- Lịch Sử Ðức
Phật Tổ Cồ Ðàm
- Maha Thongkham Medhivongs
THIÊN THỨ MƯỜI
SÁU
CHIA XÁ LỢI
-ooOoo-
Khi đức Thế Tôn nhập diệt xong
có vị Phạm Thiên tên Sahampati nói câu kệ: SABBAVA NIKKHIPISSANTI v.v... Tất
cả chúng sanh trong thế gian nầy đều phải bỏ sanh mạng nầy, mặc dầu
đức Thiên Nhơn Sư là vị Chánh đẳng Chánh giác có hồng danh là Thập Lực
không, có nhân vật nào trong tam giới nầy có thể sánh bằng mà cũng chưa
phải bỏ sanh mạng nầy lại.
Ðức Thiên vương Ðế Thích có
nói:
ANICCÀVATTA SANKHÀRÀ v.v... Nghĩa: Các
pháp hành thật không bền vững, nó có tánh cách sanh diệt là thường, chỉ
có Niết bàn là nơi diệt khổ mà là nơi an vui tuyệt đối.
Ðức Anuruddha nói:
NÀHU ASSÀSAPASSÀSO v.v... Nghĩa: Hơi
thở ra vào và tâm còn ngự trong thân của đấng cao cả, Ngài tìm được
đặc ân tối thượng, Ngài hưởng sự an lạc của Ðại định. Tâm Ngài
không bao giờ thối chuyển và hoàn toàn trong sạch, đã diệt trừ hết khổ,
xa lìa phiền não. Những phiền não ấy không thể nào tàng ẩn trong tâm của
đấng Giác Ngộ được. Giờ đây Ngài đã nhập diệt.
Ðại Ðức Ananda nói:
TADÀSI YAM BHISANAKHAM v.v... Nghĩa: Bao
giờ đức Chánh đẳng Chánh giác nhập Niết bàn thì quả địa cầu nầy
rung động và tất cả những hiện tượng phi thường phát sanh.
Khi ấy, chư Tỳ khưu còn phàm chưa
dứt được phiền não khóc than rằng: Ô! Ðức Thế Tôn vội nhập diệt
quá. Ánh sáng rọi sáng đường luân hồi đã tắt rồi.
Chư thiện nam tín nữ cũng than khóc
vì thương nhớ đức Thế Tôn. Ðại Ðức Ananda thấy chư thiện tín và chư
Thiên khóc than như vậy nên Ngài mới thuyết pháp về sự suy gẫm thân nầy
là Vô thường, Khổ não và Vô ngã theo đúng Phật ngôn dạy trong bài kinh
ANICCATÀ PATISAMYUTTA.
Khi ấy, đức vua và các vị hoàng
tộc Malla đến và đem dâng một ngàn cây gấm lụa thật đắc giá để
che rạp nơi Phật nhập diệt, ngoài ra còn có đủ thứ châu báu quí giá
đem đến trang điểm nơi ấy thật đẹp. Ðức vua và dân chúng trong xứ
đều tựu lại làm lễ thật là long trọng cả sáu ngày đêm. Ðến ngày
thứ bảy mới hội nhau lại tính đem Thánh thể của Ngài đến nơi hỏa
đài làm lễ tẩn liệm. Tất cả mọi người đều bằng lòng đưa Thánh
thể của Ngài ra cửa Nam. Khi ấy chọn được tám vị hoàng thân tráng kiện
nhứt, và là người đẹp trai nhứt trong xứ để khiêng long sàng của đức
Thế Tôn đang nằm nhập diệt. Nhưng mặc dầu tám vị ấy có một sức mạnh
phi thường nhưng không sao lay chuyển được long sàng của Phật đang ngự.
Ðức vua lấy làm lạ mới vào bạch hỏi Ðại Ðức Anuruddha .
Ðại Ðức dạy: Ý kiến của chư
Ðại vương và quần chúng tương phản với ý của chư Thiên. Vì vậy nên
chư Thiên không để Ðại vương di động được long sàng nơi Thánh thể
đức Thế Tôn đang ngự.
- Bạch Ðại Ðức, vậy ý kiến của
chư Thiên thế nào?
- Tâu Ðại vương, chư Thiên định
đưa thánh thể của đức Thế Tôn ra hướng Bắc rồi trở vào thành theo
cửa hướng Ðông, đến trung tâm thành vào hướng Ðông, đưa đến an ngự
tại tháp Makutabandhana trước cửa thành nội rồi làm lễ hỏa táng nơi
ấy.
Ðức vua liền phán rằng: Bạch Ðại
Ðức nếu chư Thiên có ý kiến thế nào thì trẫm thật hành theo thế ấy.
Chư Thiên lấy làm hài lòng rồi cùng nhau cúng dường cuộc lễ đưa Thánh
thể của đức Thế Tôn đi thật là long trọng, có tiếng đàn hát thật
hay, thật êm tai của chư Thiên và người hòa nhau, tiếng trống vang rền.
Khi đi ngang qua nhà của bà Mallikà
là vợ của vị Tướng quốc xứ Thất La Phiệt là Bandula (Vị nầy bị đức
vua Ba Tư Nặc giết oan; xin xem Thiên mười ba tích ông Vidùdabha ). Bà nghe
tin nhà vua và dân chúng đưa Thánh thể của đức Thế Tôn ngang nhà bà,
bà nghĩ: Từ khi chồng ta thác oan đến nay đồ trang điểm tên là
Mahàlapasàdhana (Theo Pháp Cú kinh có dạy rằng: món trang điểm nầy rất quí
người thời ấy chỉ ba người dùng nổi thôi. Ba người ấy là: 1) Bà đại
thí chủ Visàkhà , 2) Con của một vị Trưởng giả vợ của ông
Devapàniya, 3) Bà Mallikà phu nhân của Tướng quốc xứ Thất La Phiệt là
ông Bandula , mà bà cũng là một vị Công chúa xứ Malla .)
Của nầy ta không còn có dịp để
trang điểm nữa, vậy ta nên cúng dường cho Phật bảo. Bà liền dạy người
nhà phải đánh bóng cho sáng.
Khi tám vị hoàng thân đưa Thánh thể
đức Thế Tôn đi qua nơi ấy. Bà gọi: Các con ơi, hãy dừng lại để cho
ta làm lễ cúng dường (Bà gọi như vậy vì những người nầy vẫn là người
trẻ và thuộc hàng cháu bà).
Tám vị ấy liền dừng lại để bà
đem vật cúng dường ấy đắp trên Thánh thể của đức Thế Tôn, nhờ những
châu ngọc và vàng ấy làm tăng sự tốt đẹp, hào quang càng chiếu sáng;
vì món vật ấy không khác nào vương miện là vật mà bà thường đội
trong khi dự dạ hội lúc ông Tướng quốc còn tại thế. Khi để vật cúng
dường lên bà phát nguyện: Bạch đức Thế Tôn do nhờ phước báu của sự
cúng dường hôm nay, đệ tử nguyện khi mà còn luân hồi trong tam giới, đệ
tử sanh lại kiếp nào cũng được trang điểm đồ quí báu như kiếp nầy,
như những vật nầy.
Khi đưa Thánh thể của đức Thế
Tôn đến hỏa đài là nơi tháp Makutabandhana an vị nơi đã an bài sẵn. Ðức
vua và hoàng tộc cùng dân chúng đến hỏi Ðại Ðức Ananda rằng: Bạch Ðại
Ðức vậy thể thức tẩn liệm Thánh thể của đức Thế Tôn phải làm
sao?
- Phải dùng nghi thức của vua Chuyển
Luân Thánh Vương, phải bao Thánh thể của Ngài bằng lụa năm trăm vòng,
dùng dây tơ cột chặt để vào hòm vàng có đầy nước hoa quí, ngoài cái
hòm ấy còn có một cái hòm vàng khác chụp lên trên. Xong rồi đưa linh cửu
lên để trên hỏa đài mới làm lễ hỏa táng. Sau khi tắt lửa lượm lấy
Xá lợi làm phù đồ (Tháp) nơi hoả táng giữa ngã tư đường để chúng
sanh lễ bái cúng dường gieo duyên lành về ngày vị lai.
Ðức vua cùng hoàng tộc và dân
chúng thực hành theo lời chỉ giáo của Ðại Ðức Ananda. Ðức vua làm hỏa
đài toàn bằng cây trầm hương, bề cao hỏa đài một trăm hai mươi hắc
tay, khi làm xong thỉnh linh cửu lên an vị trên ấy.
Khi ấy trong hoàng tộc cử ra bốn
vị Trưởng lão để lên đài làm lễ hỏa táng. Nhưng các Ngài không thể
làm sao cho lửa cháy được, đức vua lấy làm lạ vào hỏi Ðại Ðức
Anuruddha. Ngài dạy: Chư Thiên muốn quí vị hãy đình chỉ lại đợi vị
đại đệ tử là đức Ca Diếp về hãy làm lễ.
- Bạch Ðại Ðức, bao giờ Ðại
Ðức Ca Diếp về đến?
- Ngài sẽ về đến ngày hôm nay.
Ðồng thời ấy, Ðại Ðức Ca Diếp
dẫn năm trăm vị Tỳ khưu từ rừng xứ Pàvà về xứ Kusinàrà. Khi gần
đến thành Kusinàrà đã trưa nắng gắt, Ngài nghĩ: Ðường còn chẳng xa lắm,
ta nên cho chư Tăng nghỉ một lúc rồi sẽ đi cũng chẳng muộn. Thế nào
chiều nay cũng đến thành Kusinàrà yết kiến đức Từ Phụ. Ngài liền
cho chư Tăng nghỉ mát.
Khi ấy có người ngoại đạo ở
xa đến, người nầy dùng bông Mạn thù che nắng như một cây lọng. Ðại
Ðức Ca Diếp thấy hoa ấy mới nghĩ bông Mạn thù trong tay của người ngoại
đạo kia không bao giờ có trong cõi thế gian nầy. Chỉ có khi đức đại Bồ
Tát giáng sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót, khi giáng sanh, lúc xuất gia,
ngày Thành đạo, khi Chuyển pháp luân, lúc dùng thần thông thắng kẻ ngoại
đạo và ngày Nhập diệt, khi ấy mới có mưa hoa lạ. Ta lấy làm lo ngại
cho đức Thế Tôn vì Ngài đã già, chắc Ngài đã nhập diệt rồi chăng? Vậy
ta nên hỏi người ngoại đạo nầy cho biết. Ngài không dám gọi người
ngoại đạo lại hỏi sợ thất lễ vì hỏi chuyện của Phật. Nên Ðại
Ðức lại đứng dậy mặc y phục chỉnh tề đi đến gần người ngoại
đạo mà Ngài làm lễ xong (không phải làm lễ người ngoại đạo mà Ngài
làm lễ ân đức Phật trước khi hỏi đến chuyện Phật) hỏi: Thưa ông,
ông có được biết tin của đức Thế Tôn chúng tôi chăng?
Người ngoại đạo thấy Ðại Ðức
rất lễ phép nên mới nói: Thưa ông, Ðại Ðức Sa môn Cồ Ðàm đã nhập
diệt được bảy ngày rồi, và tôi lượm hoa Mạn thù nầy từ thành
Kusinàrà để làm chứng chắc.
Khi chư Tỳ khưu còn là hạng phàm
nhơn nghe tin ấy lấy làm buồn thương đau khổ khóc than rằng: Ôi! Ðức
Thế Tôn ơi, Ngài vội nhập diệt. Ngài là ngọn đuốc soi đường cho chúng
sanh trong tam giới đã tắt rồi, đời trở nên tối tăm mờ ám, còn chư
Thánh Tăng không tỏ ra khổ sở buồn thương vì Ngài nhận thấy các pháp
phải đi đến chỗ tiêu diệt như vậy.
Trong khi ấy có một vị Tỳ khưu
xuất gia khi tuổi đã già tên là Subhadhà mới khuyên chư Ðại Ðức than
khóc ấy rằng: Các thầy không nên buồn rầu khóc than làm chi, giờ đây
chúng ta được thoát ly khỏi uy quyền của ông đại Sa môn Cồ Ðàm ấy rồi.
Khi ông ta còn sống hằng trừng phạt rầy la chúng ta rằng: Ðiều nầy
không nên làm, điều kia chẳng nên làm. Giờ đây ông đã nhập diệt, ta
muốn làm chi thì làm không ai bắt buộc kềm chế.
Ðại Ðức Ca Diếp cũng có nghe
câu ấy. Ngài nghĩ: đức Thế Tôn vừa nhập diệt có mấy ngày mà đã có
bọn Tỳ khưu phá giới, không hổ thẹn tội lỗi.
Nhân dịp ấy, Ðại Ðức dạy chư
Tăng pháp suy nghĩ chán nản thân nầy. Rồi Ngài dẫn chư Tăng đi đến
nơi làm lễ hỏa táng. Ðại Ðức dẫn chư Tăng đi quanh hỏa đài ba lần,
đảnh lễ xong bạch rằng: Bạch hóa đức Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác, đệ tử tên là Maha Ca Diếp được Ngài liệt vào hạng đại đệ tử
cao quí về hành mười ba hạnh đầu đà. Khi đệ tử còn là người ngoại
đạo, Ngài vì lòng từ bi thương hại đệ tử đi lạc đường nên không
nệ hà cực nhọc ngự đi hằng ba dặm đường tế độ đệ tử, rồi Ngài
cho đệ tử y của Ngài thường dùng là y mà Ngài lượm vải quấn lấy tử
thi của cô tớ gái tên Punna khi Ngài ở Uruvela , y ấy tự tay Ngài giặt,
may lấy, khi Ngài lượm lấy y đến khi hoàn thành xong y, quả địa cầu
rung động chín lần. Y nầy rất cao quí vì một đời của một đức Phật
có một lần như vậy thôi. Y nầy chỉ riêng một mình đệ tử được Ngài
ân tứ cho mà thôi, không có vị đệ tử nào có đặc ân được Ngài ân
tứ mặc dầu vị ấy là đệ tử tay phải hay tay trái. Bạch đức Thế Tôn
nếu thật đệ tử là người mà đức Thế Tôn chiếu cố đến, xin cho
hai bàn chân của Ngài có hình bánh xe và hình các loài thú ló ra trên hai
bàn tay của đệ tử đang đảnh lễ Ngài đây.
Như ta đã biết khi tẩn Thánh thể
của đức Thế Tôn quấn năm trăm lớp tơ lụa và cột lại bằng dây tơ.
Nhưng chuyện phi thường lại phát sanh giữa hàng đại chúng là: Dường
như đức Thế Tôn còn yêu thương Ðại Ðức Ca Diếp nên tự nhiên hai
bàn chân của Ngài từ trong năm trăm lớp hàng quấn chặt và hai lớp hòm
vàng ló ra trên tay Ðại Ðức như mặt trăng ló ra từ trong đám mây đen
sau khi vừa dứt câu phát nguyện của Ðại Ðức Maha Ca Diếp.
Khi ấy Ðại Ðức lại bạch tiếp:
Bạch hóa đức Thế Tôn, từ ngày đệ tử được dự vào hàng Thánh nhơn,
không bao giờ có sự lỗi lầm mặc dầu một lỗi thật nhỏ đối với đức
Thế Tôn. Hơn nữa đệ tử không dám phạm vào một điều răn cấm nào thật
nhỏ bằng cách vô ý. Có lúc nọ đức Thế Tôn dạy đệ tử rằng: Ca Diếp
ơi, ngươi đã già rồi mà vẫn hành hạnh đầu đà lượm vải dơ làm y,
những cái y ấy vải dày nặng nề lắm vậy ngươi hãy xả bỏ hạnh đầu
đà ấy để thọ lãnh y của thí chủ là các vị trưởng giả hay người
giàu sang vua chúa cúng dường cho ngươi cho nhẹ bớt đi phần nào. Ngươi hãy
ở chung với Như Lai.. Ðức Thế Tôn ơi! Lòng từ bi của Ngài đối với
đệ tử thật là sâu rộng ví như đại dương mà trái lại đệ tử không
được ở bên Ngài để hầu hạ sớm trưa. Chỉ ở nơi rừng sâu thanh vắng,
đây thật là sự dễ duôi của đệ tử. Ðệ tử xin Ngài từ bi tha thứ
cho Ca Diếp, hôm nay nơi hỏa đài xin dập đầu xin Ngài tha tội.
Sau khi ấy Ngài và năm trăm vị Tỳ
khưu đảnh lễ xong Ngài cũng không phát nguyện xin cho hai bàn chân thục
vào quan tài, nhưng hai bàn chân tự động thục vào, và chỗ chân ló chân
ra cũng liền lại như cũ.
Khi ấy tiếng than khóc của chư Thiên
và nhân loại càng vang động hơn khi đức Thế Tôn vừa nhập diệt. Và lửa
dưới hỏa đài cũng vừa phát cháy, đây là do nơi oai lực của chư Thiên
làm lễ hỏa táng. Sau khi lửa tắt lại có chuyện phi thường là bốn trăm
chín mươi chín lớp hàng bao Thánh thể của Ngài cháy hết chỉ còn một lớp
bọc Xá lợi, như người gói Xá lợi sẵn rồi vậy, đây là do nơi oai lực
lời phát nguyện của đức Thế Tôn khi Ngài nhập diệt.
Có bảy đoạn Xá lợi không bể
là: Unhisa: Xương trán, Danta : bốn cái răng nhọn, và Akkhaka: hai cái xương
vai. Những đoạn nầy còn nguyên thật đẹp. Ngoài ra những đoạn xương
khác đều cháy hết không phân biệt được. Nhưng những Xá lợi ấy có
thể chia ra làm ba phần là:
1) Ðức Xá lợi lớn bằng hột đậu xanh cân nặng
được năm cân.
2) Ðức Xá lợi đoạn vừa lớn bằng hột gạo cân được sáu cân.
3) Ðức Xá lợi đoạn nhỏ hết bằng hột mè cân nặng năm cân.
Tất cả Xá lợi ấy có màu sắc
khác nhau là: Ðức Xá lợi đoạn lớn có màu như màu hoàng kim. Ðức Xá lợi
hạng vừa có màu như ngọc pha ly. Ðức Xá lợi đoạn nhỏ hơn hết có
màu như bông Bakula .
Sự thật, chư Phật lúc quá khứ vị
nào tuổi thọ nhiều muôn năm Ngài không để Xá lợi lại cho nên Xá lợi
ấy không nát vụn ra, khi hỏa táng xong đóng lại một cục to như vàng khối.
Nhưng đức Từ phụ của chúng ta hiện tại đây Ngài nghĩ rằng: Tuổi thọ
của Như Lai rất vắn đối với chư Phật quá khứ. Vì vậy nên Ngài phát
nguyện rằng: Sau khi Như Lai nhập diệt xin chia Xá lợi của Như Lai chia ra
làm ba đoạn khác nhau. Hàng đại chúng chia nhau ra mỗi nơi để làm tháp
cúng dường hầu gieo được duyên lành với Phật pháp sau nầy, và cũng là
một nhân làm cho chúng sanh trong sạch với Tam bảo mà được sanh về nơi
nhàn cảnh.
Sau lễ hỏa táng bảy ngày; thì bỗng
dưng có nước từ hư không chảy xuống hỏa đài để tắt lửa, nhà vua cũng
đem nước hoa lại tưới hỏa đài cho mau tắt. Ðức vua làm một cái hòm
vàng nhỏ đem lại đựng Xá lợi đưa về thành che rạp bằng hàng lụa
quí để dân chúng đến cúng dường. Sau ấy mới đưa về hoàng cung để
trên ngai vàng nơi đức vua lâm trào ngự trên ấy.
Ðức vua lo âu về người sẽ trộm
Xá lợi của Ngài, nên Ngài hạ lệnh quan Tướng quốc phải chuẩn bị bảy
đội hùng binh canh giữ hoàng thành thật nghiêm mật để Ngài làm lễ
cúng dường bảy ngày đêm. Trong cuộc lễ ấy có đủ cuộc vui nào là
múa hát đờn kèn, tóm lại là trò vui nào có trong thời kỳ ấy đều đem
ra trình bày tuỳ thích.
Mặc dầu đức Thế Tôn đã nhập
diệt có rất nhiều người biết, nhưng đức vua A Xà Thế xứ Ma Kiệt
Ðà lại không hay biết gì hết, mà trái lại Ngài là một nhà vua sùng đạo
nhứt trong thời kỳ ấy.
Các vị Ðại thần hay tin ấy nhưng
không dám cho hay vì quí vị biết rằng: Khi đức vua hay chuyện ấy sẽ
đem tai hại lại cho Ngài không nhỏ, vì Ngài rất thương mến kính trọng
đức Thế Tôn hơn tất cả những gì mà Ngài đã có. Nhưng kết cuộc chẳng
dám giấu tin ấy nên cho Ngài hay. Trước khi cho biết các Ngài lấy ba cái
chum vàng để bốn chất nước có vị ngọt cho người khiêng vào để ngay
nơi đức vua ngự rồi tâu: Tâu Ðại vương, hạ thần đã nằm một điềm
mộng rất là bất tường, vậy xin Ðại vương thay đồ mới sạch vào
ngâm mình trong chum vàng nầy, trong chum nầy có bốn thứ nước vị ngọt,
khi ấy mới giải được điềm mộng bất tường kia.
Ðức vua không biết chuyện chi nhưng
cũng thực hành theo lời yêu cầu của bá quan. Khi ấy có một vị quan
già, cởi đồ triều phục xong xả tóc quì xuống day mặt về hướng thành
Kusinàrà nơi đức Thế Tôn nhập diệt chấp tay đảnh lễ xong mới nói:
Tâu Ðại vương lẽ cố nhiên chúng sanh trong tam giới không ai tránh khỏi
tay tử thần. Hiện giờ đây đức Chánh đẳng Chánh giác là phước điền
của nhân loại, là ngọn đuốc soi đường của chúng sanh đã nhập diệt
tại thành Kusinàrà .
Ðức vua nghe câu ấy xong Ngài liền
bất tỉnh liền, các quan mới bồng Ngài đem để trong cái chum vàng thứ
nhì. Ngài lần lần tỉnh dậy mới phán hỏi: Chư hiền khanh mới nói chi với
trẫm. Vị quan ấy tâu như lần trước, đức vua lại bất tỉnh lần thứ
nhì. Bá quan bồng Ngài để vào chum vàng thứ ba. Ngài lại tỉnh và cũng hỏi
như trước. Vị quan già cũng tâu như trước, đức vua lại bất tỉnh lần
thứ ba. Bá quan bồng Ngài ra thay đồ khô xong lấy nước chế vào đầu Ngài,
Ngài lần lần tỉnh lại.
Khi tỉnh lại Ngài than khóc thật
là thảm thiết, Ngài liền dẫn các quan đến chỗ Jìvakambanàvasa (nghĩa là
vườn xoài của ông lương y tên Jìvaka ở) nơi nầy là nơi mà đức vua đến
nghe đức Thế Tôn thuyết pháp lần đầu tiên và nhờ đó mà Ngài dứt
được sự u buồn uất ức trong lòng Ngài. Khi đến nơi ấy Ngài mới than
rằng: Bạch đức Thế Tôn, khi xưa ở nơi nầy Ngài mở lòng từ bi tha thứ
tội lỗi của đệ tử và thuyết pháp độ đệ tử trở nên người chánh
kiến, Ngài là đấng nhổ mũi tên độc cắm sâu trong tim của đệ tử đó
là sự đau buồn hối hận vì tội lỗi của mình. Ngài là nơi nương nhờ
của đệ tử, tại sau Ngài lại vội bỏ đệ tử không cho đệ tử hay biết
chi hết. Khi xưa đệ tử chưa quy y Tam bảo có nghe rằng: Ðức Thế Tôn
đi đâu đều cho chư Tăng theo hầu thật là uy nghiêm, Ngài chu du mọi nơi
độ hàng tín đồ, hôm nay đệ tử lại nghe rằng: Ngài đã nhập diệt.
Chuyện bất tường đến đột ngột với đệ tử như thế nầy thì làm
sao đệ tử chịu nổi.
Ðức vua ngâm luôn một lúc sáu mươi
câu kệ kể sự buồn thương của Ngài đối với đức Ðại Giác. Sau khi
kể lể xong bớt nỗi khổ đau Ngài liền nghĩ đến Xá lợi: Dầu ta có
than van khóc lóc cũng chẳng lợi ích chi vì sự thương nhớ khóc than không
phải là việc cần trong lúc nầy, mà sự thỉnh Xá lợi của Ngài về
cúng dường mới là quan trọng.
Khi về thành Ngài liền chọn người
đi sứ đến Kusinàrà để xin Xá lợi. Ngài dạy sứ thần nói với vua
Malla rằng: Ðức Thế Tôn là dòng vua, sau khi thành Phật là vị Pháp vương.
Còn ta cũng là một vị Hoàng đế của một cường quốc vì vậy ta phải
được một phần Xá lợi của đức Pháp vương đem về xứ ta để lập
phù đồ cúng dường.
Sau khi đưa sứ thần đi xong Ngài lại
nghĩ: Nếu ta được chia Xá lợi cho một cách êm thắm thì rất quí, còn nếu
dòng vua Malla không bằng lòng chia cho thì tức nhiên phải dùng võ lực.
Ngài liền truyền cho vị Tướng quốc lập tức chọn lấy cho Ngài bốn đạo
binh tinh nhuệ nhứt và phải có đủ lương thảo cho quân binh dùng khi chiến
trận nổ bùng. Bốn đạo hùng binh của Ngài là tượng binh, xa binh, mã
binh và bộ binh. Chính Ngài cầm bốn đạo binh ấy thân chinh.
Ðồng thời ấy cũng có những nước
trước gởi sứ thần sau lại đưa binh theo là:
1) Vua Licchavì xứ Vesàlì .
2) Dòng Thích Ca xứ Sakka .
3) Vua Thuliyaràja xứ Allakappa .
4) Vua Koliya xứ Ràma .
5) Vua Mahàbrahma (Ðại Bà la môn) xứ Vetthadipaka. (Xứ nầy dòng Bà la môn nắm
chính quyền như vua).
6) Vua Mallaràja xứ Pàvà .
Tổng cộng cả thảy là bảy nước
với vua xứ Ma Kiệt Ðà là đức A Xà Thế.
Trong bảy nước ấy chỉ có xứ
Pàvà là ở gần hơn hết, chỉ cách ba dặm đường thôi, nên khi đức Thế
Tôn đến Kusinàrà có đi qua ngang thành Pàvà. Nhưng lại đến sau hết, vì
nhà vua và bá quan hội nhau bàn rằng: sáu xứ kia ở xa và cường quốc đã
đưa binh tới chúng ta ở gần không cần lo làm gì, chỉ đưa đến một
ít thôi cũng có phần trong ấy.
Khi bảy xứ đóng quân vây quanh
thành Kusinàrà sức con kiến cũng khó qua được. Nhứt là bốn đạo binh của
đức vua A Xà Thế mạnh hơn hết và Ngài là người có tên tuổi nhứt về
chinh chiến, đức vua Ba Tư Nặc còn tại thế cũng không đánh lại Ngài,
Ngài có tánh tốt là không ỷ cường quốc mà chinh phục một nước nào.
Nên chi Ngài thường được các nước lân bang nể mặt. Sau khi an dinh hạ
trại xong cho quân sĩ hô to lên rằng: Phải đem Xá lợi của đức Từ phụ
ra chia cho chúng ta. Nếu không thì hãy đem binh ra chiến đấu với chúng ta.
Ðức vua Malla xứ Kusinàrà cũng chẳng
chịu nhường liền đưa quân lên mặt thành để giữ thành, liền cho quân
nhà hô lên rằng: Ðức Từ Phụ đã nhập diệt trong xứ của chúng ta,
chúng ta không thể chia Xá lợi cho các ngươi. Các ngươi nên biết rằng:
Chúng ta không có đưa sứ thần đi rước đức Thế Tôn về đây, tự ý
Ngài ngự đến, rồi Ngài cho gọi chúng ta đến hầu và dạy rằng: Ngài
nhập diệt trong xứ Kusinàrà. Hơn nữa ngọc quí tự nhiên có trong xứ của
quí Ngài thì quí Ngài cũng chẳng hề chia cho chúng ta. Tất cả các thứ ngọc
trong tam giới nầy không có thứ ngọc nào quí bằng ngọc Xá lợi và
chính chúng ta được ngọc quí như vầy thì làm sao chia cho quí vị được.
Không phải chỉ có quí vị ăn cơm bú sữa mẹ cha mới lớn. Chúng ta cũng
như quí vị, thì chúng ta nào sợ quí vị đâu?
Một bên đòi và một bên không chịu
trao, hai bên giàng binh ra, tình hình thật căng thẳng, chỉ còn chực nổ
bùng lên thôi. Theo con mắt người thời ấy nếu trận giặc nổ bùng thì
chiến thắng sẽ ngã về người thành Kusinàrà. Có câu hỏi: Vì sao? Ðáp:
Vì lúc ấy có nhiều chư Thiên có oai lực như Thiên Vương Ðế Thích ngự
nơi ấy để cúng dường Xá lợi. Chắc các Ngài sẽ về phe Kusinàrà để
chiến với bảy xứ kia. Nên phe Kusinàrà chắc thắng.
Khi ấy trong xứ Kusinàrà có một vị
Bà la môn là vị Trưởng lão mà ai ai cũng kính trọng nể nang vì ông là vị
giáo sư lừng danh, ngoài ra còn có đệ tử ở các xứ đến thọ giáo với
ông nên ngoài nước ông cũng vẫn có tên tuổi lớn. Ông tên là Dona , mà
ông cũng là một vị Quốc sư của xứ Kusinàrà. Khi ông thấy trận giặc
sắp nổ bùng chỉ vì Xá lợi, nên ông nghĩ bụng rằng: Ta nên ngăn các nước
nầy lại không nên để có sự giết hại nhau chỉ vì Xá lợi Phật.
Không nên để có giặc giả nơi Phật nhập diệt. Ta phải đứng ra phân xử
việc nầy. Nghĩ xong ông liền lên mặt thành kêu hai bên nên ngưng để lại
nghe lời ông giải bày, nhưng không ai chịu nghe. Ðến lần thứ ba có nhiều
người nói: Tiếng ai hình như tiếng của thầy Bà la môn Dona. Liền truyền
hãy yên lặng để nghe lời thầy Dona .
Khi yên lặng, Ông Dona mới nói rằng:
Hỡi nầy quí vị, hãy lặng vài giây để nghe lời của tôi đây. Ðức Ðại
Từ phụ là đấng Ðại Từ Bi, Ngài thường dạy không nên sát sanh mặc dầu
là con kiến, và Ngài hằng dạy chúng ta pháp nhẫn nại. Vậy quí vị có
nên vì Xá lợi của đấng Từ Bi trọn đời lo dạy chúng sanh bỏ khí cụ,
oai quyền, thương yêu nhau mà thành ra một sát kiếp chăng? Hỡi nầy quí vị,
xin quí vị nên nhẫn nại đè nén lòng sân hận và nhân nhượng nhau. Tôi
sẽ điều đình chia Xá lợi ra làm tám phần cho tám vị Hoàng đế đều
nhau, để quí vị thỉnh đem về lập phù đồ để dân chúng và tín đồ
cúng dường.
Các nhà vua nghe vậy đều vâng lời
ưng thuận theo lời ông dạy, và đồng nói: Vậy xin Quốc sư hãy đứng ra
chia cho đồng làm tám phần để chúng tôi khỏi phải tranh giành nhau.
Ông Bà la môn Dona dạy hãy mở cửa
thành thỉnh tám vị Quốc vương vào thành. Khi tám vị Quốc vương vào an
tọa xong, ông dạy đem cái hòm đựng Xá lợi ra mở trước mặt mọi người
đông đủ. Khi tháp đựng Xá lợi được mở ra, mọi người đều chiêm
ngưỡng lễ bái rất thành kính như trước kim thân đức Thế Tôn còn tại
thế. Hào quang sáu màu chiếu sáng làm cho tám vị Quốc vương dòng hoàng tộc
và các vị khanh tướng có mặt tại nơi ấy lấy làm lạ và càng buồn khổ
thêm. Các vị than rằng: Ðức Thế Tôn ơi, trước đây chúng tôi được
chiêm ngưỡng kim thân Ngài có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi tướng
phụ hào quang sáu màu chiếu sáng. Nay chỉ còn thấy đức Xá lợi của
Ngài. Ðức Xá lợi ấy còn là những hột vàng, thật ra Ngài không nên vội
bỏ chúng tôi mà nhập diệt.
Ông Bà la môn Dona thấy chư vị Quốc
vương bận than khóc như vậy ông lẹ tay lượm lấy đức Xá lợi là răng
trên nhét vào đầu tóc của mình. Rồi ông mới chuẩn bị chia ra làm tám
phần đồng nhau. Ðức Xá lợi có cả thảy là mười sáu cân, chia ra tám
nước mỗi nước được hai cân. Khi chia xong Thiên vương Ðế Thích thấy
thiếu một cái răng nhọn hàm trên, Ngài lấy làm lạ nghĩ: Ai đánh cắp
cái răng nầy. Ngài thấy rõ cái răng ấy trên đầu tóc của ông Dona bằng
Thiên nhãn. Ông mới nghĩ: Ta nên nhận lấy cái răng nầy đem về lập tháp
thờ trên cõi Ðạo Lợi để chư Thiên cùng cúng dường. Ngài liền nhận
lấy đức Xá lợi ấy. Ông Bà la môn không hay biết chi hết đinh ninh rằng:
Răng ấy vẫn còn. Sau khi chia xong ông Dona coi lại trên đầu tóc thì đức
Xá lợi đã biến mất. Ông lấy làm tức giận nhưng không dám dỉ hơi, và
cũng lấy làm lạ nhứt định người thời ấy không ai dám mó vào đầu
ông. Ông chỉ ôm lấy sự uất ức thôi, không dám hỏi ai vì sợ các vị
Quốc vương vấn nạn. Ông liền nghĩ đến cái cân vàng để đem về lập
tháp thờ. Ông liền nói: Tâu chư Quốc vương, nay sự chia phân đã xong,
xin quí vị cho già nầy thỉnh lấy cái cân vàng đức chia Xá lợi về lập
tháp cúng dường. Tất cả chư Quốc vương có mặt đồng tán thành việc
ấy vì nhận thấy ông có công với việc chia Xá lợi.
Ðức Ðế Thích được đức Xá lợi
là răng nhọn liền đem về lập tháp thờ ở cõi trời Ðạo Lợi.
Khi ấy có một vị Quốc vương ở
xứ Moriya gần Pipaphalivana hay tin đức Thế Tôn nhập diệt, cũng đưa sứ
thần đến xin thỉnh Xá lợi về cúng dường. Nhưng khi đến cuộc chia Xá
lợi đã xong xuôi rồi, đức vua xứ Moriya lấy làm thất vọng. Thấy vậy
đức vua xứ Kusinàrà mới nói rằng: Ðức Xá lợi đã chia xong rồi, nay
Ðại vương đến trễ. Vậy Ðại vương nên phụng thỉnh tro nầy về lập
tháp cúng dường cũng quí vậy. Ðức vua Moriya lấy làm vui mừng thỉnh lấy
tro ấy về lập tháp thờ.
Từ Kusinàrà đến Vương Xá thành
đường xa một trăm hai mươi lăm do tuần (hai trăm cây số ngàn thời bấy
giờ). Ðức vua A Xà Thế muốn làm lễ rước đức Xá lợi cho thật long
trọng. Ngài ra lịnh cho dân chúng phải dọn đường cho bằng. Hai bên đường
phải trồng cây trải hoa và treo cờ phướn cho mát trời dọn như hội chợ
quân binh phải được cấp phát đầy đủ lương thực và tiện nghi, mỗi
nơi nghỉ chân phải làm rạp cho thật đẹp để an tọa đức Xá lợi.
Ngài truyền làm một cái tháp nhỏ
bằng vàng để an vị đức Xá lợi. Khi đưa đi Ngài để Xá lợi trên
long xa có lọng vàng có phướn che thật là trọng thể. Trước ấy Ngài
cho dân chúng hay phải tựu đến Vương Xá thành cho đông đủ để tiếp
rước và làm lễ cúng dường cho long trọng. Ðức vua hằng truyền cho ngưng
long xa lại nơi nào có hoa nở, quan quân và dân chúng bẻ hoa cúng dường
cho đức Xá lợi. Ngài dự trù phải đi như vậy bảy năm mới đến
Vương Xá thành.
Khi ấy có những người ngoại đạo
và tà kiến hội nhau lại bàn rằng: Kể từ Ngài Ðại Sa môn Cồ Ðàm chết
đến nay. Ðức vua A Xà Thế buộc chúng ta làm lễ nầy lễ nọ làm cho việc
làm ăn đình trệ. Thật là làm khó chúng ta quá.
Trái lại các người chánh kiến
và các vị Thánh nhơn mới tỏ ra hài lòng và không than van gì hết. Chư Thánh
Tăng biết người đời phàn nàn việc ấy nên mới hội nhau lại bàn phải
làm sao cho đức vua phải về mau đừng làm cho dân chúng than van oán trách.
Các Ngài chỉ thấy có Thiên Vương Ðế Thích mới giúp cho các Ngài được,
không phải các Ngài không có phương thế chi, nhưng việc làm nầy phải
là việc của một vị Hộ pháp là đức Thiên Vương Ðế Thích.
Chư Ðại Ðức liền đến cõi Ðạo
Lợi cho đức Ðế Thích biết những lời oán than của dân chúng, và sự
thật làm vậy dân chúng không làm việc gia đình được cũng là một việc
không nên làm khổ kẻ khác mặc dầu là làm lành nhưng người không
thích. Phật giáo không có ép người hành theo, hay dùng uy quyền bắt buộc.
Ðức Ðế Thích nghe vậy liền bạch với các Ngài rằng: Bạch chư Ðại
Ðức, trong thế gian hiện nay không có người nào có đức tin với Phật bảo
bằng đức vua A Xà Thế. Vì vậy nên, nếu trẫm đến trình bày chuyện nầy
tức nhiên Ngài sẽ không bao giờ hưởng ứng. Trẫm chỉ có phương pháp
là trẫm phái cho chư Thiên hóaoá ra binh ma tướng quỉ để đe dọa, và
phát ra những tiếng rùng rợn, và làm cho quân binh và những kẻ đưa đón
bịnh hoạn để chư Ðại Ðức có dịp vào trình bày cho Ngài biết rằng:
Bọn Ma vương khuấy phá, vậy Ðại vương nên về đến hoàng thành càng
mau càng hay.
Ðức Ðế Thích liền thực hành
theo kế hoạch đã định, và chư Ðại Ðức vào cho đức vua A Xà Thế biết
việc ấy. Nên Ngài đưa Xá lợi về đến Vương Xá thành chỉ mất bảy
ngày thôi. Ngài xuất của kho ra làm lễ cúng dường thật là trọng thể.
Bảy vị Quốc vương kia cũng đồng
làm lễ cúng dường rất long trọng và làm phù đồ thờ phượng thật là
chu đáo, và kính cẩn.
Ông Bà la môn Dona tạo ra một cái
tháp gần thành Kusinàrà để thờ cái cân đức Xá lợi khi chia cho tám vị
Quốc vương.
Ðức vua Moriya thỉnh tro và than về
lập tháp thờ ở xứ Pipàlivana .
Những vật dụng của đức Thế Tôn
thường dùng thiện nam tín nữ thỉnh về thờ.
Tổng cộng có tám tháp thờ đức
Xá lợi. Một tháp thờ cân vàng phân chia đức Xá lợi. Một tháp thờ tro
và than. Cả thảy là mười tháp.
Ngoài ra còn có một tháp vĩ đại
trên cõi trời Ðạo Lợi thờ đức Xá lợi là răng nhọn hàm trên bên tay
phải. Một tháp thờ đức Xá lợi răng nhọn hàm dưới bên tay phải ở tại
Tích Lan, hiện nay vẫn còn tháp ấy tại Tích Lan.
Một tháp thờ đức Xá lợi là răng
nhọn hàm trên bên tay trái. Một tháp ở cõi Long vương thờ đức Xá lợi
là răng nhọn tay trái hàm dưới.
Một tháp ở cõi trời Phạm Thiên
thờ y phục của Ngài bận khi ra khỏi thành Ca Tỳ La Vệ xuất gia và xương
vai bên trái của đức Thế Tôn, tháp nầy bề cao mười hai do tuần.
Có ba mươi sáu đức Xá lợi là răng
cùng hai mươi móng tay và móng chơn có nhiều vị chư Thiên đem đi lập tháp
thờ nhiều nơi.
Còn những vật mà đức Thế Tôn
thường dùng khi còn tại tiền là:
1) Dây lưng thờ ở xứ Pàtatiputta .
2) Y tắm mưa thờ ở xứ Pancala .
3) Tọa cụ thờ ở xứ Kosalaràja .
4) Tăm xỉa răng thờ ở xứ Mithilà .
5) Tấm vải lọc nước thờ ở xứ Vedeharasa .
6) Dao cạo và ống đựng kim thờ ở xứ Indapattha .
7) Ðôi dép thờ ở làng Ussibrahma .
8) Ngọa cụ thờ ở xứ Makuta .
9) Tam y thờ ở xứ Bhaddharasa .
10) Bát thờ ở xứ Pàtaliputta hiện nay ở Lăng ka.
11) Camakhandhaka (Tấm da lót ngồi) ở xứ Kuraràja và mười hai sợi tóc của
đức Thế Tôn ban cho hai người lái buôn khi vừa thành đạo hiện nay thờ
ở Miến Ðiện tại thủ đô Rangoon .
Lời Tựa | 1 | 2 | 3
| 4 | 5
| 6 | 7
| 8 | 9
| 10 | 11
| 12 | 13a
| 13b | 13c
| 14 | 15
| 16