu
là ATHISARA , sau khi hết nghiệp ở đại địa ngục A tỳ.
Khi ông Ðề Bà Ðạt Ða nói dứt
câu thì đất cũng vừa rút mất ông phần còn lại.
Tất cả tín đồ toàn là phàm nhơn
nghe tin rằng: Ông Ðề Bà Ðạt Ða đã đến bên chùa mà không được vào
hầu Phật. Những người ấy lấy làm mừng vì không còn lo âu về việc
ông Ðề Bà Ðạt Ða chia rẽ Tăng chúng một lần nữa. Vì vậy những người
ấy hội lại nhau ăn mừng rất lớn.
Các vị Tỳ khưu còn phàm không hiểu
ông Ðề Bà Ðạt Ða sẽ sanh về đâu nên đến bạch hỏi Phật về con
đuờng sanh của ông.
Ðức Thế Tôn dạy: - Nầy các thầy
Tỳ khưu, chẳng luận hàng xuất gia hay cư sĩ ai ai chẳng hạn, một khi đã
dễ duôi làm tội lỗi thì người ấy sẽ bị thiêu đốt và đau khổ
trong kiếp hiện tại và vị lai.
Ðức Thế Tôn thuyết tiếp câu kệ
rằng: IDHA TAPPATI PECCA TAPATI. v.v... Người làm tội hằng bị khổ trong hai
cõi hiện tại và vị lai. Khi bị đọa vào bốn đường ác càng bị thọ
khổ mãnh liệt hơn ở trong cõi đời nầy. Người nên hãy tự suy nghĩ rằng:
Ta vì làm tội nên bị khổ như vầy.
Sau khi dứt câu kệ có nhiều vị Tỳ
Khưu đắc Thánh quả và chư thiện tín cũng được nhiều quả lành.
Lời Tựa | 1 | 2 | 3
| 4 | 5
| 6 | 7
| 8 | 9
| 10 | 11
| 12 | 13
| 14 | 15
| 16