Hôm qua, chúng ta đề cập kệ ngôn bhāvanā
anuyūtassa bikkhāve bikkhuno vihārato, mang hàm ý “bằng sự vận
dụng ba loại Tinh Tấn, Tinh Tấn Khởi Động, Tinh Tấn Khai Triển, và
Tinh Tấn Kiên Trì, để giữ chánh niệm trong tất cả bốn oai nghi đi,
đúng, nằm, ngồi.” Trong thực hành, đó là sự vận dụng sức mạnh của
tỉnh giác, tinh cần, và năng động để giữ chánh niệm trong tất cả bốn
oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, chánh niệm trong tất cả những gì xảy ra
nơi lục căn, cũng như chánh niệm trong tất cả sinh hoạt hàng ngày, một
cách tỉ mỉ, kể cả khi nhắm hay mở mắt, trong suốt từ lúc thức dậy cho
đến khi đi ngủ.
Thực tập chánh niệm như vậy được gọi là Tỳ Khưu. “Bikkhuno”,
là người có khả năng hành thiền để đạt mục tiêu giải thoát. Danh nghĩa
“Tỳ Khưư” không phải chỉ gọi suông. Tỳ Khưu được hiểu bằng hai ý
nghĩa: (1) người sợ hãi luân hồi (2) người diệt tận phiền não.
Khi hành thiền, bạn thấy sự tuôn chảy liên tục
không ngừng nghỉ của các hiện tượng tâm và vật chất. Vì thấy như vậy,
nên phát sinh sự sợ hãi. Bạn hiểu rằng, dù làm điều thiện hay ác, đều
đưa tới hậu quả là sự tuôn chảy không ngừng nghỉ này. Chính sự tuôn
chảy không ngừng nghỉ này mới hình thành tâm và vật chất mới, hay tạo
điều kiện tái sinh, làm cho bạn có một thân tâm mới, để tiếp tục trở
thành đối tượng của già, bệnh, chết. Hiểu như vậy nên bạn sợ hãi. Sợ
hãi tạo nghiệp ngay trong kiếp hiện tại.
Bạn trở nên sợ hãi bất thiện nghiệp qua thân, khẩu,
ý. “Duccarita”, là sự tạo nghiệp bất thiện. Có mười bất thiên
nghiệp: ba bất thiện nghiệp qua thân như
sát sinh, trộm cắp, tà hạnh, bốn bất thiện nghiệp
qua khẩu như nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời dữ, nói lời vô ích, và
ba bất thiện nghiệp qua tư tưởng như mang lý tưởng chiếm đoạt, hãm
hại, và tà kiến về nhân quả. Tà kiến nhân quả gồm hai loại: (1) không
tin nhân tốt quả tốt, nhân xấu quả xấu, và (2) không tin có quả, chết
là chấm dứt.
Vì hiểu thế nào là ác nghiệp, nên có sự sợ hãi
không muốn phạm ác nghiệp. Người Tỳ Khưu là người sợ hãi ác nghiệp, vì
ác nghiệp đưa tới hậu quả xấu. Tuy nhiên, hậu quả thuộc về tương lai
chưa xảy ra, nên không đáng sợ bằng tạo nguyên nhân trong hiện tại. Do
đó, sợ hãi tạo điều ác trong hiện tại, quan trọng hơn sợ hãi quả ác
trong tương lai. Hiểu như vậy nên tránh xa không làm điều ác, cố gắng
giữ giới, thu thúc thân khẩu ý. Đây là sự hỗ thẹn tội lỗi, hi ri.
Sự hỗ thẹn tội lỗi dẫn đến sự sợ hãi bị bậc trí nhân, hay xã hội
chê trách, là sự ghê sợ tội lỗi, otappa. Chính hai tâm sở thiện
lành hỗ thẹn tội lỗi, và ghê sợ tội lỗi tạo sức mạnh cho ý chí giữ
giới. Đây là hai pháp trắng, pháp chống lại ác nghiệp, pháp mang đặc
tính không tiếp nhận ác nghiệp, tương tự như đặc tính không hấp thụ
nhiệt của màu trắng. Vì không tạo ác nghiệp nên bạn sẽ không bị khổ.
Theo ý nghĩa này, hỗ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi còn được gọi là
pháp hạnh phúc, sukha-dhamma. Ngoải ra, do ảnh hưởng sức mạnh
của hỗ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi, bạn bảo vệ mình không tạo ác
nghiệp, nên thiện pháp này còn được gọi, “người bảo vệ thế giới”,
lokapalā. Bao lâu bạn bảo vệ được mình thì bấy lâu thế giới
xung quanh bạn cũng được bảo vệ. Ảnh hưởng của hai thiện pháp hỗ thẹn
tội lỗi và ghê sợ tội lỗi còn giúp cho phẩm giá bạn sáng ngời, nên còn
được gọi “pháp sáng ", deva-dhamma.
Thực hành thiền Tứ Niệm Xứ giúp chấm dứt nguyên
nhân gây đau khổ. Hiệu quả của pháp tu này là khả năng diệt tận phiền
não. Do phiền não nên có đau khổ. Không còn phiền não nên không còn
đau khổ. Do đó, pháp thiền Tứ Niệm Xứ làm chấm dứt nguyên nhân khổ.
Bạn nên tin tưởng vào lợi ích của sự thực hành Tứ Niệm Xứ. Thực hành
pháp này tạo cho bạn tự thắng. Do tự bảo vệ mình nên bảo vệ được người
khác. Xã hội nhờ vậy được thanh bình. Nếu bạn có ý định tự thắng để
bảo vệ mình, giữ không làm điều tội lỗi, bạn sẽ quyết chí tinh tấn tu
tập để diệt trừ phiền não, diệt trừ kẻ nội thù của bạn. Giống như
chiến sĩ ngoài mặt trận, luôn luôn tỉnh giác, cẩn thận, năng động. Là
hành giả cũng phải như vậy. Bạn luôn luôn cẩn thận giữ chánh niệm
trong bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi, trong các hiện tượng sinh khởi
nơi lục căn, và trong các sinh hoạt, sao cho ô nhiễm không tấn công
được tâm bạn. Chánh niệm giúp cho bạn tự bảo vệ không làm điều sai
trái, nên bạn bảo vệ được người khác.
Nếu không tu tập giữ chánh niệm, thì dù cho Tỳ Khưu
hay cư sĩ cũng đều bị phiền não chế ngự. Tâm bị xâm chiếm bởi ba loại
phiền não thô, trung và tế, hay phiền não tác động, phiền não tư
tưởng, và phiền não ngủ ngầm. Ngược lại, nếu tu tập, thì dù Tỳ Khưu
hay Cư Sĩ cũng đều chiến thắng được phiền não, không bị chúng chiếm
thượng phong.
Khi hạ quyết tâm giữ giới, thì dù trong hoàn cảnh nào cũng không phạm
giới. Cũng như cho dù không có hoàn cảnh đưa đến sự phá giới, bạn vẫn
luôn luôn có ý định giữ giới. Nhờ sự quyết tâm giữ giới nên bạn khắc
phục được phiền não tác động, loại phiền não tạo nên hành động và lời
nói bất thiện. Theo định nghĩa Tỳ Khưu, kilese pahinetiti bikkhu
là người diệt trừ phiền não. Và do giữ giới nên có giới hạnh trong
sạch. Dựa theo ý nghĩa này, người Tỳ Khưu được xem là Tỳ Khưu có Giới,
hay Chánh Hạnh Tỳ Khưu, silā-bikkhu. Nếu là cư sĩ giữ giới
trong sạch, cũng được gọi là Chánh Hạnh Cư Sĩ.
Khi hành thiền Tứ Niệm Xứ, bạn vận dụng tinh tấn, duy trì chánh niệm,
phát triển được tâm định. Tâm bạn được chánh niệm bảo vệ không bị ô
nhiễm xâm nhập. Chánh niệm giúp ngăn chận được phiền não. Nếu có xuất
hiện trong tâm, bạn dùng chánh niệm diệt trừ phiền não khi chúng vừa
sinh khởi. Do đó, chánh niệm giúp ngăn chân và diệt tận phiền não tư
tưởng. Nhờ sức mạnh của Chánh Tinh Tấn, Chánh niệm, Chánh Định trong
Định Học, bạn giữ tâm được trong sạch. Do vậy, bạn được gọi là Tỳ Khưu
có Định, hay Chánh Định Tỳ Khưu, samādhi bikkhu.
Tiếp tục duy trì chánh niệm, tâm định phát triển mạnh hơn giúp cho bạn
thấy được bản chất của hiện tượng, phát triển được tuệ minh sát, và
cuối cùng thành đạt thánh tuệ. Nhờ trí tuệ, bạn tận diệt phiền não ngủ
ngầm. Do vậy, bạn được gọi là Tỳ Khưu có Tuệ, hay Trí Tuệ Tỳ Khưu,
paññā-bikkhu.
Thực hành Tam Học Giới-Định-Huệ sẽ giúp bạn tận diệt được ba loại
phiền não: phiền não tác động, phiền não tư tưởng, và phiền não ngủ
ngầm. Giới học, tận diệt phiền não tác động, Định học, tận diệt phiền
não tư tưởng, và Tuệ học, tận diệt phiền não ngủ ngầm.
Nếu không tu tập Giới-Định-Huệ, dù cho là Tỳ Khưu, Cư Sĩ hay thiền
sinh, cũng chỉ là hư danh.
Khi có được hai tâm sở thiện, hỗ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi, bạn
có sự thu thúc không làm bất thiện nghiệp, và thực hành Tam Học
Giới-Định-Huệ, tận diệt được ba loại phiền não. Nếu có thực hành
Giới-Định-Huệ, bạn mới là Tỳ Khưu có tu hành, hay là Cư Sĩ, Thiền Sinh
có tu hành. Như thế, bạn mới xứng gọi là Tỳ Khưu, Cư Sĩ, Thiền sinh
theo đúng nghĩa.
Tỳ Khưu, Cư Sĩ hay Thiền Sinh nêu tu tập Giới-Định-Huệ viên mãn, sẽ
trở nên người có nhân cách, tâm tư, và thánh trí xứng đáng là người
cao thượng hơn người bình thường. Đây cũng là ý nghĩa sâu xa của kệ
ngôn, “bhāvanā anuyūtassa bikkhāve bikkhuno vihārato”.
Trong kinh điển thường hay dùng “Này chư Tỳ Khưu..” nên có người nghĩ
Đức Phật thường quan tâm đến Tỳ Khưu, mà không thấy nhắc đến Tỳ Khưu
Ni, Sa Di, Sa Di Ni, hay Thiện Nam, Tín Nữ, hay chư thiên hoặc Phạm
Thiên. Thời đó, vì Tỳ Khưu là những người ngồi hàng đầu, nên khi giảng
pháp, Đức Phật thường hay nhắc đến Tỳ Khưu. Theo Chú Giải, khi Đức
Phật giảng pháp, ngài quan tâm đến tất cả chúng sanh, chứ không chỉ
quan tâm đến một nhóm người riêng biệt nào. Khi Ngài giảng pháp, tất
cả mọi người đều hưởng được lợi ích.
Giáo Pháp của Đức Phật không thể chỉ lãnh hội bằng đức tin suông không
trí tuệ. Nếu tu tập theo Giáo Pháp, phẩm giá của cá nhân được nâng
cao, nhờ đó đem an vui hạnh phúc cho mọi người xung quanh. Tuy nhiên,
sự thành đạt này không thể tạo bằng phương tiện thế tục như kinh tế,
xã hội, hay chánh trị, v.v..., mà chỉ chính bằng sự tu tập thực sự của
cá nhân. Giáo Pháp giúp cá nhân tu tập để đạt được nhân cách, tâm tư
xứng đáng, cùng thánh trí, là phẩm tính của người cao thượng.
Không phân biệt tôn giáo, ai cũng có thể thực hành Tam
Học, Giới-Định-Huệ. Bất kỳ ai, nếu tu tập Tam Học, diệt tận được phiền
não, đều được gọi là Tỳ Khưu hay thiền sinh. Theo kinh điển,
bhāvanāya yutta payuttā taya yogi, mang hàm ý “Thiền Sinh”, có
nghĩa người tu thiền, có minh sát tuệ, và thực hành ba loại Tinh Tấn:
Tinh Tấn Khởi Động, Tinh Tấn Khai Triển, và Tinh Tấn Kiên Trì. Theo
nội dung này, Tỳ Khưu và Thiền Sinh đều giống nhau. Cả hai đều là
người tu tập Giới-Định-Huệ, để diệt tận phiền não.
Do đó, bất kỳ ai tu tập Giới-Định-Huệ, đều xứng danh
là Tỳ Khưu hay Thiền Sinh. Tỳ Khưu là thiền sinh; thiền sinh là Tỳ
Khưu. Dù tên gọi có khác, nhưng ý nghĩa không khác nhau.