Bốn Pháp Quán Niệm
Đối với thiền sinh mới, khi theo dõi phồng xẹp, nhận
thấy trong sự phồng có các cảm giác chuyển động, căng, cứng, và trong
sự xẹp, có các cảm giác chuyển động, dãn, nhẹ. Các cảm giác này là đặc
tánh riêng của yếu tố gió. Khi chú tâm vào chuyển động của bụng, bạn
nhận thấy khi thở vào, bụng phồng, bạn ghi nhận hay niệm “phồng”; khi
thở ra, bụng xẹp, bạn ghi nhận hay niệm “xẹp”. Sự chuyển động, căng
dãn được nhận biết trong khi quán sát phồng xẹp là biểu hiện của yếu
tố gió. Gió là một trong bốn nguyên tố chính hay Tứ Đại gồm đất, nước,
gió và lửa. Sự quán sát Tứ Đại thuộc về niệm thân, kayānupassāna.
Phạn ngữ kayā dùng để chỉ nhóm sắc pháp bao gồm nhiều loại
vật chất khác nhau như: Đất biểu hiện qua sự nặng nhẹ, Nước biểu hiện
qua sự dính chặt, ướt, Lửa biểu hiện qua sự nóng lạnh. Gió biểu hiện
qua sự chuyển động, căng dãn. Trong Tứ Đại, gió biểu hiện rõ nhất.
Trong nhóm vật chất còn bao gồm phần nhạy ứng của mũi, mắt, tai v.v.
trong sự ngửi, thấy, nghe, v.v.
Trong lúc quán sát phồng xẹp, thiền sinh ghi nhận sự
căng dãn đồng thời cũng nhận biết được các cảm giác khác nhưng có thể
bỏ qua vì chúng không vượt trội hơn sự phồng xẹp. Thiền sinh giữ sự
chú tâm các hiện tượng sinh khởi nơi thân bằng chánh niệm gọi là niệm
thân. Các hiện tượng thuộc nhóm vật chất diễn ra lập đi lập lại nhiều
lần và thay đổi không ngừng. Phạn ngữ, nupassanā, có nghĩa thấy
nhiều lần, lập đi lập lại.
Trong pháp niệm thân cũng có liên hệ đến danh từ
“satipaṭṭhāna”
gồm “sati” và “paṭṭhāna”.
Sati, có nghĩa là chánh niệm, hay ghi nhớ.
Upa, chặt chẽ. Paṭṭhāna,
có nghĩa thiết lập. Tóm tắt, satipaṭṭhāna,
có nghĩa sự thiết lập chánh niệm chặt chẽ.
Trong thực hành, satipaṭṭhāna,
có nghĩa “tâm ghi nhận gắn chặt vào đề
mục”, hay “chánh niệm (được thiết lập) chặt chẽ nơi đề mục”.
Đây không phải là loại chánh niệm hời hợt, thông
thường. Khi quán sát đề mục, chánh niệm được thiết lập liên tục và gắn
chặt nơi đề mục, không trượt khỏi đề mục. Thay vì bỏ quên đề mục,
chánh niệm bắt giữ đề mục, ghi nhớ đề mục liên tục. Thực hành theo
cách như vậy chính là sự “tu niệm”.
Trong kinh Đại Niệm Xứ, Phẩm Quán Thân,
kāyekāyānupassi, sắc pháp, kāye, biểu hiện rõ rệt nhất,
vượt trội nhất. Quán sát sắc pháp là sắc pháp, hay quán thân trên
thân, kāyekāyānupassi, trong đó kāye, là đề mục quán
sát, và anupassati, là phương pháp quán sát. Nói cách khác, khi
thấy đề mục thuộc vật chất, hãy niệm theo vật chất, đừng niệm tâm hay
cảm giác. Kinh nghiệm thế nào, hãy ghi nhận đúng như vậy. Thực hành
theo Vi Diệu Pháp, khi có đề mục thuộc về sắc pháp, như sự căng niệm
“căng”, dãn niệm “dãn”, cứng niệm “cứng”, mềm niệm “mềm”, v.v...đừng
ghi nhận như một cảm thọ. Khi kinh nghiệm như thế nào, hãy ghi nhận
đúng như thế ấy. Khi kinh nghiệm vật chất hay sắc pháp, hãy ghi nhận
là vật chất. Đây là phương pháp dùng đặc tính riêng của đề mục, để
niệm trong khi quán sát đề mục. Phương pháp thực hành này không phải
dễ đối với mọi người.
Kinh Tứ Niệm Xứ chỉ dẫn cách niệm đơn giản hơn, ai
cũng có thể hiểu được. Khi thấy sự phồng nơi bụng xuất hiện, ghi nhận
phồng, hay khi sự xẹp nơi bụng xuất hiện, ghi nhận xẹp. Bạn có thể
dùng từ ngữ thông thường, đơn giản để ghi nhận hiện tượng, không cần
suy nghĩ. Chẳng hạn khi thấy phồng, ghi nhận phồng, hay khi thấy xẹp,
ghi nhận xẹp, dùng chữ thông thường theo tiếng nói riêng của mỗi xứ.
Khi ngồi, niệm ngồi; khi đứng, niệm đứng. Khi kinh hành, dở chân, ghi
nhận dở; khi đưa chân tới, ghi nhận đưa v.v..., hay lúc nhắm mắt, ghi
nhận nhắm, lúc mở mắt, ghi nhận mở. Hãy ghi nhận, và niệm bằng
từ ngữ thông thường. Thực hành một cách đơn giản sao cho từ thiếu nhi
bảy tuổi, cho đến người trung niên, hay lão niên đều hiểu được. Đây là
cách thực hành theo kinh điển, trong đó Đức Phật dùng lối chỉ dẫn đơn
giản để ai cũng hiểu được.
Lúc mới thực tập, thấy bụng phồng, bạn niệm phồng;
thấy bụng xẹp niệm xẹp. Sự quán sát như vậy còn mang hình tướng, hay
vẫn còn thấy tính chất tục đế của đề mục. Bạn còn thấy hình trạng của
bụng, và tư thế, ākarā, bụng đang phồng, xẹp, hay đứng yên. Dần
dà, bạn thấy được đặc tánh riêng, sabhāva lakkhana, của Tứ Đại
qua cảm giác cứng, mềm, nặng, nhẹ, nóng, lạnh, v.v.. Tương tự như
trong sự ăn, bạn thấy hình ảnh của món ăn và biết được vị của món ăn
như mặn ngọt, chua chát, v.v... là đặc tánh riêng, sabhāva
lakkhana. Trong sự quán sát bụng, thấy hình tướng và tư thế của
bụng, không phải là thấy bản chất thực, hay chân đế, paramattha,
của đề mục. Thấy được đặc tính cứng mềm, căng dãn, chuyển động,
v.v...mới là sự biểu hiện đặc tính riêng, sabhāva lakkhana. Do
đó khi bạn quán sát phồng xẹp, bạn thấy điều gì? Thấy hình dáng của
phồng xẹp, hay tư thế bụng, hoặc đi xa hơn, bạn thấy được đặc tính
riêng như đất, nước, gió, và lửa v.v.. Do đó, khi quán sát đề
mục, bạn thấy cả hai tục đế lẫn chân đế.
Trong kinh Đại Niệm Xứ, câu kinh kāyekāyānupassi
viharati ātāpi sampājāno satimā. Chữ ātāpi, gốc từ
ātāpa, có nghĩa “làm khô bợn nhơ phiền não”, thường được phiên
dịch là “tinh cần” trong thực hành. Có nghĩa trong khi quán sát đề
mục, bạn cần phải có nỗ lực tinh cần, hay tinh tấn, tỉnh giác, và năng
động, tức “nỗ lực tinh cần”chứ không quán sát một cách dễ duôi, buông
lung, lười biếng, cẩu thả. Người có phẩm tính ātāpi, “nỗ lực
tinh cần” là người làm khô bợn nhơ của phiền não. Do đó bạn cần thực
hành với tinh tấn, tỉnh giác, và năng động mới đáp ứng được với tinh
thần của chữ anupassanā, ghi nhận liên tục sao cho chánh niệm
được thiết lập chặt chẽ trên đề mục quán sát. Đây không phải loại
chánh niệm thông thường, nhưng là loại chánh niệm gắn chặt theo sát,
không vuột mất đề mục, phản ảnh ý nghĩa quán sát, anupassanā.
Khi chánh niệm được duy trì chặt chẽ trên đề mục, làm
hình thành sự định tâm, tâm an trụ trên đề mục, tạo nên sự định tĩnh,
samatha. Sự định tĩnh hình
thành vì với sự duy trì chánh niệm bằng nỗ lực tinh
cần, chánh niệm không rời khỏi đề mục, nên không có sự giao động. Tâm
trở nên an tịnh vì vắng bóng phiền não, theo như theo ý nghĩa
satimā.
Sự định tâm càng sâu sẽ làm tăng sự hiểu biết về thực
tánh của đề mục. Chẳng hạn, khi quán sát sự phồng, bạn sẽ thấy đặc
tính riêng biểu hiện qua sự căng, cứng, hay chuyển động. Cũng như
trong sự xẹp, bạn sẽ thấy sự dãn, mềm, hay chuyển động. Như vậy, bạn
có sự hay biết hoàn toàn về đề mục. Bao lâu bạn có được sự hướng tâm
về đề mục và duy trì chánh niệm liên tục trên đề mục, bạn sẽ có sự
hiểu biết về đề mục. Sự hiểu biết này không phải bằng sách vở, nhưng
là sự hiểu biết từ kinh nghiệm bản thân. Bạn hiểu sự thật về đề mục
như bản chất của nó là vậy–sự cứng, mềm, nóng, lạnh v.v.., không thể
sai lầm. Bạn hoàn toàn ý thức về đề mục. Nếu thực hành tinh cần
sẽ thấy đúng như vậy. Phạn ngữ sampajañña, là ý thức hoàn toàn
(tỉnh giác). Trong sự phồng, bạn thấy rằng không chỉ là một sự phồng
độc nhất, mà là có nhiều sự phồng nhỏ, hay ở dạng gợn sóng li ti, hay
chuyển động nhấp nhô một cách vi tế, theo như thiền sinh diễn tả khi
trình pháp. Đây là sự hiểu biết hoàn toàn từ kinh nghiệm thực hành,
không phải từ sách vở. Một sự hiểu biết biện biệt phi thường,
pajñña. Chữ sampajñña diễn tả sự hay biết hoàn toàn, hàm ý
sự hiểu biết rõ ràng, thấu đáo. Đây là ý nghĩa thiết yếu của
anupassanā.
Khi chánh niệm được duy trì trong sự quán sát đề mục,
tâm định phát triển, tạo nên sự hiểu biết thực tánh của đề mục, tâm
tạm thời vắng bóng phiền não
như tham, sân, buồn rầu, lo âu, chiếm đoạt, mưu hại,
ghen ghét... Phiền não được ngăn chận không xâm nhập tâm. Do
đó, trong lúc quán sát đề mục, tâm bạn tạm thời loại trừ được phiền
não. Đây là lợi ích tức thời của sự tu tập.
Tiếp tục quán sát đề mục, bạn thấy rằng sự cứng, mềm,
căng, dãn, nóng, lạnh v.v... không tồn tại mãi, chúng sinh khởi rồi
biến đi, hết hiện tượng này sang hiện tượng khác. Tất cả đều có bản
chất chung hết sinh rồi diệt. Đây là bản chất vô thường của sắc pháp.
Hiểu được bản chất vô thường, bạn buông bỏ ngã mạn. Thấy sự đến đi,
sinh diệt liên tục của các pháp, bạn thấy bản chất bất toại nguyện của
các pháp, bạn không còn coi chúng là đáng ưa, đáng vui thích, như
trước đây bạn có sự luyến ái, dính mắc vào. Bây giờ, thấy chúng chỉ là
khổ, bạn buông bỏ, không còn dính mắc, không còn tham ái. Hiểu
rằng tất cả chỉ là tiến trình sinh diệt, không thực chất, bạn loại bỏ
phiền não dục thủ, và tà kiến thủ, không còn chấp giữ dục ái và hữu
ái. Vì bạn thấy sự thật nên bạn có chánh kiến, không còn mang tà kiến
về các pháp. Bạn không còn vô minh nơi sự vật đang quán sát, cũng như
nơi sự vật không quán sát. Do đó, bằng sự tu tập, bạn phát triển và
tăng trưởng được các tâm thiện lành. Đây chính là ý nghĩa của phát
triển tâm, bhāvanā.
Do đó, qua thực hành sự quán sát thân nơi thân, bạn
phát triển được chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định và chánh kiến,
khắc phục phiền não và loại bỏ vô minh.
Trong khi quán sát phồng xẹp, hay các đề mục khác, đôi
khi bạn kinh nghiệm cảm giác dễ chịu, hay khó chịu nơi thân hay tâm,
hoặc cảm giác đau, nhức, ngứa, tê v.v...Bạn theo dõi, quán sát các cảm
giác này. Sự quán sát này được gọi là quán thọ trong thọ,
vedanānupassanā satipaṭṭhāna. Có lúc bạn chỉ có quán sát vào cảm
giác, mà không thấy nơi chốn phát sinh cảm giác. Bạn chỉ chánh niệm
theo dõi cảm giác mà không phát sinh ưa ghét. Tâm không dính mắc vào
cảm giác, nên vắng bóng tham sân.
Khi theo dõi cảm giác, có lúc chánh niệm yếu, hay thất
niệm, tâm phát sinh sự ưa thích đề mục, bạn hãy niệm “thích, thích”,
hay “ham muốn”..v.v..bạn thực hành sự quán tâm trên tâm,
cittānupassanā satipaṭṭhāna. Do chánh niệm kịp thời vào các trạng
thái ưa thích, nên tâm không còn ham muốn, ưa, ghét.
Ngoài ra, trong khi nghe, thấy, ngửi, ăn, đụng chạm,
có thể sinh khởi sự ưa ghét, hoặc sinh khởi dã dượi buồn ngủ, phóng
dật, hối tiếc, hay hoài nghi. Quán sát các hiện tượng này, được gọi là
quán pháp trên các pháp, dhammānupassanā satipaṭṭhāna.
Tóm lại, hành thiền Tứ Niệm Xứ là sự thực hành chánh
niệm, quán sát đề mục sinh khởi trong bốn lãnh vúc: thân, thọ, tâm và
pháp. Sự quán sát này đưa đến sự hiểu biết thực tánh của đề mục hay sự
hình thành tuệ minh sát. Bạn hiểu được bản chất vô thường, bất toại
nguyện và vô ngã của đề mục. Sự hiểu biết này có được nhờ chính bạn
kinh nghiệm khi quán sát đề mục. Bạn có sự tỉnh giác hoàn toàn, đúng
đắn, và cao tột. Bạn thành đạt trí tuệ trên đường tu tập mà không cần
phải mong ước. Và đây là sự thật không thể chối cãi được.