- So
sánh kinh Trung A-hàm chữ Hán và kinh Trung Bộ chữ Pàli
C. TUỆ
Bàn về tuệ uẩn trước hết chúng
ta đề cập nền tảng của tuệ, kế đến là bảy thanh tịnh, hai giải
thoát và cuối cùng là bốn đạo bốn quả, bao hàm lậu tận.
1. Nền tảng của tuệ
a) Uẩn:
Những pháp này được nói trong
NC19, 24, 31,70, 77, 95, 98.
Trong NC31, năm uẩn được đề cập
như sau:
C210: (vii, 83b, 11-13): "Đức Thế
Tôn nói đến năm thạnh uẩn trong thân, sắc thạnh uẩn, thọ, tưởng, hành
và thức thạnh uẩn."
P44: Tương tự.
C: năm thạnh uẩn = P: năm thủ uẩn.
Ở đây bản C dùng chữ "thạnh" có nghĩa là tăng trưởng, thay cho
chữ thủ ở bản P. Những dịch giả hậu kỳ thích dùng chữ thủ
nghĩa là bám víu, và như vậy dịch đúng nghĩa danh từ Pàli upàdàna.
Trong NC24, tính lệ thuộc lẫn
nhau (duyên khởi) của năm uẩn được bàn chi tiết như sau:
C30: (v,41a, 20): "Này chư hiền,
cũng như do gỗ, đòn tay, bùn, đất, nước, cỏ, vây quanh và che phủ mà
trong khoảng trống xuất hiện một cái được biết là nhà. Chư hiền nên
biết thân này cũng vậy. Do gân, xương, da, thịt, máu vây quanh và che phủ
mà trong khoảng trống xuất hiện cái được gọi là một thân xác. Này chư
hiền, nếu con mắt bị hoại, nếu sắc không được ánh sáng phản chiếu
và nếu không có ý tưởng, thì nhãn thức không sanh. Này chư hiền, nếu nội
nhãn căn không bị hoại, nếu ngoại sắc được phản chiếu nhờ ánh
sáng và nếu có ý tưởng, khi ấy nhãn thức sanh. Này chư hiền, nội nhãn,
ngoại sắc, tất cả những thứ này thuộc về sắc uẩn. Nếu có cảm thọ,
chúng thuộc về thọ uẩn. Nếu có nhận thức, chúng thuộc về tưởng uẩn.
Nếu có tư duy hay ý hành, chúng thuộc về hành uẩn. Nếu có ý thức,
chúng thuộc về thức uẩn. Như vậy, chư hiền, hãy tư duy về sự tập hợp,
sự nhóm lại cùng nhau của các uẩn. Này chư hiền, đức Thế Tôn cũng đã
dạy điều ấy. Khi chư hiền thấy được duyên sinh, là chư hiền thấy pháp;
khi chư hiền thấy pháp, là chư hiền thấy lý duyên sinh. Vì sao, này chư
hiền, đức Thế Tôn đã dạy rằng năm thạnh uẩn được sinh ra do các
điều kiện: sắc thạnh uẩn, thọ, tưởng, hành, thức thạnh uẩn."
(Cũng vậy với các giác quan khác).
P28:(i, 190, 15-37;191, 1-34) : Tương
tự, nhưng nhiều chi tiết hơn.
C: do gỗ, đòn tay, bùn, đất, cỏ
= P : do gỗ, dây leo, cỏ và đất sét. Khi nói về thân thể, bản P bỏ: do
máu. Trong khi bản C chỉ để hai trường hợp - một trường hợp trong đó
nhãn thức không khởi lên do thiếu điều kiện thích hợp; và một trường
hợp trong đó nhãn thức khởi lên do sự hiện hữu một số điều kiện
thích hợp, bản P kể đến ba trường hợp. Trường hợp sau đây thiếu
trong bản C: "nếu nội nhãn căn không bị hoại, nếu ngoại sắc đi vào
chú ý, nhưng không có sự đáp ứng một cách thích hợp thì không có thức
tương ứng."
C: Nếu nội nhãn căn bị hoại, nếu
ngoại sắc không được ánh sáng phản chiếu và không có tưởng, thì
nhãn thức không sanh khởi = P: Nếu nội nhãn căn không bị hoại, nếu ngoại
sắc không đi vào chú ý, không có sự ráp lại thích hợp, thì không có sự
xuất hiện của thức tương ứng. Ở đây bản P đề cập tất cả năm uẩn
với độ dài bằng nhau, trong khi bản C bỏ qua ba uẩn giữa. Bản C dùng chữ
tư thay cho hành.
Trong NC19, năm uẩn là đề mục
thiền quán.
C200: (vii, 65b,13-19): "Lại nữa
có sáu kiến căn bản. Gì là sáu? 1) Bất cứ sắc pháp nào thuộc quá khứ,
vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, tinh hay thô, đẹp hay xấu, xa hay gần,
chúng phải được chân chính quán sát với trí tuệ rằng: 'Đây không phải
là trí tuệ của tôi, tôi không là cái này, cái này không là tự ngã'; 2)
Bất cứ thọ nào; 3) Bất cứ tưởng nào; 4) Bất cứ quan điểm nào rằng:
'Chúng không thuộc về tôi, tôi không sở hữu chúng, chúng sẽ không hiện
hữu và tôi cũng sẽ không hiện hữu', tất cả đều phải được quán
sát như thật với trí tuệ : 'Đây không phải là tôi, tôi không phải là
cái này, cái này không phải là tự ngã'; 5) Tất cả những gì được thấy,
được nghe, được nhận thức, được biết, bất cứ cái gì được tư
duy, được ý biết đến, từ đời này đến đời kia, từ đời kia đến
đời này, tất cả đều phải được chân chánh quán sát với trí tuệ rằng
chúng không phải là của tôi, tôi không phải thuộc về chúng, chúng không
phải là tự ngã; 6) Bất cứ gì thuộc kiến chấp này 'đây là ngã, đây
là thế giới, đây là tự ngã, ta sẽ trở thành trong đời sau, trường tồn,
không biến đổi, thường hằng, không bị hủy hoại', tất cả đều phải
được chân chánh quán sát với trí tuệ như sau: "Chúng không phải của
tôi, tôi không thuộc về chúng, chúng không phải là tự ngã' ".
P22:(i, 138, 36-37; 139, 1-10): Không
giống; bản P không nói đến sáu quan điểm mà nói năm uẩn sắc, thọ,
tưởng, hành, thức, tất cả những pháp này cần phải quán sát là:
"không phải của tôi, tôi không thuộc về chúng, chúng không phải là
tự ngã của tôi." Ở đây chúng ta để ý rằng bản C dịch từ ngữ
Àtman là linh hồn, trong khi bản P nói là tự ngã.
b) 12 xứ
hay phạm vi của giác quan:
12 xứ được đề cập trong NC
72,87,91, 98.
Trong NC72, chúng được đề cập
như sau:
C181: (vii, 32a, 5-7): "Này A Nan,
nếu một Tỳ-kheo thấy như thật 12 xứ, nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, thanh
xứ, tỷ xứ, hương xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ,
pháp xứ. Này A Nan, khi thấy như thật 12 xứ, ấy là vị Tỳ-kheo biết rõ
12 xứ."
P115: (iii, 63, 18-23): Tương tự,
cũng đề cập đến 12 xứ.
C: người biết như thật = P: khi
vị ấy biết và thấy 12 xứ này.
C: vị Tỳ-kheo như vậy biết được
12 xứ = P: khi ấy đủ để gọi rằng vị ấy thiện xảo về xứ.
c) Giới hay
các yếu tố:
Giới được đề cập dài trong
NC72, trong đó nhiều giới được phân tích và giải thích. Trong bản NC
này, bản C nói đến 13 cách phân chia giới:
- 18 giới: 1
cách phân chia,
- 6 giới : 3 cách phân chia,
- 4 giới : 1 cách phân chia ,
- 3 giới : 6 cách phân chia,
- 2 giới : 2 cách phân chia.
Bản P chỉ nói 6 cách phân chia về
giới:
- 18 giới: 1
cách phân chia,
- 6 giới: 3 cách phân chia,
- 3 giới : 1 cách phân chia,
- 2 giới: 1 cách phân chia.
Như vậy bản C nói đến tất cả
62 giới trong khi bản P chỉ nói 41 giới.
i) 18 giới:
C1 = P1:
C181: (vii,31b, 15-17) : "Có vị
Tỳ-kheo thấy được 18 giới đúng như thật. 18 giới là: mắt, sắc, nhãn
thức, tai, tiếng, nhĩ thức, mũi, mùi, tỷ thức, lưỡi, vị, thiệt thức,
thân, xúc, thân thức, ý, pháp, ý thức.
P115: (iii, 62, 10-18): Gần giống.
18 giới cũng vậy.
C: Người biết đúng như sự thật
= P : Khi vị ấy biết và thấy 18 giới này, thì đủ để gọi rằng vị
ấy thiện xảo về giới. Sự khác nhau này cũng được thấy ở các nhóm
giới kia.
ii) 6 giới:
C2 = P2:
C: (31b, 17): 6 giới là địa, thủy,
hỏa, phong, không và thức.
P: (62,21-25): Cũng vậy.
iii) 6 giới:
C3=P4:
C: (31b, 17-18): 6 giới là dục,
sân, hại, vô dục, vô sân, vô hại.
P: (62, 63): Cũng vậy, nhưng thứ tự
hơi khác: dục giới, ly dục giới, sân giới, vô sân giới, hại giới, vô
hại giới.
iv) 6 giới:
C4 = P3:
C: (31b, 18-19): 6 giới là lạc, khổ,
hỷ, ưu, xả và vô minh.
P: (62, 28-32): Cũng vậy.
v) 4 giới:
C5 = P: không có.
C: (31b, 19): 4 giới là thọ, tưởng,
hành và thức.
P : không có.
vi) 3 giới:
C6 = P5:
C: (31b, 19-20): 3giới là dục giới,
sắc giới và vô sắc giới.
P: (63, 6-9): Cũng vậy.
vii) 3 giới
: C7 = P: không có.
C: (31b, 20): 3 giới là sắc giới,
vô sắc giới và diệt định.
viii, ix, x,
xi) 3 giới:
C 8,9,10,11 = P: không có.
C: (32a,1-3): 3 giới là (thứ 8)
quá khứ, vị lai và hiện tại; (thứ 9) thù thắng, không thù thắng và
trung bình; (thứ 10) phước giới, phi phước giới, vô ký giới; (thứ 11)
thuộc hữu học, thuộc vô học, không thuộc hữu học hay vô học.
xii) 2 giới:
C12 = P: không có.
C: (32a, 3-4): Hữu lậu giới và
vô lậu giới.
xiii) 2 giới:
C13 = P6:
C: (32a, 4): Hữu vi giới và vô vi
giới.
P: (63, 12-15) : Cũng vậy.
Trong NC 94, có một đoạn dài đề
cập thiền định về sáu giới như sau:
i) Về địa
giới:
C162: (vii,5b, 7-10): "Có vị Tỳ-kheo
phân tích thân giới, nói rằng thân này có nội địa giới, nhận lấy mạng
sống. Nội địa giới này như sau: tóc, lông, móng, răng, da ngoài, da mỏng,
thịt, xương, gân, thận, tim, gan, phổi, lá lách, ruột già, bao tử, phân;
và các nội sắc khác tương tự với chúng, cứng, thuộc bên trong và có sự
sống. Đây gọi là nội địa giới. Bất cứ gì thuộc nội địa giới và
ngoại địa giới đều gọi là địa giới. Vi ấy quán địa giới "cái
này không phải là của tôi, tôi không phải cái này, cái này không phải
là tự ngã". Vị ấy quán địa giới với trí tuệ và biết nó như thật,
do vậy tâm vị ấy không bị mê lầm vì địa giới, không chấp thủ địa
giới."
P140: (iii, 240, 14-33): Cũng vậy. Về
địa giới cũng tương tự, nhưng định nghĩa hơi khác: Gì là địa giới?
Có nội địa giới và ngoại địa giới. Gì là nội địa giới? Bất cứ
gì cứng, thô, thuộc bên trong, thuộc cá nhân, liên hệ đến cá nhân, và
xuất phát từ đó. Kể về các nội giới cũng giống như vậy. Bản P thêm:
tủy xương, kilomakam và antagunam. Trong khi bản C kể da ngoài, da
trong, P chỉ nói taco.
C: Như vậy tâm vị ấy không bị
mê lầm vì địa giới, không chấp thủ địa giới = P: Như vậy vị ấy yểm
ly địa giới, tâm lọc sạch khỏi địa giới. Bản C phân loại tủy xương
thuộc về thủy giới.
ii) Về thủy
giới:
C: (5b, 10-13) : Được đề cập giống
như cách đề cập địa giới, thay đổi "bất cứ cái gì cứng" bằng
"bất cứ gì thuộc chất lỏng". Về những chất được phân loại
thuộc thủy giới như sau: não, nước mắt, mồ hôi, chất nhầy, đàm, mủ,
máu, mỡ, tủy xương, nước bọt, mật, nước tiểu.
P: (240, 34): Nhận xét như trên.
Ở đây danh từ àpogatam thay thế danh từ kakkhalam kharigatam. Bản
P khi kể thủy giới, bỏ: não, tủy xương (được để vào địa giới);
thêm: vasà, lasikà.
iii) Về hỏa
giới :
C: (5b, 13-16): Được đề cập giống
như ở phần điạ giới, thay thế "cái gì cứng" bằng "cái
gì nóng và ấm". Về những chất được liệt vào hỏa giới là: thân
nhiệt, hơi ấm của cơ thể, cảm giác bốc cháy của cơ thể, cái gì
nuôi duỡng cơ thể, cái tiêu hóa thức ăn uống.
P: (241, 12-22): Nhận xét như trên.
Ở đây danh từ tejogatam thay thế danh từ kakkhalam kharigatam. Những
chất được liệt vào hỏa đại là: cái gì được đốt cháy, hao mòn,
được tiêu thụ, cái gì qua đó người ta tiêu hóa được những gì đã
ăn, uống, nhai, nuốt.
iv) Về
phong giới:
C: (5b, 16-19): Cũng giống như ở
địa giới, thay "cái gì cứng" bằng "cái gì động". Về
những chất được liệt vào phong giới: gió trên, gió dưới, gió đi
ngang, gió xé, gió đá, gió không đường (vô đạo phong?), gió nơi chân
tay, hơi thở vô thở ra.
P: (241, 23-32): Nhận xét như trên.
Vàyogapam thay cho kakkhalam kharigatan. Về bản liệt kê các chất
được gọi là phong giới, bản P bỏ : gió bên hông, gió xé, gió đá, gió
vô đạo; nhưng thêm: gió lưng, gió ở bụng. C: gió ở tay chân = P: gió
xuyên qua tay chân.
v) Về
không giới:
C: (5b, 19-20): Ở đây "bất cứ
cái gì cứng" được thay bằng "bất cứ khoảng không nào ở trong
thân, không bị ngăn bởi thịt, da, xương, gân". Về các chất được
liệt vào không giới, gồm có: lỗ mắt, lỗ tai, lỗ mũi, lỗ miệng, lỗ
họng, qua đó thức ăn được nuốt, được tiêu hóa, ở đó chúng lưu lại
và đi xuống dưới.
P: (241, 33-34): Nhận xét như trên.
Ở đây danh từ àkàsagatam thay cho danh từ kakkhalam kharigatan. Về
các chất được liệt vào không giới, bản P bỏ: lỗ mắt, lỗ họng. Bản
này không những nói đến thức ăn, mà còn những gì được nhai, uống,
ăn, nếm.
vi) Về thức
giới:
Biết về thọ:
C: (6a, 3-13): "Khi vị Tỳ-kheo
biết như thật năm giới, vị ấy không bị chúng làm ô nhiễm, nhưng cái
được giải thoát là thức. Và vị ấy nhận biết cái gì? Vị ấy nhận
biết lạc thọ, khổ thọ, hỷ thọ, ưu thọ và xả. Do hưởng thụ lạc
thọ, vị ấy cảm nhận lạc thọ; khi cảm thọ lạc thọ vị ấy biết mình
đang cảm thọ một lạc thọ, rồi vị Tỳ-kheo phá hủy sự hưởng lạc mạnh
mẽ ấy; khi sự hưởng lạc mạnh mẽ ấy bị phá hủy, lạc thọ khởi
lên từ sự hưởng lạc mạnh mẽ ấy cũng bị phá hủy, chấm dứt; khi
ấy vị ấy biết rằng mình lắng dịu. Cũng vậy đối với bốn cảm thọ
khác. Bất cứ sự hưởng thụ mạnh mẽ nào vị ấy cảm nghiệm, vị ấy
tiếp nhận cảm thọ tương đương. Với sự phá hủy hưởng thụ mãnh liệt,
cảm thọ tương đương cũng được hủy diệt, vị ấy biết rằng cảm thọ
này tùy thuộc vào sự hưởng thụ mãnh liệt, có sự hưởng thọ mãnh liệt
là gốc rễ, có sự hưởng thọ mãnh liệt là nguồn gốc, từ hưởng thọ
mãnh liệt mà đến, có sự hưởng thọ mãnh liệt là cái đầu, tùy thuộc
vào hưởng thọ mãnh liệt để vận hành. Cũng như do sự cọ xát hai thanh
củi mà lửa phát xuất, và từ lửa một người cảm thọ hơi nóng; nhưng
khi hai thanh củi được dang ra thì lửa tắt, và với sự dập tắt của ngọn
lửa, hơi nóng cũng diệt và thanh củi trở lại mát mẻ."
P: (242, 13-14): Gần giống. Ở đây,
bản P nói thức còn lại là thuần tịnh và vị ấy biết được một điều
gì là nhờ thức này. Bản P chỉ nói đến ba tho,ï lạc, khổ và trung
tính. Sự đề cập các cảm thọ giống nhau trong hai bản, nhưng bản P bỏ
câu cuối cùng: "khi ấy vị ấy biết mình lắng dịu". Bản P cũng
bỏ: "bất cứ sự hưởng thụ mãnh liệt nào vị ấy cảm nghiệm....
vận hành". Về ví dụ, bản P chỉ nói hơi ấm và ánh sáng có được
do xúc chạm và cọ xát hai thanh củi; khi hai thanh củi được tách ra thì hơi
nóng chấm dứt, lắng dịu.
Về xả thọ:
C: (6a, 13-20): "Khi vị Tỳ-kheo
không bị ba cảm thọ làm ô nhiễm, thì vị ấy được giải thoát, và chỉ
có xả thọ rất thanh tịnh. Rồi vị Tỳ-kheo ấy nghĩ đến việc dùng xả
thọ thuần tịnh này tập trung vào Không vô biên xứ, và như vậy vị ấy
phát triển một tâm như vậy, y cứ vào đó, an trú trên nó, đứng vững
trên nó, ràng buộc với nó. Vị ấy nghĩ đến việc tập trung xả thọ
thuần tịnh này trên Thức vô biên xứ, trên Vô sở hữu xứ và trên Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, và như vậy vị ấy phát triển một tâm tùy thuộc vào
đó, an trú trên đó, đứng vững trên đó, ràng buộc vào đó, như một
người thợ vàng thiện xảo, dùng lửa để nấu vàng và tinh luyện nó,
làm cho vàng thật mỏng, đốt nó trong một cái lò, làm cho nó thuần tịnh,
dễ sử dụng, sáng chói, rồi với thứ vàng thuần tịnh, dễ sử dụng
và sáng chói ấy, người thợ vàng có thể làm thành bất cứ đồ trang sức
gì mình muốn, như dải lụa vàng để trang sức y phục mới, hay chiếc nhẫn,
chiếc vòng, chiếc kiềng đeo cổ, chuỗi ngọc. Khi ấy vị Tỳ-kheo nghĩ rằng,
xả thọ thuần tịnh này vì lệ thuộc vào Không vô biên xứ, nên là một
pháp hữu vi. Vì là một pháp hữu vi, nó phải chịu vô thường và do đó,
khổ. Với điều này, vị ấy biết khổ, sau khi biết khổ, vị ấy không
tập trung xả thọ này vào Không vô biên xứ. Cũng vậy với ba xứ kia. Sau
khi biết cả bốn xứ này như thật với trí tuệ, sau khi không tập trung
vào đó, khi ấy vị Tỳ-kheo biết rằng, xả ấy không còn là một pháp hữu
vi, vị ấy không còn nghĩ đến việc trở thành hữu hay phi hữu. Khi cảm
thọ một cảm thọ được giới hạn bởi thân, vị ấy biết rằng mình
đang cảm thọ một cảm thọ giới hạn bởi thân, khi cảm thọ một cảm
thọ giới hạn bởi thọ mạng (nguyên lý sống), vị ấy biết mình đang cảm
thọ một cảm thọ giới hạn bởi thọ mạng. Vị ấy biết rằng, khi thân
hoại mạng chung, tất cả những cảm thọ của vị ấy đi đến chấm dứt,
diệt. Vị ấy biết chúng trở nên rất mát mẻ, như một ngọn đèn cháy
nhờ vào bấc và dầu, nếu không ai cung cấp thêm dầu, không ai nối thêm
bấc, thì với sự tiêu hủy nhiên liệu dầu và bấc cũ, ngọn đèn sẽ tự
tắt."
P: (243, 11-32): Ở đây bản P đặt
ví dụ về người thợ vàng trước với nhiều chi tiết hơn, mô tả người
thợ vàng hay đệ tử ông ta sửa soạn lò, đốt bệ, thỉnh thoảng thụt
bệ, rưới nước, canh chừng cẩn thận, và do đó vàng trở thành thuần tịnh,
dễ sử dụng, không còn quặng, sáng chói, sẵn sàng để làm nhẫn, đồ
đeo tai, đeo cổ, hay tràng hoa bằng vàng. Như vậy xả này được so sánh với
một thứ vàng như thế. Ở đây cũng thế, vị Tỳ-kheo nghĩ đến việc tập
trung xả này vào bốn vô sắc giới, xét xem xả này được nâng đỡ, được
nuôi dưỡng bằng sự tập trung vào bốn vô sắc giới này có trú nơi ông
lâu dài không. Vị ấy hiểu rằng khi làm như vậy, xả này sẽ là một
pháp hữu vi. Bởi thế vị ấy không xây dựng, không nghĩ đến việc trở
thành hay không trở thành, không bám víu bất cứ gì trên đời, vì không
chấp thủ, vị ấy không bị dao động; do không dao động, vị ấy chứng
đạt sự an tịnh. Vị ấy biết sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc
cần làm đã làm xong; không còn hiện hữu trở lại. Khi vị ấy cảm thọ
một lạc thọ hay bất lạc thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết
rằng nó vô thường, không nên bám víu, không phải là một đối tượng
để hưởng thụ; như vậy vị ấy cảm nghiệm ba loại thọ này với xả.
Khi vị ấy cảm thọ về thân, vị ấy biết mình đang cảm thọ một cảm
thọ về thân, khi cảm thọ một cảm thọ về mạng, vị ấy biết mình
đang cảm thọ một cảm thọ về mạng. Vị ấy biết rằng sau khi thân hoại
mạng chung, tất cả những cảm thọ sẽ thành tịnh chỉ. Ví dụ về ngọn
đèn cũng gần giống. Ở đây bản C đặt sự chứng quả A-la-hán vào đoạn
sau.
d) Bốn thánh
đế:
Bốn thánh đế được đề cập
trong NC 16, 22, 24, 28, 30, 38, 95, 98.
Trong NC48, bốn chân lý được
định nghĩa như sau:
C153:(vi, 91b, 16-19): "Gì là
trí biết như thật về khổ? Sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, chết
là khổ, kết hợp với người mà ta ghét là khổ, ly tán với người mà
ta thương là khổ, không được những gì ta mong cầu là khổ; nói tóm lại
năm thạnh uẩn là khổ. Đây gọi là trí biết như thật về khổ. Gì là
trí biết về tập, thói quen đau khổ? Khát ái đưa đến tái sinh tương
lai, câu hữu với hỷ và tham, mong muốn có được hữu này hữu kia, đây
gọi là trí biết như thật về tập, về thói quen của đau khổ. Gì là
trí biết như thật về diệt khổ? Sự chấm dứt không dư tàn tham ái dẫn
đến tái sanh này, câu hữu với hỷ và tham, mong muốn có được hữu này
hữu kia, sự đoạn tận, hoàn toàn từ bỏ, không chấp thủ, sự dừng lại,
sự chấm dứt, đây gọi là trí biết như thật về diệt khổ. Gì là trí
biết như thật về con đường diệt khổ? Đây là Tám thánh đạo từ chánh
kiến cho đến chánh định, đây gọi là con đường đưa đến khổ diệt."
Ở đây bản P tương đương không
nói đến bốn chân lý cao cả, nhưng ta có thể so sánh đoạn C này với
đoạn P trong các kinh khác.
P141: (iii, 294, 9-13): Gần giống.
Kinh bỏ: "bịnh là khổ, kết hợp với người mà ta ghét là khổ, ly
tán với người mà ta thương là khổ". Kinh thêm "sầu, bi, khổ,
ưu, não là khổ".
C: 5 thạnh uẩn = P: 5 thủ uẩn.
P: (250, 32-34): Về nguyên nhân của
khổ, cũng vậy.
C: Sự thực hành, thói quen khổ =
P: khổ tập. Ở đây bản C dùng chữ "tập" với nghĩa tu tập, thói
quen, để dịch danh từ samudayo; nhưng những dịch giả về sau chọn
danh từ "tập" với nghĩa là tụ họp, nhóm lại để dịch samudayo.
C: mong có được hữu này, có
được hữu kia = P: tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, nghĩa là dục ái,
hữu ái và phi hữu ái.
P: (251,3-6): Về sự chấm dứt khổ,
cũng gần giống.
C: Sự diệt tận không dư tàn
khát ái này đưa đến hữu tương lai, câu hữu với hỷ và tham, mong có
được hữu này, có được hữu kia = P: Cũng gần giống nhưng bỏ các tĩnh
từ định tính cho chữ ái.
C: Sự đoạn tận, từ bỏ hoàn
toàn, không chấp thủ, dừng lại, chấm dứt= P: patinissaggo mutti anàlayo.
P: (251, 7-11): Về con đường đưa
đến diệt khổ, C bỏ "đưa đến", và nói vắn tắt tám thành phần
của bát chánh đạo, trong khi bản P kể đầy đủ cả tám.
Trong NC95, có một nghiên cứu tỷ
mỷ về tứ diệu đế đáng được phân tích chi tiết.
Thánh đế về khổ:
i) Sinh là khổ:
C31: (v,41b,20): Chân lý về khổ
được định nghĩa như sau: sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, kết
hợp với người mà ta ghét là khổ, biệt ly với người mà ta ưa là khổ,
không được điều ta mong cầu là khổ, nói tóm lại năm thạnh uẩn là khổ.
Do đâu mà nói rằng sinh là khổ? Những hữu tình thuộc các loại chúng
sinh được sinh ra, xuất hiện, thành hình, có năm uẩn, có mạng, đây gọi
là sinh. Sinh là khổ như thế nào? Khi hữu tình sinh ra, thì thân thể và
trái tim nhận hơi nóng lan rộng, nhận cảm giác, nhận cảm giác lan rộng;
thân thể, trái tim, thân thể và trái tim, nhận sự tăng trưởng, hơi nóng,
sự xáo trộn, sầu, ưu, nhận sự tăng trưởng lan rộn, hơi nóng... sầu,
ưu lan rộng, nhận cảm thọ, cảm thọ lan rộng.
P141: (iii, 249, 9-17): Tương tự
nhưng giản dị hơn nhiều. Bản này bỏ: "bệnh là khổ, kết hợp với
những gì ta ghét là khổ, biệt ly với những gì ta ưa là khổ". Nó
thêm: "sầu, bi, khổ, ưu, não". Về định nghĩa sinh, cũng gần giống.
Bản P nói đến sự thụ thai, sự sinh ra, sự tái sinh, sự xuất hiện các
uẩn, và sự có ra các nội xứ. Bản P bỏ định nghĩa về "sinh là khổ
như thế nào".
ii) Già là khổ:
C:(42b, 6-10): Những hữu tình thuộc
đủ loại chúng sinh đều già, với tóc bạc, răng rụng, năng lực ngày một
yếu bớt, giảm sút, lưng còng, hai chân cong quẹo, thân thể nặng nề, hơi
thở đi lên, đi phải chống gậy, da nhăn như hột mè, các căn lụn bại và
vô dụng, da và dáng vẻ xấu xí. Đây là tuổi già. Tuổi già khổ như thế
nào? Cũng định nghĩa như ở sinh là khổ, đây nói đến già.
P: (249,18-21): Gần giống nhưng giản
dị hơn. Bản P nói, tuổi già, lụn bại, răng rụng, tóc hoa râm, da nhăn,
thọ mạng giảm, các căn hư hoại. Ở đây cũng bỏ định nghĩa về sự
đau khổ của tuổi già.
iii) Bịnh là khổ:
Bản P không có.
C: (42a, 10-14): Nhiều thứ bệnh
khác nhau được kể như sau: đau đầu, đau mắt, đau tai, đau mũi, đau mặt,
đau môi, đau răng, đau lưỡi, đau nóc họng, đau hầu, nấc cụt, phong suyễn,
ho, mửa, kiết lÿ, kích ngất, ung thư, bướu, kinh ôn, xích đởm, sốt, mệt
lả, ......., nhọt, đau ruột. Về sự bịnh là khổ, cũng giống như đoạn
trước.
iv) Chết là khổ:
C: (42a, 18-20): Chết là sự chấm
dứt của mạng căn, sự vô thường, sự chết, rã rời, chấm dứt, diệt
tận, hủy hoại của thọ mạng, sự đóng lại mạng căn của những hữu
tình thuộc đủ loại chúng sinh, đây gọi là chết. Về sự chết là khổ,
cũng như trong đoạn trước.
P: (249, 22-26): Cũng vậy. Đấy là
sự diệt mất, rơi rụng, tan vỡ, biến mất, chết chóc, quá vãng, công việc
của thời gian, sự tan rã của các uẩn, sự vứt bỏ thân xác. Ở đây bản
P bỏ định nghĩa về chết là khổ.
v) Kết với với những gì ta
ghét là khổ:
Bản P không có.
C: (42a, 18-20): Đây là sự kết hợp,
sự nhóm tụ lại sáu nội xứ mà ta không thích như mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý. Cũng thế với sáu ngoại xứ mà ta không ưa nhưng ta vẫn phải tiếp
xúc như cảm, nghĩ về, cảm nhận; cũng thế với sáu giới mà ta không
thích như địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức
giới. Về sự kết hợp với những gì ta ghét là khổ, cũng giống như những
đoạn trước, nhưng ở đây có nói đến cái khổ khi kết hợp với những
gì ta ghét.
vi) Ly tán với những gì ta
thích là khổ: P: không có.
C: (42b, 1-5): Cũng được đề cập
như trong đoạn cuối, nhưng ở đây những gì ta thích chính là sáu nội
ngoại xứ, sáu giới, nhưng ta phải chia ly với chúng, không thể kết hợp,
không thể tụ hội với chúng.
vii) Không được những gì ta
mong muốn là khổ:
C:(42b, 5-11): Hữu tình phải bị
sinh, không thể thoát khỏi sinh, và người ta mong cầu đừng bị sinh ra,
nhưng một mong cầu như thế không thể đạt được. Cũng tương tự, khi
người ta mong khỏi bị già, khỏi bị chết, khỏi phải sầu, bi, than
khóc, khi người ta chạm mặt khổ đau mà mong chuyển nó thành hạnh phúc
thì vô hiệu; khi người ta được hạnh phúc mà muốn kéo dài hạnh phúc
ấy mãi mãi cũng không được; cũng thế, khi người ta gặp những ý tưởng
bất hạnh và mong mỏi chuyển chúng thành những ý nghĩ vui; khi người ta gặp
những ý nghĩ hạnh phúc và mong chúng kéo dài mãi mãi cũng không được. Tất
cả những điều này không thể cầu mong được.
P: (250, 13-25): Gần giống. Những mong cầu đừng
bị sanh ra, bị già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não cũng được lập ngôn như
thế ở đây. Những mong cầu khác bị loại bỏ.
viii) Tóm lại năm thạnh uẩn là
khổ:
C: (42b, 11-13): Có các thạnh uẩn
là sắc, thọ, tưởng, hành, thức thạnh uẩn; tóm lại năm thạnh uẩn này
là khổ. Vậy thánh đế về khổ này đã hiện hữu trong quá khứ, đang hiện
hữu trong hiện tại và sẽ hiện hữu trong tương lai; đây là sự thật như
chân, không phải sự thật dối trá, không rời xa thực tại, mà các bậc
thánh đã đạt đến, đã thấy, biết, liễu tri, chứng đạt, hoàn toàn chứng
ngộ và chân chính chứng ngộ, cho nên được gọi là thánh đế về khổ.
P: (250, 26-31): Gần giống, nhưng bỏ
phần cuối: Như vậy thánh đế về khổ này đã hiện hữu trong quá khứ
... vì thế đây gọi là khổ thánh đế.
Nhận xét: Sự nhấn mạnh
hiện hữu của thánh đế về khổ trong quá khứ, hiện tại, vị lai trong
bản C rất quan trọng. Nó dùng để giải thích lý thuyết "tất cả đều
có" của bộ phái Nhất thiết hữu, chủ trương hiện hữu của năm pháp
trong hình thái vi tế nhất vào tất cả các thời quá khứ, hiện tại, vị
lai. Sự loại bỏ đoạn này trong bản P có ý nghĩa, vì nó hiển thị rằng
Thượng tọa bộ phủ nhận một hiện hữu như thế.
ix) Sầu, bi, khổ, ưu, não là
khổ:
(Bản C không có).
P: (249, 27-30): Soko, sầu: Khi
người ta gặp một loại tai biến này hay khác, vài nỗi khổ này hay khác,
người ta buồn sầu, ở trong trạng thái sầu khổ, bị sầu khổ ở nội
tâm, bên trong bị đau đớn mãnh liệt.
P: (249,31-33): Paridevo, bi :
Khi gặp một tai biến này hay khác, một loại khổ đau này hay khác, người
ta rên rỉ, khóc lóc, ở trong tình trạng rên rỉ, khóc lóc, bị rơi vào
rên rỉ khóc lóc.
P: (250, 3-5): Dukkham, khổ: Đây
là nỗi khổ về vật lý, nỗi đau đớn thể xác, đau đớn, khổ vật lý
và đau thể xác do sự xúc chạm bằng thân thể.
P: (250, 6-8): Domanassam, ưu:
Cũng như trên, nhưng ở đây là nỗi khổ về tinh thần, nỗi đau tinh thần
chứ không phải nỗi đau khổ về vật lý, thân xác.
P: (250, 9-12): Upàyàso, não:
Khi gặp một vài loại tai biến nào đó, một vài loại khổ đau nào đó,
người ta thất vọng, rầu rỉ, ở trong tình trạng tuyệt vọng, trong tình
trạng rầu rỉ.
Thánh đế về nguồn gốc khổ:
C:(42b, 13-20): Gì là thánh đế về
sự luyện tập khổ? Hữu tình thật sự có nỗi khao khát đối với các nội
xứ, khao khác chúng, bám víu chúng, bị chúng làm ô nhiễm, chấp thủ
chúng, đây gọi là sự luyện tập, thực hành đau khổ. Vì đệ tử đa
văn biết về tri kiến ấy, nhận thức một cái thấy như vậy, hiểu và
chứng ngộ một pháp như vậy, đấy là thánh đế về sự thực hành khổ.
Vị ấy biết về cái gì? Vị ấy biết rằng, nếu có sự tham cầu vợ
con, tôi tớ, nô lệ, quyến thuộc, ruộng, đất, nhà, cửa hàng, các tài sản
bán buôn, thương mại mậu dịch, nếu vị ấy có sự tham đắm, ràng buộc
với chúng, thì vị ấy sẽ bị chúng làm ô nhiễm, chấp thủ chúng, đây
gọi là sự tập tành, và vị ấy biết thánh đế về tham ái, sự tập
tành khổ. Cũng vậy với các ngoại xứ mà người ta tiếp xúc, cảm giác,
thọ nhận, suy tư, tham ái; cũng vậy với sáu giới địa, thủy, hỏa,
phong, không, thức. Về định nghĩa của đế và thánh, cũng như trong trường
hợp đầu.
P: (250, 32-34): Không hẳn giống. Bản
P nhắc đến cùng một định nghĩa như đã thấy ở trên: "Bất cứ
khát ái nào đưa đến tái sanh, liên hệ đến hỷ và tham, tìm cầu khoái
lạc chỗ này chỗ kia, nghĩa là dục ái, hữu ái, phi hữu ái". Ở đây
cũng thế, bản P bỏ định nghĩa về đế và thánh.
Thánh đế về sự diệt khổ:
C: (43a,19): Gì là thánh đế về sự
diệt khổ? Hữu tình thật sự khát ái đối với sáu nội xứ mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý. Nếu họ thoát khỏi chúng, không bị chúng làm ô nhiễm,
không chấp thủ chúng, diệt tận chúng, từ bỏ chúng, vứt chúng đi, không
ham muốn, ngừng lại, chấm dứt, không cần chúng, thì đây gọi là sự diệt
khổ. Vị thánh đệ tử đa văn biết về một tri kiến như vậy, nhận thức
một quan điểm như vậy, hiểu và thực chứng một pháp như vậy, đấy là
thánh đế về sự diệt ái, sự chấm dứt khổ đau. Vị ấy biết về gì?
Vị ấy biết rằng nếu không có tham ái vợ con, tôi tớ, nô lệ, quyến
thuộc, ruộng đồng, đất đai, nhà cửa, hàng quán, tài sản bán mua,
không có tham kinh doanh công việc, nếu vị ấy thoát khỏi chúng, không bị
chúng làm ô nhiễm, không chấp thủ chúng, đoạn tận, từ bỏ, vứt chúng
đi, không ham muốn, chấm dứt, dừng lại, không có chúng, đây gọi là sự
chấm dứt khổ, và vị ấy biết thánh đế về sự chấm dứt khổ. Cũng
vậy với ngoại xứ, mà người ta tiếp xúc, cảm nhận, thấy, nghĩ đến,
khao khát sáu giới địa, thủy, hỏa, phong, không, thức. Ở đây bản C cũng
lặp lại định nghĩa về đế và thánh.
P: (251, 3-6): Không giống hẳn. Định
nghĩa như sau: Bất cứ sự chấm dứt nào về khát ái chấp thủ còn lại,
sự từ bỏ nó, xua đuổi nó, giải thoát khỏi nó, độc lập với nó, đây
gọi là sự chấm dứt khổ.
Thánh đế về con đường
đưa đến diệt khổ:
Ở đây nói đến thánh đạo tám
ngành như đã nói ở trên.
e) Duyên
sinh:
Pháp này được đề cập trong NC
9, 24, 27, 72, 98. Trong NC98, duyên sinh được đề cập như sau:
C86: (vi, 2b, 17-20): "Này A Nan,
trước đây tôi đã nói cho ông về duyên khởi và các pháp khởi lên do
duyên. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này
sinh thì cái kia sinh, cái này không sinh thì cái kia không sinh, cái này diệt
thì cái kia diệt. Tùy thuộc vào vô minh là các hành, tùy thuộc vào hành
là thức; tùy thuộc vào thức là danh sắc, tùy thuộc vào danh sắc là sáu
xứ, tùy thuộc vào sáu xứ là sáu hưởng thụ mạnh mẽ, tùy thuộc vào
sáu hưởng thụ mạnh mẽ là thọ, tùy thuộc vào thọ là ái, tùy thuộc
vào ái là thủ, tùy thuộc vào thủ là hữu, tùy thuộc vào hữu là sinh,
tùy thuộc vào sinh là già chết. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt
thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu xứ
diệt, sáu xứ diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt
thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt
thì sinh diệt, sinh diệt thì già chết diệt."
P115:(iii, 63,24-32): Gần giống. C:
nếu cái này có ... thì cái kia diệt = P: imasmim sati, idam hoti; imass
uppàdà idamuppajjati; imasmim asati, idam na hoti; imassa nirodhà idam nirujjhati.
(Cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh; cái này không thì
kia không, cái này diệt thì kia diệt). Cũng gần giống như bản C nhưng thứ
tự hơi khác, và bỏ bớt: nếu cái này không sinh thì cái kia không sinh.
C: hưởng thụ mạnh mẽ = P: xúc
- phasso; sparsa có nghĩa là hưởng thụ, sờ chạm, cho nên ở đây bản
C dịch là hưởng thụ mạnh mẽ.
C: thọ (nhận) = P: upàdàna, các
nhà phiên dịch về sau dịch thành thủ nghĩa là cầm nắm, bám víu.
C: tùy thuộc vào sanh là già chết
= P: do duyên sinh, có già, chết, sầu bi, khổ, ưu, não. Bản P thêm : Như vậy
là tập khởi của đống khổ này.
C: nếu vô minh diệt thì hành diệt
= P: avijjàya tveva asesaviràganirodhà sankhàranirodho. Bản P thêm : Như vậy
là sự đoạn diệt của đống khổ này.
Trong NC27, lý duyên khởi được
đề cập nhưng khởi sự bằng bốn loại thức ăn có ái làm nguyên nhân rồi
đến thọ, hưởng thụ mạnh mẽ, sáu xứ, danh sắc, thức, hành, vô minh.
Rồi nó nói : tùy thuộc vào vô minh là hành ... cho đến tùy thuộc vào
sinh là già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Như vậy đây là sự sanh khởi của
đống khổ lớn. Ở đây chúng ta nhận thấy rằng, bản C201:(vii, 67b, 2-9)
không quên nói đến sầu, bi, khổ, ưu, não như được thấy trong đoạn
trước.
Về bản chất tương quan lẫn
nhau giữa năm uẩn được đề cập trong NC24, thì đã nói trong chương trước,
về năm uẩn.
Như vậy chúng ta có thể
nói về pháp duyên khởi, giữa hai bản C và P không có dị biệt nào quan
trọng.
f) Bốn loại
thức ăn:
Bốn loại thức ăn được đề cập
trong NC 27 và 70. Trong NC27, chúng được nói đến như sau:
C201:(vii,
67b): Một là đoàn thực, nghĩa là thức ăn từng miếng, thô và tế,
kế đó là canh lạc, nghĩa là thức ăn do hưởng thụ mạnh mẽ, rồi
ý niệm thực, nghĩa là thức ăn bằng ý chí và cuối cùng là thức
thực, là thức ăn bằng ý thức.
P38: (i,
261, 5-8): Gần giống. C: đoàn thực thô và tế = P: kabalinkàro àhàro
olàriko, và sukhumo và.
C: thức
ăn hưởng thụ mạnh mẽ = P: xúc thực, phasso àhàro.
C: ý niệm
thực = P: tư niệm thực, manosancetanà àhàra.
C: thức
thực = P: vinnànam àhàro.
g) Nghiệp
và nghiệp dị thục hay hành động và quả báo của hành động:
Những pháp này được đề cập
trong NC 39, 40, 65, 84, 85, 89, 90.
* Trong NC89, chúng được đề cập
như sau:
C170: (vii,16b, 12-18): Lúc bấy giờ
Anh Vũ Ma Nạp đi đến đức Phật, chào Ngài và xin phép được hỏi. Khi
được cho phép, anh hỏi đức Thế Tôn vì lý do gì, vì nguyên nhân gì mà
trong số các hữu tình, mặc dù đều có thân người, một số lại thấp
lùn, một số thì cao lớn, một số bần tiện, một số cao sang. Anh nói,
anh thấy một số người chết yểu, một số sống lâu, một số mắc nhiều
bệnh, một số ít bệnh, một số xấu xí, một số đẹp đẽ, một số
không có uy quyền, không có ảnh hưởng, một số lại có uy quyền, ảnh hưởng.
Có người thuộc dòng họ thấp kém, có người thuộc dòng họ cao quý, một
số người nghèo, một số người giàu, một số người liệt tuệ, một số
người có trí tuệ. Khi ấy đức Thế Tôn trả lời : hữu tình làm nên
nghiệp của chúng, nhận lấy quả báo của những việc đã làm. Hữu tình
tùy thuộc vào nghiệp, nương tựa vào nghiệp, nghiệp là trọng tài của
chúng. Lối giải thích vắn tắt này không làm thỏa mãn thanh niên Anh Vũ.
Và anh xin đức Thế Tôn giải thích chi tiết mọi thứ.
Đức Thế Tôn chấp nhận yêu cầu
của Anh vũ ma nạp.
P135:(iii, 202, 12-24): Gần. giống
C: Anh Vũ Ma Nạp Đô Đề Tử = P: Subha-mànava Todeyyaputta. Câu hỏi của
Subha cũng vậy, nhưng đặt câu hỏi về người nghèo và giàu trước câu hỏi
về dòng họ hạ liệt và cao sang. Câu trả lời của đức Phật hơi khác:
"Kammassakà sattà, kammadàyàdà kammayonì kammabandhù
kammapatisaranà." (Hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của
nghiệp, là bào thai của nghiệp, là quyến thuộc của nghiệp, có nghiệp
làm chỗ nương tựa). Còn lại giống nhau.
i) Tại sao có người chết yểu,
có người sống lâu?
C: (16b, 18-20): Có những người giết
hại sinh vật, tàn ác, xấu xa, khát máu, có những tư tưỏng tác hại,
không thương xót hữu tình, cho đến loài sâu bọ, sau khi đã hoàn tất những
nghiệp này, khi chúng chết, chúng sẽ tái sinh vào địa ngục, khi được tái
sinh làm người, chúng sẽ chết yểu, bởi vì đường lối như trên đưa
đến chết yểu, những hành nghiệp như trên cho hậu quả như vậy. Có những
người từ bỏ sát sinh, không sát sinh, bỏ dao, bỏ gậy, có tàm quý, có
thương xót tất cả hữu tình cho đến loài sâu bọ. Sau khi nhận những
nghiệp này một cách trọn vẹn, khi chết họ được tái sinh vào cảnh giới
sung sướng, ở cõi trời. Khi tái sinh làm người, họ sẽ sống lâu. Vì
con đường như trên đưa đến sống lâu, những nghiệp như trên đem lại
hậu quả ấy.
P: (203, 16-34): Cũng vậy với vài
dị biệt nhỏ về cách sử dụng từ ngữ. C: hết sức xấu xa, có tư tưởng
tác hại = P: hatapahate nivittho (cố ý đả thương và giết hại).
C: sau khi nhận những hành vi ấy
một cách toàn vẹn = P : so tena kammena evam samattena evam samàdinnena (vì
nghiệp ấy đã được làm và hoàn tất một cách quyết định). C: họ sẽ
được sinh vào địa ngục = P: họ sẽ được tái sinh vào cõi dữ , ác
thú, đọa xứ, địa ngục.
ii) Tại sao có người nhiều bịnh
có người ít bịnh?
C: (17a, 3-7): Cách giải thích cũng
như vậy, chỉ khác về các hành động. Ở đây, những người làm hại hữu
tình bằng tay, hoặc bằng que củi, bằng đá, dao hay gậy; những hành động
ấy sẽ đưa đến nhiều bệnh. Trường hợp ít bệnh là ngược lại.
P: (204, 3-17): Cũng vậy, với những
chỗ khác nhau như đã nói ở trên. C: bằng dao= P: với gươm; C: bằng đá=
P: với hòn đất.
iii) Tại sao người xấu kẻ đẹp?
C: (17a, 7-12): Có những người nóng
nảy, mau nổi giận, dù bị nói một chút cũng hết sức phẫn nộ, họ đầy
sự sân hận, dễ buồn sầu, luôn luôn sẵn sàng làm lớn chuyện và tranh
chấp. Những nghiệp này sẽ đưa con người đến chỗ tái sinh làm người
xấu. Người đẹp là ngược lại.
P: (204, 18-31): Cũng vậy, nhưng bỏ
: luôn luôn sẵn sàng để làm to chuyện và tranh cãi. Nó thêm: kuppati
byàpajjati patitthìyati (giận dữ, bất đồng, chống đối).
iv) Tại sao có kẻ không quyền
hành, ảnh hưởng, người lại có quyền hành, ảnh hưởng?
C: (17a, 12-16): Có những người
ôm lòng ganh tị ghen ghét khi thấy người khác được cúng dường, tôn trọng.
Họ muốn được những gì người khác được. Những nghiệp này sẽ khiến
chúng tái sanh làm người không có quyền hành thế lực. Trường hợp kia là
ngược lại.
P: (204-32-37): Cũng vậy. C: không
quyền hành, không ảnh hưỏng = P: appesakkho (ít ảnh hưởng). Nó bỏ
: chúng muốn được những gì người khác đã được.
C: người khác được cúng dường
tôn trọng = P: paralàbhasakhàragarukàra-mànanavandanapujà ( người khác
được lợi dưỡng, danh dự, cung kính, tôn trọng). Còn lại giống nhau.
v) Tại sao người thì sinh vào
nhà thấp hèn, người thì sinh vào giòng họ cao quý?
C: (17a, 16-20) : Có những người lớn
lối kiêu căng, không kính trọng những người đáng được kính trọng,
không nể vì những người đáng được nể vì, không tôn kính những người
đáng được tôn kính, không cúng dường những người đáng được cúng dường,
không nhường đường đi cho những người đáng được nhường lối, không
mời ngồi những người đáng được mời ngồi, không chắp tay chào và
kính lễ người đáng chắp tay chào và kính lễ. Những nghiệp này sẽ
đưa họ đến sự sinh vào gia đình hèn hạ. Trường hợp kia ngược lại.
P: (205, 16-26): Giống nhau với một
vài khác biệt nhỏ về cách diễn đạt.
vi) Tại sao người sinh ra kẻ
giàu người nghèo?
C: (17b, 2-8): Có những người không
phải là người cho, không bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, người nghèo, trẻ
mồ côi và người ăn xin từ xa đến. Họ không bố thí đồ ăn, thức uống,
y phục, mền, tràng hoa, hương thoa, nhà, giường, nệm và đèn. Những nghiệp
này sẽ khiến họ sanh ra nghèo nàn. Trường hợp kia thì ngược lại.
P: (205, 6-15): Gần giống. Bản này
chỉ nói bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, bỏ người nghèo, trẻ mồ côi,
hành khất từ xa đến. Về những quà tặng, nó bỏ y phục, mền, nhưng thêm
áo quần, xe cộ.
vii) Tại sao có người sinh ra
liệt tuệ, có người có trí tuệ?
C: (17b, 8-15): Có những người không
thường xuyên đi đến những Sa-môn, Bà-la-môn danh tiếng để hỏi về
phước và phi phước, có tội, không tội, thù thắng, không thù thắng,
cái gì trắng, cái gì đen, đen và trắng từ đâu ra, gì là quả báo thiết
thực hiện tại, gì là quả báo về sau . Nghiệp này đưa họ đến tái
sinh làm người liệt tuệ. Trường hợp kia thì ngược lại.
P: (205, 27-34): Cũng vậy. Nó bỏ
các câu hỏi: cái gì là thù thắng, không thù thắng, cái gì là trắng,
cái gì đen, đen trắng từ đâu đến, gì là quả báo thiết thực hiện tại,
gì là quả báo về sau. Nó thêm: cái gì nên tu tập, cái gì không nên tu tập.
Cái gì do tôi làm đưa đến bất hạnh, đau khổ lâu dài, cái gì do tôi
làm sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Trong NC90, đức Thế Tôn đưa ra
những lý do sau đây về sự bất đồng rõ rệt giữa nhân và quả:
C171:(vii,19b, 7-20): Trong trường hợp
những người không từ bỏ ác nghiệp nhưng lại được sinh vào hoàn cảnh
tốt, ở cõi trời, đây là vì:
a) Họ đã
hoàn toàn chịu quả báo các ác nghiệp của họ trong đời này, nên được
tái sinh vào thiện thú, cõi trời;
b) Hoặc vì họ
phải chịu quả báo ác nghiệp không phải ngay bây giờ, không phải ở đời
sắp đến, mà ở trong đời sau nữa;
c) Hoặc trước
kia họ đã làm những thiện nghiệp và những quả báo tốt lành chưa hết,
nên sau khi chết họ được sinh vào thiện thú, cõi trời;
d) Hoặc là
vào lúc chết, họ có những tâm và tâm sở hiền thiện, phù hợp với
chánh kiến.
Những lý do còn lại, trường hợp
những người từ bỏ ác nghiệp nhưng lại sinh vào ác thú, địa ngục,
trường hợp người không từ bỏ ác nghiệp và những người sau khi chết
sinh vào ác thú, địa ngục, và trường hợp những người từ bỏ ác nghiệp,
sau khi chết được sinh vào thiện thú, cõi trời, ba trường hợp này cũng
được giải thích như trường hợp đầu, với những thay đổi thích hợp
về từ ngữ và cách diễn đạt.
P136: (iii,214,6-34): Không giống hẳn.
Ở đây bản P kể ra bốn lý do: a. Vị ấy có lẽ trước kia đã làm những
việc lành đưa đến quả báo an vui; b. Có lẽ vị ấy về sau này đã làm
những việc lành đưa đến quả báo an vui; c. Vào lúc chết vị ấy có thể
đã có chánh kiến vững chắc; d. Còn về những ác nghiệp hiện tại của
y, có thể nhận quả báo xấu bây giờ hoặc vào một đời khác. Ba trường
hợp kia cũng được giải thích tương tự, với những thay đổi thích hợp.
Như vậy chúng ta thấy rằng
không có khác nhau nhiều về cách giải thích nghiệp và quả báo như đã
thấy trên. Nhưng trong NC40, trong đó đức Thế Tôn khuyên Tôn giả La Vân
làm thế nào để thực hành các nghiệp thì có vài khác nhau rõ rệt.
C14:(v,17a, 5-13): Đức Thế Tôn
khuyên La Vân rằng, trước khi làm một thân nghiệp, nếu ông tư duy và thấy
rằng thân nghiệp này được phép (nghĩa là trong sạch), nhưng sẽ đưa lại
quả báo xấu và đau khổ cho chính mình và người khác, thì nên từ bỏ
thân nghiệp ấy. Nếu trước khi làm một thân nghiệp, mà tư duy và thấy
rằng thân nghiệp này không được phép, nhưng nó sẽ đem lại phước báo
và hạnh phúc cho mình và cho người khác, thì nên làm một thân nghiệp như
vậy. Cũng vậy với thân nghiệp đang làm. Đối với thân nghiệp đã làm,
vị ấy cũng cần phải tư duy. Nếu thấy rằng thân nghiệp đã làm là
được phép, nhưng sẽ đem lại quả báo xấu và đau khổ cho mình và người
khác thì nên đến gần những Tỳ-kheo đa văn, phát lộ và sám hối chúng,
không che dấu và phòng hộ trong tương lai. Nếu sau khi tư duy, thấy rằng
thân nghiệp mình đã làm là không được phép, nhưng đem lại phước báo
và hạnh phúc cho nình và người khác, thì cả ngày đêm vị ấy nên vui mừng
và an trú trong chánh niệm và chánh trí.
P61:(i,415, 25-36): Sự tư duy ở đây
không giống như trên. Tôn giả Ràhula được đức Phật khuyên hãy tư duy
thân nghiệp mình sắp làm có đưa đến hại mình, hại người, hại cả
hai, đó là một ác nghiệp đưa đến đau khổ, có quả báo đau khổ, thì
vị ấy chắc chắn không nên làm việc ấy. Nếu thấy rằng thân nghiệp sắp
làm sẽ không đưa đến hại mình, hại người, hại cả hai, mà là một
việc phước đưa đến hạnh phúc, có quả báo an lạc, thì vị ấy nên
làm một hành vi như vậy. (Cũng thế, với một thân nghiệp đang làm). Đối
với thân nghiệp đã làm, nếu sau khi suy nghĩ thấy rằng nó đưa đến tự
hại.... thì nên đi đến bậc thầy hay Tỳ-kheo đa văn để phát lộ sám hối,
bộc bạch, và trong tương lai chừa bỏ làm một hành vi như vậy. Nếu sau
khi tư duy thấy rằng thân nghiệp đã làm này không đưa đến tự hại, hại
người, hại cả hai, thì vị ấy nên an trú hoan hỷ ngày đêm tu tập một
hành vi như vậy.
Về ngữ nghiệp và ý nghiệp cũng
được đề cập theo cách ấy trong cả hai bản C và P.
Nhận xét:Sự giải
thích của bản C cho các Tỳ-kheo một phạm vi rộng lớn về ý nghĩa hành
vi công đức và về giới luật xuất gia. Nhưng bản P bỏ danh từ
"được phép" và không cho phép một lối giải thích rộng rãi nào
về định nghĩa hành vi công đức và về giới luật Tỳ-kheo.
Trong NC84, nghiệp và quả báo được
đề cập rất nhiều.
* Ba loại sầu khổ hiện tại
cho kẻ ngu:
i) Loại sầu khổ thứ nhất:
C149: (vii, 60b, 10-14): Kẻ ngu hiện
tại phải chịu bao thứ đau khổ về thân và tâm. Bất cứ hành vi nào của
kẻ ngu sẽ bị người ta nói đến một cách thích đáng, dù khi vị ấy
đang ngồi trong hội chúng hay ở trên đường, giữa chợ, tại ngã tư. Khi
một người ngu giết hại sinh vật, lấy của không cho, tà hạnh trong dục
lạc, nói dối cho đến có tà kiến và có vô số ác bất thiện pháp, người
ta sẽ phê bình sự xấu xa của tùy theo đó. Người ngu đâm ra lo lắng bất
an khi nghĩ rằng mình đã làm tà hạnh như vậy và người ta sẽ bình phẩm
sự xấu xa của mình như vậy. Đây là loại sầu khổ thứ nhất người
ngu phải chịu ngay trong hiện tại
P129: (iii, 163, 14-25): Gần giống,
nhưng bỏ: "giữa chợ" cho đến "có tà kiến, có vô số ác bất
thiện pháp". Nó thêm: "uống rượu". Ở đây bản C nói đến
mười bất thiện nghiệp đạo. Còn lại cũng giống nhau.
ii) Loại sầu khổ thứ hai:
C: (60b, 14-19): Người ngu trông thấy
một tội nhân bị lính của vua bắt, phải chịu đủ cực hình như: 1. Chặt
tay. 2. Chặt chân. 3. Chặt cả tay và chân. 4. Xẻo tai. 5. Xẻo mũi. 6. Cả
tai mũi đều bị xẻo. 7. Bị xẻo thịt. 8. Bị nhổ râu. 9. Bị nhổ
tóc.10. Râu tóc đều bị nhổ. 11. Nhốt vào cũi sắt. 12. Bị bọc vải rồi
đem đốt. 13. Cửu khiếu bị đổ cát vào. 14. Bị vặn bằng cỏ. 15. Bị
nướng trên lửa. 16. Bị đặt vào bụng một con lừa sắt và nướng trên
lửa. 17. Bị bỏ vào miệng một con heo sắt để nướng trên lửa. 18. Bị
bỏ vào miệng một con cọp sắt để nướng trên lửa. 19. Bị luộc trong
một nồi đồng. 20. Bị luộc trong một nồi sắt. 21. Thân thể bị cắt
ra từng mảnh. 22. Bị đâm bằng một chĩa ba nhọn. 23. Bị móc bằng một
móc sắt. 24. Bị đặt nằm trên một giường sắt và bị rưới dầu sôi
lên. 25. Bị đặt ngồi trong một cái cối sắt và giã bằng chày sắt. 26.
Bị con rồng cắn. 27. Bị rắn cắn. 28. Bị quất bằng roi. 29. Bị đánh bằng
gậy. 30. Bị đánh bằng ba toong. 31. Bị treo sống tên một cái sào. 32. Bị
chặt đầu bêu giữa công chúng. Khi người ngu trông thấy cảnh này thì
nghĩ mình cũng phạm tội như vậy, nếu vua biết, mình cũng sẽ bị bắt và
chịu những cực hình như vậy, đây là loại sầu khổ thứ hai của người
ngu.
P: (163, 26-27): Gần giống với những
điểm khác nhau như trên. Trong khi bản C nói về một tội nhân, bản P nói
về một kẻ trộm. Về các hình phạt khác nhau mà vua gia hình, bản P theo
thứ tự sau: 1. Quất bằng roi, 2. Quất bằng gậy, 3. Đánh bằng roi, 4. Bị
chặt hai tay, 5. Bị chặt 2 chân, 6. Tay chân đều bị chặt, 7. Bị xẻo
tai, 8. Bị xẻo mũi. 9. Tai, mũi đều bị xẻo, 10. Hình phạt nồi cháo, 11.
Cạo đầu như con sò, 12. Miệng như rahu, 13. Vòng lửa, 14. Đốt đuốc bằng
bàn tay, 15. Vặn bằng cỏ, 16. Mặc áo vỏ cây, 17. Hình phạt con sơn
dương, 18. Móc thịt, 19. Bị cắt từng lát như đồng tiền, 20. Bị ngâm
giấm, 21. Bị quay bằng thanh sắt, 22. Hình phạt đệm rơm, 23. Rưới dầu
sôi trên thân, 24. Cho chó xé thịt, 25. Bị đâm sống trên những cọc sắt,
26. đầu bị chặt đứt bằng gươm.
Nhận xét: Bản C kể
32 loại khổ hình trong lúc bản P chỉ kể 26. 14 hình phạt sau đây được
tìm thấy trong cả hai bản: C1=P4, C2=P5, C3=P6, C4=P7, C5=P8, C6=P9, C7=P19, C8 và
9,10=P20, C14=P15, C23=P18, C24=P23, C28=P1, C29=P3, C30=P1. Ở đây, P20= C8,9,10 là
nhổ râu, nhổ tóc, nhổ cả râu tóc.
Có 16 hình phạt trong bản C không
có trong bản P. C11: bỏ vào trong cũi sắt; C12: bị gói trong vải mà đốt;
C13: cửu khiếu bị đổ cát; C15: bị nướng trên lửa; C16: bị đặt vào
bụng con lừa sắt và nướng trên lửa; C17: đặt vào miệng con heo sắt nướng
trên lửa; C18: đặt vào miệng con cọp sắt nướng trên lửa; C19: luộc
trong nồi đồng; C20: luộc trong nồi sắt; C21: thân thể bị cắt thành từng
mảnh; C22: bị đâm bằng cọc nhọn; C25: bị đặt ngồi trong cối sắt và
giã bằng chày sắt; C26: bị rồng cắn: C27: bị rắn cắn; C31: bị treo sống
trên một sào cao; C32: bị treo ngược đầu.
12 hình phạt trong bản P sau đây
không có trong bản C: P10: hình phạt nồi cháo; P11: đầu cạo như con sò;
P12: miệng rahu; P13: vòng lửa, P14: đốt đuốc bằng bàn tay; P21: hình phạt
vỏ cây; P22: hình phạt đệm rơm; P24: hình phạt cho chó xé xác; P25: bị
đâm sống bằng những cọc nhọn, P26: bị chặt đầu bằng cây gươm.
iii) Loại sầu khổ thứ ba:
C: (60b,19): Khi một người ngu làm
thân ác hành, ngữ ác hành và ý ác hành, khi vị ấy bị ốm và chịu những
đau đớn, hoặc ngồi hoặc nằm trên một cái giường, trên một chỗ nằm
hay trên đất, vị ấy chịu những đau khổ khốc liệt gần như chết và
tất cả những thân ác hành, khẩu và ý ác hành bay lượn trên người ấy,
đậu lại trên người ấy, như vào lúc hoàng hôn, cái bóng của một ngọn
núi lớn lượn trên đất, đậu trên mặt đất. Vị ấy nghĩ rằng xưa
kia mình đã không làm thiện hành, và đã làm nhiều việc bất thiện. Có
chỗ nào cho những người ác, những kẻ bạo động, làm những việc điên
rồ, những kẻ không làm thiện hành và các việc công đức, những kẻ không
có chỗ trú ẩn chống lại những hậu quả đáng sợ, thì vị ấy chắc
chắn sau này sẽ đi đến nơi ấy. Bởi thế, vị ấy hối hận những hành
vi trước kia và do vậy, vị ấy không chết như một người thánh thiện,
không chết như một người có công đức.
P: (164,24-32): Gần giống. P bỏ: vị
ấy bị ốm và đau những nỗi đau khốc liệt gần như chết. P thêm: vị
ấy chết nằm trên một cái ghế, một cái giường hay trên đất. Bỏ: bởi
thế vị ấy hối hận những hành vi về trước của mình và do vậy vị
ấy không chết như một bậc thánh, một người có công đức. Thêm: vị
ấy than khóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh.
* Sau khi chết vị ấy sẽ tái
sinh vào địa ngục:
i) Tái sinh vào địa ngục
C: (61a,4-6): Rồi kẻ ngu ấy do thân
ác hành, ngữ và ý ác hành, sau khi chết sẽ bị sanh vào các cõi xấu,
vào địa ngục. Khi ấy vị ấy chịu những ác báo, hoàn toàn khó chịu,
không vui, không đáng muốn, vì địa ngục là một nơi hoàn toàn khó chịu,
không vui, không đáng muốn.
P: (165,12-20): Gần giống, nhưng thêm:
thật khó mà cho một ví dụ về sự khổ ở địa ngục.
ii) Ví dụ để tả thống khổ
ở địa ngục:
C: (61a, 6-20): Khi ấy một Tỳ-kheo
hỏi về nỗi khổ ở địa ngục, mà đức Thế Tôn mô tả là không thể
nói, và Ngài đã đưa một ví dụ để làm sáng tỏ nỗi khổ trong địa
ngục. Giả sử một kẻ cướp bị vua phạt phải bị đâm mỗi sáng bằng
100 cọc nhọn. Hình phạt được tái diễn vào buổi trưa và chiều, vì tội
nhân vẫn còn sống; nhưng thân thể ông ta đã hoàn toàn bị đâm thủng bằng
cọc nhọn như cái lỗ nơi một đồng tiền. Một lần đâm đã đau đớn
vô cùng, nói gì đến 300 lần đâm trong một ngày. Rồi đức Phật nhặt lên
một hòn đá nhỏ như hạt đậu mà bảo Tỳ-kheo so sánh nó với ngọn núi
Tuyết. Vị Tỳ-kheo phải nhận rằng ngọn núi Tuyết là trăm ngàn triệu lần
lớn hơn hòn đá. Khi ấy đức Phật dạy, nỗi khổ trong địa ngục là trăm
lần, ngàn lần, trăm ngàn lần, triệu lần đau đớn hơn nỗi khổ mà một
tội nhân phải chịu trong một ngày bị đâm thủng bằng 300 cọc nhọn.
P: (165, 21-26): Gần giống, nhưng bỏ
bớt "như lỗ một đồng tiền".
C: một hòn đá nhỏ như hạt đậu
= P: hòn đá kích thước bằng bàn tay của Ngài.
iii) Khổ trong địa ngục:
C: (61b,20): Ở đây bản C kể ra
11 loại khổ hình trong địa ngục: 1. Khi một người sinh vào địa ngục,
ngục tốt nắm lấy nó và dùng cưa nung đỏ chỏm đầu, làm cho nó thành
một hình bát giác, hình vuông hay hình tròn, hoặc dài, hoặc ngắn, hoặc
đẹp, hoặc xấu. Như vậy nó phải chịu cực hình đau đớn, cho đến 100
năm, 1000 năm mà vẫn không chết, cái chết chỉ đến khi các nghiệp ác bất
thiện đã đoạn tận; 2. Cũng như trên, thay cưa nung đỏ bằng búa sắt
nung đỏ; 3. Ngục tốt dùng một cọc sắt nung đỏ bắt nó ngồi lên
trên, dùng những kềm sắt vặn mở miệng nó để rót những hoàn sắt
nóng vào, đốt cháy môi lưỡi, họng, hầu, tim, bao tử, hoàn sắt đi ra phía
dưới thân thể; còn lại cũng như trong trường hợp trước; 4. Cũng như
ở trường hợp ba, thay cọc sắt nung đỏ bằng chuông sắt nung đỏ (?) và
thay hoàn sắt nung đỏ bằng nước đồng sôi; 5. Ngục tốt bắt nó nằm
trên một nền bằng sắt nóng, trói tay chân nó lại, bắt duỗi ra và dùng
bù-lon sắt xoáy vào hai bàn tay, hai bàn chân và bụng; 6. Ngục tốt bắt
nó quỳ trên đất, kéo lưỡi nó ra, để đóng lên 100 cái đinh cho nó nhả
ra không được thụt vào, như một cái da bò bị căng ra bởi 100 cái đinh
không co rút lại; 7. Ngục tốt lột da nó từ đầu đến chân, từ chân đến
đầu và trói nó vào một xe sắt đỏ kéo đi qua lại trên nền đất sắt
đỏ; 8. Ngục tốt nấu nước đồng sôi và bắt tội nhân rưới nước đồng
sôi lên thân thể; 9. Ngục tốt dựng một ngọn lửa cao như núi, dìm tội
nhân xuống dưới rồi kéo lên. Khi bị dìm xuống da thịt và máu của tội
nhân cháy tiêu. Khi kéo lên, da thịt và máu lành lại như cũ; 10. Ngục tốt
bỏ tội nhân chúc ngược đầu vào trong nồi đồng đầy nước sôi để
luộc, thân thể tội nhân bị tung lên nhồi xuống khắp bốn hướng chính
và bốn hướng phụ, bọt tuôn ra từ thân thể nó trở lại luộc chín
thân thể nó; như những hạt đậu nhỏ đậu lớn, đậu trắng, đậu
đen, đậu nâu và hột mù tạt, tất cả bỏ trong một nồi đồng đầy
nước sôi mà luộc, thì những hạt đậu bên trong bị tung lên nhồi xuống
khắp bốn hướng chính và bốn hướng phụ, những bọt tuôn ra lại luộc
thân thể của chúng; 11. Địa ngục ấy có một ngục gọi là bốn sự hưởng
thụ mãnh liệt; chúng sinh được sinh ra trong đó; khi mắt chúng thấy sắc,
chúng không vui, nhưng chúng không thể không bằng lòng; tâm của chúng
không tham ái nhưng cũng không thể không tham ái; tâm chúng không được thỏa
mãn nhưng không thể không thỏa mãn; cũng vậy với tai nghe tiếng, mũi ngửi
hương, lưỡi nếm vị, thân biết xúc, ý nghĩ các pháp. Đức Thế Tôn
dùng nhiều cách khác nhau để nói về ngục ấy, nhưng cái khổ trong ngục
ấy không thể nào mô tả đầy đủ, địa ngục ấy chỉ có toàn là khổ.
P: (166, 18-32): Ở đây bản P chỉ
kể bảy loại khổ trong địa ngục: C5=P1; C7=P4; C9=P5; C10=P6; C11=P7. Bản P
bỏ : C1, C2, C3, C4, C6, C8. Bản C bỏ P2, P3.
C5=P1: Bản P bỏ: bắt nó nằm
dài trên một nền sắt nóng. C: vặn một cái đinh sắt vào trong bụng = P:
vặn một cái cọc sắt vào giữa ngực.
C7=P4: Bản P bỏ : ngục tốt lột
da nó từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu. Nó chỉ nói chiếc xe, mà
không nói xe đỏ rực, chỉ nói đất đỏ rực chứ không nói nền đất bằng
sắt đỏ rực.
C9=P5: Bản P bỏ: khi nó bị dìm
xuống, thì da thịt máu của nó bị đốt cháy và khi nó được kéo lên da
thịt máu nó lại lành lại như cũ.
C10=P6: Bản P chỉ nói rằng, nó bị
luộc và nổi lên trên mặt cùng với bọt, không giống bản C nói rằng, bọt
thoát ra từ thân thể nó lại luộc thân nó. Bản P bỏ ví dụ đậu lớn
đậu nhỏ luộc sôi.
C11=P7: Hoàn toàn khác. Ở đây bản
C nói rằng, nó bị ngục tốt ở địa ngục ném vào trong địa ngục lớn,
được mô tả là có bốn góc, bốn cổng, chia làm bốn phần bằng nhau,
vây quanh bằng tường sắt, có mái sắt; nền của địa ngục này đỏ rực
cùng khắp vuông vức 100 do tuần.
P2 và P3 không có trong bản C. P2:
ngục tốt đặt nó nằm xuống và chặt nó ra bằng một cái rìu. P3: ngục
tốt đặt nó chúc ngược đầu và cắt nó bằng những dao cạo.
iv) Nỗi khổ trong súc sinh:
C: (62a, 8-20): Người ngu có thể từ
địa ngục tái sinh vào cõi súc sinh và ở đây nó cũng chịu những nỗi
khổ khốc liệt. năm loại khổ được tìm thấy trong cảnh giới súc sinh:
1. Nó có thể được sinh vào cõi súc sinh, sinh ra lớn lên và chết trong
bóng tối, nghĩa là làm côn trùng dưới đất. Vì kẻ ngu trước kia tham
ăn và làm những hành vi xấu ác về thân, lời và ý, nên bây giờ bị
sinh làm sâu bọ ở trong đất; 2. Nó có thể được sinh trong cõi súc sinh,
sinh ra, lớn lên và chết trong thân thể như là những con vi trùng ký sinh
nhỏ. Còn lại như trên; 3. Những con vật sinh ra lớn lên và chết ở trong
nước, như cá, ma kiệt ngư (có lẽ là cá ở xứ Ma Kiệt Đà), rùa, cá sấu,
bà lưu ni, đề tỷû (3 loại cá thần thoại có tầm cỡ khổng lồ); 4.
Sinh làm loài nhai lại, loài ăn cỏ, ăn cây nhỏ và cây lớn, làm loài voi,
ngựa, lạc đà, bò, cừu, nai, trâu nước, heo; 5. Sinh làm loài vật mà mỗi
khi ngửi thấy mùi phân tiểu liền chạy đến ăn, cũng như những con trai,
con gái nhỏ khi ngửi thấy mùi đồ ăn. Những con vật này là gà mái, heo,
chó, dã can, quạ, câu lâu la, câu lân giàø (?). Đức Thế Tôn dùng nhiều
phương tiện để nói về những con vật này, vì nỗi khổ trong cõi súc
sinh không thể nói hết. Trong cõi súc sinh không có gì ngoại trừ khổ.
P: (167, 21-34): Cũng vậy, nó nói
đến năm loại súc sinh nhưng không theo thứ tự như trên, những đoạn
tương đương như sau: C1=P3; C2=P không có; C3=P4; C4=P1; C5=P2; P5=C không có.
C1=P3: Cũng vậy. C: côn trùng ở
trong đất = P: kìtà pulave ganduppàdà (bọ hung, ốc sên, giun đất) và
bất cứ con vật nào sinh ra, sống và chết trong bóng tối. C: do lòng tham
ăn của chúng=P: do sự hưởng thụ vị ngon của chúng ở đây (trong cõi
này).
C3=P4: Gần giống. Bản P chỉ kể
ba loại thú vật: cá, rùa và cá sấu, và bất cứ con vật gì sinh ra, sống
và chết trong nước.
C4=P1: Gần giống. Bản P nói
chúng ăn rêu mốc và cỏ khô nhai bằng răng. Nó nói đến lừa, cừu, nai,
và bất cứ con vật nào ăn cỏ.
C5=P2: Gần giống, nhưng chỉ nói
đến phân mà không nói nước tiểu. Trong lúc bản C dẫn ví dụ những đứa
bé trai gái chạy đến khi nghe mùi thức ăn, bản C nói đến những người
Bà-la-môn chạy đến khi nghe mùi đồ cúng ném vào lửa. Bản P bỏ qua,
câu lâu la và câu lân già.
P5=C: không có: Có những con vật
sinh ra lớn lên và chết trong đống rác, như là những vật sinh ra lớn
lên và chết trong cá thối, thây rữa nát, gạo thối, hoặc trong vũng nước
ở đầu làng, hay bên cạnh làng.
v) Sự khó khăn để được trở
lại thân người:
C: (62b, 1-8): Thật rất khó cho người
ngu để có được thân người trở lại, khi đã bị sinh vào súc sinh, vì
trong cõi súc sinh không có hành vi công đức, không có cử chỉ cung kính,
không có điều thiện thù thắng. Súc sinh ăn lẫn nhau, con mạnh cắn xé
con yếu, lớn nuốt nhỏ. Thật vô cùng khó cho một con ruồi mù, cứ một
trăm, một ngàn năm mới chui đầu vào trong một cái lỗ của một cây gậy
bằng gỗ nhẹ, cứ mỗi trăm năm nó lại nổi đầu lên một lần; khi nó
nổi lên ở phương đông thì một ngọn gió đông thổi tốc cây gậy về
phía nam; nó nổi lên từ phương nam thì một ngọn gió nam thổi tốc cây gậy
về phía tây; nó nổi lên từ phía tây thì một ngọn gió tây thổi cây gậy
về phía bắc; nếu nó nổi lên từ phía bắc, một ngọn gió bắc sẽ tung
cây gậy về một hướng khác. Con rùa vẫn không thể nào đặt đầu nó
vào trong lỗ dù trải qua một thời gian hết sức dài. Người ngu cũng gặp
một khó khăn như vậy, một thời gian dài như vậy, để có thể sinh trở
lại vào thế giới loài người sau khi đã sinh vào thế giới súc vật.
P: (169, 9-25): Cũng gần giống. C:
rùa mù= P: rùa chột mắt. Bản P chỉ nói đến ngọn gió đông thổi tạt
cây gậy về phía tây, ngọn gió tây tạt cây gậy về phía đông, gió bắc
tạt cây gậy về phía nam, và gió nam tạt cây gậy về phía bắc.
C: người ngu cũng gặp một khó
khăn như vậy, một thời gian dài như vậy, để được sinh vào cõi người
trở lại từ cõi súc sinh = P: thực còn khó khăn hơn cho người ngu để...
vi) Sinh vào gia đình thấp kém:
C(62b,8-15): Người ngu từ cõi súc
sinh được sinh vào các gia đình hèn hạ, bị nghèo, thiếu ăn, như gia đình
những người cai ngục, thợ thuyền, những người thợ thủ công, thợ gốm.
Tại đấy nó được sinh làm người mù, người què, tay ngắn, người gù
lưng, sử dụng tay trái, da xấu, mặt cừu, xấu xí, thọ mạng ngắn ngủi,
làm nô lệ cho kẻ khác, tại đấy nó làm những thân nghiệp, ngữ nghiệp
và ý nghiệp xấu ác, và do vậy khi chết, nó lại sinh vào những cõi ác
trở lại.Cũng như thể hai người chơi bài bạc với nhau. Một người vì
bài bạc mà mất tôi tớ, vợ con, cho đến bị treo ngược trong nhà tối,
sự mất mát này của y trong cờ bạc cũng không thể so sánh với nỗi mất
mát mà y phải chịu khi làm những nghiệp ác về thân, lời và ý.
P: (169, 25-32): Gần giống. Ở đây
những gia đình được kể hoàn toàn khác: thợ săn, đan giỏ tre, đánh xe
bò, hốt rác. Nó sẽ xấu xí, lùn, bệnh hoạn, chột mắt, dị dạng, què
quặt. C: không có đủ thức ăn = P: không thể kiếm được đồ ăn uống,
y phục, xe cộ, tràng hoa, hương liệu, đồ nằm, nhà ở, ánh sáng. Ví dụ
cũng gần giống nhau. Bản P thêm sự mất mát tài sản, nhưng bỏ tôi tớ.
C: bị treo ngược đầu trong nhà tối = P: bị bỏ tù.
* Trong NC85, có một mô tả chi tiết
hơn về các địa ngục. Có sáu loại địa ngục, những địa ngục tương
đương giữa hai bản như sau:
C1=P1, C2=P không có, C3=P2, C4=P5,
C5=P4, C6=P6, P3= C không có.
i ) Đại địa ngục bốn cổng:
C1= P1:
C64:(72a, 18-20): Sau khi tra vấn, huấn
dụ, khiển trách người ấy về thiên sứ thứ năm, Diêm vương giao nó cho
ngục tốt, người bỏ nó vào đại địa ngục bốn cổng, địa ngục này
được mô tả trong bài kệ:
a) Bốn cột
trụ có bốn cổng, tường vuông 12 góc; những bức tường được làm bằng
sắt, trên lợp bằng mái sắt.
b) Nền sắt
trong địa ngục cháy đỏ và sáng rực, sâu cho đến vô số dặm, nó được
đặt dưới đáy nền.
c) Ngục ấy
kinh khủng đến nỗi không chịu được và ngọn lửa thì thật khó mà
nhìn đến; nhìn là rởn ốc, và nỗi sợ hãi đau đớn khốc liệt tấn công
nó.
d) Khi nó rơi
vào địa ngục, chân chổng lên đầu chúc xuống. Phỉ báng các bậc thánh
và bậc điều ngự, những bậc thuần thiện. (Ở đây bài kệ dứt ngang).
Sau một thời gian dài thật dài,
vì những chúng sinh này, cổng địa ngục phía đông mở ra và những chúng
sinh kia ùa vào tìm sự an ổn, tìm sự trú ẩn. Khi chúng đã tụ tập đến
số nhiều trăm ngàn, cổng phía đông ấy đóng lại, và những người kia
ở bên trong chịu đau đớn khốc liệt rên la than khóc, tâm tư sầu khổ nằm
dài trên đất. Chúng không thể chết, khi những nghiệp ác bất thiện của
chúng trước kia chưa hết. Điều tương tự xảy ra ở ba cổng kia. Sau một
thời gian dài thật dài, chúng ra khỏi đại địa ngục bốn cổng.
P130:(182,31-34): Không giống. Ở đây
Diêm vương im lặng sau khi tra hỏi nó về thiên sứ thứ năm. Bản P thêm một
đoạn trong đó ngục tốt cột nó vào một bánh xe răng cưa và bắt nó chịu
một loạt các tra tấn như đã nói ở trước. Sự mô tả đại địa ngục
bốn cổng không giống nhau. Trong một bài kệ chỉ bốn dòng, nó nói đơn
giản rằng, địa ngục ấy có bốn góc và bốn cổng được chia đều, vây
quanh bằng một bức tường sắt, trên có mái sắt, nền bằng sắt của
nó đỏ rực và nóng cháy cả bốn phía, vuông vức một trăm do tuần. Ở
đây bản P thêm một chi tiết trong sự mô tả đại địa ngục, ấy là những
ngọn lửa đến từ bức tường đông, dội vào bức tường tây; những ngọn
lửa từ bức tường tây dội vào bức tường đông. Cũng vậy với hai hướng
kia và trên dưới. Nó cũng nói đến cánh cổng mở ra cho tội nhân ùa vào
nhưng không nói chúng sinh tụ tập đến một trăm, một ngàn để tìm chỗ,
trú.
C: những người bên trong chịu thống
khổ khốc liệt rên la than khóc, tâm tư buồn thảm nằm dài trên đất =
P: da mỏng, da dày, thịt, gân của nó bị đốt cháy và xương của nó
đang cháy ngún. Mặc dù nó đến rất gần (cửa, hoặc nó đã chịu khổ
như vậy rất lâu) mà cánh cửa vẫn đóng.
ii) Đại địa ngục núi cao:
C2=P không có:
C: (72b,7-8): Rồi nó được sinh vào
đại địa ngục núi cao, trong đó lửa liên tục cháy, không có khói,
không có ngọn, và nó buộc phải đi trên đấy và quanh đấy. Khi nó đặt
chân xuống thì da thịt máu của nó cháy tiêu. Khi nó giở chân lên thì da
thịt nó lành lại như cũ. Như vậy nó chịu đau khổ mãnh liệt cho đến
vô lượng trăm ngàn năm. Còn lại cũng như trên.
iii. Đại địa ngục phân uế:
C3=P2:
C: (72b, 8-12): Sau một thời gian
dài rất dài, nó ra khỏi đại địa ngục đỉnh núi cao và sinh vào đại
địa ngục phân uế. Nơi đây phân và nước tiểu tích tụ lại sâu vô số
trượng. Trong địa ngục ấy, có những chúng sinh giống như những con sâu
tên là Lăng Cù có thân trắng, đầu đen, miệng như kim, những sinh vật
này gậm khới chân của những chúng sinh ấy, rồi đến xương hậu môn, rồi
đến xương mông, xương khoan cốt, xương sống, xương vai, xương cổ,
xương đầu. Sau khi phá hủy xương đầu, những con sâu ấy ăn hết tất cả
não ở bên trong. Còn lại cũng như trên.
P: (184, 31): Không giống. Nó nói rằng
sát với đại địa ngục bốn cổng là đại địa ngục dơ uế và người
ta rơi vào đấy, nhưng nó không nói loại dơ uế nào. Nó cũng nói đến
sinh vật có miệng như chim cắt hết thịt và da thịt, gân xương của tội
nhân, rồi ngốn ngấu tủy xương.
iv) Đại địa ngục rừng lá sắt:
C4 = P5:
C: (72b, 12-18): Sau một thời gian
dài rất dài, những người ấy ra khỏi đại địa ngục dơ uế và sinh
vào đại địa ngục rừng lá sắt. Khi trông thấy địa ngục này, chúng tưởng
nó mát mẻ và ùa vào để tìm an ổn, tìm chỗ trú. Chúng tụ tập đến vô
số trăm ngàn và vào trong ngục này.Ở đấy một ngọn gió thiêu đốt thổi
mạnh từ bốn phía đến và những ngọn lá bằng sắt rụng xuống cắt
tay, chân chúng, cắt cả tay lẫn chân, cắt tai, cắt mũi, cắt cả tai lẫn
mũi, và những thân phần khác của chúng tuôn ra máu cho đến vô số trăm
ngàn năm. Trong ngục này có những con chó vô cùng lớn với những cái răng
rất dài xé những chúng sinh ấy ra từng mảnh, lột da từ chân lên đầu,
từ đầu đến chân rồi ăn. Trong địa ngục ấy, có những con quạ lớn
có hai đầu và một chiếc mỏ sắt. Chúng đứng trên trán của những người
ấy, móc mắt họ ra mà ăn, chẻ đầu họ ra mà ăn tủy bên trong.
P: (185, 20-26): Không giống hẳn.
Ở đây địa ngục được gọi là rừng lá gươm. Nó chỉ nói rằng lá
ở đây khi gió lay động thì cắt đứt tay, chân, cả tay lẫn chân, cắt
tai, mũi, cả tai lẫn mũi.
v) Đại địa ngục rừng cây bằng
gươm sắt: C5=P4:
C: (72b, 19-20): Sau một thời gian dài
rất dài, những chúng sinh ấy ra khỏi đại địa ngục rừng lá sắt và
được sinh vào đại địa ngục rừng gươm sắt, và những cây lớn bằng
gươm này cao một dặm, những lá nhọn dài đến sáu mét. Chúng được lệnh
phải leo lên xuống những cây ấy. Khi chúng leo lên, thì những lá nhọn đâm
xuống, khi chúng leo xuống thì những lá nhọn đâm lên. Những lá nhọn
này đâm xuyên qua những người ấy, đâm thủng tay chân, cả tay lẫn
chân, đâm thủng tai, mũi, cả tai lẫn mũi, đâm thủng những thân phần
khác cho máu đổ ra.
P: (185, 14-19): Không giống hẳn.
Ở đây đại địa ngục được gọi là rừng cây bông vải. C: cao một dặm
với những lá nhọn dài sáu thước = P: cao một do tuần với những lá nhọn
dài 16 ngón tay. Nó chỉ nói rằng những lá nhọn này cháy đỏ rực, và người
ta bị bắt phải leo lên leo xuống.
vi) Đại địa ngục sông tro:C6
= P6:
C: (73a, 1-14): Sau một thời gian
dài thật dài, những chúng sinh ấy ra khỏi đại địa ngục rừng gươm sắt,
và sinh vào đại địa ngục sông tro. Cả hai bờ rất cao, được vây quanh
bằng những cọc nhọn; bên trong rất đen tối và nước tro đang sôi sục.
Những chúng sinh này, khi trông thấy, tưởng là nước mát lạnh, ùa vào để
tắm và uống cho thỏa thích. Khi chúng tụ tập đến vô số trăm ngàn,
chúng rơi vào sông ấy và tại đấy chúng bị cuốn đi xuôi dòng, ngược
dòng, xuôi rồi ngược dòng, da thịt chúng bị bỏng và lột ra chỉ còn lại
bộ xương. Hai bên bờ những ngục tốt võ trang bằng dao, gươm, gậy, gậy
bọc sắt, đẩy chúng lại vào giữa dòng, nếu chúng cố leo lên bờ. Lại
nữa trên hai bờ sông, có những ngục tốt trang bị bằng móc câu và lưới,
móc những chúng sinh này lên, đặt trên những nền sắt nung đỏ, ném
trên đất, làm chúng bò khắp chỗ này chỗ kia và hỏi chúng từ đâu đến.
Chúng đáp rằng, không biết từ đâu đến, nhưng hiện tại hết sức đói.
Rồi những ngục tốt ấy đặt chúng trên những giường sắt đỏ, đốt
cháy chúng, buộc chúng ngồi lên trên. Khi ấy ngục tốt lấy một cây kềm
bằng sắt nóng đỏ, vặn cho miệng chúng mở ra mà đổ những hoàn sắt
nóng vào. Hoàn sắt đỏ này đốt cháy môi, lưỡi, hầu, họng, tim, ruột
non, ruột già, bao tử của chúng rồi đi ra đầu kia của thân thể. Những
ngục tốt hỏi chúng sẽ đi đâu. Chúng đáp rằng không biết đi đâu, nhưng
đang khát nước lắm. Cũng hình phạt như trên được đặt ra, nhưng bây
giờ ngục tốt lại đổ nước đồng sôi vào miệng chúng. Rồi những
chúng sinh ấy lại rơi vào trong địa ngục sông tro, trong đại địa ngục
rừng gươm sắt, trong đại địa ngục rừng lá sắt, trong đại địa ngục
dơ uế, đỉnh cao, trong đại địa ngục bốn cổng.
P: (185, 27-33): Không hẳn giống.
C: sông tro = P: khàrodakà. Bản P không tả sông này, chỉ nói nó rơi
vào thứ nước ăn mòn này, bị mang đi ngược dòng, xuôi dòng, ngược và
xuôi dòng, và nó chịu sự đau đớn khốc liệt không thể nói. Mọi chi tiết
khác đều không có.
Bản P cũng nói hai trường hợp
ngục tốt vớt nó ra bằng móc câu và hỏi nó muốn gì. Khi nó trả lời lần
đầu rằng nó đói và lần hai rằng nó khát, thì chúng mở miệng nó ra bằng
một cọc sắt nung đỏ và đẩy vào miệng nó lần đầu một hoàn sắt
nóng đỏ và lần hai nước đồng sôi. Hoàn sắt đỏ và nước đồng sôi
đốt cháy môi, miệng, cuống họng, ngực, và đi xuống dưới, mang theo ruột
non, ruột già của nó. Rồi ngục tốt đặt nó lại trong đại địa ngục.
P3: Bản P thêm một địa ngục khác
gọi là địa ngục than nóng, nó rơi vào đấy, chịu đựng những thống
khổ khốc liệt.
* Trong NC75, đức Phật giải thích
rằng những nơi sinh tùy thuộc vào nguyện vọng của tâm mình. Nhưng đoạn
này trong hai bản khác nhau quá xa đến nỗi không thể nào nghiên cứu tỷ
giảo từng phần. Bởi thế ở đây hai bản được đề cập riêng rẻ.
i) Sơ thiền thuộc sắc giới:
C168: (13a,19-20): Có Tỳ-kheo ly dục,
ly bất thiện pháp, chứng trú sơ thiền với giác, quán, với hỷ và lạc
do ly dục sinh, rồi vị ấy thích hưởng thụ và trú trong thiền ấy. Do
thích thú như vậy, vị ấy an hưởng và trú trong thiền này. Khi chết vị
ấy sẽ tái sinh vào cõi trời Phạm thiên. Chư thiên cõi này sinh ra và trú
trong cõi Phạm thiên. Cảm thọ hỷ lạc do ly dục sinh; hỷ lạc này tương
tự với hỷ lạc của vị Tỳ-kheo chứng sơ thiền, bởi vì do tu tập thiền
này mà vị ấy sinh lên Phạm thiên giới.
ii) Nhị thiền cho đến tứ thiền:
C: (13b, 2-11): Với sự tu tập thiền
thứ hai, vị ấy sẽ tái sinh vào Quan âm thiên; do tu tập thiền thứ ba, vị
ấy sẽ sinh vào Biến tịnh thiên; do tu tập thiền thứ tư, vị ấy sẽ
sinh vào Quảng quả thiên.
iii) Bốn thiền Vô sắc giới:
C: (13b,11-20): Do tu tập sơ thiền,
vị ấy sẽ tái sinh vào cõi trời Không vô biên; do tu tập nhị thiền, vị
ấy sẽ tái sinh vào cõi trời Thức vô biên; do tu tập tam thiền, vị ấy
sẽ tái sinh vào cõi trời Vô sở hữu; do tu tập tứ thiền, vị ấy sẽ
tái sinh vào cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng.
iv) Tối thượng thiền:
C:(14a, 4-6): Khi ấy vị Tỳ-kheo
vượt trên thiền Phi tưởng phi phi tưởng, với trí tuệ biết được sự
diệt tận của thân xúc, vị ấy biết sự đoạn tận tất cả lậu hoặc.
Như vậy thiền này là tối thượng trong tất cả thiền, thù thắng nhất,
vi diệu nhất. Trú trong thiền này, vị Tỳ-kheo không còn tái sinh trở lại,
chấm dứt sinh già, bệnh, chết; đây gọi là sự chấm dứt của khổ.
* Bản P kể đến 34 trường hợp
để làm sáng tỏ sự giải thích của đức Phật:
i) Trường hợp thứ nhất:
P120: (99, 22-27): Vị Tỳ-kheo có
tín, giới, văn, ưa bố thí, có trí tuệ. Vị ấy mong rằng sau khi chết, sẽ
sinh cộng trú với những bậc thánh và những người giàu (khattiyamahàsàlà).
Vị ấy chuyên chú tâm vào điều này, tu tập tâm theo điều này. Những
hành (sankhàrà) này và những trú (vihàrà) này được khai triển,
phóng đại, sẽ đưa vị ấy tái sinh tại đấy.
ii) Trường hợp thứ hai cho đến
33:
P: (100, 4-33): Những trường hợp
này cũng giống như trường hợp đầu, chỉ khác ở chỗ những người mà
Tỳ-kheo thích sinh cộng trú. Chúng như sau: Bà-la-môn giàu có, gia chủ
giàu, trời Tứ thiên vương, Tam thập tam, Dạ ma, Đâu suất đà, Hóa lạc,
Tha hóa tự tại, Phạm thiên Sahasso, Phạm thiên Devisahasso, Phạm
thiên Tisahasso, Phạm thiên Catusahasso, 5 sahasso, 10 sahasso, 100
sahasso, Abhà devà, Parittabhà devà, appamànàbhà devà, Quang âm thiên
(Abhassarà devà), Subhà devà, parittasubhàdevà, Appamànasubhà devà,
Subhakinnàdevà, Quảng quả thiên (Vehapphalà devà), Vô phiền thiên (Avihà
devà), Vô nhiệt thiên (Atappa devà), Thiện kiến thiên (Sudassi
devà), Sắc cứu cánh thiên (Akanitthà devà), Không vô biên xứ
thiên (Àkàsànancàyatanùpagà devà), Thức vô biên xứ thiên (Vinnànancàyatanùpagà
devà), Vô sở hữu xứ thiên (Àkincannàyatanùpagà devà), Phi tưởng
phi phi tưởng xứ thiên (Nevasannànàsannàyatananùpagà devà).
iii) Trường hợp thứ 34:
P: (103, 15-22): Ở đây vị Tỳ-kheo
sau khi đoạn tận lậu hoặc, với thắng trí chứng được, ngay hiện tại,
tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không còn lậu hoặc, mong an trú tâm đó.
Như vậy vị Tỳ-kheo sẽ không sinh lại bất cứ ở đâu.
2. Bảy thanh tịnh:
Bảy thanh tịnh được đề cập
trong NC20 như sau:
C9: (12a,38): Tôn giả Xá-lợi-tử
vào buổi chiều ra khỏi thiền định đi đến nơi Tôn giả Mãn Từ Tử,
chào hỏi rồi ngồi xuống một bên và hỏi Tôn giả Mãn Từ Tử : Này hiền
giả, có phải hiền giả đang sống đời phạm hạnh dưới Sa-môn Cù Đàm?
- Thưa vâng. Hiền giả, có phải hiền giả sống đời phạm hạnh dưới
Sa-môn Cù Đàm để được giới thanh tịnh? - Không. Có phải vì tâm thanh
tịnh, kiến thanh tịnh, đoạn nghi thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh, đạo
phi đạo tri kiến thanh tịnh, vì dĩ đạo tích đoạn trí tịnh (sự
thanh tịnh khởi lên do trí tuệ đoạn trừ lậu hoặc để đi sâu vào đạo)
mà hiền giả sống đời phạm hạnh dưới Sa-môn Cù Đàm? - Không. Hiền
giả, tôi đã hỏi, có phải hiền giả sống đời phạm hạnh dưới Sa-môn
Cù Đàm, hiền giả trả lời phải. Khi tôi hỏi có phải vì giới thanh tịnh,
vì tâm thanh tịnh..... mà hiền giả sống đời phạm hạnh dưới Sa-môn
Cù Đàm, hiền giả đều trả lời không. Vậy hiền giả vì mục đích gì
sống đời phạm hạnh dưới Sa-môn Cù Đàm? - Thưa hiền giả, vì mục đích
Vô dư Niết-bàn.
P24: (147, 11-37): Gần giống, với
vài dị biệt nhỏ.
C: vì để thanh tịnh chướng ngại
hoài nghi = P: kankhàvitaranavisuddhattham, đoạn nghi thanh tịnh.
C: vì thanh tịnh khởi lên do tri
kiến đoạn tận đi sâu vào đạo = P: nànadassanavisuddhattham, vì sự
thanh tịnh tri kiến.
C: vì Vô dư Niết-bàn = P:
anupàdà parinibbànattham, vì Niết-bàn vô thủ trước.
Như vậy bảy thanh tịnh giống
nhau trong hai bản, chỉ hơi khác nhau về danh từ.
3. Cetovimutti, Pannàvimutti : Tâm giải thoát, tuệ
giải thoát
Hai pháp này được đề cập
trong NC 25, 30, 47, 69, 74, 75 và 82.
Trong NC 74, hai pháp này được đề
cập như sau:
C81:(v, 114b, 15-17): Khi ấy vị Tỳ-kheo
có thể đắc các thần thông, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng trí, sinh tử
trí. Rồi với sự đoạn trừ các lậu hoặc, vị ấy chứng trú ngay hiện
tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, không còn lậu hoặc, vị ấy đắc
quả A-la-hán.
P119: (iii,98, 2-28): Gần giống. Ở
đây bản P nói dông dài như thường lệ về các thần thông thiên nhãn cho
đến sinh tử trí. Hai giải thoát cũng giống nhau. Ở đây bản P, bỏ
không nói rõ sự chứng đắc quả A-la-hán.
NC30 hiển thị làm thế nào để
đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát:
C211: (vii, 85b, 19-20). Hỏi: Có bao
nhiêu pháp tương ưng với chính kiến để đắc tâm giải thoát, tuệ giải
thoát, để có được công đức về tâm giải thoát, tuệ giải thoát? Đáp:
Có năm yếu tố tương ưng với chánh trí để có được tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Gì là năm? a. Tương ứng với sự thật; b. Tương ưng với
giới; c. Tương ưng với đa văn; d. Tương ưng với tịnh chỉ; e. Tương
ưng với tuệ quán.
P43: (I,294, 4-15): Câu hỏi như trên,
nhưng câu trả lời hơi khác. C: quả và công đức = P: quả và lợi ích.
Trong bản P, năm pháp là: giới, đa văn, thảo luận, chỉ và quán.
NC82 chỉ bàn về tâm giải thoát
:
C79: (v,108b, 13-20): Tôn giả A Na Luật
Đà giải thích đầu tiên đại tâm giải thoát. Có một Sa-môn hay
Bà-la-môn đến nơi một khu rừng hay dưới gốc cây, hay một nơi yên tĩnh.
Tại đấy vị ấy chọn một cây làm giới hạn và biến mãn đại tâm giải
thoát cho đến giới hạn ấy và trú trong đó, không ra khỏi giới hạn
này. Rồi vị ấy bỏ một cây làm giới hạn, chọn hai, ba cây làm giới hạn,
rồi từ từ đến một khu rừng, hai, ba khu rừng, một ngôi làng, hai, ba
ngôi làng, một xứ sở, hai, ba xứ sở rồi đến đại địa này, cho đến
đại dương. Đây gọi là đại tâm giải thoát. Còn về vô lượng tâm giải
thoát, một Tỳ-kheo trú sau khi biến mãn một phương với tâm câu hữu với
từ, cũng vậy phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư, bốn
phương trung gian, trên, dưới, trải ra khắp nơi với tâm từ, không hận,
không sân, không giận dữ, không tranh chấp, vô cùng lớn, vô cùng rộng,
xa đến khắp thế giới và an trú trong đó. Cũng vậy với một tâm câu hữu
với bi, hỷ, và xả. Đây gọi là vô lượng tâm giải thoát.
P127: (iii,146, 8-30): Gần giống. Bản
P giải thích vô lượng tâm giải thoát trước, rồi đến đại tâm giải
thoát. Về đại tâm giải thoát, cũng gần giống như vậy, nhưng những giới
hạn được đặt ra hơi khác, trước hết là một gốc cây, rồi đến
hai, ba gốc cây, phạm vi một khu làng, hai, ba khu làng, một vương quốc,
hai, ba vương quốc và quả đất vây quanh đại dương. Về vô lượng tâm
giải thoát cũng gần giống nhau.
Nhưng trong NC30, có một loạt những
hỏi đáp liên hệ đến tâm giải thoát không có trong bản C.
P43: (296, 24-31): Hỏi: Có bao nhiêu
điều kiện để đạt tâm giải thoát không vui không khổ? Đáp: Có bốn
điều kiện để đạt tâm giải thoát không vui không khổ. Một Tỳ-kheo
sau khi đã từ bỏ lạc thọ, khổ thọ, sau khi đã giảm bớt hỷ và ưu từ
trước, chứng và trú thiền thứ tư với xả và niệm.
P: (296, 24-31): Hỏi: Có bao nhiêu
điều kiện để đạt đến tâm giải thoát vô tướng? Đáp: Có hai điều
kiện để đạt tâm giải thoát vô tướng. Đó là không tác ý tất cả tướng,
và tác ý vô tướng giới.
P: (296, 36-37): Hỏi: Có bao nhiêu
điều kiện để trú trong tâm giải thoát vô tướng? Đáp: Có ba điều kiện
để trú trong tâm giải thoát vô tướng, đó là không tác ý tất cả tướng,
tác ý đến vô tướng giới, và một sự chuẩn bị trước.
Hỏi: Gì là những điều kiện để
xuất khỏi tâm giải thoát vô tướng? Đáp: Có hai điều kiện để ra khỏi
tâm giải thoát vô tướng, đó là tác ý tất cả tướng và không nghĩ đến
vô tướng giới.
P: (297, 9-37): Bản P khởi sự bằng
cách giải thích rằng, nhờ thực hành bốn phạm trú, vị Tỳ-kheo đạt đến
tâm giải thoát vô lượng, nhờ thực hành tu tập vượt qua thức vô biên
xứ, nhập vô sở hữu xứ, mà vị Tỳ-kheo đạt được tâm giải thoát
vô sở hữu; bằng cách đi đến một chỗ trống và suy tư về sự trống
rỗng của tự ngã và những gì thuộc về tự ngã, vị Tỳ-kheo được không
tâm giải thoát, và nhờ không nghĩ đến tất cả tướng bằng cách nhập
định vô tướng, vị ấy đạt tâm giải thoát vô tướng. Như vậy đây
là phương pháp theo đó những tâm giải thoát này khác nhau về nghĩa cũng
như về văn. Lại nữa bản P giải thích rằng nhờ tận trừ tham, sân, si,
những yếu tố dễ sản sinh ra cái gì hạn lượng, chướng ngại, có tướng,
mà vị Tỳ-kheo có được tâm giải thoát vô lượng, vô sở hữu, không,
vô tướng. Như vậy do phương pháp này, bốn tâm giải thoát đồng nghĩa
nhưng khác văn.
Trong NC69, có nhắc đến ba loại
giải thoát nhưng chỉ trong bản C:
C145: (vi,78a 15-10): Chu Nê Mục-liền-liên
hỏi: Có gì khác nhau giữa sự giải thoát của Như lai không chấp thủ,
hoàn toàn và chân chính giác ngộ, với tuệ giải thoát, và sự giải
thoát của A-la-hán? Giải thoát nào cao hơn. Tôn giả A Nan trả lời : Không
có khác nhau giữa ba thứ giải thoát này, không cái nào cao hơn cái nào.
4. Đạo, quả và lậu tận trí (Magga, phaala,
àsavakhayanànam):
Trong NC19, ba đạo và ba quả đầu
tiên được đề cập.
a) Dự lưu:
C200:(vii, 66a, 18-20): Nếu ba kiết
sử được đoạn tận, vị ấy đắc quả Tu đà hoàn không còn rơi lại vào
ác pháp và chắc chắn được toàn giác; vị ấy sẽ tái sinh nhiều nhất
là bảy lần trong cõi trời và người, sau đó sẽ chấm dứt đau khổ.
P22: (i, 141, 35-47) Gần giống. C:
ba kiết sử được đoạn tận = P: tìni samyojanàni pahìnàni. C: không còn rơi
lại vào các ác pháp = P: avinipàtadhammà (không phải đọa vào địa ngục).
C: chắc chắn đạt được toàn giác = P: niyatà sambodhiparàyanà. Bản
P bỏ : nhiều nhất vị ấy sẽ tái sinh vào cõi trời và người; sau khi
sanh lại bảy lần, vị ấy sẽ chấm dứt khổ.
b) Nhất lai:
C: (66a, 17-18): Nếu ba kiết sử
được đoạn tận, tham, sân, si bị muội lược (mỏng bớt), vị ấy đạt
quả vị Nhất lai, trở về thế giới chư thiên và nhân loại một lần nữa
rồi chấm dứt khổ.
P:(144,31-35): Gần giống, nhưng bỏ
"chư thiên và nhân loại".
c) Bất hoàn:
C: (66a, 15-17): Nếu năm hạ phần
kiết sử được từ bỏ, khi chết, vị ấy sẽ được tái sinh tại chỗ
ấy và từ đấy đạt Niết-bàn, chứng quả Bất hoàn, không trở lui đời
này nữa.
P:(141, 26-30): Gần giống. C: nếu
năm hạ phần kiết sự được đoạn tận = P: panc' orambhàgiyàni
samyojanàni pahìnàni. Bản P thêm: opapàtikà (tự nhiên hóa sinh).
d) A-la-hán và lậu tận:
Trong NC16, sự đắc A-la-hán quả
và lậu tận trí được đề cập dông dài như sau:
C102 (vi, 24b,6-9): Với tâm định
tĩnh, thuần tịnh, không lỗi lầm, không cấu nhiễm, nhu nhuyến, dễ sử dụng,
với tâm khéo tập trung và bất động, vị ấy hướng tâm về chứng ngộ,
chứng đạt lậu tận trí. Khi ấy vị ấy như thật biết khổ, tập khởi
của khổ, đoạn diệt của khổ và con đường đưa đến đoạn diệt khổ.
Vị ấy cũng biết như thật các lậu hoặc, sự sinh khởi lậu hoặc, sự
chấm dứt lậu hoặc, như thật biết con đường đưa đến chấm dứt lậu
hoặc. Vị ấy đạt đến trí như vậy, kiến như vậy, với tâm giải
thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Khi đã giải thoát vị ấy
biết mình đã giải thoát, sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì
đáng làm đã làm xong; sẽ không còn hiện hữu. Đây là tri kiến chân thật
của vị ấy.
P19:(i, 23, 11-26): Gần giống. C: với
tâm định tĩnh như vậy, thuần tịnh, không lỗi lầm, không cấu nhiễm,
nhu nhuyến, dễ sử dụng, với tâm khéo tập trung và bất động = P: evam
samàhite citte parisuddhe pariyodàte anangane vigatùpakkilese mudubhùte kammaniye
thiteànejjappatte. C: tri kiến của vị ấy chân thật = P: abhhannàsim
(tôi biết như vậy).
Trong NC67, quả A-la-hán được đề
cập cách khác :
C75: (v,103a, 17-20): Tôn giả A Nan
nói rằng đức Thế Tôn đã nói đến con đường hoàn toàn bất động,
con đường thuần tịnh không vô biên xứ, con đường thuần tịnh vô tưởng,
Niết-bàn vô dư y. Rồi Tôn giả hỏi Phật, xin Ngài giải thích gì là sự
giải thoát của bậc thánh. Phật giải thích rằng, vị thánh đệ tử đa
văn tư duy như sau: Nếu có những dục lạc nào hiện thời ở đây và mai
sau, có sắc pháp nào hiện thời ở đây và mai sau, có tưởng về dục nào
hiện thời ở đây và mai sau, có tưởng về sắc và bất động nào hiện
thời ở đây và mai sau, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, tất
cả những tưởng này đều vô thường, khổ và phải hoại diệt. Cái này
được gọi là thuộc về tự ngã. (Vị ấy quán sát rằng) nếu có cái
gì thuộc về tự ngã thì sẽ có sanh, già, bệnh, chết. Nếu có pháp nào
trong đó tất cả những thứ này đều được đoạn tận, không dư tàn,
không còn hữu nào khác, thì sẽ không còn tái sinh, không còn già, bệnh
và chết. Nếu vị thánh tư duy như vậy, nếu có dư tàn thì đấy là pháp
giải thoát; nếu có Niết-bàn không dư y, thì đấy gọi là bất tử (ambrosia).
Nếu vị ấy tư duy như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy được giải thoát
khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Khi được giải thoát vị ấy
biết mình đã giải thoát. Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì
đáng làm đã được làm xong, sẽ không còn hiện hữu. Chân thật là trí
của vị ấy.
P106:(ii, 265, 21-31): Ở đây Tôn giả
A Nan tán thán là kỳ diệu, hy hữu, và nói rằng, bằng cách này cách kia,
đức Phật đã giảng dạy sự vượt qua bộc lưu. Rồi Tôn giả hỏi về
thánh giải thoát. Bản P cũng nói cùng những pháp ấy để quán tưởng,
nhưng với thứ tự khác. Trong bản P, sự quán sát của vị Tỳ-kheo rất
đơn giản: "Esa sakkàyo yàvatà sakkàyo etam amatam yadidam anupàdà
cittassa vimokho" (Bất cứ gì thuộc thân thể là thân thể. Nhưng xa
hơn thì chính bất tử này là tâm giải thoát không chấp thủ).
Chúng ta đã thấy ở trên, sự chứng
đắc A-la-hán quả nhờ quán bản chất của các uẩn, quán xả, quán bốn
phạm trú hay bốn vô lượng.
Nhận xét: Như vậy nhìn
chung, ta có thể nói đoạn nói về tuệ không có nhiều dị biệt giữa bản
C và bản P. Nhưng có ba điểm khác nhau quan trọng cần chú ý: bản C nói
có 62 giới trong khi P chỉ có 41 giới; bản C nhấn mạnh hiện hữu của khổ
trong quá khứ, hiện tại, và vị lai và định nghĩa các hành vi được cho
phép. Lại nữa, về mô tả các loại tra tấn hay hình phạt khác nhau, các
loại địa ngục, hai bản không giống nhau. Tất cả những điều này chứng
tỏ hai bản dịch có ít nhiều biệt lập trong sự chọn lựa tài liệu,
và mỗi bên phản ảnh giáo điều của bộ phái mình tiêu biểu.
Mục lục
| 1.1 | 1.2
| 2.1 | 2.2 | 2.3 | 2.4 | 2.5
2.6 | 2.7 | 3.1 | 3.2 | 3.3 | 3.4 | 3.5 | 3.6 | 4.1 | 4.2