- Triết Lý về Nghiệp
- Hòa thượng Hộ Tông
- Thiên XVI-b
- DÂY XÍCH CỦA NHÂN QUẢ THEO Ý NGHĨA
VI DIỆU PHÁP
(tiếp theo)
Phassa (Xúc)
Phassa: dịch là tiếp xúc hay đụng
chạm, vì có lục nhập là nhân.
Giải đại khái có 6, nhất là
nhãn xúc, nếu giải rộng có 32 như thức.
Tiếng Phassa dịch là tiếp xúc ấy
có giải rằng: Nhãn tiếp xúc với cảnh tượng tức là Sắc, Nhĩ tiếp xúc
với cảnh tượng tức là Tiếng, Tỷ tiếp xúc với cảnh tượng tức là
Mùi, Thiệt tiếp xúc với cảnh tượng tức là Vị, Thân tiếp xúc với cảnh
tượng tức là Vật đụng chạm, Tâm tiếp xúc với cảnh tượng tức là
Pháp.
Tiếng Paali gọi là: Cakkhusamphassa,
sotasamphassa otasamphassa, ghaanasamphassa, jivhaasamphassa kayasamphassa monosamphassa.
Tất cả Xúc phát sinh lục nhập nếu
không có lục nhập cũng không có xúc.
Trong tất cả lục nhập ấy, 5
giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân hằng là duyên sanh xúc do 6 duyên
là:
1.- Nissayapaccayaa: là duyên nương
tựa.
2.- Purejaatapaccayaa: lục nhập sinh trước rồi.
3.- Indriyapaccayaa: lục nhập là căn cho xúc sinh.
4.- Vipasampayuttapaccayaa: lục nhập và xúc không chung sức nhau.
5.- Attipaccayaa: lục nhập có rồi xúc cũng có.
6.- Avigatapaccayaa: lục nhập với xúc không lìa nhau; lục nhập sinh
trong nơi nào, xúc cũng sinh trong nơi ấy.
Phần Ý Lục Nhập là duyên sinh Ý
Xúc do 9 loại là:
1.- Sahajaatapaccayaa: sinh cùng với
xúc ý.
2.- A~n~nama~n~napaccayaa: giúp lẫn nhau không lìa nhau.
3.- Niissayapaccayaa: nhất là tỷ giác quan( [24] ) là
nơi nương tựa vào của ý xúc.
4.- Vipaakapaccayaa: tỉ giác quan có kết quả đến ý xúc.
5.- Aahaarapaccayaa: tỉ giác quan là duyên dẫn ý xúc đến.
6.- Indriyapaccayaa: tỉ giác quan là căn đến ý xúc.
7.- Sampayuttapaccayaa: tỉ giác quan cùng hiệp sức với ý xúc.
8.- Attipaccayaa: tỉ giác quan có ý xúc.
9.- Avigatapaccayaa: tỉ giác quan không lìa ý xúc.
Theo như đã giải là chỉ ngay giác
quan nội nhưng cũng không ám chỉ rằng lục nhập ngoại không có duyên đến
xúc. Sự thật lục nhập ngoại hằng là duyên đến xúc giống nhau.
Giải rằng:
1.- Ruupaayatana: Sắc là đối
tượng duyên nghĩa là sắc là mục đích [25] đến nhãn
xúc.
2.- Saddaayatana: Thinh là đối tượng duyên nghĩa là tiếng mục đích
đến nhĩ xúc.
3.- Gandhaayatana: là đối tượng duyên nghĩa là mùi, là mục đích đến
mũi xúc.
4.- Rasàyatana: Vị là đối tượng duyên nghĩa là vị là mục đích
đến thiệt xúc.
5.- Photthabbayatana: Xúc là đối tượng duyên nghĩa là sự đụng chạm
là mục đích đến thân xúc.
6.- Dhamma: Pháp là đối tượng duyên nghĩa là mục đích đến ý
xúc.
Xúc như đã giải còn chia ra 2 loại:
1.- Lành
2.- Dữ
Xúc nếu là chánh đáng thì làm cho
tâm ưa thích trong thiện pháp gọi là xúc lành. Ví hằng là dữ thì làm
cho tâm ưa thích trong tội, kể vào xúc ác.
Xúc là tâm sở tức là đối tượng
sinh cùng với tâm dù là thọ sẽ giải tiếp đây cũng là tâm sở giống
nhau và để cho dễ hiểu. Về xúc lành, có giải rằng: như nhãn xúc. Khi mắt
thấy sắc rồi xác định bằng lẽ Vô thường, Khổ não, Vô ngã. Như người
xem hí kịch rồi nhận thức được rằng là điều chơi nhảm, gạt người
cho quên mình, quên chết, quên già, đến nỗi lầm lạc vui thích thật. Thấy
được như thế, là xúc của tâm sở lành.
Có tích như vầy: Đức Xá Lợi Phất
và Mục Kiền Liên thuở còn thanh niên, hai người điều là gia chủ, hằng
dẫn nhau đi xem hài kịch. Ngày kia phát động tâm rồi đồng nhau đi tìm
pháp giải thoát, cho đến khi gặp Phật giáo như sở nguyện được lưu
danh đến nay.
Xúc ác tương phản với trên, nghĩa
là thấy sắc dính với sắc, nghe tiếng dính với tiếng, vừa lòng thỏa
mãn rồi phải chịu luân hồi sinh tử.
Xúc sinh vì giác quan là duyên, nếu
không có giác quan, xúc cũng không thể sinh được, xúc cũng là nhân sinh thọ.
Vedanaa(ThọÏ)
vedanaa: là sự hưởng dụng vị
của đối tượng. Đây là cử chỉ hiểu biết hơn thức, nghĩa là thức
chỉ biết đặc tính, cử chỉ của đối tượng bên ngoài rằng: Sắc nhờ
tiếng vang, mùi thơm; vị chua, đắng, vật đụng chạm mềm, cứng, pháp đối
tượng là tâm nghĩ nhớ đến vấn đề chi chi, mà thôi.
Phần thọ là sự hiểu biết nhiều
hơn, là biết vui thích, khổ sở không hài lòng hay lãnh đạm, xả. Đây
là đặc tính của thọ.
Thọ chia theo cửa cũng có 6, là:
1.- Cakkhusamphassajaavedanaa: Thọ
sinh từ xúc của Nhãn môn.
2.- Sotasamphassajaavedanaa: Thọ sinh từ xúc của Nhĩ môn.
3.- Ghaanasamphassajaavedanaa: Thọ sinh từ xúc của Tỉ môn.
4.- Jivhaasamphassajaavedanaa: Thọ sinh từ xúc của Thiệt môn.
5.- Kaayasamphassajaavedanaa: Thọ sinh từ xúc của Thân môn.
6.- Manosamphassajaavedanaa: Thọ sinh từ xúc của Ý môn.
Nếu chia theo loại, thì thọ có 89( [26] ) như tâm, vì thọ gồm có tâm, nhưng thọ trong
"thuyết Thập nhị duyên khởi" đây mong lấy 32 loại là thọ gồm
có trong 32 quả tâm, có xúc là duyên.
Nói rằng xúc là duyên sinh thọ là
do thế lực của thọ chịu đối tượng, cho thành tựu trong cõi dục, thực
hành theo Sampaticchannacitta là tâm thụ đối tượng và Santiirannacitta
là tâm quan sát đối tượng và Tadaalambanacitta là tạng tâm( [27] ) chứa sự vui thích đối tượng trong các cửa.
Các thọ điều sinh từ xúc cả,
không phải chỉ sinh riêng một mình phải có xúc là duyên, thọ mới nảy
ra được, xúc sinh rồi thọ mới sinh như thế mới gọi là xúc là duyên
sinh thọ.
Ta.nnhaa (ái)
Ái sinh từ thọ là duyên, ái là cuộc
tranh đấu theo thế lực của lòng thèm khát.
Trong Paraayanavajja gọi Ta.nhaa
(ái) là "Jappa", dịch là xan tham, tham lam, khao khát và có thuyết
rằng: Ta.nhaa là điều dơ bẩn của đời, là cái dính mắc của đời,
lem luốc, buộc thắt; gọi Ta.nhaa là Sibbanii dịch là khao khát
mãnh liệt, không cưỡng được, ví như loài tằm mắc trong ổ kén vậy.
Ái dục ràng rịt chúng sinh để trong khổ: Sanh, Già, Bịnh, Chết. Siết chặt
trong nỗi than van, rên rỉ, đau đớn, khổ sở, ưu sầu; buộc thắt trong sự
luân hồi, khổ; gọi Ta.nhaa là asa dịch là lòng dục vọng, vô
độ, khiến chúng sinh phải chiến đấu, chống lại theo sự khao khát, gọi
Ta.nhaa là "Paapa~ncadhamma" dịch là trì hoãn nghĩa là
pháp làm cho chúng sinh chậm lại có 3 là:
Ta.nhaa ái) Mana (kiêu) và Di.t.thi
(ý kiến độc đoán), làm cho tâm chúng sinh nảy nở tâm câu chấp rằng:
1.- Etam mana: Đó là của ta,
ái dục làm cho giữ vững như vậy.
2.- Esohamasmi: Ta là do kiêu, làm cho giữ lấy như vậy.
3.- Eso me atta: Đó là chính mình ta ý kiến độc đoán làm cho câu nệ
như vậy.
Khi đã cố chấp như thế, làm cho
chậm giải thoát khỏi luân hồi, gọi là "Sango" dịch là cố
giữ lấy Ta.nhaa . 108 ái dục là:
1.- Kaamata.nhaa: Dục trong Cõi
Dục Giới.
2.- Bhavata.nhaa: Dục trong Sắc Giới, và mong được như thế ấy như
thế kia rồi giữ vững.
3.- vibhavata.nhaa: Dục trong Vô Sắc Giới.
Nếu giải theo đối tượng, hoặc
cảnh tượng thì ái dục chia ra làm 6 là:
1.- Ruupata.nhaa: Sắc dục.
2.- Saddata.nhaa: Thinh dục.
3.- Gandhata.nhaa: Hương dục.
4.- Rasaata.nhaa: Vị dục.
5.- Pho.t.thabbata.nhaa: Xúc dục.
6.- Dhammaa ta.nhaa: Pháp dục.
Lấy 6 ái dục ấy chia ra nữa
thành 18 là:
1.-Ruupaata.nhaa
1)- Kaamata.nhaa
2)- Bhavata.nhaa
3)- Vibbata.nhaa
2.- Saddata.nhaa
1)- Kaamata.nhaa
2)- Bhavata.nhaa
3)- Vibbata.nhaa
3.- Gandhata.nhaa
1)- Kaamata.nhaa
2)- Bhavata.nhaa
3)- Vibbata.nhaa
4.- Rasaata.nhaa
1)- Kaamata.nhaa
2)- Bhavata.nhaa
3)- Vibbata.nhaa
5.- Pho.t.thabbata.nhaa
1)- Kaamata.nhaa
2)- Bhavata.nhaa
3)- Vibbata.nhaa
6.- dhammata.nhaa
1)- Kaamata.nhaa
2)- Bhavata.nhaa
3)- Vibbata.nhaa
Tách ra nữa thành 36 ái dục:
1.- Ái dục bên trong 18
2.- Ái dục bên ngoài 18
Phân theo thời là: hiện tại, quá
khứ và tương lai. Lấy 36 ái dục ấy gộp lại vào 3 thời là:
1)- Ái dục hiện tại -- 36
2)- Ái dục quá khứ -- 36
3)- Ái dục tương lai -- 36
Tổng cộng: 108
Ba ái dục phân ra cách vi tế thành
108 ái dục. Ái dục ấy nếu có trong người nào là duyên cho người ấy
khó cất đầu ra khỏi khổ cảnh được, là nguyên nhân sinh khổ sở triền
miên, buồn rầu, đau đớn, than van, rên rỉ, mãi mãi. Ví bằng không có
ái dục, thì khổ cũng không từ đâu mà sinh được, như Pàli rằng:
Ta.nhaaya jaayate soko
ta.nhaaya jaayate bhaya.m
ta.nhaaya vippamuttassa
natthi soko kuto bhaya.m
- Sự buồn rầu sinh từ ái dục.
Điều lo sợ tai nạn sinh từ ái dục, khi người thoát ly được ái dục rồi,
nỗi buồn rầu cũng không có, thì sự lo sợ sẽ có từ đâu, như vậy.
Lại ái dục đàn áp người nào,
làm cho người ấy đọa trong bốn ác đạo, ví như loại chùm gởi đàn
áp cây da lâu ngày xui nên cây da phải ngã xuống đất, thế nào, chỉ có
bậc Thánh mới trừ diệt được ái dục. Những hàng trí tuệ hằng không
ở dưới quyền lực của ái dục, nghĩa là khi ái dục phát lên các Ngài
hằng đè nén, không cho nó cất đầu được, không cho ái dục làm chủ
mình.
Phương pháp diệt dục ấy, điều
cần thiết là không nên cẩu thả phải có trí nhớ hiểu biết, đồng thời
trừ sự cẩu thả, gây nên sự không cẩu thả cho tiến triển trong tâm trạng
để khử ái dục. Có Phật ngôn rằng: "Người nào không cẩu thả,
trú trong pháp luật này, người ấy sẽ khỏi luân hồi, diệt tuyệt được
sự khổ".
Cớ ấy, khi ao ước được hết khổ,
cần phải đuổi sự cẩu thả ra, dứt ái dục cho tuyệt căn khỏi bản
năng( [28] ). Ví như gốc của cây không có vật làm bế
tắc( [29] ) trú vững trong đất, cây ấy dù bị người
chặt đứt phía trên, nghĩa là từ mặt đất trở lên, nó vẫn còn nảy mọc.
Ái dục là thụy miên phiền não theo ngủ ngầm trong bản năng, chưa bứng
được tận gốc, thì sự khổ nhất là sanh, lão cũng phát lên mãi mãi.
Chúng sinh mà bị Taịhànusaya, ái dục thụy miên đè ép bao vây rồi hằng
không yên lòng, bức rức ví như con thỏ mắc bẫy. Vì thế cần phải diệt
tuyệt ái dục. Phải xác định ái dục theo 3 sự thông hiểu chính xác (Pari~n~naa)
là:
1.- Natapari~n~naa: Hiểu chắc rằng:
Đây sắc dục, thinh dục, hương dục, vị dục, thân dục, xúc dục, pháp
dục có ý nghĩa là hiểu biết đúng. Ái dục mà người phải biết hoặc
đã biết rồi.
2.- Tira.napari~n~naa: Hiểu chắc
rằng: phải chọn lấy để quán tưởng theo lẽ vô thường là điều tội
lỗi, vô ngã là bệnh hoạn, là mũi tên xoi đâm thấu vào mình v.v.
3.- Pahaanapari~n~naa: Khi đã hiểu
chắc như trên rồi phải quyết định bỏ đi là diệt tuyệt ái dục, làm
cho tiêu tan không còn dư sót, theo Phật ngôn rằng:
"Này các Tỳ khưu! Tình dục
nào tồn tại các ngươi hãy bỏ tình dục ấy đi. Khi các ngươi bỏ được
tình dục trong ái dục như thế, mới gọi là người khỏi ái dục, rễ
cái đứt rồi, làm cho ái dục không có gốc, không có nơi trú, không cho
sinh, không cho tiếp theo".
Ái dục như đã giải đây từ thọ
và ái dục này cùng là duyên sinh thủ thêm nữa.
Upaadaana (Thủ)
Upaadaana dịch là câu nệ, câu
chấp có 4 là:
1.- Kaamupaadaana: Dục thủ.
2.- Di.t.thupaadaana: Kiến thủ.
3.- Siilabattupaadaana: Giới cấm thủ
4.- Attavaadupaadaana: Chấp theo thế lực lời nói của mình.
Giải tóm tắt rằng:
Kaamupaadaana: là sự câu chấp hẳn
vật dục (sắc, thinh, hương, vị, xúc), dục ấy gọi là thủ, nghĩa là sự
ao ước, là nguyên nhân cho câu chấp vật dục. Khi đã câu nệ vật dục
là nguyên nhân cho tâm quyến luyến rằng đây là của ta, là nhân sinh ghen
ghét kẻ khác.
Di.t.thupaadaana: là câu chấp
trong sự thấy quấy, có tâm giữ vững trong ý kiến độc đoán, sai lầm rằng,
người được thường tồn, đời là lâu dài v.v.
Giải rộng: Cố chấp ý kiến độc
đoán của mình thái quá, thành người cứng cỏi, không thể lay chuyển
được, không thừa nhận lời khuyên của ai, người như vậy thường hay cãi
cọ trong hiện tại với kẻ khác.
Siilabattupaadaana: Chấp hẳn giới
cấm theo căn bản, ngoại, tự quyết định rằng, là phép cho chúng sinh
trong sạch do sự thực hành theo loài bò là ngủ trên đất, khi ăn cũng ăn
như bò v.v.
Attavaadupaadaana: Câu nệ theo lời
nói tà kiến hoặc chấp ta, chấp người do thế lực tự cao, cho đến cố
chấp đảng phái, bất hòa, chia rẽ nhau. Dù thế nào, Attavaadupaadaana
là ngoài Phật.
Trong chú giải Atthakathaavibha.nga
có thuyết bốn Upaadaana như vầy:
Sự mong mỏi trong dục, sự ưa thích
trong dục, sự luân hồi trong dục, sự ham muốn còn dư sót trong dục, sự
khó chịu bứt rứt trong dục, sự im lặng trong dục, sự ôm chặt trong dục
gọi là Kaamuupaadaana (dục thú).
Tóm lại, sự câu nệ vì ái dục
làm cho tâm cố giữ vững. Tình trạng giữ vững của ái dục ấy gọi là
Purimata.nhaa dịch là ái dục trước, ái dục đã sinh rồi chấp hẳn
gọi là Pacchimata.nhaa dịch là ái dục sau, do dựa vào ái dục đã
sinh trước. Thủ sinh cũng do ái dục là nhân, ái dục sinh do nương vào thủ
ái dục là lòng khao khát chưa đạt được, ví như đạo tặc đưa tay ra
trong nơi tối. Thủ là sự mong mỏi đạt được, ví như đạo tặc đưa
tay ra nắm lấy đồ.
Tiếng thí dụ đây nghe rất êm tai
cho hiểu rõ được tức tốc.
Ái dục là thủ hằng là tương phản
với sự ham muốn ít và tri túc. Vì ái dục và thủ là nhân cho ham muốn
nhiều là nhân sinh khổ Kaamupaadaana dịch là sự chấp hẳn trong dục
hằng là nhân đem đến sự khổ sở.
Có tích như vầy:
Có một triệu phú gia, dù có đầy
đủ song cũng vẫn keo kiết. Y trồng một đám mía, tự Y cũng không dám
ăn, kẻ khác dùng cũng không được, vì y rất bủn xỉn. Đến khi hấp hối,
y có tâm quyến luyến trong mía thái quá, nên sau khi thác thành loài kiến
trong cây mía. Đấy cũng do tâm chấp vững trong vật dục.
Trong chú giải Pháp cú Kinh có tích
như vầy:
Một vị Tỳ khưu, đến giờ chết
có tâm dính mắc trong lá y, thác rồi thành con rận trong lá y. Chư Tỳ
khưu đem lá y ra chia, con rận kêu la quay tròn cho đến khi Đức Thế Tôn
Ngài dạy để qua bảy ngày, rận ấy chết rồi sẽ chia nhau.
Về phần câu nệ trong phiền não dục
cũng có thể đốt thiêu tâm cho khô héo, khó khăn bứt rứt.
Như tích tiếp theo rằng:
Có vị Tỳ khưu đi khất thực,
được thấy một thiếu nữ rồi phát tâm luyến ái. Nghĩ rằng, ta hoàn tục
rồi đến ở với thiếu nữ ấy. Tính xong không thể đi trì bình được
nữa, nên trở về chùa vào nằm nhớ tưởng đến sự hoàn tục theo thế
lực của phiền não dục dính chặt trong tâm, không thọ thực. Bất ngờ
ngày ấy, cô thiếu nữ lại chết. Vừa được tin đó Tỳ khưu ấy nghĩ rằng
vấn đề mình định đã hỏng rồi, không thể thành tựu theo sở nguyện
được, rồi sinh tâm phiền não cũng chết trong ngày ấy.
Giải cho thấy rằng: Kaamupaadaana
dục thủ, khi đã phát lên, nếu khâu trừ( [30] ) không
được, nó sẽ phá người cố chấp cho tổn hại, tan nát như thế. Cớ
ấy bậc trí tuệ mới có tâm bỏ dục thủ không cho nảy nở trong bản năng.
Dù nó đã sinh trong lúc nào cũng phải cố đè ép nó cho giảm bớt từng
tí, cho đến diệt tuyệt. Khi nó đã tiêu tan, người ấy sẽ thoát ly tất
những lo sợ, nguy hiểm. Trừ diệt dục thủ được như vậy đều do trí
tuệ quan sát rằng: Phiền não mà hằng đàn áp, hãm hại người thấy cảnh
tượng cho là tốt đẹp, nhìn xem theo sắc đẹp bên ngoài rồi bị ám ảnh.
Về người thấy không cho là đẹp thì phiền não ma không thể quyến rủ
được. Ví như gió mạnh không thể thổi bay, làm rung động tảng đá vậy.
Phiền não ma ví như lưới bao loài chim, chim bị mắc lưới rồi rất khó
bay thoát được thế nào, phiền não ma cũng vậy. Chúng sinh hằng dính
trong phiền não ma rất nhiều, hiếm người được thoát khỏi:
Di.t.thupaadaana: Tà kiến thủ có
3 là:
1)- Akiriyadi.t.thi: Hiểu rằng
làm phước không có phước làm tội cũng không có tội, sát sinh cũng không
gọi là sát sinh. Đất, Nước, Gió, Lửa làm lẫn nhau thì phước, tội do
đâu mà có. Chúng sinh nhỏ lớn sinh ra cho thích hợp với nhau. Cá thịt
sinh ra để làm thực phẩm cho người. Người giết chúng sinh để ăn thì
có tội thế nào. Tóm lại, cố chấp rằng làm phước cũng không phải
làm là phước, làm tội cũng không phải làm là tội.
2)- Natthikadi.t.thi: Chấp rằng
thú và người cũng không có, chỉ là yếu tố hỗn hợp nhau, chỉ là yếu
tố hãm hại lẫn nhau, như nước với lửa. Yếu tố hộ trợ thì chúng hộ
trợ lẫn nhau, như lửa cháy, gió thổi v.v.
3)- Ahetukadi.t.thi: Cố chấp rằng
không có nhân tức là lành hay dữ không nương vào việc làm, tốt cũng tự
mình tốt, xấu cũng tự mình xấu.
Cả 3 tà kiến ấy liệt vào xác định
tà kiến (Nayatamicchaadi.t.thi) ngăn trở cõi trời và Niết bàn. Tà kiến
khác chỉ ngăn Niết bàn, không chắn cõi trời.
Siilabbattupaadaana: Giới cấm thủ
là câu nệ giới của ngoại đạo, là nhân làm cho giới trong sạch, khiển
trách giới của hàng tịnh giả. Không trì giới theo Phật giáo nghĩa là giữ
giới và hành theo ngoại đạo, như đạo lõa thể. Có phái cho rằng qua
sông, qua giếng, bưng sẽ đứt giới v.v.
Có kẻ nằm ngồi trên đất, có người
mặc bằng lá cây v.v. có hạng lấy cát bụi rải trên mình, trên đầu, bôi
bùn lầy.
Attavaadupaadaana: Đã có giải rồi
bốn upàdàna (thủ) ấy sinh do ái dục và thủ hằng là duyên sinh Bhaba:
Hữu.
Bhaba (Hữu)
Tiếng Bhaba dịch là "Hữu",
nghĩa là nơi sinh của chúng sinh, chia ra làm 2 là:
1.- Kammabhaba.
2.- Upattibhaba.
- Kammabhaba: là cõi, nơi sinh
quả, chia ra làm 29 bằng cách chia theo nhất là Kaamaavacarakusala( [31] ).
- Upapattibhaba: là hữu (có) hoặc
xuất hiện chia ra làm 9 nhất là Kaamaavacarabhaba.
Trong tiếng Bhaba "Hữu"
do sinh là duyên ấy ngấp nghé lấy Upapattibhaba và trong tiếng
"sinh" có do hữu là duyên ấy mong ước lấy Kammabhaba là
duyên của sinh. Có kinh Pàli rằng:
Kammabhavo upapattibhavoti
duvidhobhavo. Tattha pa.thamo bhavatietasmaa phalanti bhavo; so kaamaavacakusaladivasena
ekuunattiisavidhodutiyo pana bhavatiiti bhavo. So kaamabhavaadivasena navavidho.
upaadaanapaccayaa bhavoti cettha. Upapattibhavopi adhippeto. Bhavapaccayaa jaatiti
kammabhavova. So hi jaatiyaa paccayo hoti na itaroabhidhammatthavibhaavinii paricheda.
Nói chia Upapattibhaba "Hữu"
ra làm 8 là:
1.- Kaamabhaba: Dục giới.
2.- Ruupabhaba: Sắc giới.
3.- Aruupaabhaba: Vô sắc giới
4.- Asa~n~niibhaba: Vô tưởng giới
5.- Nevosa~n~naanaasa~n~niibhaba: Phi phi tưởng giới.
6.- Ekavokàbhaba: Nhất uẩn giới.
7.- Catuvokaabhaba: Tứ uẩn giới.
8.- Pa~ncavokaabhaba: Ngũ uẩn giới.
Trong phần Vibhanga có giải rằng:
Có hạng người trong đời này, suy nghĩ tìm tòi trong tâm rằng: Các dục
tình hằng có đầy đủ trong dòng dõi cao sang như dòng vua v.v. (trong cõi người).
Trong Dục giới thiên, cũng đầy đủ
dục tình. Khi đã suy nghĩ như vậy rồi hành vi bất chánh, do thế lực của
thủ, sau giờ hấp hối phải sinh trong địa ngục.
Trong tạng Kinh có ghi rằng: Người
tạo nghiệp bất thiện do thủ là duyên, như Đức Mục Kiền Liên, thuở
chưa đắc đạo quả, còn sinh tử trong luân hồi, tự mình giết song thân,
như thế.
Dẫn tích như vầy:
Có một người (tiền kiếp Đức Mục
Kiền Liên) chỉ một mình làm việc về phụng dưỡng cha mẹ. Mẹ chàng
tính tìm vợ để giúp đỡ chàng. Cưới vợ rồi không bao lâu, vợ kiếm
chuyện đuổi song thân chàng, xúi giục chồng ghét bỏ mẹ, cha, rốt cục
chàng nghe lời vợ, giết mẹ cha đem bỏ trong rừng, sau khi thác chàng sa
trong A tỳ địa ngục. Cớ ấy, chúng sanh tạo nghiệp bất chánh theo thế
lực của thủ hằng đi đến bốn ác đạo. Nghiệp ấy dẫn cho chúng sanh
trong khổ cảnh, như vậy, mới gọi thủ là duyên sanh hữu.
Tà kiến thủ là duyên sinh hữu. Người
câu nệ có tà kiến khó dứt bỏ được, nếu đã cố chấp theo tà kiến
rồi là duyên cho sinh trong bốn ác đạo như Đức Kondadhaana-thera thuở
còn là vị trời, tính tìm dịp khiến hai vị Tỳ khưu bất hòa nhau như vầy:
Trong thời quá khứ, có hai Tỳ khưu
hòa thuận nhau như anh em đồng bào. Vị trời ấy thấy vậy, bèn nghĩ rằng:
"Ta sẽ làm cho hai vị bất hòa nhau được chăng?"
Một ngày lễ phát lồ kia, hai Tỳ
khưu dẫn nhau đến chánh điện để hành lễ phát lồ cùng chư Tăng. Lúc
đi giữa đường, vị nhỏ hạ bạch với vị lớn rằng, bạch ngài chờ
tôi chốc lát, tôi có việc vào cụm rừng này để đại tiện, rồi đi
ngay vào rừng. Vị trời ấy, được thấy liền phát tà kiến, tính phá
cho hai vị bất hòa nhau, nên làm một người nữ, khi Tỳ khưu đại tiện
xong trở ra, phụ nữ ấy theo sau lưng giả bộ đang mặc quần, cho vị kia
xem thấy. Vị này liền nói với vị nhỏ rằng:
- Thầy đứt giới rồi phải không?
Vị nhỏ bạch:
- Tôi đâu có phá giới gì?
Vị lớn nói chính mắt tôi thấy
rõ người nữ cùng theo sau lưng thầy ra khỏi, vừa đi vừa đang bới tóc,
vận quần. Tôi thấy tận mắt, mà thầy còn chối cãi gì nữa. Cả hai vị
đồng đi đến chánh điện rồi vị lớn nói:
- Tôi không hành lễ phát lộ với
thầy đâu.
Từ đó hai vị chia rẽ nhau.
Vị trời thấy hai vị Tỳ khưu không
hành lễ phát lồ cùng nhau nên nghĩ rằng: "Đây là nghiệp nặng trịch".
Nghĩ rồi bèn bay lên giữa chánh điện trước hai mặt Tỳ khưu, hiện thân
cho thấy rõ rệt rồi tuyên bố cho Tỳ khưu cao hạ biết rõ. Sự thật
không phải vậy đâu, tôi muốn thử hai ngài xem còn hòa nhau hay chia rẽ
nhau. Vị cao hạ được hiểu như thế hết ngờ vực chịu hành lễ cùng
nhau. Sau khi thác hai người được lên cõi trời. Vị trời ấy hết tuổi
thọ rồi trở sinh trong A tỳ địa ngục. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức
Phật chúng ta, vị trời lên làm người, trưởng thành rồi xuất gia trong
Phật giáo, nhưng trong lúc thọ giới đi đâu cũng có hình người nữ dính
theo rõ rệt, đến Chư Tăng, do quả của tiền nghiệp. Đây kể vào tà kiến
gọi là thủ. Tà kiến thủ là duyên sinh hữu, cho sinh cõi. Cớ ấy mới gọi
hữu, có do thủ là duyên.
Có hạng người nhận xét rằng: Những
phần việc được kết quả tốt đẹp do sự dựa vào nhân lành. Họ tạo
nghiệp chánh đáng nhất là thân chánh đáng theo thế lực của dục thủ (Kaamupaadaana).
Vì thế mà sau khi ngũ uẩn tan rã sẽ đến cõi trời hoặc cõi người
cũng nhờ dục thủ.
Trong dục giới dục thủ là duyên
sinh hữu, gồm có duyên (A~n~nama~n~napaccaya): nghĩa là phát sanh chung
cùng nhau, nương vào nhau. Cớ ấy, bậc trí tuệ cho là hữu sinh do thủ là
duyên như đã giải.
Jati (Sanh)
Tiếng hữu ấy trong Saccavibha.nga
mong ước Kammabhaba là duyên đến sanh có 2 là:
1.- Kammabhaba : Nghiệp là
duyên đến sanh.
2.- Nissayapaccaya: Thọ là duyên đến sanh.
Nên hữu là hai duyên đến sanh,
như vậy. Nghiệp là nhân cho sanh. Sanh mà không nghiệp thì không thể sanh
được. Trừ có người tạo mới có duyên cho sinh ra. Sự thật, nghiệp hằng
là pháp kỳ diệu làm cho cao sang hay thấp hèn.
Cớ ấy Đức Thế Tôn mới thuyết
rằng: "Nghiệp hằng phân hạng người cao sang và thấp hèn". Do đó
Bậc Trí tuệ mới hiểu rằng: hữu là duyên đến sanh, nếu hữu tức là
nghiệp không có, thì sanh cũng không từ đâu mà có được. Nghiệp là
hành vi, động tác của người. Nếu nói đại khái "nghiệp" mà người
tạo có 2 là: Nghiệp lành và nghiệp dữ hay gọi là thiện nghiệp và ác
nghiệp.
Thiện nghiệp là nhân khiến cho
chúng sinh được cao sang, ác nghiệp là nhân gây chúng sanh hạ tiện. Nhưng
phần đông hiểu tiếng "nghiệp" theo đời là chỉ nói về sự lo
sợ, khổ nàn, khó khăn mà thôi. Nếu hiểu theo Phật giáo tiếng nghiệp
là tiếng thông thường, trung lập ngấm nghé bên thiện và bên bất thiện,
làm phước gọi là thiện nghiệp, làm tội gọi là ác nghiệp. Tiếng nghiệp
chỉ ngay về sự làm, hành vi, động tác, thực hành v.v. Nếu người tạo
nghiệp lành thì sẽ được vui ví bằng tạo nghiệp dữ phải chịu khổ.
Có tích như vầy:
Có nhóm Tỳ khưu thường ngụ trong
rừng, đến khi ra hạ tính đi đến hầu Phật, bèn cùng nhau nương vào một
chiếc thuyền thương mãi. Ghe ấy đi đến bảy ngày rồi không đi được
nữa. Thuyền chủ lấy làm lo âu rằng, chắc chắn có nhân gì đây. Rồi
bèn định phải rút thăm. Thăm xấu vào tay người nữ, cô vợ của thuyền
chủ. Rút thăm như thế đến ba lượt cũng vẫn vào tay vợ ông chủ ghe. Tất
cả thủy thủ đều nhìn mặt thuyền chủ. Ông này tuyên bố rằng:
"Này các anh! Chúng ta không thể khiến tai hại xảy đến mọi thủy thủ,
chỉ vì một người. Các anh hãy liệng nàng xuống đại hải". Rồi dạy
thủy thủ cởi cả đồ tốt đẹp của vợ ra, cho mặc y phục cũ. Các thủy
thủ đồng nghe theo liệng vợ thuyền chủ trong đại hải, tức tốc ghe chạy
được tự nhiên.
Chư Tỳ khưu nghĩ rằng: "ác
nghiệp của phụ nữ ấy đã tạo, nào ai hiểu biết được, chỉ có Đức
Thế Tôn mà thôi". Như thế rồi yên lặng để trong tâm. Khi ghe đến
bờ biển, các thầy dẫn nhau lên bờ. Lúc ấy có một phụ nữ nấu cơm
chín rồi, nấu tiếp món ăn. Lửa dính chéo áo rồi bắt cháy lan đến bó
cỏ. Bó cỏ ấy bay lên không trung. Có một chim quạ bay đến chui đầu vào
bó cỏ đang cháy ấy, bị lửa thiêu sa xuống ngay trước mặt các Tỳ khưu.
Các Ngài tính sẽ đem câu chuyên ấy bạch hỏi Phật rồi dẫn nhau lên
đường.
Trong thuở ấy, có bảy vị Tỳ khưu
định đến hầu Phật, giữa đường gặp một cảnh già lam( [32] ), bèn vào tìm Ngài Sư trưởng; Ngài bèn cho bảy vị
vào trú trong thạch động vì trong nơi ấy có đủø bảy cái giường. Bảy
vị Này vào ngụ đến nửa đêm, bất ngờ có một tảng đá to, tự nhiên
sa xuống đóng kín cửa động. Sáng ra bảy vị ấy không sao ra khỏi được.
Ngài Sư trưởng trụ trì nói rằng, ta cho bảy vị cư ngụ đêm trong động,
tảng đá lại đóng bít cửa động, ta tin chắc rằng đấy là do nghiệp nặng.
Nói xong ngài trụ trì bèn dạy các sư trong chùa hội lại xô tảng đá mà
không động đậy. Ngài liền cho gọi cả bảy gia đình ở chung quanh chùa
đến giúp đem tảng đá ra, cũng không dời nổi. Đến ngày thứ 8, không
có ai đến xô, tảng đá ấy tự nhiên lăn ra khỏi cửa động. Cả bảy vị
Tỳ khưu bèn nói rằng: "Nghiệp mà chúng ta đã tạo, nay phải chịu khổ
vậy ngoài Đức Thế Tôn ra có ai biết được. Chúng ta sẽ bạch hỏi".
Tính rồi ra khỏi động, từ giã Ngài trụ trì, lên đường gặp nhóm Tỳ
khưu kia đã cáo biệt thuyền chủ cũng vừa đến đấy. Chư Sư đồng vào
hầu Đấng Giáo Chủ, lễ bái xong, ngồi trong chỗ phải lẽ, Đức Thế Tôn
tỏ lời hàn huyên ấm lạnh. Cả hai nhóm Tỳ khưu liền bạch hỏi về
nguyên nhân mà mình được thấy và chính mình chịu khổ nữa.
Này các Tỳ khưu! Phụ nữ đã chịu
nạn khổ vì nhân ác của nàng đã tạo từ trước rằng, thuở trước nàng
đem cơm đến ruộng cho chồng, có một con chó đã nhiều kiếp sinh làm người,
từng là chồng của nàng trong nhiều kiếp. Do nhân ấy, khi chồng chết
thành chó, vì tình luyến ái vẫn còn. Nên khi nàng ngồi, đi, đứng, hoặc
nằm trong nơi nào hay đi tiểu trong rừng, chó ấy vẫn dính theo không lìa
xa nàng. Ngày kia nàng đem cơm cho chồng ăn, nàng có đem theo dây nữa. Chó
ấy vẫn theo luôn. Nàng dọn cơm cho chồng ăên rồi, nàng xuống bên sông
gọi chó lại, hốt cát để vào đầy nồi, một mối dây buộc nồi, một
mối buộc chó, rồi xô cả xuống sông. Do nghiệp dữ ấy, nàng bị người
liệng bỏ xuống nước, chết hết năm trăm kiếp rồi.
Về phần chim quạ cũng vì nghiệp
ác đã tạo từ kiếp trước giống nhau như vầy, trong đời quá khứ có một
nông phu, có một con bò lười, bắt nó cày ruộng, nó chạy bỏ đi nằm
trong nơi khác. Người nông phu tức giận, đánh đập đến đâu, nó cũng vẫn
biếng nhác. Ngày kia anh nông phu bắt bò buộc chắc rồi nói rằng: "Từ
đây đi nằm cho yên thân nghe, ta không cần mi cày ruộng và ta cũng không
đánh đập mi nữa", xong anh chàng lấy cỏ khô trùm mình bò rồi nổi
lửa thiêu bò, chết theo nghiệp của nó. Sau khi thác anh nông phu ấy sinh
trong địa ngục, bị đốt rất lâu. Còn quả dư sót của nghiệp, hắn
sinh ra làm quạ, tội ấy khiến quạ chui đầu vào bó cỏ cháy như vậy đến
100 kiếp, do thế lực của nghiệp còn sót lại.
Về phần bảy Tỳ khưu, các ngươi
phải chịu khổ như thế, vì kiếp trước ngươi là bảy trẻ chăn bò, đuổi
bò cho ăn cỏ, mỗi chỗ bảy ngày. Bữa nọ đến một nơi sáu ngày, qua
ngày thứ 7, thấy con kỳ đà to đến trước mặt, mới rủ nhau đuổi, kỳ
đà ấy chạy vào lổ gò mối có bảy lổ. Các trẻ ấy nghĩ rằng chúng
ta không bắt được nó, vậy để qua ngày mai sẽ bắt. Tính rồi đem nhánh
cây khô đến lấp miệng lổ, mỗi đứa một lổ, không cho kỳ đà ra được,
rồi trở về nhà. Sáng ra không nhớ đến kỳ đà, đuổi bò cho ăn cỏ
trong nơi khác, đến bảy ngày mới đuổi đến chỗ nơi khác. Khi thấy gò
mối mới nhớ đến kỳ đà. Nghĩ rằng kỳ đà mà chúng ta đã bít kín miệng
lổ ấy, nay nó ra sao há, chúng đem nhau khai lổ hỏng, xem thấy kỳ đà vẫn
còn, nói: "Chúng ta đừng làm hại nó, nó đã nhịn đói bảy ngày rồi.
Nên thương xót nó, bảy trẻ ấy đem nó ra thả và nói rằng: "mi hãy
đi đừng lo sợ, hãy tự do đi theo chí hướng và được yên vui đi".
Bảy trẻ ấy sau khi ngũ uẩn tan rã, không sa trong địa ngục, vì không
sát hại kỳ đà, nhưng phải chịu đói đến mười bốn kiếp, mỗi kiếp
bảy ngày, đến nay là bảy Tỳ khưu, đủ mười bốn kiếp rồi. Nghiệp hằng
đem khổ đến cho như vậy. Cớ ấy mới gọi hữu là duyên đến sanh, thủ
là duyên đến sanh ấy là Kammabhaba (Hữu).
Sự tạo nghiệp chánh đáng là
duyên đến sanh như sau. Lành là cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng
dường Tăng và cúng dường Các Đức Độc Giác Phật được sinh lên cõi
trời rất nhiều.
Nguời có đức tin cúng dường tháp
bảo cũng gọi là cúng dường Phật. Nghiệp ấy gọi là thiện nghiệp, liệt
vào Kammabhaba (Hữu) là duyên đến sanh. Người được trì giới, nghe
Pháp, niệm Phật, tham thiền cũng liệt vào Kammabhaba là duyên đến
sanh, được tái sanh trong thiên giới.
Người được tích trữ nghiệp
lành là nhân cho hạnh phúc trong kiếp sau, như nàng cận sự nữ Khujju.t.taraa
được dâng chiếc vòng tay bằng ngà đến Đức Độc giác, để làm chân
bát là duyên hộ pháp. Nàng thông suốt Tam tạng. Nàng đại cận sự nữ Visaakhaa
dâng tam y đến được đồ vật trang sức ngọc ngà cao quí; Đức Bakulathera
cúng thuốc men trừ bệnh rồi các kiếp sau rất ít bệnh hoạn cho đến kiếp
chót; Đức A~n~naako.nda~n~na được cúng nước mía, Đức vua Asoka được
thí mật ong bằng đức tin sau được làm hoàng đế có thế lực đến một
do tuần trên không trung và dưới đất; nàng Sajà thiên nữ thí cơm khô
được sinh lên cõi trời; cô Tỳ khưu ni Upalava.n.na kiếp trước nghèo
khó thí y cũng được thọ sanh trong nhàn cảnh v.v.
Sự tạo nghiệp lành hay nghiệp dữ
cũng kể vào Kammabhaba (Hữu) gọi là duyên đến sanh. Nếu không có hữu
thì cũng không có sanh.
Người tái sanh được vui cũng nhờ
thế lực của thiện nghiệp đã tạo từ kiếp trước. Thiện nghiệp cho
quả vui để trừ khổ, trợ vui, diệt tội, bổ ích trừ điều lo sợ, ngừa
những tai nạn. Nghiệp hằng đem khổ tội lỗi lo sợ, nạn nguy, bịnh tật
đến cho.
Thiện và ác đều phát sinh từ
nghiệp ấy là hữu, là duyên đến sanh. Trong Thập nhị duyên khởi pháp như
vậy:
Jara Marana(Lão, Tử)
Lão và Tử sinh ra do hai hằng có
sanh là duyên. Chẳng phải chỉ có thế thôi, sự buồn rầu than van, rên rỉ,
ưu sầu, phiền não và nỗi bứt rứt lo âu cũng có. Các pháp đều sinh từ
duyên tức là sanh giống nhau. Trừ khi không có sanh là không có ngũ uẩn. Sự
rõ rệt của uẩn( [33] ), lục nhập( [34] ),
căn( [35] ) không có, thủ lão tử cũng không, do đâu mà
có được. Đến khi có sanh là tái sanh, là đã có ngũ uẩn rồi, thì lão,
tử, buồn rầu, than van, rên siết, khổ sở, nhớ tiếc v.v. mới phát lên
đầy đủ.
Cớ ấy bậc hiền minh nên hiểu rằng,
sanh là duyên đến lão, tử là duyên đến các nghiệp nhứt là sự buồn rầu,
than van rên rỉ. Giải rằng, khi sanh sự cố chấp là mình, là ta, là chúng
sinh, là người dù nói theo chân lý tối hậu, nếu ngũ uẩn không có thì
lão tử và các pháp nhứt là buồn rầu cũng không từ đâu mà có. Nói cho
cùng, các pháp ấy đều dựa vô minh, có vô minh là nguồn gốc. Vì lão, tử
và các pháp nhứt là phiền não đều sinh từ vô minh, có vô minh là duyên.
Nhân vô minh là duyên trong các pháp nhứt hành phát sinh do sự nương vào
theo thứ tự đến sanh. Nếu không có vô minh, nhứt là hành cũng không sao
có được. Khi các pháp không phát sanh đuợc, sinh cũng không có, vì không
có nơi nương tựa.
Như thế bậc trí tuệ nên hiểu rằng
các pháp đều có vô minh là duyên sanh tử, duyên tức là vô minh là nơi trú
của tam luân (Tiva.t.ta). Khi hành giả quyết định, tinh tấn cắt đứt
được vô minh rồi, lão, tử và các phiền não v.v. cũng điều tiêu tan.
Tình trạng phát sinh các tập khổ có từ vô minh, là duyên nương lẫn nhau
mới sinh ra được, như thế. Sự diệt được khổ cũng dựa vào sự dập
tắt vô minh trước, vì chỉ có căn nguyên( [36] ). Sự diệt
khổ ấy là Niết bàn. Niết bàn hằng diệt tất cả khổ lão tử và tất
cả những khổ không còn dư sót, diệt cũng đều nương vào sự diệt sinh
lão tử và điều buồn rầu, phiền não, rên rỉ cùng khổ não, bực tức
cũng do nương vào sự diệt hữu v.v.
Quán tưởng thấy rõ những tình trạng
của các duyên nương vào lẫn nhau mà sinh và cũng dựa vào lẫn nhau mà diệt
ấy gọi là Pa.ticcasamupaada Thập nhị duyên khởi pháp. Pa.ticca
dịch là nương Upadanaa dịch là các pháp có vô minh đứng đầu có sự
yhan van rên rỉ là cuối cùng, nhờ cậy vào lẫn nhau, mới sinh được, là
duyên lẫn nhau, mới sinh nhân như vậy nên gọi là Pa.ticcasamupaada (Thập
nhị duyên khởi).
Các pháp nương vào lẫn nhau rồi mới
sinh được đến khi diệt cũng dựa vào nhau rồi mới diệt được như vậy.
Trong Pa.ticcasamupaada ấy có dịch
ra cũng có nghĩa là sinh. Bậc trí tuệ nên hiểu rằng có ý nghĩa ngấm nghé
cả sinh và diệt, sinh cũng nương vào diệt, diệt cũng nương vào sinh. Cả
hai, diệt và sinh mong mỏi đến Thập nhị duyên khởi, thích hợp với Phật
ngôn có giảng cho đức Aananda rằng: "Thập nhị duyên khởi là
pháp uyên thúy( [37] ) khó cho người quán tưởng. Chúng
sinh đi đến ác đạo vì chúng không hiểu đuợc thuyết Thập nhị duyên
khởi, khi họ thấu triệt Thập nhị duyên khởi pháp, rồi họ sẽ bỏ
được tập khổ".
Tiếng Saịkhàra (hành) sinh nhân
duyên ấy ngăn người làm. Giải rằng: Người hành đến khi thấy vô minh
là duyên đến hành tức là Pu~n~naabhisa.nkhaara (sự làm lành) Apu~n~naabhisa.nkhaara
(sự làm ác) thấy rằng Pu~n~naabhisa.nkhaara việc làm phước hằng
đem lợi ích đến mình. Apu~n~naabhisa.nkhaara làm tội không có lợi
ích đến mình. Thấy như thế rồi làm lành bỏ dữ sẽ đem mình đến cõi
trời.
Cớ ấy Đức Thế Tôn mới thuyết
rằng: "Sa.nkhaara (Hành) sinh, nhân Avijjaa (Vô minh) sinh, hành
diệt, nhân vô minh diệt".
Tiếng Viĩĩàịa thức sinh từ
hành là duyên cũng vì ngăn sự vui thích trong mình.
Tiếng danh sắc sinh nhân duyên tức
là thức ấy là nhân ngăn Ghanasa~n~na là tưởng trong thân thể là của
ta thật.
Tiếng lục nhập sinh nhân duyên tức
là danh sắc ấy là ngăn sự thấy quấy tức là thấy danh và sắc là của
mình.
Giải rằng: Người quán tưởng thấy
rằng lục nhập sanh từ duyên tức là danh sắc cũng điều tra thấy ngũ uẩn
là vô thường, là nơi đem đến tập khổ, là vô ngã. Cớ ấy, mới nói rằng
tiếng lục nhập sinh từ duyên tức là danh và sắc ấy sẽ ngăn nhau; ngũ
uẩn là thường và thấy là vui và thấy là của ta. Thí dụ:
1- Vô minh ví như kẻ mù.
2- Hành sinh từ duyên tức là vô
minh ví như xác định cho biết rằng là kẻ mù.
3- Thức sinh từ duyên tức là hành
ví như tình trạng xác định của kẻ mù. Thức sinh từ duyên tức là vô
minh ví như sự xác định của kẻ mù té xuống.
4- Danh sắc sinh từ duyên thức ví
như kẻ mù té xuống và có thẹo tia máu.
5- Lục nhập sinh từ duyên danh sắc
ví như mụt ghẻ bể từ thẹo tia máu.
6- Xúc sinh từ lục nhập ví như sự
đụng vào mắt.
7- Thọ sinh từ duyên xúc ví như nỗi
khổ của sự đụng vào mắt kẻ thù.
Người si bị vô minh đè nén rồi
hằng rung động theo các pháp hành và khiến chúng sanh tái sinh trong cõi mới.
Thức hằng bị chi phối trong hành
rồi đi đến năm Gati( [38] ) ví như hoàng tử mà
vua cha ủy nhiệm( [39] ) cho quan Thái phó giáo hóa điều
gì thì hoàng tử phải làm theo.
Thức hằng khiến danh đi thụ sinh
trong giờ tái sinh.
Thức ví như người nữ lừa dối
quyến rũ cho mê say bằng tình dục.
Thức hằng trú trong thân, trong sắc
rồi khiến lục nhập cho tiến triển, nảy nở bội phần như cụm cây
trong rừng.
Xúc tức là phiền não, là sự đụng
chạm, đối tượng. Ví như lửa sinh nơi cây mà người chà xát mong được
lửa từ hai miếng cây vậy, như mắt chịu lấy sắc, tai chịu lấy tiếng.
Kế tiếp, thọ sinh ra chịu lấy đối
tượng tức là mắt thụ sắc, tai thụ tiếng, mũi thụ mùi, lưỡi thụ vị,
thân thụ xúc, ái là sự mong mỏi cũng sinh, rồi thủ sinh v.v. Hữu sinh
sanh sinh. Kế tiếp theo, lão tử và những buồn rầu, đau đớn, than van, rên
rĩ v.v. cũng hiện ra như vậy.
Sự diệt tất cả những khổ ấy là phải diệt
nhân của các pháp theo thứ tự. Mặc dù nói là đại khái, nếu diệt vô
minh rồi các pháp cũng diệt hết, những tập khổ cũng diệt theo ý nghĩa
như thế.
[24] )
Xin nhớ rằng lục nhập nội tức là giác quan.
( [25] ) Mục đích: cái đích đặt
để nhắm vào.
(
[26] ) 89 Tâm là:
1.- Akusalacitta: ác tâm -- 12
2.- Aahetukacitta: vô nhân tâm -- 18
3.- Kaamaavacaracitta: tâm trải đi trong dục giới -- 24
4.- Ruupaavacaracitta: tâm trải đi trong sắc giới -- 15
5.- Aruupaavacaracitta: tâm trải đi trong vô sắc giới -- 12
6.- Lokuttaracitta: thành tâm -- 08
Cộng thành: 89
( [27] )
Tạng tâm: tâm chứa trữ.
( [28] )
Bản năng: tính tự nhiên của người từ lúc mới sinh ra.
( [29] )
Bế tắc: không thông, ngăn lấp.
( [30] )
Khâu trừ: trừ bớt.
( [31] )
Điều lành trải đi trong dục giới.
( [33] )
Ngũ uẩn: Pancakhandha.
( [34] )
Lục nhập: Ayatanya.
( [36] )
Căn nguyên: là nguồn gốc.
( [37] )
Uyên thúy: là sâu thẳm
( [38] )
Gati: nơi mà chúng sinh phải
tái sinh
( [39] )
Ủy nhiệm: giao phó nhiệm vụ cho.
Lời
nói đầu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18