Vấn: Cớ sao vô minh avijjaa,
Đức Thế Tôn giải thích vô minh trước?
Đáp: Đức Thế Tôn giải thích vô
minh trước vì vô minh là đầu tiên, là rễ cái là nơi dựa vào nghiệp dẫn
chúng sinh đi trong khổ cảnh.
Giải rằng: Chúng sinh bị vô minh
đè ép rồi hằng tạo những nghiệp khiến mình phải ưu sầu phiền não
than van trong đời Này, lại còn đem vào khổ cảnh (cầm thú, Atula, ngạ quỉ,
địa ngục). Chúng sanh tạo nghiệp dữ, nhất là sát sinh cũng vì vô minh.
Nếu không có vô minh, chúng sinh cũng không làm ác được. Cớ ấy, Đức
Thế Tôn mới giảng về vô minh và cũng do vô minh là pháp sinh hành v.v. tiếp
theo nữa.
Avijjaa (vô minh)
Vô minh dịch là thế nào?
Đức Thế Tôn giải thích rằng:
na vijaanaatiiti avijjaa avindiya.m vaa
kaayaduccaritaadi"n vindati pa.tilabhati vindiya.m vaa kaayasucaritaadika.m na
vindati veditabbam vaa catusaccaadika.m na vindika.m karoti avijjaamaane vaa javaa peti
vijjamane vaa na javaapetiiti avijjaa
1.- Sự không hiểu biết, tức là
vô trí tuệ gọi là vô minh.
2.- Vô minh: dịch là gặp được, nhất là thân bất hạnh.
3.- Vô minh: dịch là không có, nhất là thân chánh đáng.
4.- Pháp nào không làm cho trí tuệ là nhân quán tưởng khối(
[1] ) của ngũ uẩn, lục nhập yếu tố theo tình trạng tiêu diệt rõ rệt,
không cho thấy phân minh tứ diệu đế và các căn( [2] ),
pháp ấy gọi là vô minh.
5.- Pháp nào khiến chúng sanh xoay vần trong tứ sanh năm gati( [3] ) tam giới, vô cùng tận, pháp ấy gọi là vô minh.
6.- Pháp nào khiến chúng sanh chạy đi trong hình thái của người nữ và người
nam v.v. không thấy theo chơn lý trong ý nghĩa tối hậu. Pháp ấy gọi là
vô minh.
Sa"nkhaara (hành)
sa"nkhaara: Hành có do vô minh
là duyên sinh ấy. giải rằng: Có vô minh phụ cấp hộ trợ, hành mới sinh
ra được. Hành ấy là duyên, tức là thiện và bất thiện hợp nhau tạo
ra. Hành chia ra làm 6 là:
1.- pu~n~naabhisa"nkhaara : tạo
thiện.
2.- ap~n~naabhisa"nkhaara : tạo bất thiện.
3.- anenjaabhisa"nkhaara : tạo bất động (về chư Phạm thiên trên
sắc giới và vô sắc giới).
4.- Kaayasa"nkhàra : thân hành (số tức quan).
5.- vajiisa"nkhaara : suy, sát.
6.- cittasa"nkhaara : tưởng, thọ.
Tiếng sa"nkhaara có bốn
là:
1.- sa"nkha.tasa"nkhaara
2.- abhisa"nkhatasa"nkhaara
3.- abhisa"nkhara.nakasa"nkhaara
4.- bayogaabhisa"nkhaara
1.- sa"nkha.tasa"nkhaara:
là các pháp gồm có duyên tạo tác.
2.- abhisa"nkhatasa"nkhaara: là sắc pháp sanh theo nghiệp trong ba
cõi.
3.- abhisa"nkhara.nakasa"nkhaara: là tác ý thiện và bất thiện
phù hợp trong ba cõi.
4.- bayogaabhisa"nkhaara: sự tinh tấn trong thân, và trong tâm.
Nếu phát biểu vi tế theo ý nghĩa
vi diệu pháp là như vầy:
pu~n~naàbhisa"nkhaara: là tác
ý trải đi trong dục giới có tám, trong sắc giới có năm. Tám tác ý lành
trong dục giới là:
1.- soma.nassasahagata.m
~naa.nasa.mpayuta.m asa.mkhaarikameka.m: tâm hoan hỉ gồm có sự hiểu biết,
không có điều khuyến khích( [4] ).
2.- soma.nassasahagata.m
~naa.nasa.mpayusa"nkhaarikameka.m: tâm hoan hỉ gồm có sự hiểu biết,
có điều khuyến khích.
3.- soma.nassasahagata.m
~naa.navippayutta.m asa"nkhaarikameka.m: tâm hoan hỉ nhưng không gồm có sự
hiểu biết, không có điều khuyến khích.
4.- soma.nassasahagata.m
~naa.navippayutta.m asa"nkhaarikameka.m: tâm hoan hỉ nhưng không có sự hiểu
biết, không có điều khuyến khích.
5.- upekkhaasahagata.m
~naa.nasampayutta.m asa"nkhaarikameka.m: tâm xả gồm có sự hiểu biết,
không có điều khuyến khích.
6.- upekkhaasahagata.m
~naa.nasampayutta.m sasa"nkhaarikameka.m: tâm xả gồm có sự hiểu biết,
có điều khuyến khích.
7.- upekkhaasahagata.m
~naa.navippayutta.m asa"nkhaarikameka.m: tâm xả không gồm có sự hiểu
biết, không có điều khuyến khích v.v.
8.- upekkhaasahagata.m
~naa.navippayutta.m sasaíkhaarikameka.m: tâm xả gồm có sự hiểu biết, có
điều khuyến khích.
Đây là tám thiện tâm. Thứ tự của
phần việc phát hiện tâm trong cõi dục: Nếu người dựa vào nhân sinh
tâm vui thích, nghĩ rằng: vật dâng cũng có, người thọ thí cũng có, rồi
phát tâm phỉ lạc, hiểu chân chánh rằng, ta bố thí sẽ được quả vui,
rồi không bỏ qua, không cần phải có người đến dắt dẫn, tự mình
làm phước. Làm được như thế, trong lúc nào thiện tâm thứ nhứt hiện
ra (gọi là tâm hoan hỉ và có trí tuệ, không có điều khuyến khích).
Nếu người có tâm hoan hỉ và có
trí tuệ, nhưng không lưu tâm, đến sự bố thí, trừ khi có người đến
xúi giục, mới thí được. Đây là thiện tâm thứ hai nổi lên, (gọi là
tâm hoan hỉ gồm có trí tuệ nhưng có điều khuyến khích).
Nếu là người ngu dốt, không
thông rõ phước tội, như trẻ em, quen thấy mẹ cha và thân quyến làm phước
lễ bái Phật, Pháp, Tăng. Nó hoan hỉ đem vật cầm trong tay đem dâng đến
nhà Sư hoặc cho kẻ thọ thí khác, hay đưa tay lên lễ bái, như thế là
thiện tâm thứ ba hiện ra, gọi là tâm hoan hỉ không gồm có trí tuệ và
không có điều khuyến khích.
Nếu trẻ em ấy, chờ khi có cha mẹ
hoặc thân quyến khuyên bảo mới thí, hay lễ bái do tâm hoan hỉ, như vậy,
là tâm thứ tư sinh lên, gọi là tâm hoan hỉ vô trí tuệ, có điều khuyến
khích.
Nhân sanh hoan hỉ nghĩa là không có
vật thí hoặc thiếu người thọ thí v.v. hay không vừa lòng, do lẽ khác,
họ không vui thích nhưng có tâm xả trong việc làm phước, như đã giải
trong khoản thứ tư. Lúc nào các thiện tâm trong dục giới thiếu cái gì,
nghĩa là tâm xả gồm có trí tuệ, không có điều khuyến khích: tâm xả gồm
có trí tuệ, có điều khuyến khích; tâm xả vô trí tuệ, không có điều
khuyến khích; tâm xả vô trí tuệ, có điều khuyến khích; sẽ phát sinh
trong thời ấy.
Giải rằng: Cả tám thiện tâm
trong dục giới ấy, nếu chia theo mười cách làm phước thì lên tới tám
mươi nghĩa là:
Bố thí được -- 8
Trì giới được -- 8
Niệm Phật -- 8
Giúp trong việc lành -- 8
Tôn kính người -- 8
Được phước rồi đem dâng đến kẻ khác -- 8
Hoan hỉ phước -- 8
Nghe pháp -- 8
Thuyết pháp được -- 8
Làm cho sự hiểu biết trở nên chơn chánh -- 8
Tổng cộng thành = 80
Nếu chia theo mười sáu đối tượng
nghĩa là đề cập đến thinh, hương, vị, xúc, pháp đối tượng thì được
(80 x 6 = 480).
Nếu kể theo bốn abhipatii( [5] ) phải chia ra làm hai ko.t.thaasa (phần) là:
1.- ko.t.thaasa phía gồm có
trí tuệ -- 240
2.- ko.t.thaasa không gồm có trí tuệ -- 240
ko.t.thaasa : phước gồm có trí
tuệ thì nhơn với 4 Abhipatii tức là:
1.- Chanda: lòng ao ước, nguyện
vọng.
2.- Viriya: nghị lực.
3.- Citta: suy nghĩ.
4.- Vima.msaa: điều tra.
Mỗi pháp 240 gộp lại thành 240 x 4
= 960
Phước vô trí tuệ nhơn với ba pháp
là Chanda, virya, citta (trừ Vima.msaa) thành:
240 x 3= 720
Thành = 1680
Về thân nghiệp cũng được: 1680
Về khẩu nghiệp cũng được: 1680
Về ý nghiệp cũng được: 1680
Thành = 5040
Bực hạ, bực trung, bực thượng
cũng được mỗi bực 5040 X 3 = 15.120; nếu kể theo thời, nói hành lễ, bản
năng v.v. thì hằng hà số.
Vĩn~naana (Thức)
Đoạn trước đã giải về Hành
theo ý nghĩa Vi Diệu Pháp, cho biết đại khái, đây xin giải về sáu thức:
1.- cakkhuvi~n~naana: Nhãn thức
2.- sota vi~n~naana : Nhĩ thức
3.- ghaanavi~n~naana : Tỷ thức
4.- jivhavi~n~naana : Thiệt thức
5.- Kaayavi~n~naana : Thân thức
6.- manovi~n~naana : Ý thức.
Nhưng mỗi thức nói đây (trừ ý
thức) chia ra làm hai là:
1.- Kết quả lành.
2.- Kết quả dữ.
Phần ý thức có 22 là:
1) 2 manodhaatu có quả lành và
dữ.
2) 3 manovi~n~na"nadhaatu( [6] ) là ahetukavi~n~naanaa
(vô nhân thức).
3) 8 hetu kaamaavacaravipaaka: kết quả trải đi trong dục giới.
4) 5 Ruupaavacaravipaana: kết quả trải đi trong sắc giới.
5) 4 aruupaavacaravipaaka: kết quả trải đi trong vô sắc giới.
Gộp vào với thức đã giải rồi
phía trước thành 32 phần phàm thức.
Phàm thức như đã giải, kể vào
trong sáu thức hoặc nói một cách khác là: sáu thức ấy chia rải rác là
32 phàm thức.
Về thánh thức không liệt vào
trong thức là quả phát sanh từ pháp hành. Vì thánh thức thuộc về giới
hạn của bậc thánh nhân đã đắc đạo quả rồi.
Vấn: Tại sao thức có hành là
duyên sinh (pháp hành)?
Đáp: Khi người không tạo thiện
nghiệp và ác nghiệp để dành thì quả vui và quả khổ cũng không có. Nếu
không nhân thì cũng vô quả.
Vấn: Cớ sao thức sinh từ hành?
Đáp: Giải cho thấy gần trước,
như quả mà thiện nghiệp sinh trong dục giới, cũng do duyên là phước tạo
trong dục giới (Kaamaavacarapu~n~naabhisa"nkhaara). Quả của pu~n~naabhisa"nkhaara
có 16 là:
Quả phúc sinh từ năm thức là:
1.- Nhãn thức -- 1
2.- Nhĩ thức -- 1
3.- Tỷ thức -- 1
4.- Thiệt thức -- 1
5.- Thân thức -- 1
Ba quả phúc sinh từ ý thức là:
1.- manodhaatu (1)
2.- manovi~n~naadhaatu (2)
Và tám thiên trong dục giới, thành
mười sáu. Cả 16 quả thiện hằng khiến thức sinh trong Kaamasugati( [7] ) tức là người và trời hợp với câu quả trong dục
giới thiên như là bố thí v.v. mà người được làm để dành, là duyên
sinh nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, tốt đẹp, vừa lòng của
manodhaatu tức là người ngẫm nghĩ, lặng ngấm là tưởng đến Đức
Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, niệm đến bố thí, trì giới mà mình đã
làm, cho sinh lên nhàn cảnh. Trong nơi cuối cùng, người niệm trong khi hấp
hối thường thường cũng được sinh lên nhàn cảnh.
Cớ ấy, mới nói Hành là duyên
sinh Thức hoặc nói một cách khác, là Thức sinh từ duyên Hành. Ngoài ra manovi~n~naa.nadhaatu
gồm có sự vui thích cũng sinh từ duyên phước đã tạo (pu~n~naabhisa"nkhaara).
manovi~n~naa.nadhaatu gồm có Xả,
và manovi~n~naa.nadhaatu không bao hàm trí tuệ cũng hiện ra từ duyên tức
là sự tạo phước (pu~n~naabhisa"nkhaara). Nếu không có duyên hành
thì các pháp đã giải ấy không thể phát sinh được. Lại, pa~ncaruupaavacaravipaaka( [8] ) là quả khiến thức trú trong sắc giới cũng sinh nhân
trong sắc giới là thiện duyên, sinh từ ruupaavacarapu~n~naabhisa"nkhaara( [9] ): hợp với tiếng ruuupaavacarakusala(
[10] ), nghĩa là khi người đắc thiền không dứt, đến khi ngũ uẩn tan
rã cũng được sinh trong sắc giới, kể vào trong pu~n~naabhisa"ndhaara
như Kaamaavacarakusala. Kaamaavacarakusala ấy sinh từ Nhãn môn cũng có,
sinh từ Nhĩ môn, từ Tỷ môn, từ Thiệt môn hoặc sinh từ Thân cũng có. Kaamaavacarakusala( [11] ) sinh từ Nhãn môn có giải rằng: khi người được
thấy Phật, Pháp, Tăng rồi phát tâm hoan hỉ, nói cho cùng dù thấy lễ vật
cúng dường sắp đặt cúng Phật, Pháp, Tăng rồi có tâm tín ngưỡng tính
vui thích cũng được sinh trong nhàn cảnh. Kaamaavacarakusala sinh từ Nhĩ
môn là khi người được nghe tiếng thuyết pháp hoặc tiếng kinh hay được
nghe tiếng luận về Phật ngôn rồi phát đức tin vui thích cũng được
sinh lên nhàn cảnh. Kaamaavacarakusala: sinh từ tỷ môn là khi người
được ngửi mùi thơm rồi tính để cúng dường Tam Bảo, phát đức tin
vui thích cũng được sinh trong nhàn cảnh. Kaamaavacarakusala: sinh từ
Thiệt môn là khi người nếm các vị trái cây các vị thực phẩm ngọt
ngon đáng đem dâng chư Tăng, dù như thế cũng gọi là Kaamaavacarakusala.
Kaamaavacarakusala sinh thân đụng chạm là: khi thân tiếp xúc y hay chiếu
đệm v.v. rồi phát tâm hoan hỉ nghĩ rằng, các vật này, nếu ta tìm kiếm
để để bố thí sẽ được quả phúc, như thế cũng gọi là
kàmàvacarakusala. Tóm tắt rằng Kaamaavacarakusala ruupaavacarakusala và Aruupaavacakusala
có thể khiến thức đi thụ sinh trong nhàn cảnh đuợc, thích hợp theo giới
hạnh của mình.
Đức Thế Tôn có thuyết rằng: Thức
có do Hành là duyên hộ trợ như vậy. Phần ác apu~n~naabhisa"nkhaara
là nhân cho sinh sáu thức là:
1.- Nhãn thức
2.- Nhĩ thức
3.- Tỷ thức
4.- Thiệt thức
5.- Thân thức
6.- Ý thức
manovi~n~naanadhaatu.
Trong tác ý lành và tác ý dữ, tác
ý dữ là ahetukamanovi~n~naana( [12] ) hằng dẫn đi tái
sinh bốn ác đạo và tác ý lành là ahetukavi~n~naana(
[13] ) dù dẫn đi tái sinh trong nhàn cảnh (cõi người). Trong nơi đây chỉ
về nhàn cảnh cõi người mà thôi, không suốt đến cõi trời, song là người
không có đủ tứ chi tốt đẹp (người mù, điếc, câm, tê liệt v.v. )
Giải cho thấy phân minh rằng:
Tác ý ác ahetukavi~n~naana hằng
cho sinh trong khổ cảnh (4 ác đạo).
kàmavacarakusala hằng cho sinh trong
cõi trời và cõi người rupàvacarakusala dẫn lên hữu sắc giới aruupaavacakusala
dắt đi trong vô sắc giới.
Trong thời tái sinh có ba cảnh tượng
là:
1.- kamma
2.- kammanimitta
3.- gatinimitta
1.- kamma: là tác ý lành hoặc
dữ mà chúng sinh đã tạo cho đi tái sinh.
2.- kammanimitta: là đồ vật dùng để tạo nghiệp hiện ra rõ rệt
là đối tượng cho tái sinh.
3.- gatinimitta: là các vật mà mình sẽ được hưởng thụ hiện ra thành
đối tượng.
giải rằng: phần lành hay dữ là
đối tượng nảy ra trong lúc hấp hối. Ngoài ra, dù nằm mọâng chết
trong lúc ngủ mê, chết chìm thì kammanimitta cũng xuất hiện rõ rệt
đến người chắc chắn, như vậy.
gatinimitta rõ rệt trong tâm thấy
cõi trời, địa ngục hoặc cõi người Gatinimitta trên cõi trời rõ rệt
đến người sắp chết dinh thự, lầu đài, cung điện, xe trời, có vị trời
ra dấu kêu gọi v.v. gatinimitta địa ngục lộ ra là dao, gươm, chảo
đồng sôi hoặc lửa. gatinimitta cõi người là xe cộ, y phục đẹp
quý giá.
Theo như đã giải đây, thấy rõ rằng:
Thức sanh ra được do hành là nhân. Nếu không có hành thì thức cũng không
có.
Tích một người phú gia Gopakaiivalii
nhà ở gần chùa Kalapitthi:
1.- Có tâm trong sạch tạo một
ngôi tháp, thờ trong chùa ấy, khi lâm bịnh nặng gần chết, nằm liệt
trên giường, không ngồi được, tháp đã tạo ấy hiện rõ rệt đến mắt
hắn, hắn niệm tưởng tháp ấy, chết rồi được lên thiên cung.
2.- Có con một phú gia tên Ma.t.thaku.ndalii
mang bệnh nặng gần chết, được thấy Đức Thế Tôn rồi phát tâm hoan hỉ,
dù là lúc trước chưa từng làm phước. Chỉ nhờ tâm vui thích trong Đức
Phật rồi sinh lên cõi trời.
Naama – Ruupa (danh sắc)
Danh Sắc sinh vì Thức là duyên.
Danh là gì? - Danh dịch là dẫn đi
nghĩa là dẫn thức cho xoay vần trong luân hồi và cho sinh trong: tứ sinh, năm
gati( [14] ) và chín sattavasa:
Tứ sanh là:
1.- Jalambuja : Thai sinh là sinh
đẻ bằng bào thai như người, thú bốn chân ...
2.- Andaja : Noãn sinh là trứng sinh (trứng gà, vịt v.v. )
3.- Sansedaja : Thấp sinh là sinh từ nơi ướt ẩm thấp như ruồi.
4.- Upapattika : Hóa sinh (biến hóa và sinh sản) sinh ra tự nhiên (như
trời, sâu).
Năm gati là:
1.- Địa ngục.
2.- Ngạ quỉ.
3.- Thú.
4.- Người.
5.- Trời.
Sattavaasa: (chỗ trú ngụ của
chúng sinh) chín chỗ ngụ của chúng sinh là:
1.- Chúng sinh có hình thể khác
nhau, có tư tưởng khác nhau (người, trời, dục giới).
2.- Chúng sinh có hình thể khác nhau, có tư tưởng giống nhau (Phạm thiên
đắc sơ thiền).
3.- Chúng sinh có hình thể giống nhau, có tư tưởng khác nhau (Abhassa,
Phạm thiên).
4.- Chúng sinh có hình thể giống nhau, có tư tưởng giống nhau (Asubha
kanhaa Phạm thiên).
5.- Chúng sinh vô tư tưởng (Asa~n~nuusatta).
6.- Chúng sinh vô biên thiền.
7.- Chúng sinh thức vô biên thiền.
8.- Chúng sinh vô hữu sở thiền.
9.- Chúng sinh phi phi tưởng thiền.
ruupa: (Sắc) chỉ về sinh và diệt.
Thế nào là Sắc?
Đức Thế Tôn thuyết rằng: Sắc
nào là Sắc trong quá khứ, Sắc trong tương lai, và Sắc trong hiện tại,
là Sắc bên trong hoặc bên ngoài, Sắc thô thiển hay vi tế, Sắc hèn hay
quí, Sắc gần hay xa, gộp lại gọi là Sắc.
Thân ngũ uẩn chia ra làm 28 loại:
1.- nahaabhuutaruupa: Tứ đại
2.- upaadaayaruupa: 24 Sắc đưa vào Tứ đại.
Tứ đại là:
1.- pathaviidhaatu : yếu tố Đất.
2.- Aapodhaatu : yếu tố Nước.
3.- tejodhaatu : yếu tố Lửa.
4.- vaayodhaatu : yếu tố Gió.
24 Sắc đưa vào Tứ Đại là:
1.- cakkhu: Mắt
2.- sota: Tai
3.- ghaana: Mũi
4.- jiivhaa: Lưỡi
5.- kaaya: Thân
Cả năm thể ấy gọi là pasaadaruupa
(cảnh tượng sắc).
6.- ruupaarammana : sắc cảnh
tượng, sắc là tướng sinh cảnh tượng.
7.- saddaaramma.na : thinh cảnh tượng, tiếng là nơi sinh cảnh tượng.
8.- gandhaaramma.na : hương cảnh tượng, mùi là nơi sinh cảnh tượng.
9.- rasarammana : vị cảnh tượng, vị là nơi sinh cảnh tượng.
Sắc ấy gọi là sayaruupa( [15] ) hoặc gocararuupa: (giới hạn sắc).
10.- Hình thái người nữ : bhavaruupa:
hình thái sắc( [16] ).
11.- Hình thái người nam.
12.- hadayaruupa: trái tim
13.- jivitindriya: sinh mệnh sắc.
14.- kabalinkaahaara: thực phẩm sắc.
15.- Aakaasadhaatu: không khí.
16.- kaayavi~n~naatti: sự phát biểu bằng thân.
17.- vacii~n~naatti: sự phát biểu bằng khẩu
18.- Sự nhẹ nhàng của sắc
19.- Sự mềm dẻo của sắc
20.- Sự biến đổi của sắc (vikaararuupa)
21.- Sự sinh ra của sắc
22.- Sự tiến triển của sắc
23.- Sự suy đồi của sắc
24.- Sự tan rã của sắc.
Tiếng gọi ruupa (Sắc) có nghĩa
là tiêu diệt, theo Phật ngôn rằng:
- Này các Tỳ khưu! Các ngươi gọi
sắc ấy là thế nào? Này các Tỳ khưu, sắc ấy nương vào sự tiêu diệt
nghĩa là sinh ra rồi hằng tiêu diệt, không thể trụ trường cữu được,
có sự tiêu diệt, tan rã là tự nhiên, cớ ấy mới gọi là sắc.
Sắc tiêu diệt do cái chi?
Sắc tiêu diệt do nhiều nguyên
nhân là:
1.- Tiêu diệt do sự Lạnh
2.- Tiêu diệt do sự Nóng
3.- Tiêu diệt do sự Mong ăn
4.- Tiêu diệt do sự Mong uống
5.- Tiêu diệt do Gió, Nắng và sự Tiếp xúc
tiêu diệt do sự Lạnh là trong
địa ngục giữa thế giới hằng rõ rệt ở giữa ba khoảng sa bà thế giới,
ở giữa khoảng núi sa bà thế giới. Địa ngục ấy rộng 80.000 do tuần,
phía dưới không có đất, phía trên không có mặt trăng mặt trời mãi
mãi.
Vì nhân không có ánh sáng mặt trời,
và ánh sáng đèn, ánh sáng ngọc Mani, thân thể chúng sinh trong địa ngục
giữa thế giới ấy, treo chân đảo ngược theo núi sa bà thế giới, bằng
móng chân, gặp nhau rồi bám nhau tưởng là được thực phẩm, cấu xé
nhau, tranh đấu nhau, để cướp đoạt ăn nhau rồi rơi trong nước nâng đất,
thân thể đứt từng đoạn, bị nước acide cắt, rồi tiêu diệt bằng sự
lạnh rõt rệt trong địa ngục giữa sa bà thế giới (lokantananaka) như
vậy.
sắc tiêu diệt bằng sự Nóng
là sự nóng rõ rệt trong vô gián địa ngục (aviciinaraka).
Trong vô gián địa ngục, lửa cháy
đỏ mãi mãi. Đấy địa ngục toàn là sắt các quỉ sứ hành hình tội
nhân theo năm cách( [17] ).
Chúng sinh trong địa ngục chịu khổ
không kể xiết.
sự tiêu diệt do Món ăn là
loài ngạ quỉ bị chết trong nhân gian, vì sự đói, thiếu thực phẩm. Thật
vậy, có hạng ngạ quỉ không được ăn uống trải qua cách khoảng hai ba,
vị Phật tổ (buddhantara) chết rồi sống lại để chịu khổ muôn
phần, cho đến hết ác nghiệp.
tiêu diệt do mong Uống là có hạng
chúng sinh trong loại ngạ quỉ, kaalaka~njikaasura bị ác quả tiếp xúc
không khi nào được nếm một giọt nước, cách khoảng hai, ba, vị Phật tổ.
Chúng tìm thấy nước trong sông hoặc biển khi vào đến thì chẳng có
chút ít nước, trong nơi ấy. Sông và biển trở thành cát đá. Chúng rất
tiều tụy, khổ sở khôn cùng, không tả xiết, cho đến khi hết ác nghiệp,
đã tạo từ trước.
Có tích rằng: Có loại ngạ quỉ kaalaka~njikaasura
chịu khổ vì mong uống nước không thể chịu được. Tìm đến sông sâu,
rộng một do tuần, nước trong sông không rõ rệt đến chúng. Trong sông
ấy hiện ra toàn là khói, đá như trên đất, đá lửa. Khi được nghe tiếng
nước, bèn đi lần tới sông, gặp được 30 vị Tỳ khưu đến bờ sông.
Các Ngài thấy loài ngạ quỉ kaalaka~njikaasura bèn hỏi rằng:
- Người là ai? Cớ sao lại đến mé
sông này?
Ngạ quỉ ấy bèn bạch:
- Tôi là ngạ quỉ ở nơi sông
này, vì mong được uống nước đã quá lâu rồi.
Chư Tỳ khưu nói:
- Sông này đầy nước, ngươi không
thấy sao?
Ngạ quỉ bạch:
- Tôi chỉ thấy nước từ xa, khi vào
đến mé sông, nước trong sông chẳng có, chỉ thấy ngọn lửa cháy đỏ,
không được như mong muốn. Tôi đi đến đâu cũng như vậy, chưa từng nếm
được một nhỏ nước.
Cả 30 Tỳ khưu nói rằng:
- Ngươi hãy nằm trên mé sông,
chúng ta sẽ cho ngươi uống nước được như ý.
Ngạ quỉ, được nghe, rất vui lòng,
bèn nằm gần mé sông. Cả 30 vị Tỳ khưu dùng 30 cái bát đi múc nước đổ
trong miệng của ngạ quỉ đến trưa tới giờ khất thực.
Các Ngài bèn nói:
- Bây giờ vừa rồi, chúng ta sẽ
đi khất thực. Chúng ta đổ nước vào miệng ngươi, ngươi có dùng được
chút ít chăng?
Ngạ quỉ bạch:
- Tôi không được chút ít nước nào
thấm giọng cả.
Có lời hỏi rằng: ác nghiệp của
ngạ quỉ này đã tạo trong kiếp trước ra sao mà phải chịu khổ đến thế?
Đáp: Ngạ quỉ tên kaalaka~njikaasura
đã ăn lén thực phẩm của Tăng mà người dành sẳn, để làm lễ tăng thí.
Vì lòng tham, không thẹn tội. Thấy người đào giếng, ao để thí nước
thì ngăn đường, chận nẻo. không cho người đi tới lui dùng nước ấy.
Vì tâm ganh tị, sau khi ngũ uẩn tan rã, bị đọa trong địa ngục rất lâu.
Ra khỏi địa ngục rồi, sinh lên loài ngạ quỉ phải chịu khổ như thế,
phải nhịn khát cho đến hết nghiệp đã tạo. Bậc trí tuệ nên hiểu rằng,
ngạ quỉ loại kaalaka~njikaasura tiêu diệt vì mong uống, như vậy.
Sắc tiêu diệt do Gió, Nắng, và sự
Tiếp xúc như ran nhỏ ran to. Trong Kinh chú giải có ghi rằng: bệnh gió
nảy ra trong thân thể làm cho người đau nhức mỏi mệt v.v. cũng gọi là
tiêu diệt bằng gió.
Sắc tiêu diệt bằng nắng thấy
rõ trong sự đi đường xa. Như có tích một người nữ ra khỏi nhà đi cùng
đám đông người. Vì đi không kịp bọn, nên lạc đường trong buổi xế.
Đuờng xa nóng nực do ánh nắng mặt trời, cát trên đất, nóng như lửa
than. Người nữ ấy không thể để chân trên đất được, nên đem hoa
trong giỏ mang ở vai làm vớ (bít tất), cổi áo bỏ vào giỏ, rồi đi nữa.
Khi áo nóng, con của y bế theo cũng la khóc, vì quá nóng. Rốt cục mẹ con
phải chịu chết nắng giữa đường. Đấy gọi là sắc tiêu diệt do nắng,
trong đường xa.
Bậc trí tuệ cho rằng sắc ấy nếu
gồm có sự tiêu diệt gọi là sắc. Nhân về sự tiêu diệt rất nhiều,
nhất là sự tiêu diệt do sự lạnh và sự nóng như vậy.
giải rằng: Thức là duyên sanh Danh
Sắc là thức ác dẫn đi đến khổ cảnh. Nếu là thiện thì lên nhàn cảnh,
có thân hình xinh đẹp.
Lời chú giải có giảng tiếp rằng:
Thức dữ dẫn đến khổ cảnh,
như cận sự nam mahaavaacaka, cần chuyên hành Sa môn pháp đến năm
mươi năm. Nhưng chưa đắc đạo quả. Đoạn này có giải rằng, thức của
Cận sự nam ấy là lành, từ trước mới được học Sa môn pháp và hành
theo, nhưng khi bắt đầu thực hành rồi mà chưa đắc quả theo sở thích.
Người cận sự nam ấy thối chí do nghĩ rằng, giáo pháp của đấng Chánh
đẳng Chánh giác, không phải là pháp giải thoát, nghĩa là không dẫn
chúng sinh ra khỏi sự kinh sợ, khổ sinh tử được thật. Nếu là pháp cứu
khổ đem chúng sanh ra khỏi luân hồi chắc chắn, thì chính mình cận sự
nam mahàvàcaka thực hành Sa môn pháp năm mươi năm cũng đắc đạo quả rồi.
Khi cận sự nam ấy phát ác tâm như thế, nên bỏ sự tinh tấn không còn
thực hành Sa môn pháp nữa. Sau khi chết cận sự nam ấy sinh làm cá sấu
to trong một bưng lớn, trong một cụm rừng, thân hình đáng ghê tởm theo
loại cá sấu. Khi thức ác dẫn đi làm thú rồi, hình thể cũng thích hợp
với ác pháp đã tạo. Thức trú trong loài thú, danh và sắc cũng xen vào
là danh và sắc của thú. Cớ ấy mới thuyết rằng, danh và sắc phát sinh
do thức là duyên. Nếu thức ác là duyên sinh sắc, cũng phải nương vào thức
hư hỏng rồi cũng không thể tạo nghiệp lành được. Trừ khi nào là thức
lành người mới có khả năng làm lành được. Nếu đã làm lành rồi quả
quyết sẽ được thụ sinh trong nhàn cảnh. Danh và sắc ấy thực hành theo
thức vừa với thái độ thích đáng như vậy, đều dựa vào thức tất cả.
Cớ ấy mới gọi là danh và sắc có, do thức là duyên sinh.
Sự thật thức nào hành trong khi
tái sinh và lúc biến cố tức là trong hiện tại, thức ấy tồn tại đến
đâu, danh sắc cũng thực hành đến đó, nếu thức không trú vững danh sắc
cũng không an trụ được, như có Phật ngôn rằng:
Acira.m vataya.m kaayo
pathavii adhisessati
chu.d.do apetavi~n~naano
niirattha.mva kalingara.m
-- Không bao lâu, thân này phải nằm
trên mặt đất, thân không có thức (người) phải bị liệng bỏ như khúc
cây vô dụng.
chú giải rằng: Thân này không tồn
tại bao lâu, cũng sẽ nằm trên mặt đất nếu không có thức là vô dụng,
như khúc cây, hoặc khúc củi. Khúc cây và khúc củi có khi còn hữu dụng,
như cây khô dùng làm nhà và xe vân vân v.v. hoặc làm củi chụm vào bếp
để nấu đồ ăn cho thành tựu được v.v.
Thân người dùng làm việc được
cũng dựa vào cái Thức, nếu không có thức thì thành vô dụng. Ngoài ra, nếu
giải rộng thêm, chúng ta sẽ thấy rõ rằng, nếu không có nhãn thức, xem
vật chi cũng không thấy, không nhĩ thức cũng không nghe được, không có tỷ
thức cũng không biết vị, không có thân thức cũng không biết sự tiếp
xúc, không có ý thức cũng không suy nghĩ, không hiểu biết theo tâm mong muốn
được.
Tóm lại, nếu ngũ uẩn (danh sắc)
thiếu thức thì chẳng còn giá trị nữa, ngũ uẩn thực hành thế nào cũng
nương vào thức, thức trú trong nơi nào, ngũ uẩn rõ rệt trong nơi ấy. Vì
thế Đức Thế Tôn mới thuyết rằng: Danh sắc sinh do thức là duyên như vậy.
Salaayatana (lục nhập)
Đức Thế Tôn có thuyết rằng:
"Lục nhập sinh từ danh sắc là duyên".
Tiếng salaayatana: dịch là lục
nhập. Sự thật lục nhập có hai, là:
1.- Lục nhập ngoại là: Sắc,
Thinh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
2.- Lục nhập nội có 6 là: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý, có lời hỏi
rằng:
Tiếng salaayatana lục nhập, Aayatana
sáu giác quan trong thuyết "Thập nhị duyên khởi", lấy lục nhập
bên nào?
Sự thật không nên hoài nghi, trong
lời hỏi rằng: mọi loài phải đều ở trong thân mình không phải ngoại
thân, chỉ bấy nhiêu chúng ta cũng đã rõ rằng sáu giác quan nội trong thuyết
"Thập nhị duyên khởi" thuộc về giác quan nội.
Có lời hỏi thêm nữa rằng: nếu
như vậy là không ám chỉ đến lục nhập ngoại sao?
Không phải nếu đã nói đến lục
nhập nội, tất có quan hệ đến lục nhập ngoại nữa, vì là đối nhau.
Nếu muốn cho dễ hiểu, chúng ta phải nói rằng lục nhập trong thuyết
"Thập nhị duyên khởi" có ý trỏ ngầm cả lục nhập nội lẫn lục
nhập ngoại.
Lời vấn đáp trên có giải rằng,
tiếng lục nhập ám chỉ đến lục nhập nội và lục nhập ngoại.
Danh và Sắc là duyên sinh lục nhập
vì khi danh sắc sinh, lục nhập mới sinh, nếu không có danh sắc, lục nhập
cũng không thể sinh từ duyên nào khác được.
Thí dụ: như quả và cây, cây hằng
sinh trước, nở mộng sinh chồi, cành lá rồi sau mới có bông trái. Cây
ấy là duyên sinh trái, thế nào, danh sắc có rồi, hằng là duyên sinh cho lục
nhập. Muốn hiểu biết phân minh nên trở thuyết minh lại vấn đề lục
nhập cho biết ý nghĩa trước rồi mới giải rõ về lục nhập sinh vì
danh sắc là duyên, tiếp theo.
Trong Tạng "Vi diệu pháp"
có phát biểu rằng:
lục nhập có 12 là:
1.- cakkhvaayatana: lục nhập tức
là Nhãn
2.- sotaayatana: lục nhập tức là Nhĩ
3.- ghaanaayatana: lục nhập tức là Tỷ
4.- jiivhaayatana: lục nhập tức là Thiệt
5.- kaayayatana: lục nhập tức là Thân
6.- manaayatana: lục nhập tức là Ý
7.- ruupaayatana: lục nhập tức là Sắc
8.- saddaayatana: lục nhập tức là Thinh
9.- gandhaayatana: lục nhập tức là Hương
10.- rasaayatana : lục nhập tức là Vị
11.- pho.t.thabhaayatana: lục nhập tức là Xúc
12.- dhammaayatana: lục nhập tức là Pháp.
Tiếng Aayatana dịch là nối,
là rộng, là lan ra.
chú thích: Nối tức là mắt nối với
sắc, tai nối với tiếng, mũi nối mùi, lưỡi nối với vị, thân nối với
sự đụng chạm, tâm nối với pháp.
Dịch là rộng hay lan ra nghĩa là thực
hành theo, trong nẻo luân hồi vô cùng tận. Luân hồi đây dù là người đã
vượt qua cũng không thấy được thủy chung( [18] ). Khổ
trong luân hồi còn chưa được quay chiều đến đâu cũng hằng dẫn chúng
sinh đi rộng ra, lan ra, đến đó.
Hỏi tiếp nữa rằng: Đức Thế Tôn
thuyết lục nhập nội, Ngài giải về mắt và tai trước, cớ sao?
Đáp: Vì mắt và tai có nhiều
nhân( [19] ) nghĩalà người được thấy, nghe pháp vô thường.
Cũng do hai giác quan ấy.
giải rằng: có hạng người trong
đời này, khi thức dậy từ buổi sáng được thấy phụ nữ xinh đẹp và
được xem các vật mà đời cho là hạnh phúc. Sự được gặp thấy ấy
không cao quí, vì sự được gặp nhất là phụ nữ hằng làm cho sinh thêm
điều vui thích trong nẻo luân hồi. Cớ đó, mới gọi là không cao quí.
Dù đời cho là tốt đẹp đến đâu, bởi là khí chất(
[20] ) tự nhiên của đời, như dòi trong tiêu, ớt hoặc dòi trong phẩn.
Nhưng nếu người có tâm trong sạch vui thích thấy Kim thân Phật, Bảo
tháp, Đại thọ, Bồ đề v.v. cho đến Tỳ khưu Tăng, như vậy gọi là thấy
cách tối cao, không chi sánh bằng. Sự thấy như thế, làm cho phát tâm hoan
hỉ, tạo nghiệp lành, đem mình đến nhàn cảnh, trong kiếp này và về
sau.
Có tích như vầy: có một thiếu nữ,
thấy bảo tháp rồi phát tâm vui mừng, thân trở nên nhẹ nhàng do phỉ lạc.
Thiếu nữ ấy thấy ánh sáng đèn mà hàng Phật tử đem đến cúng dường
bảo tháp, rất thỏa mãn, nàng bèn mong mỏi đi đến đấy để lễ bái
cúng dường và được gặp mẹ cha nàng. Xếp đặt các lễ vật (nhang, đèn
và hoa thơm) cúng dường bảo tháp rồi nàng xin đi theo. Xong mẹ cha nàng
không chấp thuận, vì lẽ trời tối, thiếu nữ không nên đi trong ban đêm,
nên nàng buộc mình phải ở nhà. Vì tâm thành vui thích, thiếu nữ đứng
dựa lan can nhà, thấy rõ ánh nhang, đèn cúng dường bảo tháp, càng nhìn
xem càng phát tâm hoan hỉ, nàng niệm Phật đắc phỉ lạc khiến tâm nhẹ
nhàng, bay đến bảo tháp, trước cha mẹ nàng nữa.
Cớ ấy, sự thấy bảo tháp rồi
tín ngưỡng trong sạch mới gọi là thấy cách tối cao.
Ngoài ra, sự thấy Chư Tăng trì giới
cũng gọi là cách tối cao, làm cho tâm trong sáng, sẽ tạo được nhiều phúc
báu.
Có tích như vầy: có một chim cu
xem thấy Chư Tăng rồi cúi đầu tỏ dáng làm lễ. Đức Phật thấy thế bèn
dự đoán rằng: về sau chim cu ấy sẽ thành một vị Độc Giác Phật hiệu
là Đức Somanassapaccekabuddha.
Trong Kinh có ghi tích một chim cu ngụ
trên cây, gần chân núi Vediyaka. Trong giờ Đức Thế Tôn ngụ đi khất
thực cùng với Tăng chúng chim cu ấy thấy chư Tăng phát tâm vui thích kính
mến, bay ra khỏi cây theo đưa đến xóm nhà. Khi Phật và Chư Tăng khất thực
xong trở về, chim cu ấy cũng bay theo đưa đến núi Vediyaka, nơi ngụ của
Đức Thế Tôn. Chim cu cúi đầu lễ bái rồi bay trở về chỗ ngụ.
Ngày kia, Đức Thế Tôn dẫn Chư
Tăng đi khất thực rồi trở về, chim cu ấy bay đậu trên đất rồi đi
theo đến núi Vediyaka. Đức Thế Tôn ngồi nghỉ trước động, có Chư
Tăng hầu chung quanh, tương tợ như các tinh tú bao quanh mặt trăng sáng lạn,
đáng ngoạn. Chim cu thấy vậy rất hân hoan, cúi đầu gục gặc trước mắt
Phật và phía trước Chư Tăng. Đức Thế Tôn thấy thế, Ngài mỉm cười,
Đức Aananda liền quỳ bạch, cầu Đức Thế Tôn cho Chư Tăng được
rõ nguyên nhân ấy.
Đức Thế Tôn hỏi:
- Này Aananda! Ngươi có thấy
cử chỉ chim cu ấy chăng?
- Bạch Phật tôi thấy.
-Này Aananda! Chim cu ấy sẽ
thành một vị Độc Giác Phật trong thời tương lai, danh hiệu Somanassapaccekabuddha.
Vì có tâm kính mến và trong sạch trong Tăng chúng trong hiện tại. Xong rồi
Ngài ngụ vào động an nghỉ.
Chim cu ấy, khi hết tuổi thọ, được
sinh lên thiên giới.
Do nhân quả như đã giảng, Đức
Thế Tôn mới thuyết về nhãn quan trước. Tiếp theo Ngài mới giảng về
nhĩ quan giống nhau như vậy.
Đây giải tiếp về vấn đề danh
sắc. Nếu thuyết bằng cách vi tế và cao siêu là danh và sắc hằng là
duyên sinh lục nhập nghĩa là duyên sinh trong sự tái sinh và thực hành cho
đến hết phước trong cõi vô sắc.
Vấn: Danh là duyên sinh lục nhập
trong cõi vô sắc, biết được như thế nào?
Đáp: Danh là duyên đồng thời.
Giải rằng: người niệm thiền vô
sắc trong thế gian không, sau khi thác được sinh lên cõi Phạm thiên vô sắc,
vừa với thiền ấy.
Danh là A~n~nama~n~napaccaya trong
vô sắc giới nghĩa là sinh trong cõi Phạm thiên vô sắc tầng nào, danh cũng
sanh trong cõi Phạm thiên vô sắc ấy.
Danh là duyên sinh trong cõi Phạm
thiên vô sắc do Nissayapaccaya, do Sampayuttapaccaya, do Viipaakapaccaya,
do Atthayaccaya, và do Avigatapaccaya.
Giải rằng: Nissayapaccaya: danh
là duyên đến lục nhập dù thế lực hộ trợ Sampayuttapaccaya: danh gồm
có duyên đến lục nhập tức là danh bao hàm lục nhập.
Viipaakapaccaya: danh là duyên cho
quả gọi là Phạm thiên vô sắc tầng này, tầng kia.
Atthayaccaya: sanh trong vô sắc tầng
nào, danh cũng có trong vô sắc tầng ấy.
Avigatapaccaya: danh là lục nhập
không lìa nhau, danh có trong nơi nào lục nhập cũng có trong nơi ấy.
Phải hiểu rằng: trong bốn Phạm
thiên vô sắc không có sắc thật, nhưng có nhân để xác nhận gọi là vô
sắc, chỉ có tư thế nhưng gọi là sắc, cũng không được. Tư thế ấy kể
vào lục nhập. Vì thế danh là duyên đến lục nhập gọi là sinh đồng thời
duyên.
Về Phạm thiên hữu sắc nên hiểu
như vầy:
Danh và sắc là duyên sinh cả hai loại
luc nhập nghĩa là người niệm thiền trong cõi người khi ngũ uẩn tan rã,
sinh lên cõi trời phạm thiên có ba giác quan nhất là tỷ quan cũng có gọi
là Phạm thiên tầng ấy. Vì thế danh và sắc mới là duyên trong cõi Phạm
thiên hữu sắc. Danh ấy gọi là Phạm thiên hữu sắc. Danh và sắc mới gọi
là duyên sinh lục nhập, lục nhập có danh và sắc là duyên.
Chúng sinh, sinh trong cõi nào cũng chỉ
có danh là duyên sinh lục nhập chỉ khác nhau có đủ danh hay không, nghĩa là:
Có hạng chỉ có thọ
Có hạng chỉ có tưởng
Có hạng chỉ có hành
Có hạng chỉ có 2 uẩn
Có hạng có cả 3 uẩn.
Người và trời trong dục giới
thiên có đủ 3 là: thọ, tưởng và hành. Phần phạm thiên có 2 là: tưởng
và hành, không có thọ. Đức Phạm thiên không có thọ, vì có phỉ lạc
là thực phẩm, không biết vị, chua, mặn, đắng ngọt ra sao, và không thụ
cảnh tượng( [21] ) tức là sắc, thinh, hương, vị và
xúc.
Dù đức Phạm thiên hữu sắc cũng
chỉ hưởng thụ( [22] ) pháp cảnh mà thôi dầu là như
thế cũng gọi là có danh và sắc là duyên, giống nhau. Vì tưởng uẩn liệt
vào trong danh. Danh ấy là duyên sinh lục nhập. Lời giải đây chỉ cho thấy
rằng danh và sắc là duyên sinh lục nhập trong sắc giới. Nhưng thí dụ
không được, bởi trong vi diệu pháp không có nói.
Trong Tạng Kinh có thuyết rằng:
Trong thời kỳ Phật Kassapa, khi gần mạc Pháp, Chư Tăng hành đạo không
trong sạch, vi phạm điều học và khuấy rối Phật giáo, không quan tâm đến
Phật ngôn. Thuở ấy có 7 vị Tỳ khưu, thấy nguyên nhân như vậy, phát
tâm chán ngán nên bàn định cùng nhau rằng, giáo pháp của Đức Chánh Biến
Tri Kassapa đến kỳ sẽ tiêu diệt. Chúng ta mau cố gắng tìm nơi nương tựa,
chớ nên để Phật giáo tiêu diệt trước, trong khi đạo quả còn tồn tại.
Chúng ta nên cố gắng hành cho đắc đạo quả. Đồng ý như vậy, rồi dẫn
nhau đến lễ bái Bảo tháp Đức xa lỵ của đấng cứu thế Kassapa; xong cùng
nhau vào non tuyết lãnh. Gặp một hòn núi giữa rừng cho là thích hợp với
sự bổ khuyết Sa môn pháp, tất cả bảy vị tính rằng, chúng ta đồng
nhau lên hòn núi này, nếu vị nào sợ chết thì đừng lên, vị nào dám hy
sinh nguyện thực hành, chí tử bất thối, mới nên lên. Cả bảy vị đồng
ý nhau, làm thang để lên núi cho được, rồi xô thang rớt xuống đất.
Nguyện không xuống, trừ khi đắc đạo quả rồi mới xuống bằng thần
thông.
Mỗi vị quyết định bổ sung pháp
tham thiền quán tưởng.
Qua ngày sau, vị Tỳ khưu sư trưởng
tu Sa môn pháp đắc A-la-hán quả trước. Sáng sớm, ngài bay đến ao sen rửa
mặt, súc miệng rồi bay đi khất thực tại Bắc cưu lưu châu( [23] ) được thực phẩm vừa rồi trở về núi. Ngài mời
sáu vị kia thọ thực.
Tất cả sáu vị không thừa nhận,
vịn lẽ rằng không được cam kết cùng nhau, là khi vị nào đắc quả
trước phải trải đi khất thực đem đến cho vị chưa thành. Như vậy không
nên thọ thực. Vì thế cả sáu vị không dùng cơm mà vị sư trưởng đem
cho, rồi tận tâm sốt sắng hành Sa môn pháp liên tiếp.
Ngày thứ hai, vị Tỳ khưu nhỏ hạ
kế sư trưởng đắc A na hàm quả. Sáng ra, bay đi khất thực đem về thỉnh
Chư Sư dùng, nhưng năm vị kia cũng không bằng lòng nhận, do dựa vào lẽ
như đã nói trên.
Ngài sư trưởng A-la-hán nhập Niết
bàn, vị A na hàm hết tuổi thọ, được lên cõi Phạm thiên. Còn lại năm
vị không ai đắc quả gì cả, đến bảy ngày không thọ thực thác rồi
sinh lên cõi trời, do thế lực thực hành bổ sung sa môn pháp. Đến giáo
pháp Đức Phật chúng ta đây, năm vị ấy, giáng sinh xuống nhân gian, như
vầy:
1.- Một vị sinh ra làm vua Pukakusaati.
2.- Một vị sinh ra làm đức Kumaarakassapathera.
3.- Một vị sinh ra làm đức Baahiya.
4.- MoÄt vị sinh ra trong gia đình võ sĩ danh là Dabba.
5.- Một vị sinh ra làm Sabhiya Paribbaayaka (đạo phiêu lưu).
Theo pháp đã giải đây, chúng ta thấy
rằng, vì được sinh lên cõi phạm thiên có Sa~n~naakhandha (tưởng uẩn)
và Sa"nkhaarakhandha (hành uẩn là duyên sinh lục nhập).
Tóm tắt rằng: Danh là duyên sinh Lục
nhập trong cõi Phạm thiên như bạn của năm vị Tỳ khưu Tăng ấy.
( [1] )
Khối: nhiều vật nhiều cái un đúc lại làm một.
( [2] )
Indriya: căn hoặc gốc.
( [3] )
Gati: cõi mà chúng sinh phải tái sinh sẽ giải rõ phía sau.
( [4] )
Khuyến khích: xúi dục.
( [5] )
Abhipatii: Pháp là chủ.
( [6] )
Là ý hướng về cảnh đối tượng và biết rõ rồi hành theo, dhaatu: nâng
đỡ ý thức
( [7] )
Cõi dục thiện mà chúng sinh phải tái sinh.
( [8] )
Năm quả hành trong sắc giới.
( [9] )
Phước tạo trong sắc giới.
( [10] )
Thiện trong sắc giới.
( [11] )
Thiện trải đi trong cõi dục.
( [12] ) ahetuka manovi~n~naana: vô nhân
( [13] )
Thiện trải đi trong dục giới vô nhân thức.
( [14] )
Gati là 5 nơi phải đi tái sinh.
( [15] )
Sayaruupa: Thích hợp sắc.
( [16] )
Thái sắc: hình dáng bề ngoài của sự vật được biểu hiện ra một cách
rõ ràng xác thực.
( [17] )
Tội nhân nằm trên miếng sắt lửa cháy: hai tay hai chân và ngực bị đóng
đinh lửa.
( [18] )
Thủy chung: bắt đầu và cuối cùng, từ đầu đến cuối.
( [20] )
Khí chất: khuynh hướng của tình cảm.
( [21] ) Cảnh
tượng: ahammana: là tình trạng phô
bày ra trước mắt.
( [22] )
Hưởng thụ: được hưởng.
( [23] )
Bắc cưu lưu châu: châu hướng bắc trong 4 châu.
(xem tiếp phần 16b)