Trong Thanh Tịnh Kinh (visuddhimagga)
quyển III có giải (12) mười hai thứ nghiệp chia ra làm ba loại là:
Loại I- Nghiệp cho quả theo thời có bốn:
1- Ditthadhammavedaniiyakamma: Nghiệp cho quả hiện tại.
2- Upapajjavedaniiyakamma: Nghiệp cho quả trong kiếp kế tiếp (sau khi
thác).
3- Aparaaparavedaniiyakamma: Nghiệp cho quả trong các kiếp sau sau.
4- Ahosikamma: Nghiệp thôi cho quả.
Loại II- Nghiệp cho quả theo công việc là theo phận sự
của nghiệp có bốn:
1- Janakakamma: Nghiệp sinh sản.
2- Upatthambhakakamma: Nghiệp vào cấp dưỡng.
3- Upapilikakamma: Nghiệp vào áp chế.
4- Upaghàtakakamma: Nghiệp vào sát hại.
Loại III- Nghiệp cho quả theo thứ tự là tùy nặng
nhẹ của nghiệp cho quả trước hay sau, có bốn:
1- Garukamma: Nghiệp nặng.
2- Bahulakamma: Nghiệp thường có.
3- Asannakamma: Nghiệp cận thời. (Nghĩa là nghiệp làm hoặc nhớ
được trong khi hấp hối)
4- Katattakamma: Nghiệp vô ý (không cố ý làm).
4.1 Loại I nghiệp cho quả theo thời
1- Ditthadhammavedaniiyakamma:
Tiếng Ditthadhammavedaniiyakamma: dịch là nghiệp cho
quả trong hiện tại.
Chú thích: Nghiệp có sức mạnh cho quả nhãn tiền,
người tạo thụ quả trong đời này.
Nghiệp này chia ra làm hai:
A- Cho quả trong bảy ngày gọi là parisattadit
thadhammavedaniyakamma.
B- Cho quả lâu hơn trước song quả quyết, sau khi thác phải thụ quả
cũng gọi là: ditthadhammavedaniyakamma: như trên.
Nghiệp cho quả nhãn tiền có hai:
A- Vui
B- Khổ.
A- Nghiệp Lành Cho Quả Nhãn Tiền
Chú thích: Trong kinh đô raajagaha có chàng nhà
nghèo tên Pu.n.na phải làm tôi mọi cho một triệu phú gia (làm
ruộng mỗi ngày) vợ y thường bữa đem cơm cho dùng.
Ngày kia Đức Xá Lợi Phất xuất diệt thọ tưởng
định (Nirodhasamaapatti) rồi quan sát thấy rằng: vợ của Pu.n.na
có thể cúng dường được và khi Ngài đã thọ rồi, chàng Pu.n.na
sẽ thành địa vị triệu phú gia. Thấy như thế Ngài mặc y mang bát đi
theo đường mà vợ chàng Pu.n.na đang đem cơm cho chồng. Gặp
Đức Xá Lợi Phất, nàng rất hoan hỉ đem thực phẩm dành cho chồng,
dâng hết đến Ngài, rồi trở về nhà lấy thực phẩm mới cho
chồng. Khi chồng nàng dùng xong, nàng mới thuật lại, việc cúng cơm
đến Đại Đức và cầu chàng hoan hỉ phước thí thực ấy.
Chồng nàng cũng đồng vui thích như vợ, xong rồi chàng
Pu.n.na trở ra cày ruộng nữa. Những lằn đất cày đều biến
thành vàng tức tốc. Chàng Pu.n.na mới đem câu chuyện tâu cho
đức vua rõ. Vua sai người đến chở vàng ấy đi, nhưng khi chở lên
xe thì vàng trở thành đất. Nhà vua biết rằng phước dành riêng cho
Pu.n.na, nên vua bèn phong chàng làm đại phú gia mahaadhanase.t.thi.
B- Ditthadhammavedaniiyakamma - Ác:
Nghiệp ác của mandagoghaataka (người hàng bò)
Như có tích rằng: Có người hàng thịt giết bò bán
để nuôi sống. Y làm nghề này hơn năm mươi năm. Vì đã thường
dùng thịt, trong mỗi bữa ăn nên phải có thịt bò y mới ăn cơm
được. Ngày kia vợ hắn bán hết, không có đủ thịt để làm món
ăn, nên hắn giận không dùng cơm, liền cầm dao ra cắt lưỡi bò
sống, bảo vợ đem nướng rồi ngồi chờ ăn. Khi vợ hắn nướng
xong đem cho hắn dùng ngay, nhưng miếng thịt lưỡi bò chưa xuống đến
dạ dày quả của nghiệp ác phát sinh tức khắc, nghĩa là lưỡi của
nanda rớt liền xuống mâm cơm. Nanda la khóc như tiếng bò, chịu vô
cùng khổ sở, chết rồi thụ sinh trong vô gián địa ngục (aviciinakara).
Ác Nghiệp Của Nàng Ci~ncamaanavikaa
Trong sơ giác thời Phật giáo (pathamabodhikaala)
lợi danh phát sinh rất nhiều đến Chư Tỳ khưu trong Phật giáo.
Bọn ngoại đạo thì suy vi, kém sút, nên các thầy sinh
lòng ghen tỵ, mong được lợi danh về mình, bèn hội họp nhau để trù
tính mưu mô, làm cho hư danh mất lợi đến Phật giáo. Rốt cuộc các
thầy đồng ý nhau rằng: kế hoạch sẽ được kết quả do nàng Ci~ncamaanavikaa.
Như thế, khi nàng Ci~ncamaanavikaa vào chùa các sư ngoại đạo giả
bộ bất bình không thốt lời chi cả. Nàng hỏi:
- Bạch các Ngài giận tôi về vấn đề gì, nên không
tỏ lời chi cùng tôi?
Các thầy đáp:
- Chúng tôi không giận chi nàng đâu, nhưng hiện nay
nàng không hiểu sao; chúng ta đâu còn được an vui gì, bởi Đức
gotama (Cồ Đàm) làm cho chúng ta phải khổ sở.
- Vậy, tôi phải làm thế nào cho các Ngài được vui?
- Nàng có sắc đẹp, chúng ta thấy nàng có thể làm
tội đến Đức cồ đàm được.
Nghe các thầy ngoại đạo nói như thế, nàng Ci~ncamaanavikaa
hiểu ngay nên nhận lời rồi từ giã trở về nhà.
Từ đấy, trong mỗi buổi chiều mát, hàng Phật tử
đã thính pháp xong từ Đức Thế Tôn trở về nhà. Nàng Ci~ncamaanavikaa
đi theo con đường vào kỳ viên tịnh xá, khi có người hỏi nàng đi
đâu? Nàng đáp: "Đi vào kỳ viên tịnh xá".
Đến buổi sáng khi tín đồ dẫn nhau đến chùa thì
nàng lại trở về.
Thiện tín hỏi thì nàng đáp: "Tôi từ kỳ viên
tự trở về".
Như thế, trải qua nhiều ngày quần chúng đem lòng ngờ
vực. Sau rồi nàng có cho họ biết rằng: nàng vào ngụ chung cùng
Đức cồ đàm. Dần dần nàng độn bụng dường như phụ nữ mang
thai, cho đến khi độn bụng to như gần đến kỳ lâm bồn. Xong, nàng
đến trước mặt Phật, giữa tứ chúng (Chư Sư và Thiện tín đang
nghe pháp), nàng khiển trách Đức Phật rằng:
- Này Đức Cồ đàm! Ngài hãy quan sát coi có xứng
đáng không? Tôi nay đã thai nghén gần ngày; Ngài lầm tưởng như
không hay biết hử? Vì sao không tội nghiệp tế độ Ci~ncamaanavikaa
chút nào vậy. Ngài chỉ có biết khoái lạc, nhưng không biết sắp
sửa cho tôi khai hoa nở nhụy được an toàn sao? Dù Ngài không biết
cách lo liệu thế nào, thì cũng nên bảo kẻ hộ Ngài như đức vua pasenadikosala,
ông cấp cô độcv.v. trông nom sự sinh đẽ thế sao? Ngài chỉ biết
thỏa mãn tình dục, đến lúc tôi mang thai lại chẳng có một lời
thăm hỏi đến Ci~ncamaanavikaa chút nào cả.
Có phương ngôn rằng: "Khi nàng Ci~ncamaanavikaa thốt
lời nhiếc mắng đức Phật vậy, ví như người làm hại vầng trăng
trên không trung xa vong([1]) làm hại được
vầng trăng không hay biết bị ai làm hại thế nào, hằng lóng lánh
sáng ngời như thường; và ví như người dùng cục phẩn nhét vào
mồm của chính mình, thật vậy".
Khi nàng Ci~ncamaanavikaa thốt lời nhục mạ giữa
tứ chúng như vậy, Đức Phật đáp rằng:
- Nàng Ci~ncamaanavikaa ! Những lời nàng thốt
đây, không rõ rệt đến kẻ khác mà họ cũng không hay không thấy,
chỉ có như lai và nàng rõ câu chuyện ấy, có phải vậy chăng? Trong
lúc ấy, chỗ ngụ của Đức Trời Đế Thích chuyển động (Pháp cú
kinh có nói: chỗ ngụ của Đức Đế Thích là một tảng đá màu
vàng, dài lối sáu mươi do tuần, rộng sáu mươi do tuần, dầy mười
lăm do tuần, khi Đức Đế Thích ngự lên thì nó hạ mình xuống,
Ngài xuống rồi nó phồng lên). Khi bảo tọa của Ngài có dáng điệu
như thế, Đức Đế Thích dùng thiên nhãn quan sát hiểu ngay rằng
nàng Ci~ncamaanavikaa đang vu cáo Đức Thế Tôn bằng lời thô lỗ
giữa Tứ Chúng làm cho họ ngờ vực. Ngài liền xuống kỳ viên
tịnh xá, rồi biến làm con chuột vào cắn dây và vải mà nàng đã
độn cho đứt lìa rơi xuống giữa hàng Tứ Chúng.
Thấy như thế, đại chúng biết rõ rằng nàng Ci~ncamaanavikaa
vu cáo Đức Thế Tôn, họ bèn bu chung quanh giết nàng, đất liền
nứt ra rút nàng vào trong vô gián địa ngục.
Nghiệp Ác Của Hoàng Tử Duttha Rajakumara
Hoàng tử đi đến vườn ngự uyển thấy chúng dân
đang cúng dường Đức Độc Giác Phật, không tỏ lòng tôn kính
Ngài, Hoàng tử phát sân xúi voi đuổi Đức Độc Giác Phật cho
đến cùng, rồi giật bát của Ngài đổ bỏ thực phẩm xuống đất
rồi nói tiếp rằng: "Đức Thầy giận ta, làm gì đến ta
được".
Khi đó nghiệp dữ cho quả nhãn tiền, khắp thân thể
Hoàng tử nóng nảy rất mong được uống nước, nước đem đến
từ các nơi cho Hoàng tử uống nhưng, các đồ đựng nước đều
cạn khô. Không có nước uống nên Hoàng tử thác, rồi đọa vào
vô gián địa ngục trong khi ấy.
2. Upapajjavedaniyakamma:
Upapajjavedaniyaakamma: là nghiệp cho quả khi đã sinh ra rồi
trong kiếp kế tiếp là nghiệp nhẹ hơn trước, và sẽ cho quả khi đã
sinh ra trong kiếp kế bên.
nghiệp Này có hai:
a/. thiện
b/. Aùc.
Trong kinh có ghi rằng: Nghiệp này chỉ về tác ý thứ
bảy cho kết quả đến người tạo lành hay dữ theo tác ý tốc lực
tâm thứ bảy, cho thành tựu quả, trong cõi kế tiếp đời hiện tại
này, tức là trong kiếp thứ nhì tiếp theo.
a/. Upapajjavedaniyakamma lành có tâm là:
1) pathamajhaana: Sơ thiền
2) dutiyajhaana: Nhị thiền
3) tatiyajhaana: Tam thiền
4) catutthajhaana: Tứ thiền
(Bốn thiền hữu sắc).
5) akaasaa~na~ncaayatanajhaana: Hư không vô biên thiền.
6) vi~n~naa~nancaayatana: Thức vô biên thiền.
7) aki~nca~n~naayatana: Vô hữu sở thiền.
8) nevasa~n~naanaasa~n~naayatana: Phi phi tưởng thiền.
(Bốn thiền vô sắc)
Sơ thiền có năm chi: suy, sát, phỉ, an và định.
Nhị thiền có bốn chi: sát, phỉ, an và định.
Tam thiền có ba chi: phỉ, an và định.
Tứ thiền có một chi: là định, nhưng sự thật thì
có xả nữa, như thế thì có hai chi định và xả.
Người đắc thiền không dứt, khi chết sinh trong cõi
Phạm thiên. Đắc thiền hữu sắc được lên cõi Phạm thiên hữu
sắc. Đắc thiền vô sắc đến cõi Phạm thiên vô sắc.
Vấn: Có lời hỏi rằng: "Người không đắc
thiền, nhưng phát tâm làm lành (bố thí, trì giớiv.v. ) được sinh
trong cõi trời, như thế được gọi là: upapajjavedaniiyakamma lành
không, tại sao? "
Đáp: Cũng gọi là upapajjaniiyakamma lành như nhau,
vì cho quả trong kiếp kế tiếp, nhưng khác nhau là các nghiệp lành như
bố thí, trì giớiv.v. . không nhứt quyết rằng sau khi chết sẽ được
sinh trong cõi trời, bởi có người cũng sa trong ác đạo trước,
khỏi rồi mới được lên trời. Nhưng về thiền định, như đã giải
trên thì quả quyết rằng, nếu đắc thiền mà không dứt thì phải
sinh trong cõi Phạm thiên, sau khi thác.
b/. Upapajjavedaniyakamma ác là:
1/- Giết mẹ.
2/- Giết cha.
3/- Giết Đức A-la-hán (Thinh văn giác).
4/- Chích máu Phật tổ.
5/- Chia rẽ Tăng.
Người phạm trong ngũ nghịch đại tội ấy (anantaraayakamma)
dù có tạo được các phước (như tạo tháp xá lỵ bằng vàng,
chùa hoặc trai Tăng trong sa bà thế giới) cũng không thể ngăn ngũ
nghịch đại tội ấy được, khi thác chắc chắn phải đọa trong vô
gián địa ngục.
Giải rằng: Hành giả quyết tâm hành thiền được
thuần thục, từ tứ thiền hữu sắc đến tứ thiền vô sắc, thác
rồi được sinh trong cõi Phạm thiên do năng lực một thiền nào. Khi
thiền cao nhất cho quả, rồi các thiền thấp thì ahosikamma là
không cho quả. Ngũ nghịch đại tội cũng vậy, nếu người nào phạm
cả năm tội, một tội nào cho đầu thai, thì các tội kia cũng ngưng
cho quả.
Quả quyết rằng: upapajjavedaniyakamma cho quả ngay trong
cõi thứ nhì, tiếp theo kiếp Này.
upapajjavedaniyakamma ví như thợ săn bắn nhằm thịt
rừng như tích devadatta (đề bà đạt đa) và vua A Xà thế.
3. Aparaaparavedaniyakamma:
Tiếng aparaaparavedaniyakamma: là nghiệp cho quả trong các
kiếp sau (tức là trong các cõi sau sau), từ cõi thứ ba nối tiếp
cõi thứ hai (upapajjavedaniyakamma) khi có dịp là cho quả ngay, ví
như loài chó đuổi theo thú rừng, rượt theo kịp trong nơi nào, nó
cắn xé trong nơi ấy.
Chú thích: Người tạo nghiệp nào rồi, sẽ thụ quả
trong các kiếp sau không có thể nhất định thời kỳ cho quả. Đây
chỉ về tác ý tạo nghiệp, tốc lực tâm nhảy đến năm bực gọi
là: aparaaparavedaniyakamma. Nghiệp này không có ahosikamma nghĩa là
chưa đắc A-la-hán đạo, chưa đoạn tuyệt được phiền não luân
hồi, thì nghiệp này dính theo mãi, bất cứ là kiếp nào khi được
cơ hội là cho quả ngay; ví như chó đuổi theo kịp thú, nó hằng nhảy
đến cắn xé không chịu buông tha. Sớm hay muộn không nhứt định,
chó chỉ rượt theo mãi mãi. aparaaparavedaniyakamma hằng dính theo chúng
sinh mỗi kiếp, chẳng có một ai thoát khỏi được.
Nghiệp này có hai:
a/- Thiện
b/- Ác.
a/- Apraapavedaniyakamma ác:
Nếu có nghiệp lành mạnh hơn thì ác chưa cho quả, khi
thiện giảm sức ác mới có chủ quyền.
Chú thích: jatilasetthii (triệu phú gia jatila) trong
kiếp chót triệu phú gia này sinh làm con một kỷ nữ, nàng dạy tỳ
nữ để trong nồi rồi đem bỏ giữa đại lộ, đấy là aparaaparavedaniyakamma
ác.
Tích Đức Bồ Tát:
Thuở Ngài sinh ra làm mahaajanaka([2])
bị chìm thuyền giữa bể phải lội đến bảy ngày. Kiếp làm suva.n.nasaama
đạo sĩ bị tên của vua kapilaya đều là quả của aparaaparavedaniyakamma
ác.
Tích bảy vị Tỳ khưu:
Trong thời kỳ Đức Phật chúng ta có bảy vị Tỳ khưu
đi đến hầu Phật, giữa khoảng đường vào nghỉ trong một cảnh
chùa. Vị Sư cả bèn cho ngụ trong một hang núi, nhưng nửa đêm có
một tảng đá rớt xuống che lấp miệng hang, dù là ai đến tiếp mở
thế nào cũng không được.
Cả bảy thầy Tỳ khưu ấy chịu đói khát trong hang đá
đến bảy ngày. Đến ngày thứ tám tảng đá ấy tự nhiên ngã ra.
Các thầy bạch cho Phật rõ và hỏi về nghiệp cũ của
mình. Đức Thế Tôn giảng rằng: ấy là quả của nghiệp cũ của các
thầy đã đuổi con kỳ đà vào trong gò mối đến bảy ngày.
b/- Aparaaparavedaniiyakamma lành:
Nếu nghiệp dữ có sức mạnh hơn đang cho quả thì aparaaparakamma
lành không cho quả được.
Khi nghiệp dữ yếu sức, nghiệp lành Này mới là
chủ động.
Chú thích: Nàng mallikaa Hoàng hậu của vua
pasenàdikosala lúc còn sinh tiền, bà có nhiều đức tin đề xướng
cuộc tài thí vô song (asadisadaana) nhưng khi thác phải sinh trong
địa ngục bảy ngày rồi mới lên cõi Trời. Đây là aparaaparaniiyakamma
lành.
4.-Ahosikamma:
Ahosikamma: là nghiệp đã cho quả rồi nghĩa là nghiệp
đã qua thời kỳ cho quả, ví như hạt giống hết phát nha([3])
vậy.
4.2 Loại II nghiệp cho quả theo phận sự
1- Janakakamma:
janakakamma: là sinh sản. Nghĩa là có thể dẫn người
tạo nghiệp từ kiếp này đi sinh ra trong kiếp khác. Ví như cha sinh con
gọi là kammayonii (nghiệp sinh sản).
Giải rằng: Lành và dữ dẫn đi thụ sinh, không cho
quả trước khi thụ sinh, chỉ cho quả trong thời kỳ thụ sinh. Nghiệp cho
quả như vậy gọi là: Janakakamma. Nghiệp lành và dữ cho quả
trước khi thụ sinh về phần các nghiệp khác. Janakakamma, ví như
mẹ sinh con, chỉ là người sinh mà thôi, phần vú nuôi săn sóc,
trông nom hài nhi.
2- Upa.t.thambhakakammam:
upa.t.thambhakakamma: là nghiệp vào cấp dưỡng, nghĩa là
sau khi đã sinh, nghiệp này mới vào cung cấp, cũng gọi là kammabandhu
(nghiệp là thân quyến) nếu là janakakamma lành thì nuôi nấng
hài nhi được an vui, ví bằng là yanakamma dữ thì cung cấp thêm
sự khổ.
Chú thích: upa.t.thambhakakammam lành ủng hộ cho sự
tăng gia sự thịnh lợi và sự thạnh thế.
tích đức vua adadhamaasakaraaja:
Có ghi trong kinh chú giải rằng: Đức vua adadhamaaraaja
trước là một người nghèo gánh nước mướn, dành để được
năm cắc. Ngày kia Đức vua Baaraanasii báo cáo cho biết sẽ làm
đại lễ hài kịch ai không dự vào thì bị phạt vạ. Vợ chồng anh
nhà nghèo ấy bèn tính góp tiền lại được một đồng.
Chia một phần để mua hoa thơm, một phần mua thực phẩm.
Đồng ý cùng nhau rồi, chồng định đi lấy tiền đã giấu phía bắc
thành phố, xa nhà lối mười hai do tuần.
Đi đường lúc trời nắng gắt, nóng nực như hơi
lửa, dù như thế y vẫn vui thích, mặt mày hớn hở đi và hát,
dường như đi trên đường mát mẻ. Khi qua trước hoàng cung, Đức
vua udayaraaja nghe thấy bèn ra lịnh cho quan hầu ra gọi y vào yết
kiến và Ngài phán rằng:
- Vì sao người vui thích ca hát giữa đường, lúc
trời nắng chang chang?
Hắn tâu rằng:
- Tâu lịnh Hoàng thượng mặt trời dù nắng gắt đến
đâu cũng không sao bằng ánh nóng của tình dục, tâu lịnh hoàng
thượng, tôi đi lấy tiền về chung góp với của vợ tôi.
Nghe như vậy, Đức vua rất hoan hỉ chia nửa giang sang cho
và phong cho vợ hắn làm hoàng hậu, rồi bố cáo cho nhân dân rằng:
nay có hai vua cùng nhau thống trị trong nước. Đức vua mới ban hiệu
cho là adadhamaasakaraaja. Đây là thí dụ nghiệp upa.t.thambhakakamma
lành và cung cấp.
nghiệp này vào cấp dưỡng có hai:
1.- Phá tiêu tai nạn.
2.- Bổ khuyết của cải.
Như tích: Có một gia đình kia, từ ngày kết hôn đến
ba năm không có con, rồi trì trai để cầu con, không lâu người vợ
thai nghén, song gia đình nghèo khổ. Sau khi sinh được con trai thì trở
nên khá dần dần. Con trai ấy nên bốn năm tuổi thì ngày càng phú
túc, đây là: upa.t.thambhakakamma lành vào ủng hộ đứa trẻ
đó.
Về upa.t.thambhakakamma dữ cũng vào cung cấp cho sa
sút khốn cùng.
nghiệp Này cũng có hai phận sự:
1.- Làm cho sinh tai nạn.
2.- Khiến của cải tiêu tan.
Lời chú giải có nói, nghiệp vào ủng hộ về phần
dữ, vì thiếu pháp từ ái, có tâm keo kiết và làm hại kẻ khác.
Như tích: Anandasetthii và quỷ Dạ xoa dưới đây:
Anandasetthii (triệu phú gia Ananda) keo kiệt, không bố
thí và trì giới, từ ngày sinh ra, nhưng được làm triệu phú do
tiền kiếp có trai tăng đến chư Tỳ khưu.
Bởi nghiệp bủn xỉn ấy, sau khi thác phải thụ sinh vào
nhà bần khổ. Từ ngày đầu thai vào lòng mẹ, bọn ăn xin trong nhóm
quen hành khất đủ nuôi sống, thì trở nên thiếu thốn. Sau rốt, bọn
ăn mày không cho người mẹ mang mển ấy đi chung cùng bọn. Khi sinh
được hài nhi, người mẹ rời bỏ con, vì nếu đem theo thì hành
khất không được.
Lớn lên nhớ được tiền kiếp, trẻ ấy đi ngay đến
nhà mình trong đời trước là triệu phú, song bị các con không cho
vào nhà, còn thêm bị đánh đập khổ sở nữa. Đây là nghiệp
cấp dưỡng về phần ác.
Trong kinh chú giải có ghi rằng, quả của nghiệp ác
này phát sinh đến người bội ân hại kẻ khác rằng:
Người tính làm dữ kẻ không làm hại lại, phải
chịu khổ muôn phần là bị hành phạt nặng nề, tiêu tan của cải,
loạn trí, bị vu cáo, lửa cháy nhàv.v.
3- Upapiilikakamma:
upapiilikakamma: là nghiệp vào áp chế. Nghiệp này trái
với janakakamma khi janakakamma sinh sản rồi upapilikakamma vào ngăn quả
của janakakamma không cho nẩy mầm đầy đủ. Nếu janakakamma lành sinh ra
cho đẹp thì nghiệp kia vào ngăn cho giảm sức như câu "jotitamaparaayano:
sáng tới rồi, có tối đi phía trước". Nếu janakakamma dữ sanh ra
thấp hèn nghiệp kia cũng vào ngăn như câu: "tamojotiparaayano:
tối đến rồi có sáng đi phía trước" gọi là nghiệp ngăn cho
giảm.
upapiilikakamma là nghiệp vào áp chế quả của nghiệp
khác, trong khi nghiệp này cho quả; nghiệp kia theo kịp áp chế sự vui
hay khổ, không cho vui và khổ trú vững lâu dài.
chú giải: Nghiệp nào vào áp chế sự vui và sự
khổ của các nghiệp, rồi tự mình cho quả, nghiệp ấy gọi là upapiilikakamma.
upapiilikakamma chỉ chờ làm cho giảm bớt quả của các nghiệp
khác, chia ra có hai:
1- Lành.
2- Dữ.
Chú thích: Tích Hoàng tử sunakkhattalicchavii, ban
đầu phát tâm vui thích trong Phật giáo, vào xuất gia theo luật pháp
rồi hành thiền đắc nhãn thông, nhưng không được chứng quả cao
thêm nữa. Đến ba năm Ngài chán nản, hiểu lầm rằng: "Đức
Phật chỉ đắc nhãn thông, nên không dạy ta đạt đến nhĩ thông.
Nếu đã đắc nhĩ thông thì Ngài đã dạy ta rồi". Khi đã nghĩ
quấy như vậy: sunakkhattalicchavii xin hoàn tục rồi tu theo ngoại
đạo sau khi thác đọa trong a tỳ địa ngục.
Về upapiilikakamma lành đến ngăn, áp chế quả
của ác nghiệp, xin xem tích dưới đây:
Chàng Vaatakaalaka được vua phong làm đao phủ thủ
trong thành raajagaha, có phận sự hạ sát kẻ cướp. Tựu chức
ấy hơn năm mươi năm rồi về hưu. Thường lệ y không mặc y phục
mới, đẹp, trong thuở còn tại chức. Nên chi khi được về hưu y
mong trang sức cho đẹp, bèn bảo vợ nấu cơm sữa. Y đi tắm rửa
xong, mặc y phục mới trở về nhà, giữa đường gặp Đức Xá
lợi phất đi trì bình, y nảy tâm vui thích, thỉnh Ngài về nhà dâng
cơm sữa. Đức xá lợi phất ngọ thực xong chú nguyện rồi Ngài
về chùa. Chàng đao phủ thủ ấy theo đưa, rồi trở về bị bò báng
chết giữa đường. Do sự thí thực ấy, y được sinh lên cõi
Trời.
Theo tích này, cho thấy rằng, thiện nghiệp áp chế ác
nghiệp (vì y tạo ác nghiệp không ít) phải sa trong khổ cảnh, nhưng
nhờ được làm lành áp chế ác nghiệp, được sinh lên cõi
Trời.
4- Upacchedakakamma:
upacchedakakamma: là nghiệp vào sát hại, nhưng trong Thanh
Tịnh Kinh (visuddhimagga) gọi là Upaghaatakakamma.
Trong Kinh chú giải có ghi:
upapii.likakamma như đã giải Upaghàtakakamma hay
upacchedakakamma nói đại khái thì giống nhau, sự cho quả cũng như nhau,
chỉ khác nhau về tiếng Pàli là: upapii.likakamma dịch là vào áp
chế.
upacchedakakamma dịch là: vào sát hại. upacchedakakamma
này chia ra có hai:
1- Lành.
2- Dữ.
chú giải: Dẫn tích Long vương eraakapattanaagaraaja
đây cho thấy rằng, nghiệp dữ cắt đứt nghiệp lành như: Long vương eraakapattanaagaraaja
này trong kiếp trước là một vị Tỳ khưu trong thời kỳ Phật kassapa.
Có đức tin tu phạm hạnh được hai muôn năm. Ngày kia, đi thuyền,
Ngài nắm lá gừa tại một mé sông, khi ghe đi thì lá gừa ấy
đứt, rồi Ngài quên sám hối. Trong giờ sắp chết, Ngài nhớ đến,
mong sám hối theo luật định, nhưng tìm không có Tỳ khưu, Ngài phát
tâm bôn chôn lo ngại, chết rồi sanh làm Long vương danh là eraakapatta.
về nghiệp lành bị nghiệp ác cắt đứt, có tích như
vầy:
Cha của một vị Tỳ khưu là người thợ săn giết thú
đem bán để nuôi mệnh, đến tuổi già mới vào xuất gia làm Tỳ
khưu nơi vị Tỳ khưu con trai của y. Vị này cho học thiền nhưng chưa có
kết quả chi. Tâm của thầy vẫn nhớ tưởng đến thú đã giết.
Thầy bèn bạch cho ông con nghe, ông con khuyên tĩnh cho tham thiền mãi,
khi gần chết, ông con nghĩ rằng, cha ta không nên sinh trong khổ cảnh,
nên ông liền tìm lễ vật cúng dường Tháp bảo. Vị Tỳ khưu cha nhìn
xem các lễ vật cúng dường để trên giường ngay trước mắt, ông
vui thích rồi dùng lễ vật ấy đem cúng tháp nên được sinh lên
cõi Trời.
4.3 Loại III - Nghiệp cho quả theo thứ tự
Garukamma: dịch là "nghiệp nặng", có hai:
1- Nghiệp ác nặng thuộc về ngũ nghịch đại tội (pa~ncàntaràyakamma).
2- Nghiệp thiện cao (thuộc về thiền định).
Trong khi thụ quả, nghiệp nặng cho quả trước (ví như
các đồ vật) sắt, đáv.v. từ trên cao rơi xuống, đồ vật nào
nặng tất nhiên đến mặt đất trước. Nghiệp dữ nặng hằng cho sinh
trong khổ cảnh. Nghiệp lành cao cho lên nhàn cảnh. Dù người đã
tạo các nghiệp (nghiệp nặng lẫn nhẹ) nghiệp nặng vẫn cho quả
trước.
về nghiệp lành cao như tích đức bồ tát (tiền kiếp
Đức Phật chúng ta). Một kiếp kia, Ngài xuất gia là đạo sĩ tu trong
núi tuyết sơn, đắc bát thiền. Ngày nọ muốn được nếm vị ngọt,
mặn trong thế gian, nên Ngài đến kinh đô baaraanaasi đi khất
thực trước hoàng cung. Đức vua baaraanaasi xem thấy bèn phát
tâm hoan hỉ trong oai nghi của Ngài. Đức vua bèn sai quan đến thỉnh vào
đền, dâng cúng các món cao lương mỹ vị. Xong đức vua yêu cầu Bồ
tát ngự trong vườn thượng uyển và vào hoàng cung ngọ thực mỗi
ngày.
Có một lúc, đức vua cần phải thân chinh dẹp giặc
ngoài biên thùy, nên dạy bà hoàng hậu phải phụng sự đạo sĩ Bồ
tát. Buổi kia đức Bồ tát bay vào hoàng cung được thấy nhan sắc
kiều diễm của hoàng hậu vì bà quên bổn phận. Vị đạo sĩ bèn
đứt giới với hoàng hậu, thiền định cũng không còn. Các quan
đại thần biết rõ nhân ấy nên gởi sớ tâu vua. Đức vua Baaraanaasi
khi đã dẹp an phiến động liền khải ca hồi trào, ghé vào vườn
ngự uyển hỏi đạo sĩ. Đạo sĩ thú tội. Đức vua xá lỗi và nhắc
nhở Bồ tát hành đạo như xưa. Vị đạo sĩ đắc thiền như trước,
rồi bay lên không trung xin từ biệt, dù đức vua thỉnh cầu lại
nữa, đức Bồ tát cũng không nhận lời, Ngài bay trở về tu trong
tuyết sơn như trước.
Hành thiền không dứt, thác rồi đức Bồ tát
được sinh trong cõi Phạm thiên.
Về garukamma ác, có tích nàng sunadrii như vầy: Trong
thời kỳ Phật giáo, phái xuất gia theo đạo lõa thể thấy rằng lợi
danh mỗi ngày càng giảm nhưng bên Phật giáo thì càng tăng, nên
chúng tìm dịp để vu cáo Đức Thế Tôn.
Họ hội họp nhau để mưu hại Phật. Họ đồng ý rằng,
phải cần nàng sunadrii giả bộ làm phụ nữ mang mển, rồi cho
kẻ cướp giết nàng đem bỏ gần hương thất của Phật, cho quần
chúng tin rằng Đức Thế Tôn ám sát nàng để giấu nhẹm nghiệp
xấu. Dầu thế, đại chúng vẫn hiểu được sự thật. Nàng sunadrii
thi hành theo kế hoạch ấy. Mỗi buổi chiều mát tứ chúng nghe pháp
xong trở về, nàng sunadrii đi ngay theo con đường ấy vào Kỳ
Viên tịnh xá. Nàng giả bộ như mình đã ngụ trong chùa.
Phái lõa thể đi tuyên cáo rằng, nàng sunadrii
ngụ chung cùng Đức Cồ Đàm. Nhiều người nhẹ tai thiếu sự suy
xét, không tìm theo nhân quả nên tin theo, không lâu, nàng sunadrì bị
ám sát, thụ sinh trong địa ngục.
Phe lõa thể, khi đã dạy kẻ cướp giết trộm nàng sunadrii
rồi, vào yết kiến Đức vua. Nhà vua bèn cho người trinh thám cho
đến khi thấy rõ sự thật, rồi Ngài ra lệnh bắt bọn tu lõa thể
hành phạt và bố cáo cho nhân gian rõ lẽ phải.
2- Bahulakamma:
bahulakamma: là nghiệp thường có. Có khi gọi là Aci.n.nakamma
(nghiệp quen làm).
Nghiệp Này có hai:
1- Dữ.
2- Lành.
Về nghiệp dữ, có tích rằng: Tên cunda giết heo để
nuôi mệnh đã lâu năm, đến khi nghiệp theo cho quả thì hắn la nghe
tiếng như heo bò, trườn vô ra trong nhà. Chư Tỳ khưu đi khất thực,
nghe tiếng như vậy, tưởng rằng họ giết heo để cúng tế. Các Ngài
bạch hỏi Đức Thế Tôn, mới hiểu rõ sự thật. Đức Phật giảng
thêm rằng: "người làm nhiều việc dữ, trong đời này hằng than
van rên rỉ, chết rồi càng đau khổ trong kiếp sau".
Về nghiệp lành có giải tích như vầy:
Khi gia thế của ông trưởng giả cấp cô độc, dần
dần sa sút, chỉ còn có một cô gái cũng nghèo, dù thế, nàng cũng
dâng bát mỗi ngày đến một vị sư, cho đến lúc không còn vật gì
cúng nữa. Nàng tìm đi làm công mỗi ngày, lấy tiền mua vật thực
để cúng dâng. Nhà vua hay câu chuyện này, cho người tìm nàng vào
hoàng cung rồi phong cho làm hoàng hậu. Từ đó nàng có dịp, mỗi
ngày dâng cúng đến chư Tăng càng đông. Cúng dường đến các
pháp sư, giáo sư, khi thác, nàng được sinh lên cõi Trời.
nghiệp lành của hoàng hậu này gọi là bahulakamma.
Vì được làm thường thường không ngừng nghỉ. Không cần biết
giàu hay nghèo, khi đã năng tạo nghiệp lành thì phước báu càng
tăng theo thứ tự, gọi là bahulakamma. Nếu không có nghiệp
nạëng thì bahulakamma cho quả như thế.
3- Aasannakamma:
aasannakamma: là nghiệp cận thời nghĩa là nghiệp tạo
hay nhớ được khi gần chết.
Giải rằng: khi không có bahulakamma, là không có
tạo nghiệp thường thường, dù là ít thì Aasannakamma cũng cho
quả. Ví như bò trong chuồng, khi kẻ chăn vừa mở cửa, bò nào
đứng gần cửa dù là bò già, yếu, cũng được ra trước các
bò khác (có sức lực hơn).
xin giải cho dễ hiểu rằng: tâm của người, trước khi
chết, hằng quyến luyến vợ con, của cải nhiều hơn. Nên chi, nếu
không thường niệm tưởng nghiệp lành của mình đã tạo thì ắt
lầm lạc, phải sa trong ác đạo.
Aasannakamma là nghiệp cận thời trong việc lành và
dữ, nghĩa là người nào nhớ được nghiệp lành nào trong giờ
hấp hối, nghiệp ấy sẽ cho quả ngay, như bò đứng gần cửa chuồng
vậy.
Theo như hai lẽ đã giải đây, nếu có trí óc thiển
bạc([4]) thì hiểu rằng là tương phản nhau, nhưng sự
thật không phải thế, vì tâm tưởng đến việc lành đã làm trong
khi gần chết hoặc đã tạo trước, mà nhớ kịp trong giờ hấp hối
gọi là Aasannakamma cho quả đi thụ sinh trong nhàn cảnh được.
Có kẻ nghi ngờ rằng: nếu như thế, ta chỉ làm lành
chút ít để dành rồi ta không thiết đến sự lành ta (sát sanh,
trộm cắpv.v. ) đến lúc hấp hối ta sẽ tưởng đến nghiệp lành
trước, như vậy cũng được lên nhàn cảnh, cần gì phải cố tâm
làm phước cho vất vả.
giải: ta không nên lầm rằng, nghiệp luật là điều quy
định của nhân quả, nó hằng thực thi theo chế độ bất biến của
nó, nếu người đã tạo phước chan chứa để dành rồi bỏ qua,
không lưu tâm nghĩ đến mỗi ngày, khi hấp hối khó tưởng đến
được, bởi tâm của phàm nhơn quen quyến luyến vợ con, của cải,
thế sự, từ vô thủy dĩ lai, nên khó rứt để nhớ niệm đến
đạo đức trong giờ sắp chết? Rồi phải sa trong ác đạo.
4- Katattaakamma:
kattaakamma: là nghiệp vô ý, nghĩa là thiện và ác
không thuộc về garukamma, bahulakamma và cũng không phải là Aasannakamma
cả và người tạo cũng không rõ là phước hay tội. Vì là nghiệp
không biết, chỉ làm thôi.
Nghiệp này không nhất định thời kỳ cho quả. Thí dụ:
như tên mà người bắn, nhưng không định bắn đâu. Nếu không có garukamma,
bahulakamma và Aasannakamma thì nghiệp này cho quả theo thế
lực của mình.
([1]) Xem trong Thập Độ quyển 1.
([2]) Xem trong Thập Độ quyển I
([3]) Hết phát nha: hết nảy mầm, mọc
mộng.
([4]) Thiển bạc: cạn và mỏng