Chúng ta đã bàn qua hai loại hạnh phúc: hạnh phúc ngũ dục và hạnh phúc
phi ngũ dục. Hạnh phúc ngũ dục chứa đựng ái dục. Bản chất của ái dục
là tâm tham. Nếu không có tham ái sẽ không hình thành loại hạnh phúc
này. Vì chứa ái dục nên hạnh phúc ngũ dục là loại hạnh phúc mang phiền
não, không trong sạch. Do đó, hạnh phúc ngũ dục còn mang nhiều tên
khác như: hạnh phúc pha trộn, hạnh phúc tạp nhạp, và hạnh phúc bất
tịnh. Hạnh phúc phi ngũ dục là loại hạnh phúc không chứa ái dục. Hạnh
phúc phi ngũ dục còn mang nhiều tên khác như: hạnh phúc không pha
trộn, hạnh phúc thuần khiết, và hạnh phúc thanh cao. Hạnh phúc phi ngũ
dục được hình thành trong quá trình thanh lọc tâm. Bắt đầu từ sự giữ
giới, đến
sự hành thiền thực hành chánh niệm. Nhờ giữ chánh niệm liên tục vào
các hiện tượng sinh khởi qua lục căn, giúp bảo vệ tâm không bị phiền
não xâm nhập. Thu thúc lục căn được duy trì liên tục. Kết quả từ sự
giữ giới, duy trì chánh niệm, và thu thúc lục căn làm cho tâm được an
định, tạo nên loại hạnh phúc an tinh, thuộc loại hạnh phúc phi ngũ
dục, hạnh phúc thanh cao, hạnh phúc không pha trộn, không tạp nhạp.
Hôm nay chúng ta bàn tiếp loại hạnh phúc phi ngũ dục về hai phương
diện pháp học và pháp hành.
Khi chú tâm theo dõi phồng xẹp, bạn vận dụng tinh tấn, cố gắng hướng
tâm đến đề mục, giữ chánh niệm duy trì trên đề mục, trở nên gắn chặt
với đề mục, và liên tục chà sát đề mục. Kết quả này đạt được nhờ tinh
tấn và hai chi thiền Tầm và Tứ. Tầm giúp đưa tâm đến đề mục, và Tứ
giúp chà sát đề mục. Đồng thời cũng do kết quả của năng lực dũng mãnh
của sự tinh cần làm cho tâm trở nên năng động, linh hoạt và tỉnh giác.
Các sức mạnh này đẩy lui các tâm sở như ái dục, sân hận, dã dượi buồn
ngủ, v.v...làm cho tâm trở nên rạng rỡ và sáng ngời. Tâm an trụ trên
đề mục không còn phóng chạy nơi khác. Tâm giờ đây trở nên phi thường
không giống như tâm thông thường. Tâm không còn bị ảnh hưởng bởi các
chướng ngại như: ái dục, sân hận, dã dượi buồn ngủ, bất an hối tiếc,
và hoài nghi. Đây là kết quả của sự rèn luyện tâm, phát triển các tâm
thiện lành. Tâm trở nên cao thượng, phi thường. Trạng thái tâm an tịnh
tĩnh lặng này là loại hạnh phúc phi ngũ dục.
Hạnh phúc an tịnh tĩnh lặng do tâm vắng bóng phiền não. Hạnh phúc này
là kết quả tu tập theo pháp thiền Tứ Niệm Xứ “Nầy chư Tỳ Khưu, đây
là con đường độc nhất để thanh lọc (tâm) chúng sanh, chấm dứt lo
âu phiền muộn,uất ức than khóc, diệt khổ thân và khổ tâm,
đạt Thánh Đạo và chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ.” Kết quả
này do sự thực hành chánh niệm quán sát các hiện tượng vật chất sinh
khởi nơi thân, niệm thân hay quán thân trên thân, chánh niệm quán sát
các cảm giác, niệm thọ hay quán thọ trong thọ, chánh niệm quán sát các
hiện tượng thuộc về tâm, niệm tâm hay quán tâm trong tâm, chánh niệm
quán sát các hiện tượng qua lục căn, niệm pháp hay quán pháp trong các
pháp.
Tóm lại, hành giả phải chánh niệm tất cả các hiện tượng tâm và vật
chất ngay khi mới sinh khởi. Nhờ kết quả của tinh tấn và yếu tố Tầm,
tâm được giữ an trụ nơi đề mục từng thời điểm này sang thời điểm khác,
hình thành sát na định. Do vậy, tâm được an tịnh trong sạch, không
phiền não, không ô nhiễm trong từng thời điểm liên tục tạo nên hạnh
phúc an tịnh tĩnh lặng. Hành giả kinh nghiệm được hạnh phúc này trong
thiền tập. Đây là kết quả của sự rèn luyện tâm giúp cho tâm phát triển
lành mạnh, bhāvāna. Nhờ thiền tập, các tâm thiện được hình
thành và phát triển, tâm hành giả trở nên mạnh mẽ, phi thường,
adhicitta. Hạnh phúc hình thành từ loại tâm phi thường này gọi là
adhicitta sukha, thuộc loại hạnh phúc trong sạch thanh cao,
không pha trộn, avyāseka-sukha. Hạnh phúc do tâm thanh tịnh
trong sạch và loại hạnh phúc khác hẳn loại hạnh phúc ngũ dục chứa đựng
tham ái, mang bản chất không trong sạch. Tương tự như loại thức ăn có
nhiều gia vị, nhờ gia vị nên làm cho người ăn cảm thấy khoái khẩu. Bản
chất của ngũ dục không có gì thích thú, nhưng khi có sự tham ái làm
cho người thọ hưởng cảm thấy hạnh phúc. Hạnh phúc phi ngũ dục không
pha trộn phiền não, loại hạnh phúc trong sạch thanh cao.
Hạnh phúc phi ngũ dục hình thành do sự thu thúc lục căn, cùng sự thực
hành Tứ Niệm Xứ, chánh niệm không để phiền não xâm nhập vào tâm. Dù
không hành thiền, nhưng nếu có sự thu thúc kiểm soát lục căn cũng
tránh được ảnh hưởng của phiền não.
Vào thời Đức Phật, có một vị vua rất thắc mắc về giới luật của các vị
sư trẻ tuổi. Nhà vua bèn hỏi vị sư trẻ tuổi. “Thưa Đại Đức, ngài còn
trẻ tuổi chịu ảnh hưởng bởi dục lạc. Làm thế nào Đại Đức kiểm soát
được lòng mình không bị ảnh hưởng bởi ái dục?”
Vị sư trẻ tuổi trả lời: “Khi gặp phụ nữ, tôi xem họ như là em, là chị,
hay là mẹ mình”.
Không bằng lòng câu trả lời này, nhà vua nói: “Nhưng tâm thay đổi rất
nhanh có thể làm cho đại đức không coi người kia là em, là chị, hay là
mẹ nữa. Vậy thì Đại Đức phải làm sao?”.
Vị sư trẻ tuổi trả lời: “Tôi quán tưởng đến sự bất tịnh của cơ
thể dưới hình thức 32 phần ô trược. Quán tưởng sự ô trược của mỗi
thành phần cũng giữ tâm không bị xáo trộn vì ái dục”.
Vẫn chưa thỏa mãn, nhà vua hỏi tiếp: “Nhưng có thể trong khi quán
tưởng ô trược, tâm coi đó là những gì đẹp đẽ không ô trược thì sao?”
Vị sư đáp: “Tôi dùng thiền Tứ Niệm Xứ, thực hành chánh niệm, thu thúc
lục căn, giữ tâm không bị phiền não xâm nhập. Và nếu có ý tưởng ái dục
sinh khởi, tôi cũng dập tắt được ý nghĩ nảy nhờ sức mạnh của chánh
niệm”.
Nhà vua thỏa mãn với câu trả lời như vậy, và nói: “Quả thật vậy Đại
Đức, đúng với kinh nghiệm bản thân, mỗi khi có việc phải đi ngang qua
Tam Cung Lục Viện, nhờ thu thúc lục căn nên trẩm cảm thấy bình thản an
nhiên, không bị xáo trộn vì ái dục”.
Qua thí dụ trên cho thấy, nếu thực hành chánh niệm, giữ gìn lục căn sẽ
bảo vệ được tâm không bị phiền não quấy rối. Nếu không chánh niệm kịp
thời vào lúc đối tượng sinh khởi, sẽ phát sinh sự ưa thích vào dáng vẻ
tổng quát, đưa đến các ý tưởng chi tiết hóa đối tượng, làm cho tâm
mang hình ảnh càng nhiều chi tiết giúp cho ái dục kích động tâm, tâm
trở nên giao động bất an.
Khi giữ chánh niệm vào tất cả những gì sinh khởi qua lục căn, tâm được
chánh niệm bảo vệ không bị phiền não quấy phá bởi ái dục, sân hận,
v.v...nên tâm trở nên an tịnh trong sạch, tạo nên loại hạnh phúc bình
an tĩnh lặng, santi, một loại hạnh phúc thanh khiết, trong
sạch, không pha trộn.
Những ai thích hạnh phúc ngũ dục sẽ cho rằng hạnh phúc ngũ dục là loại
hạnh phúc cao nhất, đáng hưởng thụ nhất. Họ không muốn từ bỏ, sợ hãi
phải từ bỏ hay bị mất mát. Cho đến khi tới đây, thực hành thiền Minh
Sát, thực hành đúng phương pháp, đạt kết quả, tự bản thân chứng nghiệm
được hạnh phúc thanh tịnh thuần khích từ trạng thái tâm trong sạch, an
tịnh, không giao động, bạn mới hiểu được hạnh phúc phi ngũ dục vượt
trội biết bao lần hạnh phúc ngũ dục. Bạn hiểu được lợi lạc của sự
luyện tâm nên cảm kích pháp hành. Bạn phát triển đức tin, thực hành
nghiêm túc và cẩn trọng để rồi cuối cùng bạn sẽ chứng nghiệm loại hạnh
phúc vô biên không gì sánh bằng. Đó là hạnh phúc Niết Bàn, loại hạnh
phúc giải thoát cao tột, vô biên.