Từ khoảng sinh đến tử và từ
tử đến sinh, có một cái xoay tròn, tự nó duy trì xáo trộn thái
quá. Sinh rồi tử, tử rồi sinh tái diễn mãi, như thế không kể
xiết. Cái đó càng xoay tròn thì càng không thấy thủy chung và sự
vãng lai của nó.
Nếu thiếu ánh sáng trong tâm, thì chúng ta cho rằng
cái đó nó chuyển xoay, vô nhân quả, bất quy định, không có chế
độ. Khi đã hiểu lầm như thế thì là cái mối hại vô cùng nguy
hiểm, khiến sinh mệnh chúng ta phải hư hỏng càng chịu trầm luân khổ
hải trong vô lượng kiếp.
Cái đó tức là cái "NGHIỆP".
Cái "nghiệp" tạo ra Trời, Người và Thú bị
giam hãm trong vòng luân hồi sinh tử, tử sinh mãi mãi, đắm chìm
trong bể khổ.
"NGHIỆP" là cái pháp quy định, là luật thiên
nhiên, chỉ cho thấy rõ rằng tất cả những cái chi trong đời đều
có nhân quả. Người tạo nghiệp tức là nhân, sẽ phải thụ quả
tức là sự thành tựu bởi nhân, liên tiếp nhau không ngừng nghỉ.
Đây là luật quy định của thụ quả theo Nghiệp.
Hàng Phật tử cho rằng: Nghiệp hằng đàn áp sinh mệnh
tất cả mọi người cho đến kiếp cuối cùng.
Vì căn cứ vào sự hành vi trong quá khứ, tạo ra sinh
mệnh trong hiện tại, sinh mệnh trong hiện tại gây nên mệnh sống trong
tương lai. Trong nền tảng Phật ngôn có nói rằng:
"Vì cái này có, cái kia mới sinh, từ cái đã
sinh mới có cái khác nữa. Bởi không có cái kia, cái này mới
không có, cái này diệt, cái kia mới diệt".
Thuyết minh rằng: cái quả hằng sinh từ cái nhân,
tiếp liền nhau như thế. Ngoài ra, họ còn lưu tâm rằng: người là
cái quả của năm nguyên nhân là:
- Sự không thấu rõ kiếp quá khứ.
- Sự chìm đắm của tâm liên lạc với lẽ sinh tồn trong đời.
- Sự giữ gìn trông nom sinh mệnh và của cải.
- Nghiệp tức là sự hành vi, ám chỉ đến cái quả của tâm suy
nghĩ, tác dụng trong quá khứ.
- Thực phẩm dùng trong kiếp này.
Về khí chất, họ cũng cho rằng: nó nảy sinh do bốn
nguyên nhân là:
- Cái thiên nhiên của thân thể.
- Cùng một huyết thống của nghiệp.
- Các vật chung quanh.
- Nhân và quả của việc làm trong quá khứ.
Sự thật, mỗi nghiệp hằng có quả liên tiếp, quan hệ
với nhau trước rồi trở thành nhân của quả nữa, tiếp tục liền
nhau.
Thí dụ: người cha sinh con, người con đó sẽ thành
người cha kế thế mãi mãi như vậy.
Đức Phật hằng quan sát điều quy định ấy trong thời
kỳ Ngài vừa giác ngộ. Ngài hiểu biết phân minh rằng đó là
điều chế định cưỡng bách([1]) đời phải
thực hành theo. Ngài tuyên bố rằng: "Khi nào các pháp rõ rệt
đến Bà la môn, là người cố tâm nhìn chăm chăm, khi đó tất cả
hoài nghi của Bà la môn ấy hằng trừ diệt, do được hiểu rõ pháp
của nhân. Nhờ sự thấu triệt([2]) cách trừ diệt
các duyên, Bà la môn ấy mới được trừ khử Ma vương cùng quân
ma và hằng rực rỡ, tươi sáng, ví như vầng trăng chói lọi giữa
không trung vậy".
Điều quy định đã giải như trên, chúng ta gọi là Paticcasamupaada,
"thuyết Thập nhị duyên khởi" hoặc gọi theo cách đàm thoại
là "dây xích của nhân quả".
cái khởi nguyên của điều quy định này, là nguồn
gốc của cái có tất cả sinh mệnh, cái chung qui của nó tức là
sự khổ vậy.
luật nhân quả này, chẳng phải chỉ có trong Phật
giáo, dù trong Thiên Chúa giáo cũng có đại ý để trong kinh rằng:
"Người gieo giống nào họ sẽ được quả ấy".
trong khoa học cũng có vấn đề căn bản như vầy:
"Nhân và quả phải ngang nhau".
Theo ý nghĩa này, phần đông đều nhìn nhận luật nhân
quả, hoặc nói một cách khác, họ cho rằng, khi đã gây nhân tất
phải chịu quả, giống nhau (có vay ắt có trả). Nhưng đa số người
có quan niệm khác nhau, do chỗ hiểu biết rộng hoặc hẹp hơn kém nhau
mà thôi.
Các nhà triết học có nói: "Phật giáo không
giống như Thiên chúa giáo và Hồi giáo..." Phật giáo dạy rằng:
Sự khổ trong đời là do người tạo nghiệp (là quả của nghiệp)
hằng xảy ra tự việc làm của người, mà diệt được cũng do sự
hành vi của họ, không tùy thuộc một hành động của một vị nào
cả.
Trong nền tảng Phật giáo có chép rằng: tất cả quả
đều có nhân và cái đặc tính của người tức là cái quả thu
hoạch được của sự suy nghĩ và hành động trong thời quá khứ
của ta. Nghiệp tức là sự động tác và quả của sự động tác
ấy, hằng duy trì những sở đắc của nó và sức phản ứng chống
lại với các việc xảy đến. Họ có thể trở nên trong sạch bằng
cách tự mình hiểu rõ và có khả năng đạt đến sự giải thoát
trong một ngày nào.
Trong kinh có ghi mọi việc làm của người, không nói
tốt hay xấu, hằng có quả báo ứng, chẳng có một nhân vật nào
đàn áp, thủ tiêu được cái quả của nghiệp. Nghiệp nào đã tạo
thì quả của nó có thể tung ra, rải rác khắp nơi cho đến kiệt
lực, rồi trở lại cho quả nữa.
Nghiệp là phương pháp để phân biệt sự hành vi tốt
hay xấu. Theo chân lý, thì người phải hành thiện, nên trú vững
trong đạo đức nghĩa là chỉ phải làm lành, vì nghiệp dữ hằng cho
quả khổ, không cần nói khổ ấy sanh chóng hay chậm.
Nghiệp chẳng phải là số mệnh rủi may đâu. Nghiệp
nào đã làm thì nên hiểu rằng đã qua rồi, quả của nghiệp sẽ
phát sinh sau, cùng với hiện tại nghiệp tức là sự hành vi trong
đời này. Theo như đã giải đây, thấy rằng: nghiệp là một vấn
đề cần phải tu tập, học hỏi, nhân đó triết học về nghiệp mới
góp nhặt tài liệu để biến thành một quyển sách như đây.
- ([1]) Cưỡng bách: bắt buộc
- ([2]) Thấu triệt: thông suốt