...... ... |
.. |
. |
.. |
. |
. |
- PHẬT GIÁO TRONG
THẾ KỶ MỚI
- PHẬT LỊCH 2540 – GIAO
ĐIỂM
- Tuyển tập 1
- ***
- MỘT SỐ NHẬN
ĐỊNH VỀ VIỆC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TĂNG
NI
-
LỜI MỞ ĐẦU
Bài này nêu một số nhận định về
việc giáo dục và đào tạo Tăng Ni, được trình
bày bởi một cư sĩ Phật tử chứ không phải một Tôn đức giáo phẩm. Do đó, các ý kiến trong nội dung có thể
thiếu phần trang trọng và sâu sắc. Tuy vậy, với tấm lòng thành
luôn luôn muốn đóng góp vào công cuộc phát triển đạo Phật, người trình
bày có may mắn ở trong ngành sư phạm đã hơn 30 năm, trong đó có gần 10 năm tham gia vào việc soạn
chương trình, vào ban giám hiệu và ban giảng huấn của Trường Cao Cấp Phật
học Việt Nam; lại nữa, do cơ duyên gắn bó với nhà chùa từ nhỏ theo truyền thống gia đình, có nhiều người thân
thuộc xuất gia, người trình bày bài này nghĩ rằng có thể đóng góp một
số ý kiến về việc giáo dục và đào tạo Tăng Ni, và may ra được sự đóng góp, chỉ giáo của chư Tôn túc cũng
như hàng Học giả.
Người trình bày sẽ đề cập đến
truyền thống giáo dục và đào tạo Tăng Ni từ thời Đức Phật và về
sau, qua đó có minh họa tương đối kỹ hơn về việc giáo dục và đào tạo
Tăng Ni tại Việt Nam.
MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ VIỆC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TĂNG NI
Kinh Itivuttaka có ghi lời Phật dạy
rằng có ba hạng người xuất hiện ở đời đem lại hạnh phúc cho số đông,
vì an lạc của Trời và Người, đó là Đức Như Lai, chư vị A-La-Hán
và chư Tỳ-kheo hữu học. Ở đây, chúng ta chú ý
rằng Đức Phật trỏ đến vị trí quan trọng của Tỳ-kheo hữu học, tức
là những vị còn cần phải tu học, cần phải được huấn luyện và
đào tạo. Lại nữa, cụm từ quan trọng là "đem
lại hạnh phúc cho số đông”, tức là chức năng xã hội của người tu
sĩ Phật Giáo. Qua đó chúng ta thấy Đức Phật đã khẳng định rằng chư
Tăng Ni cần phải được học tập, rèn luyện để tự thăng tiến và giúp người khác thăng tiến đến
mục đích giải thoát tối hậu.
Trong thời Đức Phật, ngoài một
số vị A-la-hán xin Đức Phật vào rừng sâu, sống biệt lập để tu tập,
chư vị đắc Thánh quả cũng như chưa đắc Thánh quả hầu hết đ ều
trực tiếp hoặc gián tiếp (qua các Trưởng lão) thọ nhận sự giáo dục
của Đức Phật. Khi giáo đoàn chỉ mới gồm 60 vị
Tỳ-kheo đắc Thánh quả, Đức Phật đã nhấn mạnh đến chức năng xã
hội và chức năng giáo dục, đào tạo của
chư vị mà dạy rằng chư vị hãy đi khắp nơi, vì hạnh phúc của số đông…
Nhưng ý nghĩa giáo dục và đào tạo nổi bật từ khi giáo đoàn Tỳ-kheo gồm
1250 vị trú tại Tịnh xá Veluvana do vua Bimbisara (Tần-bà-sa-la) dâng cúng
và sau khi lễ an cư kiết hạ được thiết lập.
Cũng từ đó, khi nhiều trú xứ của chư Tỳ-kheo được thiết lập ở các
vùng xa, vùng nông thôn (àvasa) hoặc thành thị (àrama), hoặc về sau
các trú xứ được gọi bằng một số tên khác thường là do kiểu dáng
kiến trúc như Lena, Vihàra, Addhaya, Pàsàda, Hammiya vv… thì bấy giờ người
ta có thể xem là những cơ sở giáo dục nội trú theo nghĩa ngày nay.
Cơ sở lớn và nổi tiếng nhất được xem như một đại học viện của Phật giáo là
Nalanda ở Bắc Ấn Độ, vào thế kỷ thức 2 do ngài Long Thọ
(Nagarjuna) làm viện trưởng. Về sau, Phật giáo bị suy vi tại Ấn Độ, thì
lại phát triển sang Tây Tạng, Miến Điện, Tích
Lan, Trung Hoa, Việt Nam… và các cơ sở và hệ thống giáo dục Tăng
Ni vẫn theo hình thức cũ, nhưng ở mức độ lớn nhỏ tùy theo từng địa phương, từng thời đại.
Tại Việt Nam, Luy Lâu được xem
là một Trung tâm nghiên cứu và truyền bá đạo
Phật đầu tiên lại khá đồ sộ nhưng đứng về mặt giáo dục và đào
tạo Tăng Ni thì các ngôi chùa lại đóng vai trò cơ bản và quan trọng.
Các ngôi chùa lần lượt được xây dựng, khởi từ vị khai sơn, vị trụ
trì và một số ít Tăng chúng, sự giáo dục, truyền thọ hình thành trong
từng chùa, biệt lập, đơn lẽ. Tuy thế, nhà chùa lại có thể được xem
là những trường học đầu tiên của đất nước. Kể từ trước và suốt
thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân lầm than cơ cực, bị áp bức đủ mọi mặt,
chỉ riêng giới tu sĩ Phật giáo tương đối đỡ
bị khổ ải vì sưu dịch do bấy giờ Phật giáo mới du nhập và
phát triển ở Trung Quốc và giới tu sĩ ở đấy
được kính trọng, có ảnh hưởng đến giới cai trị Bắc phương tại
Giao Chỉ. Các vị sư Giao Chỉ được xem là những bậc trí thức vì
ngoài kinh điển, chư vị còn học đủ môn ngoại
điển của người Trung Hoa, từ đó một số chùa còn thu nhận con em
của dân trong xóm làng đến học.
Đến khi đạo Phật hưng thịnh
ở Việt Nam, các chù a chiền, các Thiền phái và các Tông phái phát
triển, việc giáo dục, đào tạo Tăng Ni cũng được
phát triển nhưng vẫn mang tính cục bộ, chưa có hệ thống rõ rệt.
Công cuộc giáo dục và đào tạo Tăng Ni có khởi sắc vào thời kỳ chấn
hưng. Năm 1920 đến 1934, tại Nam Kỳ, Hòa Thượng
Từ Phong ở đạo tràng Giác Hải Chợ Lớn dạy các Tăng sĩ. Ngài
Khánh Hòa mở lớp Phật học tại Bến Tre. Ngài Chí Thành cũng mở trường
Phật học tại Bến Tre, đặc biệt có một trường Ni tại Bạc Liêu.
Ngài Huệ Quang, ngài Khánh Anh cũng mở trường tại Trà Vinh, Long An, Phật
học đường Lưỡng Xuyên mở lớp Tăng, lớp Ni riêng biệt. Tại Bắc Kỳ bấy giờ có 2 lớp tiểu học cho Tăng và
cho Ni ở Phúc Yên, Hải Hưng. Chùa Quán Sứ mở trường Trung Học Phật Học,
chùa Sở ở Hà Đông mở trường Đại học. Giáo
dục Phật giáo tại Bắc Kỳ bấy giờ đã có cấp Tiểu học, Trung
học và Đại học ngoài các khóa học trong các kỳ
An cư. Tại Trung Kỳ, ta thấy có trường Trung đẳng Phật học tại Bình
Định (1937), trường Tiểu học Phật học tại Phan Rang, Phật học đường
gồm 2 cấp Tiểu và Trung học tại Đà Nẵng, tại Huế, chùa Trúc
Lâm mở trường An Nam Phật học sau đó là chùa Báo Quốc với chương trình
học có hệ thống hơn gồm 6 năm Tiểu học, 3 năm
Trung học. Cấp Đại học cũng được mở và thu nhận được 10 Tăng sĩ.
Ngoài ra, các chùa Vạn Phước, Tường Vân, Từ Đàm đều có mở trường
Phật học.
Từ thời chấn hưng Phật Giáo, sự giáo dục vào đào tạo
Tăng Ni đã đi dần vào hệ thống. Chương trình
3 cấp Tiểu, Trung và Đại ở các địa phương khác
nhau cũng có nhiều nội dung giống nhau. Tuy vậy, số Tăng sinh mỗi trường
lớp cũng chỉ từ vài ba chục đến một trăm; lại nữa, hầu hết các trường
lớp không mở được lâu dài, phần lớn là do thời cuộc, do tài
chánh, nhân sự. Từ những năm 50, 60, các Phật học
viện, tu viện được tổ chức tương đối quy củ và có chất lượng,
tuy vậy số Tăng Ni được đào tạo cũng rất hạn chế. Ta có thể
kể: Phật học viện Việt Nam, tức Phật học viện
Hải Đức Nha Trang (1956), Phật học đường Phước Hòa ở Trà Vinh
(1956), Tu viện Nguyên Thiều ở Bình Định (1956),
Ni học viện Tăng già ở Sài Gòn (1957), Ni học viện Từ Nghiêm ở
Sài Gòn (1960). Sau đó, Phật học viện Pháp Hội, về sau chuyển sang chùa
Xá Lợi, có một chương trình Đại học Phật học khá hoàn bị và khi Đại học Vạn Hạnh được thành lập năm 1968 tại
Saigon thì giáo dục Phật giáo đã có cấp học cao nhất với nhiều phân
khoa của Đại học đúng nghĩa.
Công cuộc giáo dục Tăng Ni đến
đây đã có bước tiến dài, nội dung Giới Định Tuệ được giảng dạy cụ thể, đầy đủ với tổ
chức chặt chẽ, phương pháp sư phạm đúng đắn và lực lượng giáo
sư, giảng viên khá mạnh. Cái mới nữa là Tăng Ni sinh còn được học nhiều môn ngoại điển, phù hợp với sự tiến
triển của thời đại. Rõ ràng Đại học Vạn Hạnh ngoài số đông
sinh viên nam nữ Phật tử gồm nhiều ngàn người, số Tăng Ni sinh ở phân khoa Phật học khá đông và ở
các khoa khác cũng không phải là ít. Tuy nhiên, một hệ thống giáo dục Phật
giáo đúng nghĩa vẫn chưa được hình thành
về phần giáo dục và đào tạo cơ bản, tức là chưa thường xuyên và chưa
có hệ thống tổ chức đối với các trường Sơ
cấp, Trung cấp, Cao đẳng….
VIỆC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TĂNG NI HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
Từ sau ngày đất nước thống nhất, sau một thời gian
khá dài vận động và chuẩn bị, đến năm 1981,
Giáo hội PGVN được thành lập, thống nhất 9 tổ chức và hệ phái
Phật giáo. Lại phải mất vài năm để củng cố,
ổn định tổ chức và sinh hoạt, Giáo hội đã hoạt động khá mạnh mẽ
và từ đó đến nay, đã đạt được nhiều thành quả khả quan. Nổi
bật nhất là việc giáo dục và đào tạo Tăng Ni. Trong vòng 10 năm trở lại đây, hiện đã có 23 trường cơ bản
Phật học trên toàn quốc, 2 trường Cao cấp Phật học và hai lớp Cao đẳng Phật học. Đó là chưa kể các lớp Phật học
riêng lẻ tại các chùa, các khóa đào tạo giảng sư của ban Hoằng Pháp
và một số khoá chuyên ngành khác như y tế, từ thiện xã hội v.v… Như
vậy công cuộc giáo dục và đào tạo Tăng Ni được
tiến hành khá đồng bộ trên khắp cả nước. Số Tăng Ni sinh tại mỗi
trường từ khoảng 60 đến 100, thậm chí có 2, 3, hay 5 trăm Tăng Ni sinh ở
nhiều trường cơ bản. Trường Cao cấp Phật học đã đào tạo được 3
khóa ở TP. Hồ Chí Minh và 2 khoá ở Hà Nội. Số Tăng Ni sinh tốt nghiệp Cao cấp Phật học (tương đương
với Cử nhân) tính đến hết khóa hiện nay khoảng 500 người. Một số
đang theo học các khóa Cao học, Tiến sĩ Phật học tại Đài Loan, Nhật
Bản, Sri Lanka và nhất là tại Ấn Độ (riêng tại Ấn Độ, số Tăng Ni nghiên cứu sinh hiện khoảng 30 người).
Chương trình học của các lớp cùng cấp, cách tổ chức điều hành, sinh
hoạt của các trường tương đối giống nhau. Một
ưu điểm nữa là các trường đều có dạy nhiều môn ngoại điển, phù
hợp với xã hội, thời đại như văn, triết, sử,
sinh ngữ, sinh thái, quản trị, văn minh, xã hội học. Đó là chưa kể các
buổi ngoại khóa về một vấn đề thời sự, khoa học, văn học…
Ngành giáo dục Tăng Ni chỉ trong vòng 10 năm, đã đạt được những thành tựu tốt đẹp, m? ra những triển vọng mới đầy khích lệ. Tuy vậy,
trong giai đoạn đầu của phát triển, những khó khăn, tồn đọng không phải
là ít. Khó khăn tồn đọng lớn nhất của ngành giáo dục Tăng Ni hiện
nay cũng như các ngành khác là khó khăn về tổ chức, nhân sự và tài
chánh. Ba mặt này có liên hệ mật thiết với nhau vì một mặt được phát
triển, cải tạo thì các mặt kia cũng được phát triển, cải tạo.
Tăng Ni về sau phải trải qua những
thăng trầm, thậm chí trong một thời gian dài, có khi việc đào tạo Tăng
Ni chỉ có tính cục bộ, một vị Thầy dạy cho một hoặc hai đệ tử, nội
dung giáo dục lẻ tẻ, rời rạc có khi như tách biệt với cuộc sống bê n
ngoài, và từ đó, có những lúc Phật giáo suy vi trầm trọng.
Dù những khó khăn, hạn chế nói trên, ngành giáo dục Tăng
Ni tại Việt Nam vẫn phát triển mạnh. Sở dĩ như vậy là nhờ quyết
tâm, nỗ lực toàn thể Tăng Ni và Phật tử, do sự ủng hộ của nhiều cơ
quan, tổ chức thân hữu trong và ngoài nước và do một số Tôn túc,
chuyên gia có tài năng, đức độ và kinh nghiệm
trong ngành giáo dục. Nhưng thành quả của công việc giáo dục và đào tạo
Tăng Ni sẽ lớn hơn nhiều nếu những trở ngại trên được giải quyết.
Sau đây là sơ phác một số điểm
trong phương hướng phát triể n ngành giáo dục và đào tạo Tăng Ni tại
Việt Nam.
- Cần vận động
tài chánh đủ cho các sinh
hoạt giáo dục và đào tạo: Trung ương giáo hội cần kêu gọi sự
hổ trợ của các ban, ngành, viện cho giáo dục. Các trường tăng cường sự vận động tài chánh. Giáo hội cần
có cơ sở kinh tài để chi phí cho giáo dục. Các Tăng
Ni sinh trước khi vào trường cần vận động thầy Tổ, người thân, Phật
tử đóng góp tài vật cho nhà trường đều
đặn để chia xẻ các chi phí với nhà trường.
- Tăng cường số lượng và
chất lượng của đội ngũ giảng dạy, hành chánh, tổ chức; tăng
cường chương trình tu học, tu nghiệp và tham quan đến các cơ sở giáo dục
Phật giáo ở nhiều nước bạn trên thế giới: mở các cuộc hội thảo,
hội nghị giáo dục tại địa phương, trong nước và có tính quốc tế; mở
rộng kế hoạch hợp tác, trao đổi văn hóa giáo dục
các nước bạn.
- Soạn thảo, cải biến và thống nhất chương trình học cho các cấp, từ Sơ cấp đến Đại học (hiện
nay chưa có chương trình Sơ cấp hay Tiểu học Phật giáo, các chùa
đều phải tự lo đào tạo các chúng điệu, mức
độ và nội dung không đồng bộ, còn
tùy tiện theo hoàn cảnh của từng chùa).
- Cập nhật hóa chương trình học cho phù hợp với sự phát triển của đất
nước và thời đại; cần chuyên môn hóa thành từng ban hay khoa để có sự
chuyên sâu trong đào tạo; ví dụ, có khoa dạy về nghi lễ, về công tác
xã hội, về sư phạm, về hành chánh v.v…. Chương trình ngoại điển cần thay đổi cụ thể cho phù hợp với thời đại
để Tăng Ni sinh khi ra trường có thể dễ dàng truyền bá Chánh
pháp, tham gia công tác xã hội, xây dựng đất nước và góp phần xây dựng
hòa bình, hạnh phúc cho thế giới.
- Tiến hành việc đổi tên các trường Cao Cấp Phật Học thành trường
Đại học Phật học với các tổ chức, sinh hoạt
đúng nghĩa của một Đại học (hiện nay, năm 1996, Thừa Thiên Huế đang
chuẩn bị xin mở một Đại học Phật học, như vậy có thể trong
thời gian tới, cùng với hai Trường Cao cấp hiện nay, sẽ có 3 trường Đại
học Phật học trên cả nước).
- Và trên hết, cần giáo dục đạo đức cho Tăng
Ni sinh. Những sa đọa đạo đức xã hội, nếp sống văn minh vật chất hiện
nay có ảnh hưởng đến giới tu sĩ. Trong Giới Định Tuệ, Giới được kể
làm đầu và từ thời đức Phật, nội dung đào tạo Tăng Ni, trước hết
là giới luật, là đạo đức của người xuất
gia. Kinh nghiệm cho thấy giáo dục đạo đức khó hơn giáo dục kiến thức
kỹ năng và phần lớn các tu sĩ trở lại với đời sống tại gia đều là
những người được đào luyện khá tốt về kiến thức và kỹ năng.
- KẾT LUẬN
Xây dựng một nền giáo dục và đào tạo Tăng Ni vững
mạnh là bổn phận của tất cả những ai lưu tâm đến sự phát triển của
Phật Giáo. Người tu sĩ Phật giáo hơn ai hết là những
Sứ giả của đức Như Lai, đem Chánh pháp đến cho đời, thực hiện thông
điệp giải thoát của Đức Phật. Người tu sĩ Phật giáo cần phải được
giáo dục và đào tạo để xứng đáng với chức năng cao cả đó.
Ngành giáo dục Tăng Ni nước
ta đang phát triển nhưng những khó khăn vẫn còn rất nhiều. Vì
giáo dục là giáo dục con người và con người là con người đang sống với cộng đồng xã hội luôn luôn thay đổi,
nên việc cải tiến nội dung giảng dạy, tổ chức, phương pháp và
biện pháp giáo dục phải được thực hiện không ngừng.
Mục
lục | Dẫn Nhập
| 1 |
2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 1 8 | 19 |
|
|