Trong thiên này, giải về yếu điểm
và xác định rằng có nghiệp thì phải có quả báo ứng mãi mãi
đến người tạo.
Chúng ta khi đã gieo giống nào hằng hái quả ấy. Như
gieo lúa, đậu thì gặt được lúa và đậu, không biến chất([2]) như thế nào, thì người tạo việc lành
hằng thụ quả vui; kẻ làm nghiệp dữ thường chịu quả khổ như thế
ấy. Nghiệp tức là hành vi tạo tác.
Theo nhân thì có hai loại:
1.- Lành gọi là thiện nghiệp.
2.- Dữ gọi là ác nghiệp.
Lành là lòng tốt, tính chất tốt, đức hạnh, tiết
nghĩa, tỉnh tháo, liêm khiết, chánh trực, trong sạch hay làm việc
phước.
Dữ là hèn hạ, đê tiện hoặc bất chánh, bất
lương, giả dối, không ngay thật, tội hoặc bất thiện.
Quả cũng có hai là:
1.- Quả lành.
2.- Quả dữ.
Về quả lành có hai là:
1.- Aanisamsa: Lợi đáng hưởng, đáng được,
đáng có, có kết quả tốt.
2.- Nissandaphala: Quả ào vào nghĩa là nảy ra các vật như sinh ra
người xinh đẹp giàu có.
Trong kinh Nidhikandasuutra có giải về quả vui sinh ra
làm:
1.- Người có nhan sắc trong sáng.
2.- Người có tiếng tốt.
3.- Người có hình dạng thích đáng.
4.- Người có hình ảnh đẹp.
5.- Người có thế lực.
6.- Người có nhiều bộ hạ.
7.- Được làm vua.
8.- Hoàng đế.
9.- Vị Chuyển Luân Vương.
10.- Trời Đế Thích.
11.- Người giàu có hạnh phúc.
12.- Người hưởng hạnh phúc trên cõi Trời.
13.- Người hưởng hạnh phúc Niết bàn.
14.- Người có nhiều bậu bạn.
15.- Người thuần thục trong sự minh triết và sự giải thoát.
16.- Bậc đắc 4 pháp phân tích.
17.- Người vô tư lự, được giải phóng.
18.- Bậc thinh văn đáo bĩ ngạn.
19.- Đức Độc Giác.
20.- Đấng Chánh đẳng Chánh giác.
Về dữ cũng có 2 là:
1.- Vippa.tissaaraphala: Quả khích động, than van, buồn
rầu, rên rĩ.
2.- Nissan.daphala: Quả ào vào phát sinh từ các vật không vừa
lòng, như được của cải không tốt, hèn hạ dù không muốn vật
ấy nó vẫn xảy ra. Như mình không mong được con cháu tàn tật,
điên cuồng, mù điếc, ngu độn, phá hại gia sản mà vẫn phải chịu.
Như chúng ta quan sát thấy rõ rằng về thiện nghiệp,
người có lòng trắc ẩn, chừa bỏ sự sát sinh, phần đông là
người ít bệnh và được trường thọ.
Người chừa bỏ trộm đạo hằng có tâm bố thí, làm
việc lành như cất dưỡng đường, dâng đất cất chùa, giúp đỡ
kẻ nghèo khó, tật bệnh v.v. Phần nhiều là người giàu có, dễ tìm
của cải và giữ được lâu dài đến con cháu, không có sự lo
sợ hao hớt xảy ra đến của ấy.
Người chừa bỏ tà dâm, phần đông có con hiếu
thảo, dễ dạy và trong gia đình của con cháu cũng hòa thuận, không
có sự tranh chấp gia tài.
Người chừa bỏ sự nói dối, xúi giục, chửi mắng,
khiển trách v.v. là kẻ chỉ tỏ lời ngay thật, êm dịu, hòa nhã,
phần nhiều được vừa lòng, đuợc ca tụng cúng dường.
Người không uống rượu và các chất say hằng có
trí nhớ, trí tuệ, không mê lầm đến trọn đời.
Về nghiệp ác, người ác tâm độc dữ hằng sát sanh
hại vật, trộm đạo gian xảo, lường gạt, lấy của người tìm tài
sản theo lối bất chánh, nói dối chửi mắng, xúi giục người chia
rẽ, uống rượu và các chất say, hằng là người nhiều bệnh, hay
gặp tai nạn, hao tài, tổn mệnh. Khi hấp hối hay có tâm mê loạn, lo
lắng, băn khoăn, lăn lộn (động đậy, vật mình, khóc lóc, thở than
như bị lửa thiêu). Dù có nhiều của cũng khó giữ được kiên
cố, và bị con cháu tranh giành nhau rồi cũng tiêu tan, hoặc sẽ trở
về phần người khác.
Người tà dâm hằng bị hại trong hiện tại.
Quả của nghiệp như đã giải, nếu chưa đến thì sau khi
thác sẽ chịu khổ trong kiếp sau, chắc chắn không sai vậy.
Có kẻ hỏi: nhiều người hoài nghi hay hiểu lầm rằng,
cớ sao kẻ làm lành không gặp vui mà người dữ lại được hạnh
phúc, thạnh vượng như thế, lời dạy của Đức Phật có sai chăng?
Theo lời hỏi đây, có giải rằng: Nói làm lành ấy
họ làm ra sao? Vì có người lầm rằng, dù họ làm lành cũng có
điều sơ sót, không để ý nhớ, cố gắng lưu tâm đến phận sự
chân chánh ngay thật. Họ có ý kiến độc đoán, cang ngạnh, khoe mình
thái quá, phỉ báng kẻ khác cho đến bậu bạn cùng làm việc chung
và kẻ phục dịch, họ lại còn làm cho người ngờ vực nữa. Nhân
đó điều nói là làm lành ấy là phải có đủ hành vi tốt đẹp
biểu hiện([3]) cùng một lúc nghĩa là làm
lành theo sự hiểu biết? Thực hành bằng sự sáng trí đồng thời
với Thân, Khẩu, Ý chính đáng không khuyết điểm, không tỳ vết
nào nghĩa là phải ngay thật, liêm khiết cả các cái lành và lòng
ngay thật nữa, như vậy thì phúc phận([4]) không
hư hỏng.
Về người làm dữ mà được vui, có thể nhờ
nghiệp lành của họ trong kiếp Này hoặc kiếp trước theo báo ứng
cho quả vui trong lúc ấy. Những nghiệp dữ của họ sẽ phải cho quả
khổ, theo báo trả lại không sai.
Điều căn bản quan trọng không nên quên là:
Dù người làm dữ nhưng còn gặp quả vui vì quả dữ
chưa tới, phước báo trong quá khứ còn cho quả trong hiện tại,
nhưng khi quả khổ đến, người làm dữ hằng chịu khổ chẳng sai.
Dù người làm lành, nhưng còn chịu quả khổ vì
nghiệp lành chưa cho quả, do tội ác trong quá khứ còn lại trong hiện
tại. Song khi quả lành đến, họ hằng thấy vui, thật vậy.
Về phần cho quả của nghiệp, chúng ta có thể chia ra
làm 3 căn bản là:
1.- Nghiệp mà người đã tạo trong quá khứ (cả
nghiệp lành và nghiệp dữ) hằng cho quả trong quá khứ cũng cho quả
trong hiện tại và trong tương lai.
2.- Nghiệp lành và nghiệp dữ mà người đã tạo
trong hiện tại hằng cho quả trong lúc này hoặc trong tương lai cũng
có.
3.- Nghiệp lành và nghiệp dữ mà người sẽ tạo trong
tương lai, thường chỉ cho quả trong tương lai mà thôi, không đảo
ngược.
Trong kinh Cuulakammavibha.ngasuutra có thuyết về quả
của nghiệp, ghi rõ rệt theo ý kiến của Phật giáo rằng:
1.- Người yểu tử, vì tội dư sót của sự sát sinh
đã làm trong quá khứ.
2.- Người có nhiều bệnh hay lo sợ bị hãm hại, là
người làm hại, đánh đập làm khổ chúng sinh.
3.- Người có màu da xấu xí vì tội sân hận, bất
bình, làm hại, thù oán kẻ khác.
4.- Người vô thế lực hằng là hạng thấp hèn vì
tội ganh tỵ, vu oan đổ lỗi cho kẻ khác.
5.- Người sinh ra trong dòng hạ tiện, nghèo khó vì tội
canh nạnh, khinh rẻ kẻ khác, không tôn trọng, kính nhường bậc đáng
cúng dường.
6.- Kẻ ăn xin vô tài sản, dù kiếm được của rồi,
gìn giữ cũng không lâu, bị nhiều tai hại, hao tốn tài sản, vì trộm
đạo hay bủn xỉn, keo kiết, không chia sớt đến kẻ khác.
7.- Người ngu độn, vô trí tuệ vì tội cứng cỏi,
không tìm học hỏi với hàng học thức hoặc chế giễu kẻ khác có
trí tuệ không bằng nhau.
Về nghiệp lành ý nghĩa trái ngược với nghiệp dữ.
- ([1]) Báo ứng: trả lại.
- ([2]) Biến chất: thay đổi ra thứ khác.
- ([3]) Biểu hiện: bày ra.
- ([4]) Phúc phận: phần phước được hưởng.
Lời nói đầu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18