- So
sánh kinh Trung A-hàm chữ Hán và kinh Trung Bộ chữ Pàli
PHẦN
4: PHỤ LỤC
-ooOoo-
PHỤ
LỤC 1: Tiểu sử Sanghadeva
Sanghadeva
hay Tăng-già-đề-bà, hay Chúng Thiên, có tên là Cồ Đàm. Ngài sinh ở Kê
Tân. Theo Khai Nguyên Thích giáo lục, quyển 3 và Cao tăng truyện, quyển
1, Ngài tinh thông ba tạng và nhất là tạng A-tỳ-đàm. Ngài thường ngày
đêm tụng Tam pháp độ luận và xem đây là cửa vào đạo pháp.
Ngài có trí thông minh sâu xa sắc bén, uy nghi khả kính, thiện xảo về
thuyết pháp.
Ngài đến Trường An vào cuối
triều đại Kiện Nguyên (373-384) thuộc đời Hậu Tấn (384-417). Sau khi ngài
đến không lâu, Tăng-già-bạt Trừng (Sangha Bhùti) đã dịch luận Bà tu
mật và Đàm Ma Nan Đề (Dhamma Nandì) đã dịch hai tác phẩm Tăng nhất
A-hàm và Quảng thuyết tam pháp độ hơn mười vạn chữ, nhưng những
bản dịch này chưa được hoàn hảo. Lúc bấy giờ, có nhiều rối loạn về
chính trị xảy ra, nên không người nào có thể kiểm chính các bản dịch,
mà ngài Đạo An thì đã chết. Sa-môn Pháp Hòa, một người bạn của Đạo
An gặp Tăng-già-đề-bà và mời ngài đến đất Lạc Dương, ở lại đấy
bốn, năm năm để hiệu đính các bản dịch. Ngài dịch lại A-tỳ-đàm
và Quảng thuyết chúng kinh. Rồi ngài rời Lạc Dương đi đến miền
Nam và được Huệ Viễn pháp sư mời ở lại Lô Sơn. Huệ Viễn là vị
sáng lập ngôi chùa danh tiếng ở Lô Sơn. Tại đây ngài dịch hai tác phẩm
A-tỳ-đàm và Tam pháp độ luận trong Bát nhã đường.
Năm đầu niên hiệu Long An, ngài
đến kinh đô, được vua và đình thần vô cùng thán phục. Vương Trung, vị
vua mộ đạo, đã xây cho ngài một ngôi chùa, ở đấy ngài giảng A-tỳ-đàm.
Vương Trung mời Sa-môn Thích Huệ Trì và 40 vị sư khác, rồi xin ngài dịch
kinh Trung A-hàm và Tăng nhất A-hàm. Sa-môn Tăng Già Lạc Xoa ở Kê Tân cầm
trong tay bản kinh Phạn ngữ, và Ngài dịch ra Hoa ngữ. Sa-môn Đạo Từ ở
Dự Châu cầm bút lông, Lý Bảo và Đường Hóa ở vương quốc Vũ (?) viết
lời dịch.
Ở Lô Sơn và Kiện Khang,
Sanghadeva đã dịch 5 tác phẩm chia làm 118 tập:
1. Trung
A-hàm, 60 tập hay 58 tập, được dịch từ ngày 10-11 năm đầu Long An, và
kết thúc ngày 25-6 năm thứ hai (398). Công việc dịch thuật này được thực
hiện trong chùa Đông Đình.
2. Tăng
nhất A-hàm, 50 tập, dịch từ tháng giêng năm đầu Long An. Đây là bản
dịch thứ hai, bản dịch đầu do Dharmanandi thực hiện.
3. A-tỳ-đàm
tâm luận, 4 tập, dịch phẩm này cộng tác với pháp sư Huệ Viễn vào
năm thứ 16 Thái Nguyên (391). Đạo Từ cầm bút, Sanghadeva đọc lời dịch.
4. Tam
pháp độ luận, gồm 2 tập, dịch vào năm thứ 16 Thái Nguyên, ở Lô Sơn,
cộng tác với Pháp sư Vi Viễn.
5. Giáo
thọ Tỳ-kheo ni pháp, 1 tập, dịch tại Lô Sơn. Tác phẩm này đã mất.
Bốn tác phẩm đầu gồm 117 tập tất cả, hiện nay vẫn còn.
PHỤ
LỤC 2
Vài nhận
xét về dịch phẩm của Sanghadeva
Sanghadeva
dịch tác phẩm này vào năm 398. Vì bản dịch này đã xưa nên ta không thể
phán đoán nó dưới ánh sáng của thuật ngữ đã cố định bởi các dịch
gia về sau như Huyền Trang. Nhưng công việc của Sanghadeva đáng tán dương
ở chỗ đấy là một công tác tiên phong, được làm vào một thời đại
ít ai biết về ngôn ngữ Ấn và sự phiên dịch thành Hoa ngữ.
Chúng ta để ý những đặc điểm
sau đây trong bản dịch của Sanghadeva.
a. Danh từ lỗi thời:
Một số danh từ mà Sanghadeva
dùng trong bản dịch đã bị loại bởi những dịch gia về sau:
Pàli |
Sanghadeva: |
Các dịch gia về sau: |
Vedanà |
Giác |
Thọ |
Savitakka |
Hữu giác |
Hữu tầm |
Savicàra |
Hữu quán |
Hữu từ |
Phassa |
Canh lạc |
Xúc |
Sammàvàyàma |
Chánh phương tiện |
Chánh tinh tấn |
Samudaya |
Tập ( = tập quán) |
Tập ( = tập họp) |
Udàna |
Soạn |
Vô vấn tự thuyết |
Upàdànakkhandha |
Thạnh uẩn |
Thủ uẩn |
Purisadammasàrathi |
Đạo pháp ngự |
Điều ngự trượng phu |
Aniccatà |
Vô thường pháp |
Vô thường tánh |
Upàdàna |
Thọ ( = nhận) |
Thủ |
Sankhàra |
Tư hoặc Hành |
Hành |
b. Giải sai:
Danh từ Gayàsise, tên một
địa danh, được Sanghadeva dịch là Tượng đảnh, nghĩa là đầu
voi, vì lầm Gaya là Gaja. Cũng vậy, Makhàdeva được dịch là Đại thiên
vì lầm Makhà là Mahà. Chữ Nagà được dịch là rồng thay vì voi.
Danh từ Purisadammasàrathi được dịch là Đạo pháp ngự, người
chế ngự con đường và pháp, vì danh từ damma bị lầm với Dhamma.
Những dịch gia về sau chọn danh từ Điều ngự pháp sư dịch đúng
nghĩa từ Pàli. Lại nữa từ Sahàpi sukhena sahàpi somanassena được dịch
sai thành tự lạc tự hỷ nghĩa là hỷ lạc của riêng mình.
c. Cách dịch máy móc:
Đôi khi chúng ta thấy một cách dịch
máy móc, không để ý đến ý nghĩa đích thực của danh từ trong đoạn
văn cần dịch. Như chữ attha nghĩa là ý nghĩa, mục đích, lợi
ích thì toàn thị được dịch là nghĩa. Ví dụ danh từ sàttham dịch
đúng là hữu nghĩa, nghĩa là có nghĩa; nhưng nếu dịch danh từ atthasamhita
mà dịch là dữ nghĩa tương ưng thì khá vụng, như được thấy
trong kinh 191, vii, 44b, 20. Cũng vậy, với những từ atthakàmo và anatthakàmo,
nghĩa là mong sự lợi lạc, không mong sự lợi lạc (cho nó). Nhưng bản C dịch
là cầu nghĩa (tìm ý nghĩa)và bất cầu nghĩa (không tìm ý nghĩa).
Một danh từ khác là jàtarùparajata nghĩa là vàng và bạc. Bản C tương
đương là sanh sắc tượng bảo, sanh để dịch jàta, sắc để
dịch rùpa và tượng bảo để dịch rajata. Một cách dịch lạ
lùng khác là chữ màtikà, được dịch là mẫu (mẹ) như được
thấy trong đoạn : "Có những Tỳ-kheo thiện xảo về kinh, luật và mẹ"
(Tsê, vii, 57a, 19). Đôi khi dịch giả chỉ đặt cạnh nhau những từ Hoa ngữ
trong cùng một thứ tự với nguyên bản, bất chấp ý nghĩa toàn thể. Như
từ ngữ nổi tiếng Yam tam ariyà àckkhanti, upekkhako satimà sukhavihàri được
dịch là "vị thánh sở thuyết thánh sở xả niệm lạc trú thất",
thì chỉ có thể hiểu được nhờ tham cứu bản văn P.
d. Lối dịch hữu ích:
Trong vài trường hợp, bản dịch
C giúp ta hiểu đúng các danh từ Pàli. Như bài kệ nổi tiếng của Upàli,
sự hiện hữu của từ yakkhassa trong lời ca tụng Phật thì khá khó
hiểu. Bản C dịch: Người có con mắt cao thượng đem lại giải đáp.
Như vậy từ yakkhassa rõ ràng là akkhassa được thêm vào chữ y
để dễ đọc. Cũng vậy với danh từ pannadhajassa trong cùng bài kệ
ấy được dịch là hạ cờ. Nhưng bản C tương đương là do trí tuệ
sanh nghe thích hợp hơn vì là một từ ngữ chỉ đức tính của Phật.
Do vậy, chữ pannadhajassa nên dịch là pannajassa dưới ánh sáng
của bản C.
e. Một vài lối dịch lạ lùng:
Chúng ta cũng để ý vài lối dịch
lạ lùng về một số danh từ, mà danh từ nguyên bản đôi khi không thể
nào là một với bản P. Như một số danh từ sau: P: appaharite = C: đất
tịnh; P: àmisa = C: đồ ăn uống; P: pisunà vàcà = C: hai lưỡi;
P: ummagga = C: tà đạo; P: aranna = C: vô sự xứ ; P: citta =
C: tâm; P: bandhupàdàpacca = C: đoạn chủng vô tử (giảng nghĩa: không
có con cái).
Bản C luôn luôn dịch từ Viharati
là du có nghĩa là du lịch, gần với nghĩa tiếng Sanskrit nhưng không
phải nghĩa tiếng Pàli là trú, ở lại. Lại nữa, danh từ padakkhinam
katvà nghĩa là sau khi đi quanh giữ phía tay phải hướng về một người
nào thì bản C luôn luôn dịch là nhiễu tam táp nghĩa là đi quanh người
ấy ba vòng. Từ atta (Sk.: àtman) đôi khi được dịch là thần (hồn)
đôi khi được dịch là ngã. Công thức thông thường của bản P
như sau: "N'etam mama, n'eso' hamasmi, na meso attàti", nhưng trong bản
C lại dịch: bỉ phi ngã hữu, ngã phi bỉ hữu, diệc phi thị thần (đấy
không phải của tôi, tôi không thuộc vào đấy, và cũng không phải linh hồn)
(C200, vii 65b, 13-14).
f. Giống với cách hiểu Sanskrit:
Một vài từ Hoa ngữ chứng tỏ bản
dịch C gần với nghĩa Sanskrit hơn là với nghĩa Pàli. Như danh từ cattàro
sammappadhànà có nghĩa là bốn sự nỗ lực trong tiếng Pàli. Nhưng bản
C dịch là tứ chánh đoạn, nghĩa là bốn sự diệt trừ chân chính,
gần với Phạn ngữ samyakprahàna. Cũng vậy với từ veyyàkarana
nghĩa tiếng Pàli là trả lời, giải thích, trình bày. Nhưng danh từ tương
đương Hoa ngữ là ý thuyết, có nghĩa là tiên đoán, như vậy gần với
tiếng Sanskrit vyàkarana như đã thấy ở trước.
g. Một vài từ khó hiểu:
Có vài từ trong bản C mà ta
không tài nào hiểu nỗi, mà cũng không thể đoán ra danh từ gốc trong
nguyên bản. Như trong NC36, Tôn giả Đại Mục-liền-liên đi vào thiền định
Như kỳ tượng định, không thể hiểu nghĩa là gì. Lại trong cùng một
NC ấy, ta gặp một đoạn như sau: "Họ nghĩ: Sa-môn này đã ngồi tại
một nơi vô sự và lâm chung. Chúng ta nên gom củi, cỏ phủ khắp thi thể
và da duy chi", mà chúng ta phỏng đoán là dahati, có nghĩa là
hỏa thiêu (C131, vi, 49b, 19). Lại nữa danh từ phi phẩm có
thể đoán là Niết-bàn, phi để dịch nir và phẩm để dịch vàna
trong đoạn sau: "Vị Tỳ-kheo được nói là đã tu tập căn bản thần
thông hoàn tất về thiền định căn cứ trên dục, y cứ viễn ly, ly dục,
diệt, từ bỏ, hướng đến phi phẩm." (C206, vii, 78a, 13-15). Nhưng từ
ngữ sau đây thì không thể nào giải thích nỗi. Nó nói đến sự giác ngộ
của Phật dưới cây bồ đề như sau: "Trí sanh, nhãn sanh; định đạo
phẩm pháp; sanh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm,
không còn sanh trở lại." (C204, vii, 74b, 20). Định, nghĩa là tập trung,
đạo là con đường, phẩm có nghĩa trình độ và pháp có nghĩa đạt ma. Bốn
chữ này sắp lại với nhau không ai đoán được nghĩa là gì. Dường như
nó tương đương với từ ngữ Àkuppà me vimutti. Lại nữa từ ngữ tát
vân nhã hoàn toàn không thể hiểu được trong câu: "Ni Kiền Tử
không phải là tát vân nhã, mà tự cho tát vân nhã." (C196, vii, 56a, 13).
Dường như nó ám chỉ danh từ Sabbannu nghĩa là nhất thiết
trí.
h. Phiên âm và dịch:
Bản C phần nhiều
dùng cách phiên âm để ghi danh từ riêng trong nguyên bản về người và nơi
chốn, như được thấy trong các ví dụ sau:
P: Aggivessana = C: A Kỳ Xá Na
; P: Ajita kesakambalì = C: A Di Đa Kê Xá Kiểm Bà Lợi ; P: Aciravatì
= C: A Di La Bà Đề ; P: Kàsi = C: Ka Thi ; P: Kimbila = C: Kim Tỳ La.
Một đôi khi có sự phiên dịch,
nhưng không nhiều như P: Jetavana = C: Thắng Lâm; P: Migàramàtu =
C: Lộc Mẫu; P: Kukkuràràma = C: Kê Viên.
Đôi khi phiên âm và phiên dịch
được sử dụng lẫn lộn như: P: Sàriputta = C: Xá-lợi-tử, Xá lợi
là phiên âm chữ Sàri và tử dịch nghĩa chữ putta. P: Mahàkassapa
= C: Đại Ca Diếp, Đại là dịch chữ mahà, và Ca diếp
là phiên âm chữ kassapa. (xem nhiều chi tiết hơn ở phụ lục 10)
PHỤ
LỤC 3
Vài nhận
xét về bản dịch Anh ngữ kinh Trung bộ
Bản dịch C cho ta thấy sự chính
xác về một vài nhận xét của cô Horner trong bản dịch Middle Length
Sayings, bản dịch Anh ngữ Kinh Trung bộ do cô dịch.
Trong M.L.S tập II, trang 332, cô chọn
cách đọc "na ca mam vihesesi" thay vì "navamam vihesesi";
một sự chọn lựa chính xác khi so với bản C: "ông ấy không làm phiền
ta về pháp."
Lại nữa trong đoạn: "Sannam
idam attena và attaniyena và ti" (T.L.M, ii, 263, dòng 28, 29), cô Horner đề
nghị nên đọc là Sunam thay vì Sannam. Nhận xét của cô được
hỗ trợ bởi đoạn kinh C sau đây: "Thánh đệ tử đa văn tư duy như vầy:
Thế gian này trống rỗng, không có ngã, không có gì thuộc về ngã."
Đôi khi bản C giúp ta thấy được
vài sai lầm trong cách dịch và nhận xét của cô. Như trong câu Pàli sau đây:
"Àkankheyya ce bhikkhave bhikkhu: ye me nàtisàlohità petà kàlakatà
pasannacittà anussaranti tesam tam mahapphalam assa mahànisamsanti"
(i,33,21-24), cô Horner dịch: "Mong điều này sẽ làm một cõi lớn, lợi
ích lớn cho bà con quyến thuộc của ta, những người nhớ lại những người
đã chết với tâm hoan hỷ..." nhưng trong Papancasùdanì (I,144), nó
được nói: "Bà con quyến thuộc khi chết nhớ lại những đức tính của
Tỳ-kheo và nhờ vậy chết với tâm hoan hỷ"(Tesam tanti Tesam tam mayi
pasannacittam và Pasannena cittena anussaranam và). Điều này được hỗ trợ
bởi đoạn kinh C tương ứng: "Ta có những quyến thuộc. Mong sao nhờ
ta, mà khi họ mệnh chung, họ sẽ đi đến những nơi tốt đẹp, cho đến
được sinh lên trời." (C105)
Lại nữa trong đoạn sau:
"Hoti kho so àvuso samayo yam bàhirà àpodhàtu pakuppati, antarahità tasmim
samaye bàhirà pathavìdhàtu hoti" (ii, 185, 27-29), cô Horner có quan niệm
rằng, bản văn này sai, đã ghi àpodhàtu thay vì pathavìdhàtu
(M.L.S, tập I, 232, ghi chú 1), nhưng bản C cho thấy bản P không sai. Lại nữa
có ba tai họa là hỏa tai, thủy tai, phong tai (Phật học đại tự điển,
trang 304). Trong Thanh tịnh đạo (Visuddhi Magga) cũng chỉ nói ba samvattà:
aposamvattà (thủy tai), tejosamvattà (hỏa tai) và vàyosamvattà
(phong tai) (chương 13). Một ví dụ khác về cách dịch không đúng của cô
Horner là trong M.L.S, ii, trang 325, ghi chú 6, khi cô chọn chữ kayasmim
theo bản kinh Thái Lan thay vì chọn kàyamhà trong nguyên bản P:
"Gió không thể làm cho y của vị ấy lay động." (M.A.,iii, 393).
Nhưng bản C tương đương chứng tỏ kàyamhà được dùng ở đây:
"Gió không thể thổi bay chiếc y khỏi thân." Lại nữa trong từ ngữ
jàlahatthapàda (bàn tay, bàn chân có màng lưới), cô chọn cách hiểu
của Buddhaghosa trong M.A. iii, 376, là : "Bốn ngón tay của đức Như lai và
năm ngón chân của Ngài có số đo bằng nhau" (M.L.S, ii, 321, ghi chú 2).
Nhưng bản C nói rõ như sau: "Ngón tay, ngón chân có màng lưới như ngỗng
chúa."
Tất cả những nhận xét trên đây
không cốt để chỉ trích bản dịch vĩ đại của cô về kinh Trung bộ,
mà đến nay chưa ai sánh bằng, nhưng chỉ là một đóng góp nhỏ vào công
trình tuyệt diệu mà vị học giả vĩ đại ấy đã hoàn tất.
PHỤ
LỤC 4
Phân loại
222 kinh C theo phẩm, quyển và ngày tụng đọc
A. 18 PHẨM (VARGAS) hay
CHƯƠNG
Chương I: Thất pháp
(Sapta dharmàh): 10 kinh:
1. Thiện pháp kinh, 2. Trú độ thọ
kinh, 3. Thành dụ kinh, 4, Thủy dụ kinh, 5. Mộc tích dụ kinh, 6. Thiện nhân
vãng kinh, 7. Thế gian phước kinh, 8. Thất nhật kinh, 9. Thất xa kinh, 10. Lậu
tận kinh.
Chương II: Nghiệp tương ưng
(Karmasamyukta): 10 kinh:
11. Diêm dụ kinh, 12. Hòa phá kinh,
14. La vân kinh, 15. Tư kinh, 16. Sư tử kinh, 19. Ni kiền kinh, 20 Ba la lao kinh.
Chương III: Xá-lợi-tử tương
ưng (Sàriputrasamyukta): 11 kinh:
21. Đẳng tâm kinh, 22. Thành tựu
giới kinh, 23. Trí kinh, 24. Sư tử hống kinh, 25. Thủy dụ kinh, 26. Cù ni sư
kinh, 27. Phạm chí Đà nhiên kinh, 28. Giáo hóa bệnh kinh, 29. Đại Câu-hy-la
kinh, 30. Tượng tích dụ kinh, 31. Phân biệt thánh đế kinh.
Chương IV: Vị tằng hữu pháp
(Abhutadharma): 10 kinh:
32. Vị tằng hữu pháp kinh, 33. Thị
giả kinh, 34. Bạc câu la kinh, 35. A tu la kinh, 36. Địa động kinh, 37. Chiêm
ba kinh, 38. Úc già trưởng giả kinh (A), 39. Úc già Trưởng giả kinh (B), 40.
Thủ trưởng giả kinh (A), 41. Thủ trưởng giả kinh (B).
Chương V: Tập tương ưng
(Samudaysamyukta): 16 kinh:
42. Hà nghĩa kinh,
43. Bất tư kinh, 44. Niệm kinh, 45. Tàm quý kinh (A), 46. Tàm quý kinh (B), 47.
Giới kinh (A), 48. Giới kinh (B), 49. Cung kính kinh (A), 50. Cung kính kinh (B),
51. Bổn tế kinh, 52. Thực kinh (A), 53. Thực kinh (B), 54. Tận trí kinh, 55. Niết-bàn
kinh.
Chương VI: Vương tương ưng
(Ràjasamyukta): 14 kinh:
56. Di hê kinh, 57. Vị Tỳ-kheo thuyết
kinh, 58. Thất bảo kinh, 59. Tam thập nhị tướng kinh, 60. Tứ châu kinh, 61.
Ngưu phấn dụ kinh, 62. Tần bệ sa la vương ứng Phật kinh, 63. Bệ bà lăng
kỳ kinh, 64. Thiên sứ kinh, 65. Ô điểu dụ kinh, 66. Thuyết bổn kinh, 67. Đại
thiên nại lâm kinh, 68. Đại thiện kiến vương kinh, 69. Tam thập dụ kinh,
70. Chuyển luân vương kinh, 71. Bệ tứ kinh.
Chương VII: Trường thọ
vương (Dìrghàyuràja): 15 kinh:
72. Trường thọ vương bổn khởi
kinh, 73. Thiên kinh, 74. Bát niệm kinh, 75. Tịnh bất động đạo kinh, 76. Úc
già chi la kinh, 77. Sa kê đế tam tộc tánh tử kinh, 78. Phạm thiên thỉnh Phật
kinh, 79. Hữu thắng thiên kinh, 80. Ca hy na kinh, 81. Niệm thân kinh, 82. Chi ly
di lê kinh, 83. Trưởng lão thượng tôn thùy miên kinh, 84. Vô thích kinh, 85.
Chân nhân kinh, 86. Thuyết xứ kinh.
Chương VIII: Uế phẩm
(Anganavarga): 10 kinh:
87. Uế phẩm kinh,
88. Cẩu pháp kinh, 89. Tỳ-kheo thỉnh kinh, 90. Tri pháp kinh, 91. Châu na vấn
kiến kinh, 92. Thanh bạch liên hoa dụ kinh, 93. Thủy tịnh phạm chí kinh, 94.
Hắc Tỳ-kheo kinh, 95. Trụ pháp kinh, 96. Vô kinh.
Chương IX: Nhân phẩm
(Nidànavarga): 10 kinh:
97. Đại nhân kinh, 98. Niệm xứ
kinh, 99. Khổ ấm kinh (A), 100. Khổ ấm kinh (B), 101. Tăng thượng tâm kinh,
102. Niệm kinh, 103. Sư tử hống kinh, 104. Ưu đàm bà la kinh, 105. Nguyện
kinh, 106. Tưởng kinh.
Chương X: Lâm phẩm
(Vanavarga): 10 kinh:
107. Lâm kinh (A),
108. Lâm kinh (B), 109. Tự quán tâm (A), 110. Tự quán tâm (B), 111. Đại phạm
hạnh kinh, 112. A nô ba kinh, 113. Chư pháp bổn kinh, 114. Ưu đà la kinh, 115. Mật
hoàn dụ kinh, 116. Cù đàm di kinh.
Chương XI: Đại phẩm
(Mahàvarga): 25 kinh:
117. Nhu nhuyến kinh,118. Long tượng
kinh, 119. Thuyết xứ kinh, 120. Thuyết vô thường kinh, 121. Thỉnh thỉnh
kinh, 122. Chiêm ba kinh, 123. Sa-môn nhị thập ức kinh, 124. Bát nạn kinh, 125.
Bần cùng kinh, 126. Hành dục kinh, 127. Phước điền kinh, 128. Ưu bà tắc
kinh, 129. Oán gia kinh, 130. Giáo Đàm di kinh, 131. Hàng ma kinh, 132. Lại-tra-hòa-la
kinh, 133. Ưu ba ly kinh, 134. Thích vấn kinh, 135. Thiện sanh kinh, 136. Thương
nhân cầu tài kinh, 137. Thế gian kinh, 138. Phước kinh, 139. Tức chỉ đạo
kinh, 140. Chí biên kinh, 141. Dụ kinh.
Chương XII: Phạm chí phẩm
(Bràhmanavarga): 20 kinh:
142. Vũ thế kinh, 143. Thương ca la
kinh, 144. Toán số Mục-liền-liên kinh, 145. Cù mặc Mục-liền-liên kinh,
146. Tượng tích dụ kinh, 147. Văn đức kinh, 148. Hà khổ kinh, 149. Hà dục
kinh, 150. Uất sậu ca la kinh, 151. Phạm chí A-nhiếp-hòa kinh, 152. Anh vũ
kinh, 153. Man nhàn đề kinh, 154. Bà la bà đường kinh, 155. Tu đạ đa kinh,
156. Phạm ba la diên kinh, 157. Hoàn lô viên kinh, 158. Đầu na kinh, 159. A già
la ha na kinh, 160. A lan na kinh, 161. Phạm ma kinh.
Chương XIII: Căn bản phân biệt
phẩm (Mùlavibhangavarga): 10 kinh:
162. Phân biệt lục giới kinh,
163. Phân biệt lục xứ kinh, 164. Phân biệt quán pháp kinh, 165. Ôn tuyền
lâm thiên kinh, 166. Thích trung thiền thất tôn kinh, 167. A nan thuyết kinh,
168. Ý hành kinh, 169. Câu lâu sấu vô tránh kinh, 170. Anh vũ kinh, 171. Phân biệt
đại nghiệp kinh.
Chương XIV: Tâm phẩm (Cittavarga):
10 kinh:
172. Tâm kinh, 173. Phù di kinh, 174.
Thọ pháp kinh (A), 175. Thọ pháp kinh (B), 176. Hành thiền kinh, 177. Thuyết
kinh, 178. Lạp sư kinh, 179. Ngũ chi vật chủ kinh, 180. Cù đàm di kinh, 181.
Đa giới kinh.
Chương XV: Song phẩm
(Yamakavarga): 10 kinh:
182. Mã ấp kinh (A), 183. Mã ấp
kinh (B), 184. Ngưu giác sa la lâm kinh (A), 185. Ngưu giác sa la lâm kinh (B), 186.
Cầu giải kinh, 187. Thuyết trí kinh, 188. A di na kinh, 189. Thánh đạo kinh,
190. Tiểu không kinh, 191. Đại không kinh.
Chương XVI: Đại phẩm (Mahàvarga):
10 kinh:
192. Ca lâu Ô đà di kinh, 193. Mâu
lê phá quần na kinh, 194. Bạt đà hòa lợi kinh, 195. A thấp bối kinh, 196.
Châu na kinh, 197. Ưu ba ly kinh, 198. Điều ngự địa kinh, 199. Si tuệ địa
kinh, 200. A lê tra kinh, 201. Trà đế kinh.
Chương XVII: Bổ lợi đa phẩm
(Potaliyavarga): 10 kinh:
202. Trì trai kinh, 203. Bô lị đa
kinh, 204. La ma kinh, 205. Ngũ hạ phần kết kinh, 206. Tâm uế kinh, 207. Tiễn
mao kinh (A), 208. Tiễn mao kinh (B), 209. Bệ ma na tu kinh, 210. Pháp lạc Tỳ-kheo
ni kinh, 211. Đại Câu-hy-la kinh.
Chương XVIII: Lệ phẩm (Sanvidahanavarga):
11 kinh:
212. Nhất thiết trí kinh, 213.
Pháp trang nghiêm kinh, 214. Bệ ha đề kinh, 215. Đệ nhất đắc kinh, 216. Ái
sanh kinh, 217. Bát thành kinh, 218. A na luật đà kinh (A), 219. A na luật đà
kinh (B), 220. Kiến kinh, 221. Tiễn dụ kinh, 222. Lệ kinh.
B. 60 QUYỂN
QUYỂN
1-2 |
Phẩm I, Thất pháp |
10 kinh |
3-4 |
Phẩm II, Nghiệp tương ưng |
10 kinh |
5-7 |
Phẩm III, Xá-lợi-tử tương ưng |
11 kinh |
8-9 |
Phẩm IV, Vị tằng hữu pháp |
10 kinh |
10 |
Phẩm V, Tập tương ưng |
16 kinh |
11-16 |
Phẩm VI, Vương tương ưng |
14 kinh |
17-21 |
Phẩm VII, Trường thọ vương |
15 kinh |
22-23 |
Phẩm VIII, Uế phẩm |
10 kinh |
24-26 |
Phẩm IX, Nhân phẩm |
10 kinh |
27-28 |
Phẩm X, Lâm phẩm |
10 kinh |
29-34 |
Phẩm XI, Đại phẩm |
25 kinh |
35-41 |
Phẩm XII, Phạm chí phẩm |
20 kinh |
42-44 |
Phẩm XIII, Căn bản phân biệt |
10 kinh |
45-47 |
Phẩm XIV, Tâm phẩm |
10 kinh |
48-49 |
Phẩm XV, Song phẩm |
10 kinh |
50-54 |
Phẩm XVI, Đại phẩm |
10 kinh |
55-58 |
Phẩm XVII, Bổ lợi đà phẩm |
10 kinh |
59-60 |
Phẩm XVIII, Lệ phẩm |
11 kinh |
C. 5 NGÀY TỤNG
Ngày thứ nhất |
từ phẩm I đến nửa đầu phẩm VI |
64 kinh |
Ngày thứ hai |
từ nửa sau phẩm VI đến phẩm X |
52 kinh |
Ngày thứ ba |
từ phẩm XI đến nửa đầu phẩm XII |
35 kinh |
Ngày thứ tư |
từ nửa sau phẩm XII đến nửa đầu phẩm XV |
35 kinh |
Ngày thứ năm |
từ nửa sau phẩm XV đến phẩm XVIII |
36 kinh |
Mục lục
| 1.1 | 1.2
| 2.1 | 2.2 | 2.3 | 2.4 | 2.5
2.6 | 2.7 | 3.1 | 3.2 | 3.3 | 3.4 | 3.5 | 3.6 | 4.1 | 4.2