Năm Chướng Ngại
Tâm
Tâm con người luôn luôn bị ảnh hưởng bởi ba loại
phiền não: (1) phiền não tác động (2) phiền não tư tưởng và (3) phiền
não ngủ ngầm.
(1) phiền não tác động xuất hiện qua hành động và
lời nói, được diệt tận bằng Giới Học,
(2) phiền não tư tưởng xuất hiện dưới ý nghĩ muốn
chiếm đoạt, mưu hại .. được diệt tận bằng Định Học.
(3) phiền não ngủ ngầm ẩn tàng trong tâm con người
từ nhiều kiếp là gốc rễ của phiền não tư tưởng và phiền não tác động.
Loại phiền não này chỉ được diệt tận bằng Tuệ Học.
Ba loại phiền não này được diệt tận bằng Tam Học:
Giới-Định-Tuệ.
Giới học loại bỏ được phiền não tác động nhờ sự giữ
giới. Định học chế ngự được phiền não tư tưởng nhờ thực hành
thiền định. Tuệ học diệt tận được phiền não ngủ ngầm nhờ Minh Sát tuệ
và Thánh Tuệ.
Do sự giữ gìn thân khẩu và nhờ tạo thành thói quen
không làm điều bất thiện, hành động và lời nói trở nên hòa nhã và dễ
mến. Thiện nghiệp tạo nên bởi giới hạnh trong sạch có năng lực rất lớn
và có hiệu quả hơn so với thiện nghiệp tạo nên từ sự bố thí. Nhờ giới
hạnh, bạn không bị khổ vì nuông chịu lòng ham muốn làm ảnh hưởng đến
thân khẩu.
Tuy nhiên, đối với phiền não tư tưởng xuất hiện qua
ý nghĩ không thể chế ngự bằng giới vì bạn không thể bằng cách đơn giản
nói là “Tôi không ham muốn”. Loại phiền não xuất hiện trong tâm này
chỉ được chế ngự bằng sự thực hành chánh niệm. Phiền não tư tưởng xuất
hiện dưới ý nghĩ chiếm đoạt, tà hạnh khi có sự tham lam thái quá, hay
ý nghĩ mưu hại, muốn giết, khi có sự sân hận quá mức, hoặc có sự cố ý
dối trá để hãm hại hay lường gạt. Tất cả các tư tưởng bất thiện nảy
phát xuất từ tham lam, sân hận và si mê. Do đó, phiền não tư tưởng
không thể chế ngự bằng phương cách thông thường. Chỉ với chánh niệm
mới có khả năng bảo vệ được tâm. Chánh niệm chỉ có được qua sự tu tập
bằng sự tham thiền.
Khi tâm chưa phát triển, tâm mang đầy ô nhiễm. Tâm
không bị kiểm soát, buông lung chạy theo những gì ưa ghét, như khi tâm
ước muốn thấy vật đẹp hay nghe âm thanh hay, sự ham thích thái quá
khiến phát sinh ý muốn chiếm đoạt, hay trở nên ích kỷ. Một tâm như vậy
được xem là chưa phát triển. Tâm còn mang những loại tâm sở thấp kém
khác như dã dượi buồn ngủ, không năng lực, hối tiếc, giao động, hay
hoài nghi. Chúng ta không muốn có một cái tâm không trong sạch chất
chứa các loại tâm thấp kém, bất thiện như vậy. Các loại tâm này tự
phát sinh khi tâm ta buông lung, thiếu kiểm soát. Với chánh niệm bảo
vệ cho tâm không bị các loại tâm bất thiện chi phối, nếu chúng xuất
hiện, bạn ghi nhận và khắc phục được chúng bằng chánh niệm. Tâm của
người thường không biết thiền tập thường bị chế ngự bằng các tâm bất
thiện. Các tâm bất thiện này cỏn được xem là chướng ngại cho sự phát
triển trí tuệ. Chúng ngăn trở không cho trí tuệ phát triển, hoặc làm
suy yếu trí tuệ khi mới vừa sinh trưởng.
Các chướng ngại như ái dục, sân hận, dã dượi buồn
ngủ, trạo hối, và hoài nghi làm cản trở không cho trí tuệ phát sinh.
Một khi chúng xâm nhập vào tâm, chúng làm cho tâm suy yếu như cơ thể
suy yếu khi bị vi trùng xâm nhập. Muốn không bị vi trùng xâm nhập, cần
phải phòng ngừa. Nếu bị nhiễm bệnh, cần phải dùng phương pháp điều trị
hiệu quả. Cũng giống như vậy, tâm bị suy yếu khi bị các chướng ngại
xâm nhập. Cần phải dùng chánh niệm để đề kháng lại các chướng ngại
này. Muốn cho tâm khỏe mạnh cần phải có phương pháp phòng ngừa. Đó là
sự thực hành chánh niệm. Nếu không tu tập bằng thiền minh sát, tâm
không bao giờ được khỏe mạnh để có khả năng chống lại các chướng ngại.
Khi tâm tiếp xúc vật gì đó, tâm sẽ bị các chướng ngại khống chế ngay
lập tức giống như một người yếu đánh vật với một người mạnh sẽ luôn
luôn thua người mạnh. Tâm cần phải tu tập phát triển sức mạnh để có
khả năng chống trả lại các chướng ngại. Nếu không hành thiền sẽ không
thể làm tâm phát triển. Nếu không thực hành thiền định hay thiền Minh
Sát, hay thiền Tứ Niệm Xứ, tâm sẽ vĩnh viễn suy yếu.
Do đó cần phải phát triển tâm để làm cho tâm có khả
năng đề kháng các ô nhiễm. Danh từ bhāvanā, trong aquiditi
bhāvanā, là sự phát triển tâm thiện phi thường, atikusala,
một tâm thiện vượt trội tâm thiện thông thường. Bố thí vật chất bằng
tâm từ bi là loại thiện nghiệp thông thường, một công việc xã hội mà
ai cũng có thể làm được, nên bố thí không thể được coi là loại thiện
nghiệp phi thường. Giữ gìn giới hạnh, với tâm từ bi không muốn làm hại
người khác, không muốn gây đau khổ cho người khác, đồng thời bảo vệ
được mình và bảo vệ cho người khác 1à một loại thiện nghiệp có năng
lực mạnh mẽ hơn thiện nghiệp do bố thí. Giữ giới chưa phải là loại
thiện nghiệp phi thường vì không có liên quan với sự phát triển tâm.
Phát triển tâm khó khăn hơn đòi hỏi can đảm, nỗ lực mới tu sửa làm cho
tâm được trong sạch. Do đó sự phát triển tâm được xem là thiện nghiệp
phi thường.
Giới học chỉ có khả năng chế ngự tham sân si biểu
hiện một cách thái quá, như khi quá tham làm phát sinh sự ích kỷ,
khiến cho bạn mất sự nhẫn nhục, tha thứ, bỏ qua, hoặc khi quá sân cũng
làm cho mê muội gây nên những hành động sai trái. Nhưng đối với loại
tham sân si thông thường không thể chế ngự bằng giới
Tham thiền là phương pháp hiệu quả nhất để chống
lại loại tham sân si thông thường, loại ô nhiễm thường chiếm
ngự tâm. Có hai phương pháp phát triển tâm: thiên vắng lặng,
samatha, và thiền minh sát.
Thiền vắng lặng làm cho tâm an tịnh thoát khỏi ảnh
hưởng của tham sân si. Thiền Minh Sát phát triển được sự hiểu
biết về tâm và vật chất cùng ba đặc tướng vô thường, bất toại nguyện
và vô ngã. Sự hiểu biết này làm tâm thoát khỏi tham sân si.
Khi tâm chưa được tu tập, tâm thường bị giao động
bởi ái dục như thích thấy vật đẹp, nghe âm thanh hay, là điều tự nhiên
của con người sống trong cõi dục giới. Sân hận phát sinh khi kinh
nghiệm điều không ưa thích. Dã dượi buồn ngủ làm cho tâm buông xuôi
chiều tinh tấn, hoặc nếu ráng cố gắng chú tâm thì mau cảm thấy mệt
mõi, đặc biệt thường phát sinh trong khi hành thiền. Phóng dật làm cho
tâm không ở yên trên đối tượng đang quan sát, tâm trượt khỏi đối
tượng, phóng chạy đây đó. Hối tiếc điều tội lỗi đã làm trong quá khứ,
hay điều tốt chưa thực hiện được, làm cho tâm bất an giao động không ở
yên trên đề mục. Hoài nghi không tin nơi pháp hành, nghi ngờ nhân quả,
phân vân không biết đúng sai. Các loại tâm bất thiện này là những
chướng ngại cho tâm, đối nghịch lại các loại tâm thiện phát sinh do sự
tu tập cao thượng hơn. Chúng là kẻ thù bên trong chúng ta. Sự định tâm
phát triển qua sự tham thiền có khả năng chế ngự được các chướng ngại
và làm cho tâm an tịnh. Thiền vắng lặng và thiền định giúp chúng ta
đạt được mục đích này. Đây là loại thiền thuộc thế tục, theo đó hành
giả gom tâm tập trung vào đề mục thuộc tục đế. Thiền tâm từ thuộc về
loại thiền thế tục. Hành giả nghĩ về người thân của mình, hướng tâm về
người này, đặt sự chú tâm vào ý muốn mong cho người này được an vui
hạnh phúc. Sự hướng tâm về người được rãi tâm từ làm phát triển chi
thiền Tầm, vitakka, một loại tâm thiện có hiệu quả làm cho tâm
an tịnh do sự hướng tâm trên đề mục được duy trì lâu dài. Nhờ giữ tâm
an trụ được lâu dài, tâm thoát khỏi các chướng ngại như ái dục, sân
hận, v.v... Một tâm thiện khác là chi thiền Tứ, viccāra, cũng
được phát triển, khi tâm chà sát trên đề mục. Hai chi thiền này làm
cho tâm tạm thời được an tịnh, đây là sự thực hành thiền vắng lặng,
samatha bhāvanā. Khi tâm an tịnh, tham sân vắng mặt, chỉ có tâm vô
tham và vô sân là hai loại tâm thiện phi thường. Sự an tịnh làm cho
hành giả cảm thấy phấn khởi, vui thích, phát sinh hỉ, piti, qua
nhiều giai đoạn. Hành giả cảm thấy hạnh phúc, an lạc. Thiền vắng lặng,
samatha bhāvanā, làm cho tâm an tịnh khi tâm vắng bóng phiền
não. Thiền định, samādhi bhāvanā, làm cho tâm an trụ chìm sâu
trong đề mục.
Hành thiền vắng lặng hay thiền định đưa tâm phát
triển qua bốn tầng thiền. Khi đến tứ thiền, tâm ở trạng thái rất an
tịnh.
Tâm không bị ảnh hưởng bởi tham sân cũng như các
tâm chướng ngại khác. Thực hành thiền vắng lặng làm cho tâm an tịnh.
Nếu biết hành thiền vắng lặng, bạn cũng biết hành thiền định. Hai loại
thiền này thuộc về loại thiền tục thế.