Trang tiếng Anh |
...... ... | .. | . | .. | . | . |
Chúng ta nhận thấy nhà sư này đã thực hiện một cách trọn vẹn hai chức năng nơi con người thơ của mình: chức năng một nhà sư của đạo từ bi và chức năng một công dân yêu nước ngợi ca truyền thống bất khuất của dân tộc mình. Ở khía cạnh lịch sử, bài thơ Nôm trên chính là một đoản ca bi tráng, chứng nhân cho một giai đoạn đau buồn của đất nước ta. 5. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17 là thời suy kém của Phật Giáo Việt Nam, hơn nữa, còn bị giới Nho sĩ chịu ảnh hưởng của Tống Nho, kỳ thị, đả kích. Tuy vậy, chính trong thời kỳ này, thiền học và văn học Việt Nam đã có được một sự gặp gỡ tuyệt diệu: người tạo nên sự gắn bó ấy chính là Nguyễn Trãi (1380-1442), một trong số các gương mặt lớn nhất của văn học cổ điển Việt Nam. Sau thời đại Lý Trần, Nguyễn Trãi là nhà Nho đầu tiên đã có những tiếp cận thấu đạt nhất với thiền học. Cảm hứng về thiền trong thơ của Nguyễn Trãi đã được thể hiện qua nhiều sắc thái; và với bài thơ Nôm "Cây Mộc Cận", chúng ta có thể nói đến một sự ngộ đạo nơi Ức Trai:
Hoa mộc cận tức hoa Bông Bụt, một loại hoa dân gian quá đỗi quen thuộc đến độ ít người diễn tả, thế mà Nguyễn Trãi đã lãnh hội nó với một rung cảm thiền học hết sức phong phú. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, tác giả đã chuyên chở được hai luận điểm then chốt, cốt lõi của thiền học: Phật tức tâm (Vết nhơ chẳng bén Bụt làm lòng) và Bất nhị (Sự lạ cho hay tuyệt sắc không). "Sự lạ cho hay tuyệt sắc không" chính là sự yên lặng trên nẻo đường tiếp cận với thế giới vô ngôn nhiệm mầu khiến ta nhớ tới cái im lặng của ngài Duy Ma Cật đã được Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi tán thán: “Tốt lắm, tốt lắm, đến nỗi không cả văn tự ngôn ngữ mới thật là nhập vào pháp môn Bất Nhị". (Kinh Duy Ma, HT Trí Quang dịch, bản in 1994, tr. 156) 6. Tác phẩm “Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn” tương truyền của vua Lê Thánh Tông (1442-1497) tuy có chỗ cần bàn thêm (như thái độ đùa cợt đối với giới cô hồn thiền tăng) nhưng đây là tác phẩm chữ Nôm đầu tiên chịu ảnh hưởng của Phật Giáo về khía cạnh nghi lễ, cúng tế. Điều này chứng tỏ tục cúng và chẩn tế cô hồn, thường được tổ chức trong các ngày lễ lớn của Phật Giáo, nhất là vào ngày lễ Vu Lan rằm tháng bảy, đã có một âm vang đáng kể trong xã hội. Đó là những tiền đề thuận lợi để cho cửa thiền và văn học Việt Nam sau này có được “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” của thi hào Nguyễn Du (1765-1820). 7. Bốn gương mặt lớn nhất của văn học cổ điển Việt Nam cũng lại là các nhà thơ có những tiếp cận sâu sắc nhất về Phật học. Đấy là Nguyễn Trãi (1380-1442), Lê Quý Đôn (1726-1784), Ngô Thì Nhậm (1746-1803) và Nguyễn Du (1765-1820). Chúng ta đã nói đến một Nguyễn Trãi đạt đạo với bài thơ Nôm Hoa Mộc Cận. Về phương diện chiêm bái, Nguyễn Trãi đã từng sang tận chùa Nam Hoa – còn gọi là chùa Bảo Lâm - gần dòng suối Tào Khê, từng là đạo tràng lớn của Tổ Huệ Năng (638-71), vị tổ thứ sáu của thiền tông Trung Hoa. Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Trãi ở đây là ngôn ngữ của một Phật tử thuần thành: "Thần tích phi lai kỷ bách xuân Bảo Lâm hương hỏa khê tiên nhân Hàng long, phục hổ, cơ hà diệu Vô thụ, phi đài, ngữ nhược tân Điện trắc khởi lâu tàng bát Phật Khảm trung di tích thuê chân thân Môn tiền nhất phái Tào Khê thủy Tây tận nhân gian kiếp kiếp trần". (Gậy thần bay đến mấy trăm niên Hương hỏa Bảo Lâm giữ trọn nguyên Phục cọp, hàng rồng sao phép diệu Chẳng đài, không thụ vẫn lòng truyền Nơi tàng bát Phật lâu bền đấy Dẫu lột xác phàm tháp giữ nguyên Trước cửa Tào Khê dòng nước chảy Lâng lâng gột sạch mọi trần duyên). (Bài Thăm Chùa Nam Hoa, Đào Duy Anh dịch, Nguyễn Trãi Toàn Tập, sđd, tr. 383-384) Câu "Hàng long phục hổ cơ hà diệu" nhắc đến những truyền thuyết về các trường hợp hàng phục các loài thú dữ của các vị thiền sư, cũng như bản thân Lục Tổ đã từng hàng phục con rồng dữ nơi đầm rộng trước chùa (Xem: Sơ lược sự tích Lục Tổ, in trong Kinh Pháp Bảo Đàn, cư sĩ Diên Sinh dịch, Sen Vàng xb, S, 1961, tr. 12). Câu: “Vô thụ phi đài ngữ nhược tân" là nhắc lại hai câu đầu trong bài kệ của Lục Tổ: "Bồ Đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài". Hai câu kết, không chỉ là sự tôn vinh thiên cảnh Tào Khê mà còn gián tiếp đề cao tính chất nhiệm mầu của Phật pháp trong sứ mạng diệt mê khai ngộ cho chúng sinh. Nơi thơ Nôm, Nguyễn Trãi cũng còn nhắc tới Tào Khê: "Núi láng giềng, chim bậu bạn Mây khách khứa, nguyệt anh tam Tào Khê rửa ngàn tắm suối Sạch chẳng còn một chút phàm." Lê Quí Đôn (1726-1784) là nhà bác học trong văn học cổ điển Việt Nam. Về mặt nghiên cứu, lý luận, ông đã dành một thiên Thiền Dật trong sách Kiến Văn Tiểu Lục để bàn về Phật Giáo, ở đây, ông đã lên tiếng phê phán và bác bỏ những thành kiến hẹp hòi thường có nơi một số nhà Nho đối với đạo Phật, biện dẫn về chất "tề gia trị quốc" của Phật Giáo, nêu lên một số điểm tương đồng giữa Nho-Phật, ca ngợi kinh Lăng Nghiêm v.v…. và nhất là bày tỏ một cách tóm tắt kiến giải sâu sắc của mình về Phật Giáo (Xem Kiến Văn Tiểu Lục, Phạm Trọng Điềm dịch, nhà xb KHXH, H, 1977, tr. 363-430). Đây là kiến giải của Quế Đường tiên sinh về đạo Phật: “Tôi thiết tưởng đây là đại khái của tông chỉ đạo Phật: vạn vật thế gian là hư ảo, con người phải tu tập để đạt được giác ngộ chân chính mà thoát ra khỏi lục trần. Một khi đã thành được diệu đạo tột bực thì trở lại thương xót chúng sinh, thi hành nhiều phương tiện để cứu giúp, ai muốn học đạo chính giác thì giúp cho họ được thành người. Đâu phải là chối bỏ tình anh em họ hàng và dứt tuyệt luân lý cương thường". (KVTL, Nguyễn Lang dịch, dẫn theo VNPGSL T2, nhà xb VH, H, 1992, tr. 263). So với phần trứ thuật, biên khảo hết sức dồi dào thì sự nghiệp sáng tác của Lê Quí Đôn không nhiều, nên tất nhiên là những tác phẩm viết về cửa Thiền của ông cũng ít. Tuy vậy, với bài Minh được khắc trên chiếc khánh đồng chùa Thanh Quang, chúng ta có thể nói đến một Lê Quí Đôn đạt đạo, hay nói như giáo sư Nguyễn Lang là: "ngôn từ - của bài minh ấy – có thể nói là có chất Phật rồi vậy": "Duy nhân chi tâm Xuất nhập vô thì Định cố tuệ bản Văn diệc ngộ ky Quyết chất tắc kim Quyết danh tắc khánh Tham thấu kỳ lý Nhất động nhất tĩnh Liễu ngộ tuần tỉnh Nãi thức kỳ hạnh Hình khí tuy thô Ý thú tự thâm Nhân quả không hoa Vật đàm thiển cận Ngã cáo chư nhân Đản lực vi thiện”. (Chỉ có lòng người Vào ra không chừng Nhờ Định có Tuệ Nhờ Nghe, viên thông Chất liệu là đồng Tên gọi là khánh Thấu đạt nghĩa ấy Động tĩnh nhất tâm Giác ngộ tự kỷ Mới thấu hành tung Hình chất tuy thô Ý thú cao thâm Hoa đốm nhân quả Đừng bàn thiển cận Ta khuyên mọi người Làm thiện hết lòng". (Nguyễn Lang dịch, VNPGSL 2, sđđ, tr. 265-266). Ngô Thì Nhậm (1746-1803) là gương mặt thơ tiêu biểu của văn học thời Tây Sơn và cũng là nhà thơ đạt đạo nhất trong cái xu hướng “tìm đến cửa Thiền” của phần đông các nhà thơ Việt Nam ở thế kỷ 18, từ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791) đến chúa Trịnh Sâm (1739-1782), Trần Bá Lãm (thế kỷ 18), Lý Trần Quán (1735-1786), Nguyễn Gia Thiều (1741-1796), Ninh Tốn (1743-?), Vũ Huy Tấn (1749-1800), Phan Huy Ích (1751-1822), Đoàn Nguyên Tuấn (thế kỷ 18), Phạm Thái (1777-1814)… Ngô Thì Nhậm đã từng đến chùa tham thiền trong thời gian lánh nạn từ 1782-1786 dưới thời chúa Trịnh Khải nắm quyền: "Khuất chỉ phiêu bồng ký ngũ niên Kim thu thôn tự nhất tham thiên Cúc hoa sơ quải hoàng kim giáp Bối diệp trùng niên bạch ngọc thuyên Vãng sự kỷ hồi hòe quốc mộng Cố ngô y cựu trúc lâu duyên Linh am tự tại, linh quang tĩnh Sảng nhập ngân câu tú thủy tiên". (Bấm đốt năm năm dạt khắp miền Chùa quê thu lại bước tìm lên Cánh vàng vừa tách xoè hoa cúc Lá bối lần xem bén vị thiền Chuyện cũ giấc hoè bao ảo mộng Thân xưa lau trúc vẫn tiền duyên Am thiêng còn đó, tòa sen lặng Khí mát hồ trong mặt nước lên). (Bài Cuối thu vào chùa tham thiền, Khương Hữu Dung dịch, Tuyển tập thơ Văn Ngô Thì Nhậm, T1, nhà xb KHXH, H, 1978, tr. 127-128). Nhìn chung, cảm hứng về thiền học trong thơ Ngô Thì Nhậm khá đậm nét, đáng chú ý nhất là trong chuyến Bắc sứ vào năm 1793, ông đã ghé thăm chùa Hưng Long (Hà Bắc, Trung Quốc) bày tỏ những mến mộ của mình về cảnh và người ở đây. Bài thơ ấy có lời dẫn, và được viết theo thể tam ngôn - mỗi câu ba chữ, gồm 24 câu – là một bài thơ có giá trị và hết sức độc đáo trong văn học Việt Nam: (Lời dẫn của bài thơ chỉ xin giới thiệu bạn đọc) “Thơ xưa có câu: Ngẫu nhiên viện trúc cùng sư chuyện, Lại được phù sinh nữa buổi nhàn; dịch: Vì được nhàn vốn đã khó, mà được gặp nhà sư nơi trúc viện lại càng khó, có phải thế chăng?" Lão pháp sư trụ trì chốn danh thắng này là nơi nhà vua thường ngự giá đến. Thiền viện nguy nga sáng sủa, những lão sư bền giữ đạo chân như, một chút bụi trần không nhiễm, chẳng khác gì tu khổ hạnh trong tĩnh viện chốn núi sâu, cái nét huyền của nhà sư lại càng đáng chuộng lắm thay! Tôi đang trong lúc bận rộn, được gặp lão sư trò chuyện, tưởng như lên núi báu mà trông tuyết nguyệt, nơi lòng trần bỗng thấy sạch lâng lâng, rất muốn cùng pháp sư bàn về lẽ huyền vi của đạo Phật suốt ngày, nhưng công việc rộn ràng quá thể, thế mới biết cái vui nơi trúc viện, đức Như Lai Thế Tôn không dễ cho người. Nhưng đến đây không thể không có lời tán tụng, nên tôi đành quên mình là người thiển lậu mà đề mấy câu thơ sau đây: "Liên hoa vân Ngũ hương huân Đại pháp luân Hiện kim thân Cảnh trường xuân Oánh vô trần Hữu lão nhân Tuyệt tham sân Lưỡng hải ngân Hội đạo chân Mai tinh thần Hảo ẩn luân Xa lân lân Mã phân phân Danh lợi khuân Địch thập phân Phiên thời phân Úy sở văn Tương giảng luân Hiện ân can Từ bi tan Quảng vô ngân Ngã nguyện vân Lão nhu quân". Dịch: Mây hoa sen Xông năm hương Xe pháp lớn Hiện thân vàng Cõi trường xuân Sạch bụi trần Có ông già Dứt tham sân Dõi tròng mắt Thấu đạo chân Thần như mai Khéo ẩn thân Xe rầm rầm Ngựa hí ran Vòng danh lợi Sạch mười phân Thoáng gần gũi Giải băn khoăn Củng bàn luận Rất ân cần Bến từ bi Rộng mênh mông Tôi nguyện rằng Được như ông” (Ngô Linh Ngọc, Mai Quốc Liên dịch, Tuyển tập thơ Văn Ngô Thì Nhậm, sđd, tr. 520-522) Chúng ta cần nhớ rằng, chính Ngô Thì Nhậm là người đã góp nhiều công sức và trí tuệ giúp vua Quang Trung đánh tan đạo quân xâm lược đông đảo của nhà Mãn Thanh năm 1789. Nhưng đối với vị thiền sư chân tu người Trung Hoa nơi chùa Hưng Long này, ông đã hết mực ca ngợi, xem mình như một đệ tử. Rõ ràng là sức cảm hóa của đạo từ bi đã nâng ông lên tầm cao của một nhà văn hóa chân chính. Trường hợp Ngô Thì Nhậm, từ năm 1796, lui về lập thiền viện ở phường Bích Câu-Thăng Long, cùng với các thiện hữu như Ngô Thì Hoàng (1786-1814), hiệu là Hải Huyên, em cùng cha khác mẹ với Ngô Thì Nhậm, Vũ Trinh (1759-1828), hiệu là Hải Âu, em rể thi hào Nguyễn Du, Ngô Đăng Sở (1753-?), hiệu là Hải Hòa và Nguyễn Hành hay Nguyễn Đàm (1771-1824), hiệu là Hải Điền, cháu gọi Nguyễn Du bằng chú ruột, tham thiền học đạo, bàn luận, viết sách… là một hiện tượng học Phật hết sức đặc biệt, có một không hai trong sinh hoạt văn học Việt Nam. Tác phẩm “Trúc Lâm Tổng Chỉ Nguyên Thanh” đã ra đời trong hoàn cảnh ấy, là đỉnh cao trong nỗ lực dung hợp Nho-Phật của quá trình gần hai nghìn năm du nhập và phát triển ở đất nước ta của hai học thuyết đó. Đã có một số bài viết nhằm tìm hiểu cùng đánh giá tác phẩm kể trên, như: Mai Quốc Liên (Ngô Thì Nhậm trong văn học Tây Sơn, Sở VHTT Nghĩa Bình xb, 1985), Trần Đình Hượu (Bài tham luận, in trong: Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Việt Triết học xb, H, 1986), Hà Thúc Minh (Lịch sử phật giáo Việt Nam, nhà xb KHXH, H, 1988)… nhưng khảo sát một cách quán xuyến thâu tóm, đánh giá công bằng, tham bác, có giá trị hơn cả vẫn là những trang viết của giáo sư Nguyễn Lang trong sách VNPGSL T2 (sđd, tr. 267-293). d. Nguyễn Du (1765-1820) là gương mặt thơ lớn nhất của văn học cổ điển Việt Nam, mà cũng là nhà thơ có những tiếp cận thấu đạt nhất về Phật học. Toàn bộ tác phẩm của ông đều chịu ảnh hưởng của Phật Giáo. Có thể nói đến một Nguyễn Du dung hợp một cách thành công ba yếu tố Nho-Phật-Lão, đã phổ thông hóa cụm triết lý nhân quả - nghiệp báo của Phật học. Chúng ta cũng có thể nói đến một Nguyễn Du Phật tử trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh với cái đạo tâm và tín tâm đã được thể hiện rất rõ, rất đậm nét. Rồi trong khối lượng thơ chữ Hán gồm gần 250 bài, hơn bất cứ một nhà thơ nào trong văn học Việt Nam, Nguyễn Du đã bày tỏ những xót xa, những thao thức, trăn trở đối với bao cảnh vô thường biến đổi của vạn vật, cũng như tính chất hư ảo, bèo bọt của kiếp người, của vinh hoa phú quý… để tiến dần đến thiền học. Và với bài thơ "Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài" (Đài đá phân kinh của Thái Tử Chiêu Minh đời Lương), nhà thi hào của chúng ta đã chính thức đặt chân lên vùng trời vô ngôn thênh thang của thiền học. Xin giới thiệu đoạn cuối:
e. Trong văn học hiện đại, bài thơ Lửa Từ Bi của nhà thơ Vũ Hoàng Chương có một vị trí đặc biệt. Nếu ngọn lửa tự thiêu của HT Quảng Đức đã thắp sáng lên tinh thần vô úy, tỏa lên sức mạnh của từ bi và trí huệ, góp phần đẩy bánh xe lịch sử dân tộc tiến lên phía trước, thì bài thơ Lửa Từ Bi là một chứng tích, một dấu ấn văn học đậm đà của một thời kỳ lịch sử, một khẳng định bằng ngôn ngữ thi ca cho sự gắn bó giữa Phật Giáo và dân tộc Việt Nam. Ngôn ngữ thơ ở đây đã là ngôn ngữ nhuần nhuyễn của một người hiểu Phật và tin Phật:
Phật Giáo, cũng như bất cứ một hình thái xã hội nào đã trụ thế với đất nước Việt Nam thông qua những hình thức quen thuộc của mình: ngôi chùa, các nhà sư, tiếng chuông mõ, kinh kệ, những sinh hoạt về lễ bái cúng kính v.v…. tất cả đã là những hiện thực gần gũi trong cộng đồng dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa. Từ những hiện thực phong phú trong cuộc sống, chúng ta đã được chuyển hóa thành những hiện thực sinh động trong văn học là chuyện hầu như tất nhiên. 1. Trước hết là hình ảnh ngôi chùa, tiếng chuông chùa đã gắn bó với cả chiều dài chiều rộng của văn học Việt Nam, cả văn học dân gian, cổ điển và hiện đại. a. Ở tục ngữ, ca dao, chúng ta sẽ luôn gặp ngôi chùa trong suốt cả cuộc đời của một con người:* Ngôi chùa làng quen thuộc: "Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt" Ngôi chùa, tiếng chuông chùa của sự hẹn hò, thề ước. "Bao giờ cạn lạch Đồng Nai Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền" "Tiếng chuông Thiên Mụ dặn dò Em đi cảnh vắng, hẹn hò cùng ai". Ngôi chùa với ước nguyện của đôi lứa: "Lên chùa lạy Phật quy y Cầu cho bến nớ, bên ni kết nguyền". Ngôi chùa với tình yêu gắn bó của đôi vợ chồng trẻ : "Đôi ta như tượng mới tô Như chuông mới đúc, như chùa mới xây". Ngôi chùa thân thuộc trong sinh hoạt của người dân: "Dù ai đi đâu về đâu Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về". Ngôi chùa với quá trình lao động của dân chúng: "Rủ nhau xuống biển câu cua Lên non hái nhãn vô chùa nghe kinh". Ngôi chùa trên đường Nam tiến của dân tộc: "Ra đi gặp vịt cũng lùa Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu". Ngôi chùa gắn liền với các lễ hội truyền thống: "Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân" "Nhớ ngày mồng bảy tháng ba Trở vào Hội Láng, trở ra Hội Thầy". "Mồng bảy Hội Kám, mồng tám Hội Dâu Mồng chín đâu đâu trở về Hội Dóng”. Ngôi chùa trong sự hiếu thảo của người con: "Lên chùa thấy Phật muốn tu Về nhà thấy mẹ, công phu chưa đành". "Ngó lên trên trời thấy cặp cu đương đá Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đương đua Anh về lập miếu thờ vua Lập am thờ mẹ, lập chùa thờ cha". Ngôi chùa trong bóng xế của đời người: "Thiếp về lựa chuối thiếp mua Lựa hương thiếp thắp, lựa chùa thiếp tu". Ngôi chùa của tuổi già: "Trẻ vui nhà, già vui chùa". b. Một điểm đáng chú ý là trong tục ngữ ca dao Việt Nam, ngôi chùa còn được sử dụng qua ngả ẩn dụ, càng chứng tỏ sự gắn bó của hình ảnh ngôi chùa trong tư duy của người Việt Nam: "Chùa rách Phật vàng". "Ăn xôi chùa ngọng miệng". "Bụt chùa nhà không thiêng". "Có vả thì phụ lòng sung Có chùa bên bắc, bỏ miếu đông tồi tàn". "Tuy rằng ăn ở chùa này Tiền lưng gạo bị cúng thầy chùa kia". "Công tôi đánh đá xây tường Để ai đóng oản, dâng hương chùa này". "Thương thay thân phận con rùa Ra đình đội hạc, lên chùa đội bia"… c. Trong văn học chữ Hán, hình ảnh ngôi chùa, tiếng chuông chùa đã là những nguồn cảm hứng lớn. Chỉ nói riêng về phần thi ca, chúng ta có thể kể ra hằng mấy trăm bài thơ viết rất đạt về ngôi chùa, tiếng chuông chùa, mỗi bài là một ghi nhận, một phát hiện, một soi sáng hay một khám phá. Đây là ý kiến của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791): "Sớm tối đánh vài hồi chuông cho lòng trần lắng sạch…" (Thượng Kinh Kỷ Sự, Bùi Hạnh Cẩn dịch, nhà xb Hà Nội, 1977, tr. 152). Kể cả một số tác giả từng có ác cảm với cửa thiền như Trương Hán Siêu (?-1354), Sái Thuận (thế kỷ 15), Ngô Thì Sĩ (1726-1780), Phạm Quý Thích (1760-1825)… cũng đã có những ghi nhận đặc sắc về các cảnh chùa: Đó là những khám phá mang tính chất ân hận của Trương Hán Siêu: "Trung lưu quang tháp ảnh Thượng giới khải nham phi Phù thế như kim biệt Nhàn thân ngộ tạc phi"… (Tháp in trên dòng sáng Cửa động mở đầu non Cuộc đời ta mây nổi Biết ngay xưa lạc lầm) (Bài Khắc Đá Núi Dục Thúy, Nguyễn Lang dịch, VNPGSL2, sđd, tr. 260) Sái Thuận đã ghi nhận về chùa Phả Lại: "Phù dạ chung quy hải Hàm thu nguyệt trụy giang Long ngâm môn ngoại thủy Lộ quá vụ biên song Ngư châu địch kỷ xoang”. (Chuông tối vang ra biển Trăng thu rớt giữa dòng Rồng kêu sông trước cửa Cò lướt khói bên song Thỉnh thoảng còi ngư thổi Khua tỉnh mộng sư ông") (Bài Chùa Phả Lại, Hoàng Việt Thi Văn Tuyển, bd của nhóm Lê Quí Đôn, dẫn theo bản Ronéo của ĐHSP Sài Gòn, T3, tr.42-43). Ngô Thì Sĩ đã có những phát hiện khi ghé thăm chùa Trinh Sơn: "Yên hà tam sổ tính Kim tích kỷ thiên thu Danh lợi nhân không nhiệt Lâm tuyền cảnh tự u Bồi hồi ngâm bất tựu Tôn thạch khán giang lưu". (Mấy đỉnh khói mây phủ Muôn thu ngày tháng trôi Lợi danh người náo nức Rừng suối riêng thảnh thơi Trên đá nhìn sông chảy Thơ không thành, bồi hồi) (Bài Lên Thăm Chùa Trinh Sơn, Băng Thanh dịch, Ngô Thì Sĩ, Trần Thị Băng Thanh biên soạn, nhà xb Hà Nội, 1987, tr. 113-114). Phạm Quý Thích đã thực sự khám phá và cảm nhận chất thiền khi mô tả một số cảnh đẹp chung quanh chùa Trần Quốc: " Thanh thả liên y Tây Hồ chi thủy Bách ức liên phi Nhứt thiết hoan hỉ Bất cảm hà tịch? Bất linh hà hư? Quản bỉ thủy nguyệt Tư kiến chân như" (Sóng gợn trong vắt Mặt nước Tây Hồ Ngàn đóa hoa sen Đua nhau vui nở. Tịch nào không cảm? Hư nào không thiêng? Trăng lồng đáy nước Soi tỏ chân như) (Bài Minh của văn bia chùa Trần Quốc, Tuyển Tập văn bia Hà nội, T1, nhà xb KHXH, H, 1978, tr. 37-38 dịch, tr. 138 Hán). d. Hầu hết các tác phẩm chữ Nôm nổi tiếng trong văn học Việt Nam, từ Lâm Tuyền Kỳ Ngộ (khuyết danh), Tư Dung Văn (Đào Duy Từ, 1572-1634), Phan Trần (khd), Nhị Độ Mai (khd), Bich Câu Kỳ Ngộ (khd), Quan Âm Thị Kính (khd), Quan Âm Nam Hải (shd)… đến Sơ Kính Tân Trang của Phạm Thái (1777-1814), Hoa Tiên truyện của Nguyễn Huy Tự (1743-1790), Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888)… đều có đề cập đến hình ảnh ngôi chùa hoặc đậm nhạt với những vị trí và vai trò không giống nhau, nhưng thấy cùng có một điểm chung là đều gián tiếp xác nhận rằng đó là những hình ảnh không thể thiếu. Xin giới thiệu đoạn tả cảnh chùa Kim Sơn là đoạn thơ đẹp nhất trong Sơ Kính Tân Trang của Phạm Thái: "Đầu non vượn hót khỉ treo Cây kê cửa động, hoa leo mái già Chim rừng dóng dả tiếng ca Nước tuôn khe biếc, khói pha lá vàng Kinh Thủy Sám, kệ Kim Cương Rẩy cành cam lộ, thét gươm Đại Hùng Úm ma ni bát minh hồng Kinh vang tiếng giác, cả giong giọng từ Nguyện Di Đà, niệm Tỳ Lư Bồ Đề là đạo, chân như ấy lòng" (Dẫn theo Nguyễn Văn Xung, Phạm Thái và Sơ Kính Tân Trang, nhà xb Lửa Thiêng, S, 1972, tr. 123). e. Chỉ nói riêng về Phần Thơ Mới trong văn học hiện đại, mặc dù thời bấy giờ nhiều nhà thơ đã quá hăm hở trong việc đi hứng lấy luồng gió lãng mạn từ phương Tây thổi sang, hình ảnh ngôi chùa và tiếng chuông chùa vẫn có mặt một cách sinh động trong thơ của Nam Trân, Đoàn Văn Cừ, Nguyễn Nhược Pháp, J. LeiBa, Hồ Dzếnh, Anh Thơ, Bích Khê, Quách Tấn, Lưu Trọng Lư, Ngân Giang, Xuân Tâm, Nguyễn Bính… Nếu ở thơ Nôm, Chu Mạnh Trinh (1862-1905) được xem là nhà thơ của chùa Hương với Hương Sơn Phong Cảnh, Hương Sơn Nhật Trình Ca, thì ở thơ Mới, cái tên gọi thân thuộc ấy có thể dành cho Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) với bài thơ dài viết về chùa Hương được nhiều người biết đến. Cũng trong ý hướng tìm về các lễ hội truyền thống, ngôi chùa đã gắn liền với tục lễ bái-hái lộc đầu xuân của người dân trong thơ Nguyễn Bính (1919-1966):
Và thử xem, "Bức Tranh Quê" của nữ sĩ Anh Thơ sẽ thiếu sót biết bao nếu như không có ngày Rằm tháng bảy, ngày Lễ Vu Lan và cũng là ngày Tết Trung Nguyên của dân tộc. Hơn thế nữa, đối với Nguyễn Bính, ngôi chùa quê đã trở thành một phần của quê hương thương nhớ của mình:
b. Trong văn học Việt Nam, có lẽ vua Lý Thái Tông (1000-1054) là nhà thơ đầu tiên đã nói đến sắc hoa, ánh trăng, trong sự kết hợp với chất liệu Thiền để diễn tả: "Ung khai chư Phật tín Viên hợp nhất tâm nguyên Hạo hạo Lăng Già nguyệt Phân phân Bát Nhã liên"
(Mở niềm tin đức Phật Xa hợp một tâm nguồn Trăng Lăng Già vằng vặc Sen Bát Nhã thơm truyền) (Bài Truy Tán Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, TUTA, sđd, tr. 167-168). Cùng thời với vua Lý Thái Tông, thiều sư Viên Chiếu (999-1091) trong một số "Thoại đầu thiền"* cũng đã kết hợp với những hình ảnh trăng gió hoa của thi ca: "Trong tuyết mẫu đơn nở Trời thu oanh hót vang" (Thu thiên đoàn thử lệ Tuyết cảnh mau đơn khai) (TUTA, sđd, tr. 61) "Gió thổi sừng kêu xuyên rặng trúc Vầng trăng vượt núi đến bên tường". (Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo Sơn nham đái nguyệt quá tường lai) (TUTA, sđd, tr. 73). c. Chúng ta đã nói đến một cành Hoa Mai tuyệt vời của thiền sư Mãn Giác đời Lý. Chúng ta cũng có thể nói tới một Hoa Cúc tuyệt diệu của thiền sư Huyền Quang (1254-1334) đời Trần. Bàn về hoa cúc, những người quan tâm đến văn học cổ thường nghĩ tới Đào Tiềm (365-427) nhà thơ xuất sắc thời Đông Tấn, Trung Quốc. Ở Việt Nam, từ đời Trần đã có nhiều tác giả viết về hoa cúc, như Trương Hán Siêu (?-1354), vua Trần Minh Tông (1300-1357), Trần Nguyên Đán (1325-1390) v.v… Một số nhà thơ nổi danh như Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, đều có nhắc tới loại hoa quen thuộc ấy trong thơ của mình và nhất là Nguyễn Khuyến (1835-1909) với hai bài thất ngôn bát cú Vịnh Cúc (xem: Thơ văn Nguyễn Khuyến, nhà xb VH, H, 1979), tr. 281-283), được xem là người chịu ảnh hưởng đậm của Đào Tiềm "Ở nước ta, thi nhân gần gũi với ông - chỉ Đào Tiềm - nhất là Nguyễn Khuyến" (Nguyễn Hiến Lê, Đại Cương Văn học sử Trung Quốc, T1, nhà xb NHL, S, 1964, tr. 09). Nhưng chỉ với thiền sư Huyền Quang, với sáu bài thất ngôn tứ tuyệt viết về Hoa Cúc, với sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và chất liệu Thiền, thì mới tạo được sự gắn bó đậm đà giữa loài hoa đó với cả chiều rộng - chiều cao của kiếp người. Xin giới thiệu bài 2 và bài 5: "Thiên giang vô mộng cán khô trường Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang Lão khử sâu ngậm hon vị ổn Thi biêu thực vị cúc hoa mang Hoa tại trung đình, nhân tại lâu Phân hương độc tọa tự vong âu Chủ nhân dữ vật hôn vô cạnh Hoa hướng quân phương xuất nhất đâu”. (Ngàn sông không đủ thấm lòng già Bách vịnh mai hoa vẫn kém xa Đầu bạc ngâm hoài vần chưa ổn Thấy hoa cúc nở rộn lòng ta Người ở trên lầu hoa dưới sân Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông Hồn nhiên người với hoa vô biệt Một đóa hoa vàng chợt nở tung) (Nguyễn Lang dịch, VNPGSL T1, sđd, tr. 371-372) “Một đóa hoa vàng chợt nở tung" chính là sự bừng tỉnh của một tâm linh đạt đạo trong cái giây phút nhiệm mầu. d. Chúng ta đã có một đóa Hoa Bông Bụt trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Ở đây, chúng ta cũng có thể nhìn thấy một đóa hoa sen luôn tươi nở trong cuộc sống của thiền sư Minh Lương (thế kỷ 17). "Mỹ ngọc tàng ngoan thạch
Liên hoa xuất ư nê Tu tri sinh tử xứ Ngộ thị tức Bồ Đề”. (Ngọc xinh ẩn trong đá Hoa sen nảy tự bùn Nên biết tìm giác ngộ Nơi sinh tử trầm luân) (Nguyễn Lang dịch, VNPGSL T2, sđd, tr. 121) Hoặc một cánh chim Nhạn tự tại của Thiền sư Hương Hải (1628-1715): "Nhạn quá trường không Ảnh trầm hàn thủy Nhạn vô di tích chi ý Thủy vô lưu ảnh chi tâm" (Nhạn bay ngang trời Bóng chìm đầm lạnh Nhạn không ý lưu lại dấu Nước không tâm giữ lại hình) (Nguyễn Lang dịch, sđd, tr. 175) Hay một ánh mặt trời mãi tỏa sáng của thiền sư Chân Nguyên (1646-1726): "Hữu thuyết giai thành báng Vô ngôn diệc bất dung Vị quân thông nhất tuyến Nhật xuất lĩnh đông hồng” (Nói ra là bị kẹt Không nói cũng chẳng xong Vì anh đưa một nét Đầu núi ánh dương hồng) (Nguyễn Lang dịch, sđd, tr. 14-15)
Cần ghi chú thêm là bài thơ Vịnh Hoa Ngọc Lan, cụ Phan đã viết đề tặng HT Tịnh Khiết (1890-1973) chùa Tường Vân, Huế.
Phần được bàn sau cùng là sự gắn bó giữa Phật Giáo với văn học Việt Nam trong quá trình cung cấp cùng nâng cao những cái nhìn về nhân sinh, vũ trụ. Thực ra thì khi giới thiệu một số chi tiết ở phần hai, chúng ta đã ít nhiều nhận ra những cái nhìn như thế cho nên phần này được xem như là bổ sung cho phần trước.
Gậy ông đập lưng ông. Tham thì thâm, Bụt đã bảo tham rằng chớ có tham. Ở tinh gặp ma, ở quỷ gặp quái, gian tà gặp nhau. Ngả báo ứng, thưởng phạt: Gieo gió, gặt bão. Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Ai mà phụ nghĩa quên công Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm. Ngả nghiệp báo-luân hồi: Làm kiếp trâu ăn cỏ Làm kiếp chó ăn dơ. Ai ơi hãy ở cho lành, Kiếp này chưa gặp, hãy dành kiếp sau. Trứng rồng lại nở ra rồng, Liu điu lại nở ra giòng liu điu. Ngả tu nhân, tích đức: Hương Bụt thắp thờ Bụt. Người trồng cây hạnh người chơi, Ta trồng cây đức để đời về sau. Lênh đênh qua cửa Thần Phù Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm…
"Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh Bản chấm thanh phong thể ngoại tình Phật giới thanh u, trần giới viễn Đình tiền phút huyết nhất oanh minh" (Thân nhàn tựa áng mây trôi Gió trăng nửa gói, việc đời nhẹ thênh Cõi trần xa, cõi Phật thanh Sân hoa đỏ rực, chim oanh líu lường) (Bài Tạm nghỉ ở núi Thôn Nam, Đào Thái Tôn dịch, Thơ Văn Lý Trần 3, nhà xb KHXH, H, 1978, tr, 57) "Viễn viễn tòng tăng tự Sơ sơ lạc khách bồng Triều sinh, thiên địa hiêu Nguyệt bạch, hựu giang không" (Vẳng tự chùa xa tới Tiếng thưa lọt mui bồng Triều dâng, trời đất rạng Trăng bạc, sông mênh mông) (Bài Tiếng chuông sớm ở Hóa Thành, Tiên Sơn, Huệ Chi dịch, sđd, tr.473) "Quân thân nhất niệm cửu anh hoài Giản quý, lâm tàm túc nguyện quai Tam thập dư niên trần cảnh mộng Số thanh đều điểu hoán sơ hồi". (Một dạ quân thân vướng vít hoài Thẹn rừng, tủi suối ước xưa sai Ba mưoi năm lẻ trong trần mộng Và tiếng chim kêu tỉnh lại thôi) (Bài Chùa Đông Sơn, Đào Duy Anh dịch, Nguyễn Trãi TT, sđd, tr. 331) "Diệu khê tam sinh mộng Do tồn nhất lũ yên Lâu đài phi thế hữu Hoa mộc đắc xuân thiên Du mục phù vân ngoại Mang mang thị đại thiên" (Phải giấc mộng ba sinh Khói hương còn phảng phất? Lâu đài cảnh Nhược, Bồng Cỏ hoa cùng khoe sắc Cuộc đời mây nổi kia Đại thiên trong tầm mắt) (Bài Lên chùa núi Hương Lô, Hợp Tuyển Thơ Văn VN T2, sđd, tr. 346, ĐN dịch) "Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại Hương nhân do thuyết địa anh linh Liêu liêu cô đỉnh kim hà tại? Thức đắc vô hình thắng hữu hình" (Pháp giới phải ngang trời rộng lớn Người làng van nói đất anh linh Vẳng không cô đỉnh rày đâu tá? Mới biết vô hình thắng hữu hình) (Bài thăm chùa Phổ Minh, Hữu Thê dịch, Thơ Văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà xb VH, H, 1983, tr. 233-234). "Thiên hoa thắng cảnh cung bình nguyệt Bát điệp tiền nhân tống phẩm đề Cước hạ giang sơn kỳ bán cục Thao thao lãnh tiêu trọc đô mê" (Duyên xưa tám lá truy nguôn lá Cảnh đẹp ngàn hoa lựa tứ hoa Thế giới dưới chân cờ nửa cuộc Cười ai bể trọc chửa nhìn ra) (Bài thăm chùa Tiên Sơn lần trước, Ngô Linh Ngọc dịch, Văn học Tây Sơn, Nguyên Lộc bs, sở VHTT Nghĩa Bình xb, 1986, tr. 382-383) "Thiên địa hữu tư sơn Vạn cổ hữu tư tự Phong cảnh dĩ kỳ tuyệt Nhi ngã diệc lai thử" (Trời đất có núi ấy Muôn thuở có chùa này Phong cảnh đã kỳ tuyệt Lại thêm ta đến đây…) (Bài Qua núi Dục Thúy, Ngô Lập Chi dịch, Thơ Chữ Hán Cao Bá Quát, nhà xb VH, H, 1976, tr. 56-57). "Tinh không thạch bích sinh hàn vũ Dạ bán chung thinh lạc nộn triều Lâm thử giang sơn kỳ thắng tuyệt Tọa giao khôi lôi nhất thời tiêu" (Trời quang vách đá dầm hơi nước Đêm vắng hồi chuông rớt ngọn triều Ngắm cảnh non sông kỳ tuyệt ấy Nợ đời bỗng chốc chẳng còn đeo) (Bài lên núi Ngũ Hành Sơn lưu đề, Nguyễn Văn Khoa dịch, Thơ Văn Nguyễn Khuyến, sđd, tr. 225-226) "Thập niên hồ hải quy lai mộng Nhất kỉnh yên hà tự tại thiên" (Khói hoa một mớ trời dành sẵn Ao biển mười năm mộng trở về) (Câu Đối làm ở chùa Linh Phong, Vũ Ngọc Liên dịch, Thư Mục Tư liệu về Đào Tấn, Sở VHTT Nghĩa Bình xb, 1985, tr. 83)
Xin được nhắc đến cái chân lý mà cũng là niềm tin của chúng tôi: con người, cá nhân hay cả một dân tộc, sẽ không thể có một tương lai tốt đẹp nếu không biết trân trọng và phát huy quá khứ. Như thế, vấn đề được đặt ra là: Phật Giáo đã có được những đóng góp lớn lao cho văn học Việt Nam trong quá khứ. Vậy, Phật Giáo Việt Nam sẽ đóng góp được những gì cho sinh hoạt văn học Việt Nam, hiện tại cũng như tương lai? Vấn đề này xin được xét ở cả hai phía: 1. Về phía Phật Giáo: Phải thừa nhận rằng, ảnh hưởng của Phật Giáo trong văn học hiện đại Việt Nam - nhất là ở mảng sáng tác – không đậm đà bằng trong văn học cổ điển. Điều này có những nguyên nhân xa gần và có thể thâu tóm vào một số nét chính sau đây: - Đối tượng sáng tác, đề tài sáng tác trong văn học hiện đại được mở rộng hơn so với văn học cổ điển. - Phật Giáo Việt Nam, trong cái biến chuyển chung của đất nước và dân tộc, đã chưa có được những thời gian và hoàn cảnh thuận lợi để phát huy bản sắc của mình. Nên nhớ rằng, thời gian từ 1965-1975 ở miền Nam trước ngày đất nước thống nhất, văn học Phật Giáo đã có một số thành tựu đáng chú ý. Các tập thơ của Huyền Không, Trụ Vũ, Trúc Diệp, Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, kịch của Lê Văn Siêu (Quốc sư Vạn Hạnh, nhà xb Lá Bối, 1967)…, những tập truyện của Tâm Quán, Nhất Hạnh, Võ Đình Cường, v.v….. là những minh chứng. Tuy nhiên, mười năm chưa phải là thời gian đủ để cho nhân tốt trở nên quả tốt trong văn học. - Từ sau ngày đất nước được thống nhất, Phật Giáo Việt Nam cũng chưa tìm đư?c những hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát triển của mình. Khoảng hơn năm, sáu năm trở lại đây, đất nước có những biến chuyển trong sự “đổi mới”, hoàn cảnh thuận lợi tương đối đối với Phật Giáo đã mở ra và Phật Giáo Việt Nam đã tạo được những bước phát triển, thành tựu ở các mặt. Tuy nhiên, nhìn chung, so với yêu cầu của thời đại, Phật Giáo VN còn khá nhiều điểm hạn chế cần khắc phục để vượt qua cũng như còn gặp phải nhiều khó khăn, cả mặt chủ quan và khách quan. - Đội ngũ những người làm công việc sáng tác ở đây là những văn nghệ sĩ Phật tử và các văn nghệ sĩ có cảm tình với đạo Phật - vẫn chưa có được thời gian và hoàn cảnh tốt để phát huy sở trường của mình. Đấy là chưa kể, đã có một thời gian, một bộ phận của giới trí thức Việt nam đã hiểu lầm hoặc hiểu sai về Phật Giáo, hay thiếu những điều kiện để tạo được những đối thoại, tìm tòi. Như vậy, đặt vấn đề Phật Giáo VN sẽ đóng góp được những gì cho đời sống văn học Việt Nam, hiện tại cũng như tương lai, tức cũng là đặt vấn đề “sức sống đích thực của Phật Giáo VN trong hiện tại và mai sau", đề cập đến nhiều vấn đề như Giáo dục, Hoằng pháp, Nghi lễ, sinh hoạt của gia đình phật tử, nghiên cứu Phật học, in ấn xuất bản, hoàn thành Đại Tạng Kinh Việt Nam trên cơ sở của Tạng Pali và Tạng Hán… Chúng tôi mong có được những ý kiến đóng góp của các vị có những hiểu biết chuyên môn cùng đạo tâm đối với các vấn đề trên, nhằm soi sáng để có được một cái nhìn tổng thể thì mới đưa tới một số kết luận có sức thuyết phục lớn. 2. Về phía giới sáng tác: Như trên đã nói, giới này gồm các văn nghệ sĩ Phật tử và các nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch ít nhiều có cảm tình với đạo Phật. Họ đã có, đang có và sẽ có ngày một đông hơn cùng với sự phát triển khẳng định sức sống đích thực của Phật Giáo Việt Nam hiện đại, Tất nhiên là những người làm công việc sáng tác luôn có tinh thần cầu tiến, ham tìm tòi, phát hiện, khám phá v.v…. Cho nên, Phật Giáo, với những vùng đề tài hầu như còn bỏ ngõ, sẽ là những mời gọi đầy lôi cuốn, hấp dẫn. Chúng ta đã có một Nguyễn Trọng Thuật (1883-1940) với Cô Con Gái Phật Hái Dâu viết về cuộc đời của Ỷ Lan Nguyên Phi đời Lý; một Đoàn Trung Còn trong cố gắng dùng thơ lục bát để diễn thơ tác phẩm The Light of Asia của S.E. Arnold thành Ánh Sáng Á Châu; một Lê Văn Siêu với vở kịch Quốc Sư Vạn Hạnh; một Võ Đình Cường với Ánh Đạo Vàng, Thử Hòa Điệu Sống, Suối Từ - Mùa Gặt; có một Phạm Thiên Thư với Đoạn Trường Vô Thanh, với nỗ lực muốn thi hóa một số kinh Phật tiêu biểu v.v…. Đó là những tham khảo cần thiết cho những người sáng tác đi sau. Nhìn chung, cái mà cả hai phía đều cần, phía Phật Giáo Việt Nam và phía những người làm công việc sáng tác, chính là thời gian và hoàn cảnh thuận lợi. Nhưng xét cho cùng thì yếu tố quyết định vẫn ở nơi con người, những con người có trình độ và đức độ biết làm chủ thời gian và hoàn cảnh. Chúng tôi, với những hiểu biết và tin tưởng từ quá khứ, chúng tôi xin thành tâm cầu nguyện cho Phật Giáo Việt Nam đã và sẽ sản sinh ra nhiều những con người như thế. Mùa Vu Lan 96 Mục lục | Dẫn Nhập | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 1 8 | 19 | |
Vào mạng: 1-12-2004 |