...... ... |
.. |
. |
.. |
. |
. |
- PHẬT GIÁO TRONG
THẾ KỶ MỚI
- PHẬT LỊCH 2540 – GIAO
ĐIỂM
- Tuyển tập 1
- ***
- SỰ ĐÓNG GÓP CỦA NGƯỜI CƯ
SĨ PHẬT TỬ TRONG CÔNG CUỘC PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO
I. CHỨC NĂNG, VỊ TRÍ CỦA NGƯỜI CƯ
SĨ PHẬT TỬ
Cư sĩ là một trong bốn chúng đệ tử của Đức Phật. Cư sĩ gồm có số đông, trong
khi các tu sĩ Phật giáo, là thành phần nổi bật, xuất thân từ Cư sĩ. Do đó giới Cư sĩ là lực lượng
cần phải tu học, phải thăng hoa để trong hoàn cảnh thuận tiện
tr? thành tu sĩ. Đức Phật luôn dặn dò chư đệ tử "Vì lợi ích và
hạnh phúc số đông”, số đông ở đây nổi rõ
nhất là thành phần cư sĩ. Như vậy, Cư sĩ là đối
tượng để được xây dựng và xây dựng một xã hội đúng theo Chánh Pháp của đức Phật. Đức Phật từng dạy
Cư sĩ Anathapindika: “Này gia chủ, vị Thánh đệ tử hộ trì các Tỳ-kheo
bằng cách cúng dường y phục, thực phẩm, sàng tọa và dược phẩm".
Lời dạy ấy đã thành truyền thống hộ trì chư Tăng Ni của các Cư sĩ kể
từ 25 thế kỷ qua.
Mặt khác, nhận giáo pháp của đức
Phật, người cư sĩ có bổn phận phải nổ lực tu tập, thực hà nh
và góp phần truyền bá giáo pháp, tức là góp phần chuyển pháp luân để đem ánh sáng giải thoát cho đời. Như vậy, chức
năng, vị trí của người Cư sĩ vô cùng quan trọng trong việc phát triển
Phật giáo trong ý nghĩa độ tha cũng như chuẩn bị hoàn cảnh tốt đẹp
cho việc tự độ của mình.
II. SỰ THAM GIA XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO CỦA NGƯỜI CƯ
SĨ PHẬT TỬ
Trong thời đức Phật, giáo đoà n
Tỳ kheo phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, mang hình thức Giáo hội là do sự
hộ trì, đóng góp xây dựng của quần chúng cư
sĩ. Tên tuổi các vị vua như Bimbisara, Ajatasattu, Pasenadi…, các đại Cư
sĩ như Anathapindika, Visakhà, Migaràmata, Jivaka, Mahanàma, Ambapàli… Cư
sĩ Citta Machikasandika đứng đầu một hội chúng gồm
nhiều ngàn người cùng học, cùng thảo luận pháp được đức Phật khen ngợi. Ngoài ra còn có nhiều
Cư sĩ nổi danh về thuyết pháp như nam Cư sĩ Hathaka Alavaka, nữ Cư sĩ
Suppavasà Koliyadhità, được đức Phật khen ngợi là
đệ nhất thuyết pháp. Trong kinh điển Đại thừa, Ngài Duy Ma Cật được
xem là vị Cư sĩ có tu? giác bậc nhất trong
thời kỳ đức Phật.
Về sau, khi đức Phật đã nhập Đại Niết bàn, nhiều vị
vua chúa ở Ấn Độ, Tích Lan, Trung Hoa, Việt Nam… đều ra sức ủng hộ
Phật giáo, trong đó vị vua có công lao lớn nhất trong việc hoằng dương
Chánh pháp là vua Asoka ở Ấn Độ. Ở Việt Nam, sự đóng góp của Cư sĩ
trong công cuộc phát triển Phật giáo nổi rõ nhất là vào đời Trần,
khi vua quan và cả hoàng tộc đều một lòng ủng hộ Phật giáo. Vua Trần
Nhân Tông được xem như một Asoka của Việt Nam và Tuệ Trung Thượng Sĩ có
thể được ví như Duy Ma cật của Ấn Độ, như Bàng
Uẩn ở Trung Hoa.
Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh
đến công lao xây dựng và phát triển Phật
giáo của giới cư sĩ Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ chấn hưng Phật
giáo và trong suốt 5, 6 mươi năm tiếp theo cho đến ngày nay. Trước
làn gió mới chấn hưng Phật giáo Trung Hoa và Ấn Độ, Phật giáo Việt
Nam cũng chuyển mình và những cải cách mới xứng
đáng để tạo thành một phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam,
trong đó lực lượng cư sĩ, đặc biệt là giới
trí thức tân học đã có những đóng góp lớn lao.
Tại Nam Kỳ, năm 1930, hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học ra
đời với một lực lượng Cư sĩ khá mạnh gồm Phạm Ngọc Vinh, Huỳnh Văn
Quyền, Trần Nguyên Chấn, Trần Văn Khuê, Nguyễn Văn Nhơn, Lê Văn Phổ,
Nguyễn Văn Cần, lấy tạp chí Từ Bi Âm làm tiếng nói chính. Năm 1932, Phật
học Tùng thư ra đời nhằm phổ biến kinh sách Phật học, do cư sĩ Đoà n
Trung Còb đứng đầu vớI sự hợp tác của một
nhóm cư sĩ Nguyễn Văn Vật, Nguyễn Trung Hiếu, Nguyễn Văn Thiện… Năm
1934, một số đông Cư sĩ với sự lãnh đạo của chư tôn Hòa Thượng,
Thượng tọa thành lập hội Lưỡng Xuyên Phật học. Năm 1936, các cư sĩ mở Hội Tịnh Độ cư sĩ có tầm họat
động lớn khắp các tỉnh Nam bộ, đến các vùng xa xôi. Hội có tạp
chí Pháp Âm làm tiếng nói, với các cư sĩ chủ đạo như Lê Văn Hậu, Trần Quỳnh… Đồng thời, Hội Phật học Kiêm
Tế cũng hầu hết là cư sĩ, có khuynh hướng cải tiến xã hội với tạp
chí Tiến Hóa. Năm 1950, Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền cùng một số cư
sĩ Phật tử trí thức tân học, lập hội Phật học Nam Việt, tạo nên một
sinh khí mới trong giới học Phật với những sinh hoạt sáng tác, nghiên cứu
dịch thuật Phật học. Tạp chí Từ Quang của Hội ra đời từ năm 1950 đến năm 1973 đã giúp ích rất nhiều
cho sự học hỏi của giới Phật tử. Hội có tầm hoạt động khá rộng
rãi, gồm 40 tỉnh hội và chi hội khắp miền Nam.
Tại Bắc Kỳ, năm 1935, Hội Phật
giáo Bắc kỳ ra đời, nò ng cốt gồm các cư sĩ giới trí thức Tân
và Cổ học như Sở Cuồng Lê Dư, Nguyễn Hữu Kha, Nguyễn Năng Quốc, Bùi
Kỷ, Trần Trọng Kim, Cung Đình Bính, Trần Văn Giáp,
Nguyễn Can Mộng, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Tố… Tờ báo Đuốc Tuệ của
Hội đã góp phần không nhỏ trong công cuộc truyền bá Giáo lý Phật
giáo.
Tại Trung kỳ, năm 1932, Hội An Nam
Phật học ra đời, mở đầu một giai đoạn phát triển mạnh của Phật
giáo miền Trung và đóng góp lớn cho phong trào chấn hưng Phật giáo
cả nước. Ngoài chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa sáng lập, các Cư sĩ có
công lao rất lớn trong việc xây dựng và phát triển Hội cũng như cải tiến,
chấn hưng Phật giáo như Bác sĩ Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Tần, Ưng Bàng,
Bửu Bác, Viễn Đệ, Trần Đăng Khoa, Tôn Thất Tùng,
Nguyễn khoa Toàn, Bà Diệu Không… Tạp chí Viên Âm của Hội sớm có uy
tín nhờ nỗ lực hiệu năng của Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Năm 1940, Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục ra đời, sau đó là Gia đình Phật Hóa Phổ
do cư sĩ Lê Đình Thám sáng lập, nhằm giáo dục, truyền bá Phật pháp cho
thanh thiếu niên. Trong khoảng thời gian này, Cư sĩ Lê Đình Thám tham gia giảng kinh luận Phật học, đào tạo nhiều vị
xuất sắc, sau này là những bậc Tôn túc nòng cốt trong giáo hội. Năm 1947, Gia đình Phật tử ra đời, như là một sự
hóa thân và phát triển của Gia đình Phật Hóa Phổ, ban Hướng dẫn đầu
tiên của Gia Đình Phật tử Thừa thiên gồm các cư sĩ Võ Đình Cường, Tống
Hồ Cầm, Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy, Cao
Chính Hựu, Phan Xuân Sanh, Hoàng Thị Kim Cúc, Đặng Tống Tịnh Nhơn, Lê Văn Dũng… Từ những GĐPT đầu tiên ở Huế, phong
trào GĐPT đã phát triển ra nhiều tỉnh ở
trong Nam và ngoài Bắc. Đến năm 1973 số Đoàn sinh
Gia đình Phật tử lên đến 200.000 người.
Song song với việc phát triển GĐPT,
một đóng góp lớn khác của giới cư sĩ Phật tử là việc xây dựng
và phát triển hệ thống trường Bồ Đề. Thành phần ban Giám hiệu, ban Bảo
trợ, Văn phòng và nhất là lực lượng Giáo sư phần lớn đều là các Cư
sĩ Phật tử. Chỉ tính đến năm 1963, đã có 163
trường Bồ Đề tại miền Nam.
Một góp công khác cũng là một hy sinh to lớn của giới
cư sĩ Việt Nam được thể hiện nổi bật là phong trào chống độc tài
và kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình
Diệm 1963. Các cư sĩ Phật tử, gồm đủ mọi thành phần trí thức, lao động
chân tay, thương gia, tiểu thương… gồm nam nữ, già trẻ, dưới sự
lãnh đạo chư Tôn đức trong Giáo hội, hoặc tự
phát, đã đứng lên đấu tranh, vận động quần chúng và đã bị giết,
bị tù đày, tra tấn không kể xiết.
Thực ra, nếu không có sự đóng
góp công sức của hà ng Cư sĩ thì Phật giáo không thể nào phát triển
được; vì như trên đã nêu về chức năng và vị trí của người cư sĩ,
chúng ta thấy Cư sĩ là đối tượng truyền bá, học tập, thực hành giáo
lý của đức Phật, chính các Cư sĩ đang sống
trong lòng xã hội, đang làm văn hóa, chính trị,
đạo đức, cũng như đang thực hiện, đang cải tạo và đang sống trong các
lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng cũng như các kiến trúc thượng tầng của
mọi sinh hoạt của con người.
III. PHƯƠNG HƯỚNG ĐÓNG GÓP CHO PHẬT
GIÁO CỦA NGƯỜI CƯ SĨ PHÂT TỬ TRONG HIỆN TẠI CŨNG NHƯ TRONG TƯƠNG LAI
Sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật trong những thập
niên cuối thế kỷ 20 đã tạo ra những vấn đề lớn cho xã hội loài người. Chiến tranh, suy thoái đạo đức, khủng bố bạo
lực, ô nhiễm môi trường, sinh thái v.v… là những biểu hiện của
tham sân si, điều này cũng có ý nghĩa là hạnh phúc con người bị giảm
thiểu, trong khi đau khổ vẫn cứ tăng lên.
Phật giáo luôn nêu cao thông điệp cứu khổ và
cứu cánh giải thoát, cần phải nhập thế nhiều hơn và để được như thế, người Cư sĩ Phật tử với truyền
thống đóng góp, xây dựng và phát huy đạo Phật, là những người đang sống
trong lòng xã hội, nhạy bén với các vấn đề
của thời đại, cần phải có phương hướng hoạt động cụ thể để hành
động vì lý tưởng của Phật giáo, vì hạnh phúc của số đông:
- Trước hết là giới Cư sĩ cần phải tranh thủ được sự chứng minh và
lãnh đạo của chư vị cao Tăng, chư tôn túc trong
Giáo hội. Được như thế, ý nghĩa Tam Bảo được trọn vẹn, tự bản thân
Cư sĩ đang làm Phật sự cũng như quần chúng sẽ được khích lệ, niềm
tin Phật sẽ gia tăng không ngừng.
- Người Cư sĩ phải không ngừng tu tập giáo lý của đức Phật để tự
mình thăng tiến và lôi cuốn những người chung quanh. Nhiều nhóm Phật
học Cư sĩ cần phải được thiết lập có tổ chức
và mở rộng sinh hoạt trong từng chùa, từng địa phương, từng tỉnh,
trong nước và tùy theo tầm cỡ hoạt động, có thể mang tính chất quốc
tế. Người cư sĩ trong hội cần tham gia nghiên cứu kinh điển, giảng pháp,
thảo luận. Do vấn đề tổ chức và quan điểm,
không phải đặt vấn đề thống nhất các hội đoàn Phật học khi
hoàn cảnh chưa thuận tiện. Càng nhiều hội đoàn, không khí sinh hoạt
càng phong phú, đa dạng. Sách báo của từng hội
đoàn cần phát hành đều đặn để khích lệ
quần chúng nghiên cứu và học Phật.
- Cần thành lập các hội đoàn chuyên ngành để chuyên môn hóa sinh hoạt
của các Cư sĩ Phật tử, ví dụ Hội hay Đoàn Phật tử nghiên cứu hay thực
hiện kế hoạch phát triển xã hội, bảo vệ môi sinh, bảo vệ hòa bình,
xây dựng và phát triển đạo đức, giáo dục, văn
hóa Phật giáo. Thậm chí cần có những hội đoàn nghiên cứu khoa học
kỹ thuật, thương mại, ngân hàng v.v…. Nói chung, cần thể hiện nếp sống
Phật giáo trong tất cả mọi lĩnh vực sinh hoạt của xã hội.
- Xây dựng, giáo dục thế hệ trẻ có nếp sống
năng động, phù hợp với thời đại nhưng lấy giáo lý Phật giáo làm chỉ
nam. Người Cư sĩ có thể đứng ra mở trường, nhà giữ trẻ… tiến đến
một hệ thống trường Bồ-đề như mấy chục năm trước đây ở Việt
Nam. Tổ chức Gia đình Phật tử cần được xây dựng, phát triển
và cải tiến về tổ chức và nội dung sinh hoạt cho phù hợp với thời
đại, từng địa phương…
- Người Cư sĩ có cần phải giữ bổn phận đối với chư Tăng Ni, tham
gia các công tác Phật sự tại chùa, thường xuyên đến chùa để
nghe giảng kinh, sinh hoạt tôn giáo, cúng dường
Tăng Ni, trong hoàn cảnh cho phép, người Cư sĩ cần tham gia vào ban
lãnh đạo trong các tổ chức của giáo hội, cố gắng làm một thành viên
trong tổ chức Giáo hội địa phương hoặc trung
ương, thể hiện ý nghĩa tứ chúng đồng tu mà đức Phật đã thiết
lập.
IV. KẾT LUẬN
Vì đệ tử Phật gồm tứ chúng,
trong đó có hai chúng là Cư sĩ nam và nữ, cho nên nếu không có Cư
sĩ thì không thành ý nghĩa Giáo Hội Phật Giáo. Nếu không có Cư sĩ, những
Cư sĩ có điều kiện tốt để tu tập, để trở
thành Tu sĩ sẽ không có, và do đó sẽ không
có Tăng già. Xây dựng và phát triển Phật giáo là bổn phận của
người Cư sĩ, thực tế lịch sử đã chứng minh Phật giáo muốn phát triển
mạnh cần phải có sự đóng góp tích cực công sức của giới Cư sĩ.
Những nét khái quát về phương
hướng hoạt động trên chỉ là những gợi ý, cần được bổ sung, cần được lập kế hoạch cụ thể theo
từng nội dung hoạt động. Và trước hết, để có thể thực hiện lý tưởng
giải thoát, diệt trừ khổ đau, người Cư sĩ cần có lòng tin kiên
cố đối với Tam Bảo, có trí tuệ và khả năng trong thực hành, có đức hạnh và có quyết tâm vì Đạo vì Đời.
Mục lục | Dẫn Nhập | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 1 8 | 19 | |
|