Do nhân nào, mới có giáo lý về
vấn đề nghiệp?
Vì trong thời kỳ ấy vô minh đàn áp toàn thể quốc
dân Ấn Độ, dân chúng chỉ tìm ở số mệnh rủi may, không quan sát
đến đạo đức. Đức Thế Tôn mong cởi mở vô mimh ấy, Ngài mới
nổi đèn có muôn trùng ánh sáng tức là nhân quả để tỉnh thức
chúng dân Ấn Độ.
Lý tưởng về nghiệp trong Phật giáo là sự tiến
triển trong đường đạo đức khiến cho khoa học cũng phải bái phục,
nhìn nhận bằng sự đứng yên không phản đối.
Phật giáo không mâu thuẩn với khoa học, nói như
thế, vì khoa học cũng như Phật giáo không thừa nhận học giả mê
tín.
Với bất cứ cái gì cần quan sát tỉ mỉ, tinh tế
trước, rồi mới nên tin. Vì thế, Phật giáo và khoa học mới không
mâu thuẩn nhau. Nói bằng cách vi tế rằng, khoa học có hai môn là: 1-
Vật thể; 2- Vô thể.
Khoa học, về vật thể phải cần thí nghiệm để xác
nhận, nghĩa là khi muốn biết rằng, "đá" gồm có chất gì,
thì phải dùng cách phân tích và thí nghiệm. Nhà khoa học lấy đá
chia tách ra xem (gọi là phân tích) cho biết rằng đá ấy có những
gì, rồi thí nghiệm lại là lấy những chất đã phân giải ấy hoà
lại, để xem cho thấy quả quyết rằng, nó là đá in nhau như trước
chăng. Cách sau này gọi là thí nghiệm.
Phật giáo thuộc về khoa học vô thể có cách thức
chú ý tin như khoa học. Như thế, mới gọi Phật giáo là khoa học,
người hành theo Phật giáo hằng được thụ quả xứng đáng theo
sự thực hành của chính mình, chẳng có ai thay thế được?
Pháp bảo có sáu ân huệ:
1.- Phật đã thuyết để lại chân chánh([1])
rồi.
2.- Tự mình thấy xác thực.
3.- Không chờ thời (khi đắc đạo thì đắc quả không chậm trễ)([2]).
4.- Chứng minh được([3]).
5.- Xứng đáng đem vào mình hoặc đáng tìm tòi([4]).
6.- Tự mình được thấy rõ bằng sự thí nghiệm và thực hành
theo.
Toàn là cơ sở củng cố là khoa học của nền tảng
Phật giáo chân chính. Nếu đã nhận thức như thế, ta nên học hỏi
về vấn đề nghiệp trong thiên này.
Tiếng "nghiệp" có nghĩa là làm, hành vi, hành
động, động tác, thực hành, thực tiễn, cho đến sự phản ứng
hoặc quả dội lại của hành vi nữa.
trong phật giáo tiếng "nghiệp" mong lấy tác ý
là chủ như câu: "cetanaaham bhikkhave kammam vadaami - Này các Tỳ
khưu, như lai gọi tác ý là nghiệp". Có ý nghĩa rằng: "Phật
giáo giữ theo trung đạo". Dầu, trong luật học Ngài cũng có chế
định những điều luật cho Tỳ khưu vô tác ý vi phạm các điều cấm
chế, nhưng Ngài cũng không bỏ phép trung đạo. Ngài ngự chế, như
thế để phòng ngừa các Tỳ khưu có khí chất bất nhã, biết
hướng thiện sám hối.
Nghiệp là tiếng trung dung([5]) (dữ
và lành) nếu lành gọi là kusalakamma (thiện nghiệp); dữ là akusalakamma
(bất thiện nghiệp).
Phật giáo lưu tâm rằng nghiệp gồm có ba chi, là:
1.- Có người làm.
2.- Làm bằng tác ý.
3.- Cho quả đến người làm.
Nếu nói theo khoa học, người tức là thân thể;
những biến hình là quả do sự đè ép, sự cưỡng lại lẫn nhau.
Sự hành động và sức phản ứng có thể xảy ra được, dù là
hai thân thể không hút nhau như đá nam châm.
Quan sát theo khoa học, ta được thấy rằng sự tạo
tác và sức phản ứng hằng cho quả, khiến chúng sanh lay chuyển và
có tạo nghiệp thì có phản ứng, hay nói một lẽ khác rằng, khi có
nhân tất có quả, mãi mãi.
Trong khoa học, sự hành động và sức phản ứng hằng
phức tạp khó kiểm soát, thế nào, trong Phật giáo, nghiệp và quả
của nghiệp cũng phiền phức như vậy. Vì thế, mới có người không
tin nhân quả, phản đối vấn đề nghiệp trong Phật giáo rằng, là
không chính xác([6]). Như thế, cũng vì
người thiếu sự khảo sát, tìm tòi nhân quả, chỉ không thừa nhận
bằng cách hiểu rằng: Phật giáo là vấn đề hủ lậu([7])
đem ra viện dẫn nhưng, thật sự,ï người ấy, là hủ lậu hơn
giáo lý. Đấy là sợi tóc che núi. Nhưng hàng học thức hiện đại
không nên quan tâm đến.
Phật giáo tin rằng, nghiệp là của riêng mình. Kẻ nào
tạo nghiệp gì phải chịu quả của nghiệp ấy, đúng với căn bản khoa
học cho "hành động và phản ứng" hằng có giá trị ngang nhau,
theo phương hướng tương phản nhau. Mọi người sinh ra đồng tạo
nghiệp như vậy. Lẽ cố nhiên, mỗi người phải làm công việc bằng
thân nghiệp, phải nói năng bằng khẩu nghiệp, phải suy nghĩ bằng ý
nghiệp. Khi đã làm nói và nghĩ rồi, quả của nó tức là sức
phản ứng phải có như thế. Khi ta tạo nghiệp lành, quả của nó là
sự vui vẻ có đến ta, ta làm ác, quả dữ cũng sẽ trả lại cho ta.
Theo Phật ngôn đây, người gieo giống gì hằng hái
quả ấy. Làm lành được vui, gây dữ gặp khổ. Như thế chỉ cho
thấy rằng, nghiệp có đặc tính in như sự gieo giống lúa, tất nhiên
được lúa.
Nếu hỏi trở lại rằng, cớ sao, có người trồng
xoài, có kẻ gieo lúa hoặc người làm lành, kẻ làm ác?
Đấy là quả của sự suy nghĩ của chúng ta. Như tiếng
nói rằng, tất cả sự tồn tại của ta được đều do quả của
nghiệp mà ta đã làm từ sự trù tính phương pháp cứu chữa
điều khổ.
Trong kinh majjhimanikaayamajjhimapa.n.nasaka, có thuyết
về ba loại nghiệp:
1.- kaayakamma: Thân nghiệp.
2.- vaciikamma: Khẩu nghiệp.
3.- manokamma : Ý nghiệp.
Thân nghiệp chia ra có:
1/- Ba chánh.
2/- Ba bất chánh.
Gọi là kaayasucaritaa và kaayaducaritaa
Ba thân nghiệp chánh là:
1.- Không sát sanh.
2.- Không trộm đạo.
3.- Không tà dâm.
Ba thân nghiệp bất chánh là:
1.- Sát sanh
2.- Trộm đạo.
3.- Tà dâm
Bốn khẩu nghiệp chánh là:
1.- Không nói dối.
2.- Không chửi rủa.
3.- Không nói lời xúi giục (cho người chia rẽ nhau).
4.- Không nói lời hoang đàng vô ích.
Bốn khẩu nghiệp bất chánh là:
1.- Nói dối.
2.- Chửi mắng.
3.- Nói lời xúi giục (cho người chia rẽ nhau).
4.- Nói lời hoang đàng vô ích.
Ba ý nghiệp chánh là:
1.- Không tham.
2.- Không sân.
3.- Không tà kiến.
Ba ý nghiệp bất chánh là:
1.- Tham.
2.- Sân.
3.- Tà kiến.
Trong cả ba nghiệp (thân, khẩu và ý), ý nghiệp là
quan trọng nhứt, vì thân và khẩu hằng ở trong quyền lực của tâm.
Trong tạng Luật có thuyết về cửa, hoặc lỗ hở (qua
lại Dvaara) của nghiệp lành và nghiệp dữ có ba là:
1.- kaayadvaara : cửa Thân.
2.- vaciidvaara : cửa Khẩu.
3.- manodvaara : cửa Ý.
giải rằng: Những cái qua lại, cửa thân là thân
chánh và thân bất chánh; cái qua lại cửa khẩu là khẩu chánh và
khẩu bất chánh; cái qua lại cửa ý là ý chánh và bất chánhv.v.
Ngoài ba cửa thuộc về phận sự chính như đã giải,
còn có thứ nghiệp làm xáo trộn mất thứ tự cũng có. Như sự
sát sanh và trộm đạo thuộc về nghiệp chính cửa thân nhưng nếu
bảo kẻ khác làm thì thuộc về cửa khẩu. Nói dối thuộc về cửa
khẩu, là cái qua lại đường khẩu, bằng không nói, chỉ ra bộ tịch
gặc đầu (để tỏ ý chịu hoặc không) thì thuộc về cửa thân. Nếu
người muốn được một đồ vật mà họ mong mỏi, nhưng không cố ý
tính trộm, thì thưộc về cửa thân, ví bằng, xì xào rằng làm thế
nào mới được của ấy thì thuộc về cửa khẩu; nếu chỉ tính trong
tâm thì về cửa ý. Những lời giải trên toàn là nghiệp bất
chánh. Về nghiệp chánh cũng nên hiểu theo sự tương phản nhau. Nhưng
vì sự hành vi khác nhau, mới có người được quyền cao giàu có,
kẻ lại thấp hèn nghèo khó. Đấy toàn là do nghiệp gây nên cả,
nghiệp hằng phân hạng người cao sang hoặc thấp hèn không đồng. Theo
lẽ thường, nhân loại hằng tạo nghiệp bất chánh do tính ngu dốt,
vô học thức như câu:
"paapaani kammaani karonti mohaa - người đời phần
nhiều tạo nghiệp bất chánh do óc si mê" (trong mahaaparinibbaana-sutra)".
Moha là ngu si hay đần độn tức là không biết lẽ
thật, như người lạc đường trong rừng, không biết được phương
hướng để thoát khỏi, cho đến không hiểu tội phước, tà chánh
là gì.
Những người hiền hằng tạo nghiệp chánh nhiều hơn
nghiệp bất chánh kẻ dữ thường làm nghiệp bất chánh nhiều hơn
nghiệp chánh. Hơn nữa, khi đã tạo nghiệp, dù chánh hay bất chánh
thì khó sửa chữa lại được như có Phạn ngữ rằng:
"katassanatthipatikaaram - việc đã làm rồi, sẽ
làm trở lại chẳng được".
đức phật hằng lập lại cho hàng phật tử, cố tự
tỉnh rằng:
1.- Ta có nghiệp là của ta.
2.- Ta là người thụ quả của nghiệp.
3.- Ta là người sinh ra từ cái nghiệp hoặc có nghiệp là kẻ sinh
sản.
4.- Ta có nghiệp là huyết thống.
5.- Ta là người nương tựa vào nghiệp.
6.- Ta phải chịu quả của nghiệp mà ta đã tạo.
Đức Phật dạy bảo như thế, cho chư Phật tử tin chắc
rằng, vui, khổ mà ta đã được đều là quả dính theo từ nghiệp
chánh và nghiệp bất chánh.
Nếu không nhớ nghĩ như vậy, thì sẽ cẩu thả rằng,
nghiệp mà mình đã gây không cho quả.
Những kẻ ngu độn không hiểu nghiệp và quả của
nghiệp, không có sự khảo sát rằng quả này sinh từ nghiệp nào
và từ đâu mà có. Nếu không nhận thấy, lầm tưởng là kẻ khác
làm cho. Sự nghĩ xét thường đến nghiệp như đã giải hằng ban cho
ta nhiều lợi ích. Khi gặp quả tốt hay xấu nên hiểu rằng là
"quả của nghiệp xảy đến tự mình sáng tác" (attasanbhavam).
Như thế ta không quên mình, khiển trách kẻ khác và thừa nhận rằng
quả vui hoặc khổ hằng phát sanh từ nghiệp của mình. Đấy là nguyên
nhân cho mình vui hay khổ. Vả lại sự hiểu biết bất chánh là thấy
quả quyết rằng điều vui hay khổ sinh từ kẻ khác hay vật khác, đó
là nguyên nhân làm cho bức rức khó chịu, trở lại gây nghiệp như
cũ, rồi phải thụ quả khổ mãi mãi.
([1]) Chân chánh: khi được nghe rồi
có thể đè nén được năm pháp cái, được vui, sinh từ thiền
định, và thông tuệ bằng sự thực hành được giải thoát.
([2]) Ví như ngọn lửa và ánh sáng
ngọn lửa (có ngọn lửa tất có ánh sáng).
([3]) Vì có nhận đích xác, là pháp
trong sạch.
([4]) Vì đã thực hành theo sẽ đắc
đạo quả.
([5]) Trung dung: ở giữa, không thiên
lệch.
([6]) Chính xác: xác thực.
([7]) Hủ lậu: quê mùa, không hợp
thời.